Chủ Nhật, 14 tháng 8, 2022

NGƯỜI VIỆT NAM YÊU CHÍNH NGHĨA VÀ CNXH KHÔNG NÊN NGHE LŨ LƯU VONG, PHẢN QUỐC TRỞ CỜ!

         Chúng ta hãy đọc bài sau để hiểu có phải chính Mỹ và NATO mới là tội phạm chiến tranh đáng ghê tởm!

CHÍNH MỸ MỚI LÀ TỘI PHẠM CHIẾN TRANH
     1. Ngày 24/3/1999, không cần sự cho phép của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Tổng thống Mỹ Bin Cliton cùng với một số nước NATO phát động chiến tranh tàn bạo xâm lược Nam Tư mượn cớ “bảo vệ nhân quyền”. Chúng tiến hành cuộc “cách mạng màu” lật đổ Tổng thống Milosevich cáo buộc ông “phạm tội chống lại loài người” đưa ra xét xử tại tòa án quốc tế. Năm 2015, tòa án quốc tế kết luận không có bất cứ bằng chứng nào để buộc tội cựu Tổng thống Nam Tư Milosevich phạm tội ác chiến tranh nhưng ông đã qua đời trong tù. Bất chấp luật pháp quốc tế, Mỹ tách khu tự trị Kosovo ra khỏi Liên bang Nam Tư thành lập Cộng hòa Kosovo mà không cần thông qua trưng cầu ý dân. Từ đó, Liên bang Nam Tư tan rã thành các quốc gia mới là Kosovo, Montenegro và Serbia. 
     2. Ngày 11/9/2001 chỉ sau vài giờ vụ tấn công khủng bố vào Tòa tháp đôi Trung tâm thương mại quốc tế New York, không cần điều tra xác minh Tổng thống Mỹ G.W.Bush tuyên bố thủ phạm là Osama Bin Laden, chỉ huy tổ chức Al-Qaeda. Từ ngày 7/10/2001, G.W.Bush phát động “cuộc chiến tranh toàn cầu chống khủng bố” để tiêu diệt Al-Qaeda và trừng phạt Taliban. Mãi tới năm 2003, Quốc hội Mỹ mới quyết định thành lập Ủy ban điều tra vụ tấn công ngày 11/9. Tuy nhiên, cộng đồng thế giới hoài nghi về tính khách quan trung thực của Ủy ban này. 
     3. Ngày 20/3/2003,ngụy tạo “Iraq sở hữu vũ khí hóa học”, Tổng thống Mỹ G.H.Bush và một số nước hiếu chiến NATO phát động chiến tranh xâm lược thô bạo Iraq, nhằm mục đích giành quyền kiểm soát dầu mỏ toàn bộ khu vực Trung Đông. 
     4. Ngày 19/3/2011, Tổng thống Barack Obama cùng với NATO phát động cuộc chiến tranh xâm lược Libya núp dưới chiêu bài thực hiện Nghị quyết số 1973 của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về “thiết lập vùng cấm bay” ở quốc gia này. Chúng đã sát hại dã man Tổng thống Muammar Gadhafi, lật đổ chế độ của Tổng thống Gaddafi. 
     5. Ngày 10/9/2014, không cần sự cho phép của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Tổng thống Barack Obama tuyên bố thành lập “liên minh quốc tế chống khủng bố” với sự tham gia của gần 60 nước do Mỹ chỉ huy mở hàng loạt cuộc tấn công dữ dội vào các mục tiêu của Syria giành quyền kiểm soát 80% lãnh thổ của quốc gia này. 
     6. Trong suốt mấy thập kỷ qua, Mỹ đã phát động gần trăm cuộc chiến tranh lớn, nhỏ vào các quốc gia có chủ quyền vi phạm trắng trợn luật pháp quốc tế. Mỹ sẵn sàng tấn công bất cứ quốc gia nào chống lại Mỹ, không phục vụ cho lợi ích Mỹ. Xương máu nhân loại đã chất đầy trong các cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ: 
-Triều Tiên 1950-1953
-Guaetemala 1954
-Indonesia 1958
-Cuba 1959-1961
-Guatemala 1960
-Congo 1964
-Lao 1964-1973
-Viet Nam 1961-1973
-Campuchia 1959-1970
-Lebanon và Grenada 1983-1984
-Libia, 1986
-Salvador 1980
-Nicaragua 1980
-Iran 1987
-Panama 1989
-IraqI 1991
-Kuwait 1991
-Somali1993.
-Bosnia 1994-1995
-Sudan1998
-Afghanistan 1998
-Yugoslavia 1999
-Yemen 2002
-Iraq, 1991-2003
-Iraq 2003-2015
-Afghanistan 2001-2015
-Pakistan 2007-2015
-Yemen 2009-2011
-Libya 2011-2015
- Syria 2014-2018…
     Chỉ liệt kê chừng ấy thôi, đủ thấy chính Mỹ và các đời tổng thống Mỹ mới là tội phạm chiến tranh. Vì vậy, Đế quốc Mỹ không đủ tư cách để giao giảng đạo đức về nhân quyền, Mỹ không đủ phẩm giá để đại diện cho hoà bình và luật pháp quốc tế./.



Yêu nước ST.

MỘT NƯỚC CỜ LÙI CAO TAY!

     Đêm 22 rạng sáng ngày 23/9/1945 được sự giúp đỡ từ quân Anh , Pháp đã chủ động nổ súng đánh chiếm miền nam Việt Nam. Với trang bị tối tân Pháp từng bước giành quyền kiểm soát Sài Gòn và các tỉnh lân cận,từng bước thực hiện dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa.
     Cùng lúc đó tại miền Bắc, Lữ Hán và Tiêu Văn đã nhận ra cơ hội của mình nên tăng cường lợi dụng cùng các tổ chức tay sai Việt Quốc, Việt Cách ra sức chống phá chính quyền của Hồ Chí Minh. Đồng thời nhanh chóng kéo quân từ Lào Cai, Lạng Sơn, Bắc Giang, Hải Phòng về Hà Nội nhằm thâu tóm cơ sở kinh tế, chính trị của thủ đô. 
     Để gây khó khăn và áp lực cho chính phủ non trẻ của Hồ chủ tịch, chúng biết rỏ chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà đang gấp rút chuẩn bị cho cuộc tổng tuyển cử đầu tiên, Lữ Hán và bè lũ đã không từ một thủ đoạn nào để phá hoại : từ cổ động , tuyên truyền , phát hành báo chí để gây nhũng nhiễu thông tin của chính phủ Hồ Chí Minh.
     Làng Ngũ Xã quận Ba Đình thời đó có vị trí địa thế như một hòn đảo biệt lập trên hồ Trúc Bạch lúc đó chỉ có hai lối ra vào làng, bọn Lữ Hán đã chiếm vùng này và cả làng đã bị cô lập hoàn toàn với mục đích biến ngôi làng thành địa phận của Việt Nam Quốc Dân Đảng. Mọi người dân dù muốn cũng không thể tham gia các hoạt động do chính phủ Hồ Chí Minh phát động. 
     Nhiều ngôi làng khác khắp miền Bắc Việt Nam cũng rơi vào tình trạng giống như làng Ngũ Xã đây là cách mà quân Tưởng dùng để ngăn cản người dân tiếp cận với các thông tin tuyên truyền của Đảng Cộng Sản, ngăn việc đi bầu cử theo lời kêu gọi của cụ Hồ Chí Minh trong sắc lệnh ngày mùng 8 tháng 9. 
     Trên đất nước ta giai đoạn cuối năm 1945 dù mang tiếng là độc lập nhưng có đến 20 vạn quân Tưởng,khoảng 10 vạn quân Pháp, 2 vạn quân Anh và gần 6 vạn quân Nhật, tuy là Nhật bị tước vũ khí nhưng chúng sẵn sàng tuân theo lệnh Pháp hay Anh để chống phá nước ta. Ngoài ra còn hàng lố hàng tá bọn tay sai, bọn tôn giáo nổi dậy như loạn 12 sứ quân trên khắp hai miền Việt Nam.
     Trước tình thế ngàn cân treo sợi tóc đó , chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí của mình lại mất nhiều đêm thức trắng để tìm ra kế sách.
     Ngôi nhà số 12 phố Ngô Quyền khi đó đã được đổi tên thành Bắc Bộ phủ tại đây đêm nào cũng sáng đèn , một nhóm những nhà lãnh đạo Việt Nam bao gồm chủ tịch Hồ Chí Minh, các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng liên tục có những cuộc họp bàn để tìm ra kế sách. Trong một thế trận không cân xứng Việt Nam không thể cùng một lúc đối đầu với nhiều kẻ thù.
     Ngày 11/11/1945 một chính phủ vừa giành được chính quyền 70 ngày đã tuyên bố tự giải tán Đảng. Sự kiện giải tán Đảng là sự hy sinh chưa từng có trong phòng trào cộng sản quốc tế. Đây là đỉnh cao trong sự nhân nhượng chính trị, một quyết định táo bạo và phi thường của Hồ Chí Minh khi đó với tư cách là người sáng lập ra ĐCS Đông Dương.
     Giữa giai cấp,đảng phái và lợi ích dân tộc bác đã chọn dân tộc và tổ quốc lên trên tất cả.
     Sau nhiều suy tính Hồ Chí Minh đã quyết định đưa ra một nước cờ lùi. Bác đã im lặng trước tất cả những hiểu lầm, hy sinh uy tín của mình, danh dự của cá nhân để đánh đổi sự thoát hiểm cho vận mệnh của cả dân tộc.
     Sau bước lùi này Lữ Hán và Quốc Dân Đảng đã chấp nhận "Hoa Việt thân thiện" cùng chính phủ Hồ Chí Minh./.
Yêu nước ST.

KHÔNG HIỂU ĐÀI Á CHÂU TỰ DO (RFA) GỌI "ÁN THÁI ĐỘ" LÀ ÁN GÌ?

Từng ấy năm trong nghề mà lần đâu tiên tôi nghe thấy cái loại án là "án thái độ". 
     Đó là cách gọi của Đài Á châu Tự do (RFA) đối với vụ án Phạm Đoan Trang mà sắp đưa ra xét xử phúc thẩm trong tháng 8 này. 
     Lý giải cho cái gọi là "án thái độ", RFA cho rằng ở vụ án này, Trang không có tội và Trang kiên quyết không nhận tội, không xin giảm nhẹ án nên vì thái độ đó mà họ dự đoán Tòa sẽ y án sơ thẩm. 
     Nói về tội của Trang thì tôi đã có nhiều bài viết, cộng với báo chí truyền thông cũng đưa rất nhiều rồi, có thể nói bản án 9 năm về tội Tuyên truyền chống Nhà nước với những hành vi của Trang là đúng người, đúng tội.
     Việc Trang không thành khẩn khai báo trong suốt quá trình điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm khiến ả không được hưởng tình tiết giảm nhẹ. Ở phiên tòa phúc thẩm, dù Trang có xin giảm nhẹ án cũng khó được Hội đồng xét xử chấp thuận. Trừ khi ở phiên tòa phúc thẩm, Trang cung cấp thêm những tình tiết giúp làm rõ hơn vụ án hình sự này so với thời điểm tòa sơ thẩm diễn ra, chẳng hạn như tố cáo thêm những đồng phạm, hoặc thú nhận Trang đã nhận được bao nhiêu $ cho hoạt động chống phá Nhà nước...
Môi trường ST.

VĂN HÓA – GIÁ TRỊ BỀN VỮNG CỦA QUỐC GIA, DÂN TỘC

 Văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng trong sự hình thành, tồn tại và phát triển của mỗi dân tộc chính vì tầm quan trọng này mà ngay từ năm 1943, Đảng ta đã có đề cương về văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố. Đây được coi là bản tuyên ngôn, là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, có vai trò định hướng cho nhận thức và phương châm hoạt động văn hóa, văn nghệ của toàn Đảng, toàn dân.        
Thực tiễn cách mạng đã chỉ ra rằng, cái gốc của đường lối văn hóa, văn nghệ chính là Đề cương về văn hóa Việt Nam. Từ gốc rễ đó, Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt 77 năm qua đã luôn kiên trì lãnh đạo xây dựng và phát triển nền văn hóa nước ta theo ba nguyên tắc vận động: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa; luôn đặt văn hóa ngang hàng với chính trị và kinh tế, để từ đó phát triển và cụ thể hóa thành các tư tưởng mà Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII, tháng 7 năm1998 đã vạch ra: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” 
Nghị quyết Trung ương 5 đã đề cập đến văn hóa Việt Nam một cách sâu sắc, toàn diện: Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nhiều nền văn minh thế giới để không ngừng hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Hơn 50 dân tộc sống trên đất nước ta đều có những giá trị và sắc thái văn hóa riêng. Các giá trị và sắc thái đó bổ sung cho nhau, làm phong phú nền văn hóa Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hóa của các dân tộc anh em. 
Bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những tinh hoa của cộng đồng các dân tộc Việt Nam được vun đắp nên qua lịch sử hàng nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lòng yêu nước nồng nàn, ý chí tự cường dân tộc, tinh thần đoàn kết, ý thức cộng đồng gắn kết cá nhân - gia đình - làng xã - Tổ quốc; lòng nhân ái, khoan dung, trọng nghĩa tình, đạo lý; đức tính cần cù, sáng tạo trong lao động; sự tinh tế trong ứng xử, tính giản dị trong lối sống... Bản sắc văn hóa dân tộc còn đậm nét cả trong các hình thức biểu hiện mang tính dân tộc độc đáo. Di sản văn hóa dân tộc là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cốt lõi của bản sắc dân tộc, cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa.            
Đại hội XII của Đảng một lần nữa đã nâng tầm cao thời đại của nền văn hóa Việt Nam : “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. 
 Báo cáo chính trình tại Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định chiến lược:” Xây dựng và phát triển giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam” với nhiều nội dung bao quá, nhấn mạnh tầm vĩ mô xây dựng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa và chuẩn mực con người gắn với phát huy ý chí, khát vọng phát triển và sức mạnh của con người Việt Nam trong thời kỳ mới.
Việc Đảng đề cao, coi trọng các giá trị văn hóa- giá trị con người Việt Nam nâng tầm lên thành hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hóa là bước tiến mới về tư duy và hành động  trên lĩnh vực tư tưởng- văn hóa. Đồng thời Đảng cũng đã nhìn nhận đúng đắn sức mạnh của dân tộc Việt Nam cũng chính là sức mạnh của văn hóa, của lòng yêu nước truyền từ đời này mãi mãi sang đời khác của con người Việt Nam. 1000 năm Bắc thuộc nhưng dân tộc Việt Nam vẫn tồn tại, ấy chính là nhờ có văn hóa của con người Việt Nam; Một nước nhỏ, yếu nhưng lại đánh thắng được hai kẻ thù xâm lược hùng mạnh của thế giới  là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, ấy chính là nhờ có văn hóa yêu nước mãnh liệt của con người Việt Nam.
 

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN

 Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng, nhà nước và các đoàn thể, nhất là tự phê bình và phê bình của mỗi cán bộ, đảng viên. Tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người đã được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong nguyên tắc sinh hoạt Đảng. Nguyên tắc đó cùng với nguyên tắc lãnh đạo, nguyên tắc tổ chức tạo thành một chỉnh thể thống nhất, khẳng định sức mạnh và địa vị lãnh đạo duy nhất của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam.
Theo Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là một giá trị của nền văn minh, mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc, bởi thực chất của nó là hướng đến sự hoàn thiện của cái đẹp. Thông qua quá trình tự phê bình và phê bình mà mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức cơ sở Đảng tự giải quyết tốt mối quan hệ giữa cá nhân và tập thể, giữa tập thể và xã hội. Vì vậy, tự phê bình và phê bình phải được tiến hành thường xuyên ở mọi cấp, mọi tổ chức, ở từng cán bộ, đảng viên và từng cấp uỷ, tổ chức đảng. Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở. Do đó, việc tự phê bình và phê bình là cốt lõi để xây dựng tổ chức cơ sở Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, đây cũng là yêu cầu, nhiệm vụ rất quan trọng, vừa cơ bản, vừa cấp bách, lâu dài; nhưng trước hết phải tăng cường giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất năng lực, tính chiến đấu của đội ngũ đảng viên trong xây dựng tổ chức cơ sở của Đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh, Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt”[1]. Xuất phát từ công tác xây dựng, chỉnh đồn Đảng, để Đảng không ngừng nâng cao sức mạnh chiến đấu của các tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên.
Thời gian qua, thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, một số cấp uỷ, chi bộ tuy đã có nhiều cố gắng trong chỉ đạo sinh hoạt tiến hành tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên, nhưng vẫn bộc lộ nhiều thiếu sót, khuyết điểm; chỉ đạo thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, chưa thành nền nếp; chậm bổ sung và hoàn thiện các quy định về thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; phương pháp tiến hành còn nhiều cứng nhắc. Đó chính là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến khuyết điểm trong mỗi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng hiện nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Nói về từng người, nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc. Thế thì khác nào thấy đồng chí mình ốm, mà không chữa cho họ. Nể nang mình, không dám tự phê bình, để cho khuyết điểm của mình chứa chất lại. Thế thì khác nào mình tự bỏ thuốc độc cho mình!”[2]. “Mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi ngày phải tự kiểm điểm, tự phê bình, tự sửa chữa như mỗi ngày phải rửa mặt. Được như thế thì trong Đảng sẽ không có bệnh mà Đảng sẽ mạnh khoẻ vô cùng”[3]. Theo Bác: Mỗi tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên phải làm tốt tự phê bình và phê bình, phải có thái độ đúng đắn, bình tĩnh để tiếp thu ý kiến đóng góp của người khác. Tự phê bình và phê bình mục đích là làm cho mọi người đều được học tập những ưu điểm, chỉ rõ những khuyết điểm của đồng chí, đồng đội và giúp nhau sửa chữa những khuyết điểm còn tồn tại trong mỗi con người và tổ chức đảng. Bác Hồ luôn nhắc nhở: “Phê bình là cốt để giúp nhau tiến bộ. Cho nên phê bình phải có tính chất xây dựng, thẳng thắn. Không nên phê bình ẩu, phê bình suông. Khi phê bình cần phải xét nguyên nhân của khuyết điểm, phải cân nhắc đến ưu điểm, phải đề ra cách sửa chữa…”[4]. Bác viết: Dưới chế độ dân chủ, thì mọi người trước hết là mọi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và hoan nghênh người khác phê bình mình; có như vậy mới tiến bộ được. Bác chỉ rõ: “Một  Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”[5]. Như vậy, kết quả tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên, của mỗi tổ chức đảng mới trở thành động lực cho mọi sự phát triển, phải tạo được sự biến đổi về chất trong cán bộ, đảng viên, trong từng tổ chức đảng; sức mạnh nội sinh trong từng con người phải được hồi sinh, như cây nẩy lộc, đâm trồi, đơm hoa, kết trái. Mọi sự kìm nén, ức chế đều được giải toả, luồng sinh khí mới sẽ sưởi ấm cái tâm của mỗi cán bộ, đảng viên, để mọi người không ngừng phấn đấu, vươn lên trong hành động. Để nâng cao hiệu quả tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên, theo chúng tôi cần tập trung thực hiện tốt mấy điểm cơ bản là:
Một là, mỗi cán bộ, đảng viên và mỗi tổ chức đảng cần coi trọng tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng; đối chiếu với trách nhiệm và chức trách của từng cán bộ, đảng viên trong từng tổ chức đảng để đánh giá chất lượng lãnh đạo của từng tổ chức cơ sở Đảng. Bởi lẽ, tổ chức cơ sở Đảng là trung tâm giáo dục, rèn luyện của mỗi cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, cho đến các đảng viên đã nghỉ hưu. Bác chỉ rõ: “Đảng ta là một tổ chức rất tiến bộ, đã có những thành tích rất vẻ vang. Trong Đảng ta, gồm có những người có tài, có đức. Phần đông những người hăng hái nhất, thông minh nhất, yêu nước nhất, kiên quyết, dũng cảm nhất đều ở trong Đảng ta. Chúng ta chắc chắn đi đến thắng lợi và thành công. Tuy vậy, không phải là người người đều tốt, việc việc đều hay. Trong Đảng ta chưa hoàn toàn tránh khỏi một vài kẻ vu vơ, những việc không chính đáng, như vừa kể trên”[6]. Ở đó các đảng viên cần phải được rèn luyện về phẩm chất, năng lực, đạo đức, lối sống cũng như khả năng, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cán bộ, đảng viên.
Hai là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (Khoá XI): “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, các cấp ủy và mọi cán bộ, đảng viên phải luôn nhận thức đúng đắn, đầy đủ sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong Đảng. Từ đó, xác định rõ trách nhiệm chính trị, thái độ, động cơ và biện pháp tiến hành tự phê bình và phê bình cho phù hợp với từng tổ chức đảng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ, cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình”[7]. Mỗi cán bộ, đảng viên phải hiểu tự phê bình và phê bình là động lực phát triển của Đảng, là nguyên tắc, chế độ thường xuyên trong sinh hoạt Đảng.
Ba là, thực hiện tốt chức năng của chi bộ, chi ủy và Bí thư trong thực hiện tự phê bình và phê bình. Thực tiễn đã chứng minh rằng, nếu chi bộ, chi ủy và bí thư là trung tâm đoàn kết, là cầu nối liền giữa các đảng viên trong mỗi tổ chức đảng, có thái độ đúng đắn, công tâm trong xem xét, đánh giá, kết luận ưu điểm, khuyết điểm của từngcán bộ, đảng viên thì sẽ tạo động lực và không khí tốt; ngược lại, dễ tạo ra những tiêu cực, gây ra những thắc mắc, sự thiếu tin tưởng lẫn nhau, từ đó mà ảnh hưởng tới năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của chi bộ. Cấp ủy và mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nhận thức đúng đắn, đầy đủ sâu sắc về vai trò, tầm quan trọng của tự phê bình và phê bình trong Đảng; kiên quyết, kiên trì xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn đẩy lùi suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Để từ đó, xác định rõ trách nhiệm chính trị, thái độ, động cơ và biện pháp tiến hành tự phê bình và phê bình cho phù hợp với từng tổ chức cơ sở đảng.
Bốn là, thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm về nâng cao chất lượng trong tự phê bình và phê bình trong Đảng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cấp ủy các cấp cần có nghị quyết lãnh đạo sát, đúng đối với công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết hoạt động công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là hoạt động tự phê bình và phê bình; đánh giá đúng thực trạng chất lượng tự phê bình và phê bình, từ đó có biện pháp hướng dẫn, chỉ đạo, rút kinh nghiệm kịp thời, trong tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên trong các tổ chức Đảng.
Chi ủy và bí thư cần tiếp tục làm tốt công tác theo dõi việc tiếp thu phê bình, sửa chữa khuyết điểm của từng đảng viên sau khi họ đã tự phê bình và được góp ý, phê bình ở chi bộ. Kịp thời động viên, khuyến khích, nêu gương những đảng viên sửa chữa tốt khuyết điểm, phát huy tốt ưu điểm, vươn lên hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Đồng thời, qua công tác theo dõi, kiểm tra, giúp chi ủy và bí thư kịp thời uốn nắn những nhận thức lệch lạc, những khuyết điểm mới phát sinh trong đội ngũ đảng viên. Từ đó, đưa công tác tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên ở chi bộ vào nền nếp, có chất lượng, hiệu quả ngày càng cao.
Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cấp uỷ, bí thư cần làm tốt công tác theo dõi việc tiếp thu phê bình, sửa chữa khuyết điểm của từng cán bộ, đảng viên sau khi họ đã tự phê bình và được góp ý, phê bình ở chi bộ. Cấp ủy các cấp cần có nghị quyết lãnh đạo sát, đúng đối với công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết hoạt động công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là sau khi tự phê bình và phê bình. Kịp thời động viên, khuyến khích, nêu gương những cán bộ, đảng viên sửa chữa tốt khuyết điểm, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Từ đó, thực hiện tự phê bình và phê bình ở chi bộ vào nền nếp, có chất lượng, hiệu quả ngày càng cao, góp phần thiết thực vào đẩy mạnh thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.
                                                                                  Theo Thượng tướng, TS Lê Huy Vịnh
                          (Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng)

[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 15; CTQG; Hà Nội, 2011; tr.113.
[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, CTQG, Hà Nội, 2011, tr.301.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, CTQG, Hà Nội, 2011, tr.279.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 10, CTQG, Hà Nội, 2011, tr.386.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, CTQG, Hà Nội, 2011, tr.301.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, CTQG, Hà Nội, 2011, tr.302.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, CTQG, Hà Nội, 2011, tr.302.

Học tập phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh

Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam là tấm gương sáng về phong cách của một lãnh tụ, của người cán bộ mẫu mực của Nhân dân, vì Nhân dân, coi việc “đến với dân như sự sống cần đến không khí”. Sự sâu sát, tỉ mỉ, cụ thể, thiết thực, bình dị và gần gũi trong phong cách của Người là những bài học có ý nghĩa to lớn trong việc học tập và làm theo tấm gương, đạo đức, phong cách Hồ Chhí Minh của mỗi cán bộ, đảng viên.
Phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là chuẩn mực của một người cán bộ “công bộc của nhân dân”. Người luôn tin ở nhân dân và sống giữa lòng dân. Người coi nhân dân là động lực, là lực lượng quyết định trong sự nghiệp cách mạng nói chung cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Những bài học từ phong cách Hồ Chí Minh về tư duy, làm việc, diễn đạt, ứng xử, lối sống… có giá trị to lớn để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động nâng cao hiệu quả trong việc tham mưu và tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật hợp lòng dân...
Phong cách Hồ Chí Minh là những đặc trưng giá trị, mang đậm dấu ấn Hồ Chí Minh, gắn liền với tư tưởng, đạo đức của Người; thể hiện một nhân cách lớn, trí tuệ lỗi lạc, đạo đức trong sáng, nhân văn. Đó là phong cách của một vĩ nhân, một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, một nhà văn hóa lớn, được thể hiện trong mọi lĩnh vực sống và hoạt động của Người, tạo thành một chỉnh thể nhất quán, có giá trị khoa học, đạo đức và thẩm mỹ. Bên cạnh đó, trong phong cách Hồ Chí Minh còn ẩn chứa sự mộc mạc, chất phác của một người nông dân trên đồng ruộng, sự miệt mài, ý chí phấn đấu của người công nhân, sự nhân hậu, bao dung như ông Ké ở Việt Bắc, thân thương, gần gũi như người cha, người bác trong gia đình. Phong cách Hồ Chí Minh hàm chứa cả những nét truyền thống và sự hiện đại; phản ánh quá khứ, hiện tại và cả tương lai. Điều đó đã tạo nên sức cảm hóa, chinh phục những ai đã từng biết đến, nghe kể, tiếp xúc và làm việc cả lúc Người còn sống hay đã đi xa về cõi vĩnh hằng. Một phong cách lớn đã làm xúc động nhiều người, nhiều thế hệ trên nhiều quốc gia, dân tộc và là tấm gương cho con cháu bao đời sau học tập, làm theo. Phong cách Hồ Chí Minh có những điểm nổi bật sau:
Về tư duy, nét đặc sắc của phong cách tư duy Hồ Chí Minh là tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Độc lập là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không sao chép, không bắt chước, không theo đuôi. Tự chủ là tự mình làm chủ suy nghĩ của mình; có bản lĩnh, lập trường tư tưởng vững vàng, không dễ dàng hoang mang, dao động; làm chủ bản thân và công việc của mình; tự chịu trách nhiệm về những suy nghĩ, hành động, việc làm của mình. Sáng tạo là sẵn sàng từ bỏ những cái cũ đã được thực tiễn kiểm nghiệm là không đúng; những gì lạc hậu, lỗi thời; những cái cũ đã đúng trước kia nhưng đến nay không còn phù hợp, tìm tòi, đề xuất những cái mới đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Tính độc lập, tự chủ và sáng tạo trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh thể hiện rõ ở việc Người lựa chọn con đường cứu nước và sự tài tình, linh hoạt trong lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua nhiều khó khăn, gian khổ để đi đến thắng lợi giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người khỏi áp bức, bóc lột, để nhân dân được sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Vượt lên những hạn chế của thời đại mình, Hồ Chí Minh đã đúc kết nên những chiến lược và con đường cách mạng đúng đắn cho điều kiện, tình hình của đất nước. Đó là sự thể hiện của một tư duy khoa học, cách mạng và hiện đại - một tầm vóc của nhà lãnh đạo cách mạng nhìn thấy tương lai tươi sáng của nhân loại ở thế kỷ XXI.
Về phong cách làm việc, là người giác ngộ và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, trong hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm thể hiện một phong cách lãnh đạo dân chủ, sâu sát mọi việc. Một phong cách làm việc Hồ Chí Minh khoa học, khách quan, trung thực, luôn đổi mới. Đặc biệt là, một phong cách Hồ Chí Minh rất quần chúng, luôn gần dân, tin dân, trọng dân, dựa vào dân, gắn bó với nhân dân, thấu cảm và chia sẻ với đời sống của nhân dân; một phong cách chuẩn mực, coi trọng việc nêu gương, mọi lúc, mọi nơi, luôn nói đi đôi với làm để cán bộ, quần chúng noi theo. Bên cạnh đó, sự sâu sát, tỷ mỷ, cụ thể, thiết thực trong mọi quyết định, hành động của Người đã làm nên một con người Hồ Chí Minh suốt một đời tận trung với nước, tận hiếu với nhân dân.
Về phong cách diễn đạt, là nhà chính trị, nhà tuyên truyền, nhà báo, nhà thơ, nhà văn... đã có nhiều tác phẩm thuộc các thể loại như báo chí, tiểu phẩm, thơ ca, truyện ký, kịch, văn chính luận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xây dựng một phong cách diễn đạt với cách nói, cách viết giản dị, cụ thể, thiết thực; diễn đạt ngắn gọn, cô đọng, hàm súc, trong sáng, có lượng thông tin cao; sinh động, gần gũi với cách nghĩ của quần chúng, gắn với những hình ảnh, sự ví von, so sánh cụ thể; một phong cách diễn đạt luôn luôn biến hóa, nhất quán mà đa dạng.
Về phong cách ứng xử giao tiếp, Hồ Chí Minh đã tạo dựng một phong thái đặc biệt, đầy nhân văn, nhân bản của con người. Một phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh rất giản dị, gần gũi, ân cần, cởi mở, tế nhị và chu đáo với tất cả mọi lớp người; tình cảm chân thành, thái độ khoan dung độ lượng; xử lý một cách khéo léo, hiệu quả các tình huống giao tiếp xảy ra. Đây cũng chính là điều này tạo nên sức hấp dẫn lớn lao và sự cảm hóa kỳ diệu ở con người Hồ Chí Minh. Nhà thơ Xôviết Ôxip Manđextam đã viết về Người: “Cả gương mặt Nguyễn Ái Quốc toát lên sự lịch thiệp và tế nhị. Từ Nguyễn Ái Quốc tỏa ra một nền văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là một nền văn hóa của tương lai. Qua cử chỉ cao thượng và tiếng nói trầm lắng của Nguyễn Ái Quốc, tôi thấy được ngày mai, thấy được viễn cảnh trời yên biển lặng của tình hữu ái toàn thế giới bao la như đại dương”. Trong phong cách giao tiếp Hồ Chí Minh, sự gần gũi, tế nhị hòa quyện với sự sâu sắc, lịch lãm; sự dung dị, đời thường lại thể hiện rõ tầm cao của tư duy bác học; rất chủ động nhưng tự nhiên, bình dị, chân thành, ân cần, tế nhị và luôn được thể hiện hết sức sinh động và phong phú dù người đối thoại là nguyên thủ quốc gia, lãnh tụ của một đảng, chính khách, trí thức hay là người công nhân, nông dân, là trẻ con hay cụ già. Điều đó làm xóa nhòa mọi khoảng cách, sự thú vị, ấm áp và vui vẻ nhờ thế đem lại hiệu quả giao tiếp cao.
Về phong cách sống, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người rất mực giản dị, thanh cao, đạm bạc về đời sống vật chất nhưng lại vô cùng phong phú về những giá trị đạo đức - tinh thần cao đẹp. Người nêu cao nếp sống cần, kiệm, liêm, chính; sống hài hòa với những giá trị thâm trầm, sâu lắng của văn hóa phương Đông và sự tiến bộ, hiện đại của văn hóa phương Tây; một con người giàu tình yêu thương nhân loại, yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên, yêu cái đẹp... với những rung động, nhạy cảm bằng tâm hồn của một nhà cách mạng nhiệt huyết và người nghệ sĩ chân chính; sống có tình nghĩa.
Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác, mỗi cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Đảng và chính quyền các cấp đều là lực lượng thường xuyên trực tiếp hoặc gián tiếp tiếp xúc với nhân dân, là cầu nối giữa nhân dân với Đảng, với chính quyền ở cơ sở. Do vậy, việc học tập phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh là việc làm hết sức ý nghĩa và thiết thực đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động trong hệ thống chính trị hiện nay.

Cảnh giác với những thông tin xuyên tạc liên quan đến hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam

 Lợi dụng việc Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam mới đây có thông báo về việc tạm thời ngừng cấp visa vào hộ chiếu phổ thông của Việt Nam mẫu mới (màu xanh tím than), các đối tượng xấu đã đăng tải, chia sẻ trên Internet, mạng xã hội những thông tin, luận điệu suy diễn, xuyên tạc, sai trái nhằm bôi nhọ danh dự, uy tín của Đảng, Nhà nước ta.
Những thông tin suy diễn, xuyên tạc, bôi nhọ với dụng ý xấu
Ngày 27/7, website của Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam đưa ra thông báo với nội dung, do hộ chiếu phổ thông mới của Việt Nam (có hiệu lực từ ngày 1/7/2022) theo đánh giá và tiêu chí kỹ thuật của phía Đức có một số thông tin chưa tương thích nên tạm thời chưa được chấp nhận để xin visa nhập cảnh hoặc quá cảnh Đức. Thông báo của Đại sứ quán CHLB Đức cho biết, những người mang hộ chiếu phổ thông Việt Nam theo mẫu mới màu xanh tím than, có số serial bắt đầu bằng chữ “P” sẽ không thể nộp hồ sơ xin visa, đồng thời khuyến cáo, trong trường hợp đã được cấp thị thực cũng không nên đến Đức, bởi có nguy cơ sẽ bị từ chối cho nhập cảnh tại biên giới.
Ngay sau khi thông báo trên được đăng tải trên website của Đại sứ quán Đức và được các phương tiện truyền thông dẫn lại, chưa biết thực tình câu chuyện thế nào, trên một số diễn đàn Internet, mạng xã hội, các đối tượng xấu, thiếu thiện chí đã đăng tải, chia sẻ nhiều thông tin, luận điệu mang tính suy diễn, xuyên tạc, sai trái theo kiểu công kích, miệt thị nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự của Bộ Công an, bôi nhọ hình ảnh đất nước Việt Nam.
Luận điệu mà những người này đưa ra là: “Hộ chiếu Việt Nam thuộc hàng “tủi thân” trên thế giới”; “thứ hạng của hộ chiếu Việt Nam bị coi là thấp, thể hiện qua “năng lực di chuyển, nhập cảnh” (mobility score) thuộc hạng thấp, so với các nước khác”; “quyền lực của hộ chiếu thể hiện quyền lực của dân tộc”; “trong khi các nước khác đang ngày càng tăng khả năng ký kết các thỏa thuận miễn thị thực cho công dân của họ, chính phủ Việt Nam đã không có năng lực tạo tiến bộ trong lĩnh vực này”… Một số đối tượng thì đặt ra những câu hỏi theo kiểu “lập lờ đánh lận con đen” như: “Làm cách nào để “nâng quyền lực” của hộ chiếu Việt Nam?”; “để cải thiện “hình ảnh hộ chiếu Việt Nam” liệu chính phủ có làm được gì?”… Trong khi đó, một số người thì quay sang công kích Bộ Công an, cơ quan quản lý xuất nhập cảnh của Bộ Công an với giọng điệu chê bai, miệt thị. Đây rõ ràng là những luận điệu suy diễn, xuyên tạc vô căn cứ nhằm bôi nhọ, hạ thấp danh dự của Bộ Công an, bôi nhọ hình ảnh, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam với thế giới.
Hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam “đúng luật, đúng quy định”
Ngay sau khi Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam đưa ra thông báo về việc ngừng cấp visa vào hộ chiếu phổ thông của Việt Nam mẫu mới (màu xanh tím than), các cơ quan chức năng của Việt Nam đã nhanh chóng tiến hành các biện pháp để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đại diện Cục Quản lý Xuất nhập cảnh (Bộ Công an) cho biết sẽ tiến hành cùng với Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) làm việc với Đại sứ quán, lãnh sự Đức thông qua đường ngoại giao. Cục Quản lý Xuất nhập cảnh cũng cho biết, hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam được cấp theo đúng quy định của pháp luật Việt Nam và đạt tiêu chuẩn quốc tế, đặc biệt là tiêu chuẩn của ICAO (Tổ chức Hàng không Dân dụng Quốc tế). Cũng theo Cục Quản lý Xuất nhập cảnh, hộ chiếu mới được thiết kế công phu, trên mỗi trang là hình ảnh tiêu biểu về phong cảnh, hình tượng về chủ quyền quốc gia, di sản văn hóa nổi tiếng nhằm khẳng định và quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới. Ngoài ra, mẫu hộ chiếu phổ thông mới bảo đảm các kỹ thuật bảo an, khó làm giả.
Liên quan vấn đề này, Đại sứ Việt Nam tại CHLB Đức Vũ Quang Minh thông tin: “Đại sứ quán CHLB Đức tại Việt Nam vừa có thông báo do hộ chiếu phổ thông mới của Việt Nam (có hiệu lực từ 1/7/2022) theo đánh giá và tiêu chí kỹ thuật của phía Đức có một số thông tin chưa tương thích, nên tạm thời chưa được chấp nhận để xin visa nhập cảnh hoặc quá cảnh Đức. Theo thông tin của chúng tôi, các cơ quan chức năng của Việt Nam đang xử lý vấn đề kỹ thuật này và sẽ sớm có thông báo”.
Trong khi đó, Cục Lãnh sự (Bộ Ngoại giao) đã giao thiệp với Đại sứ quán CHLB Đức tại Hà Nội, đề nghị hai bên phối hợp tìm giải pháp tháo gỡ các khó khăn về mặt kỹ thuật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công dân Việt Nam nhập cảnh Đức và phù hợp với tinh thần Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam – Đức. Đại sứ quán Việt Nam tại Đức cũng đã liên hệ để thu xếp trao đổi trực tiếp với các cơ quan chức năng Đức về việc này.
Đừng lấy “thứ hạng hộ chiếu” để phán xét về “thứ hạng quốc gia”, “quyền lực dân tộc”
Thực tế, trong vấn đề hộ chiếu, cần phải có cách nhìn nhận đầy đủ, khách quan. Không thể chỉ vì một vài chi tiết về kỹ thuật chưa tương thích mà đã có thể đánh giá “quyền lực hộ chiếu”, “thứ hạng quốc gia”, “quyền lực dân tộc”. Ngay cả bảng xếp hạng quyền lực hộ chiếu của Henley & Partners cũng mới chủ yếu dựa trên cơ sở dữ liệu của Hiệp hội Vận tải Hàng không quốc tế (IATA), với tiêu chuẩn về số lượng quốc gia và vùng lãnh thổ mà công dân mỗi nước có thể dùng hộ chiếu đi vào mà không cần xin visa trước. Với căn cứ đó, mỗi nước tùy vào điều kiện cụ thể để đưa ra quy định có thể tăng hay giới hạn độ mở của hộ chiếu, cho phép công dân đi đến bao nhiêu quốc gia mà không cần visa. Đây thực ra chỉ là một thủ tục chứ không có gì ghê gớm để nói “quyền lực hộ chiếu” hay “sức mạnh dân tộc”.
Không thể nói rằng, hộ chiếu đi được nhiều quốc gia thì nước đó văn minh, quyền lực hơn nước có hộ chiếu đến được ít quốc gia hơn. Không thể nói rằng thứ hạng hộ chiếu thấp thì giá trị quốc gia, quyền lực của dân tộc đó thấp hơn giá trị quốc gia, quyền lực của dân tộc có thứ hạng hộ chiếu cao hơn. Đây chỉ là một căn cứ của thủ tục hành chính, không phải cơ sở để đánh giá về thang giá trị, trình độ phát triển, sự văn minh, quyền lực của quốc gia, dân tộc.
Việt Nam là một đất nước đã có hàng ngàn năm văn hiến, dựng nước và giữ nước. Một dân tộc bất khuất, kiên cường, oanh liệt trong chiến đấu, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, được cộng đồng thế giới thừa nhận, đánh giá cao. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia trên thế giới thuộc tất cả các châu lục, thiết lập quan hệ Đối tác chiến lược và Đối tác toàn diện với 30 nước, trong đó có tất cả các nước lớn ở khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và toàn bộ 5 nước thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Việt Nam là thành viên của hơn 70 tổ chức, diễn đàn đa phương khu vực và toàn cầu. Việt Nam đã 2 lần làm Chủ tịch ASEAN (2010, 2020); làm Chủ tịch Tổ chức Liên nghị viện ASEAN (AIPO, 2002), Chủ tịch Hội đồng Liên nghị viện ASEAN (AIPA) (2010, 2020), 2 lần trúng cử với số phiếu ủng hộ rất cao để trở thành Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc (nhiệm kỳ 2008-2009 và 2020-2021), trong đó nhiệm kỳ 2020 – 2021 đạt số phiếu gần như tuyệt đối 192/193 phiếu, 2 lần là nước chủ nhà APEC (2006 và 2017); đăng cai thành công Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới về ASEAN năm 2018; tổ chức tốt cuộc gặp Thượng đỉnh Mỹ-Triều lần thứ 2 (2019).
Về quan hệ kinh tế, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với trên 220 đối tác, 71 nước đã công nhận quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Việt Nam cũng đã tham gia và có quan hệ tốt đẹp với nhiều tổ chức, cơ chế hợp tác kinh tế-phát triển hàng đầu như: Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Diễn đàn hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC). Đặc biệt, Việt Nam đã tham gia 15 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có các FTA “thế hệ mới” như: Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), Hiệp định thương mại tự do Việt Nam-Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP).
Có thể khẳng định rằng, sau hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, đưa đến những thay đổi về chất trong thế và lực của đất nước. Đặc biệt, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại”.
Mới đây, nhân chuyến công tác dự Hội nghị Cấp cao đặc biệt ASEAN – Mỹ, thăm, làm việc tại Mỹ và Liên hợp quốc của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam, trong cuộc gặp với Thủ tướng Phạm Minh Chính tại thành phố New York ngày 16/5, Phó Tổng thư ký Liên hợp quốc Amina Mohammed đã khẳng định Việt Nam là đối tác quan trọng và là người bạn của Liên hợp quốc, mong muốn hai bên tiếp tục phát triển quan hệ toàn diện, hiệu quả hơn. Bà Amina Mohammed nhấn mạnh: “Tiếng nói của Việt Nam rất quan trọng cho đoàn kết quốc tế. Trong bối cảnh thế giới trải qua nhiều khủng hoảng và khác biệt, Việt Nam luôn có tiếng nói mạnh mẽ ủng hộ chủ nghĩa đa phương, hòa bình và cải cách Liên hợp quốc”.
Như vậy, có thể khẳng định rằng, những kết quả đã đạt được toàn diện sau hơn 35 năm đổi mới trên tất cả các lĩnh vực đã không ngừng nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam. Cộng đồng quốc tế hơn lúc nào hết đang đánh giá rất cao vị thế, uy tín và tiếng nói của Việt Nam. Chưa khi nào trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, chúng ta có được vị thế và uy tín quốc tế cao như hiện tại.
Bởi vậy, đừng chỉ dựa vào một vài tiêu chí kỹ thuật chưa tương thích liên quan đến hộ chiếu mẫu mới của Việt Nam mà cố tình miệt thị, xuyên tạc, bôi nhọ, hạ thấp danh dự, uy tín của Việt Nam. Những luận điệu trên chỉ là thiểu số và lạc lõng của một số người thiếu thiện chí, định kiến, hằn học trước sự phát triển của đất nước./.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở vùng Tây Nam Bộ

Lợi dụng những khó khăn, hạn chế trong phát triển kinh tế – xã hội ở các địa phương vùng Tây Nam Bộ (đồng bằng sông Cửu Long), thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động tăng cường các hoạt động chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, qua đó chống phá Đảng và Nhà nước ta. Nhận rõ những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động để từ đó đề ra những giải pháp phòng, chống có hiệu quả là một nhiệm vụ chính trị quan trọng để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đưa vùng Tây Nam Bộ tiếp tục phát triển bền vững.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành và lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiều chủ trương, chính sách hỗ trợ, đầu tư, phát triển vùng Tây Nam Bộ. Sau hơn 35 năm đổi mới, 13 tỉnh, thành phố trong vùng đã đạt được nhiều thành tựu vượt bậc về phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần vào sự phát triển chung của đất nước. Đồng bằng sông Cửu Long trở thành trung tâm sản xuất nông nghiệp lớn nhất của Việt Nam, hằng năm đóng góp bình quân khoảng 50% sản lượng lúa, 65% sản lượng nuôi trồng thủy sản, 70% sản lượng trái cây, 95% lượng gạo xuất khẩu và 60% sản lượng cá xuất khẩu của cả nước.
Bên cạnh những kết quả đạt được, kinh tế – xã hội của vùng vẫn còn nhiều hạn chế; nhiều chỉ tiêu kinh tế được đề ra trong Kết luận số 28-KL/TW, ngày 14-8-2012, của Bộ Chính trị “Về phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế – xã hội và bảo đảm an ninh, quốc phòng vùng đồng bằng sông Cửu Long thời kỳ 2011 – 2020” đến nay chưa thực hiện được (1). Chiếm 19% dân số cả nước nhưng vùng chỉ góp 12% GDP (năm 2019); thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) của vùng thấp so với cả nước; liên kết vùng còn lỏng lẻo; hạ tầng giao thông chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; thành tựu giảm nghèo có nguy cơ chậm lại; các chỉ số về giáo dục và đào tạo của vùng còn thấp so với mức trung bình của cả nước… Những năm gần đây, vùng đồng bằng sông Cửu Long còn phải đối mặt với những tác động tiêu cực của tình trạng biến đổi khí hậu, suy giảm nguồn tài nguyên nước, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh…
Bản chất các luận điệu sai trái, thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo ở Tây Nam Bộ
Lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, lịch sử, những hạn chế trong phát triển kinh tế – xã hội, những khó khăn, thách thức mà đảng bộ, chính quyền và nhân dân các địa phương vùng Tây Nam Bộ đang phải đối mặt, các thế lực thù địch ra sức tuyên truyền xuyên tạc, tạo cớ để chống phá về chính trị. Các phương tiện truyền thông xã hội được các thế lực triệt để lợi dụng để chống phá, với một số thủ đoạn sau:
Về mục đích, các thế lực phản động muốn chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ đồng bào các dân tộc Kinh – Khmer – Hoa – Chăm…, gây mất an ninh, trật tự, tạo điểm nóng chính trị, gây sự chú ý của dư luận quốc tế, kích động chống đối, thậm chí là bạo loạn để phá hoại sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Về nội dung, ngoài những vấn đề đặc thù của vùng đất Tây Nam Bộ, như tôn giáo, dân tộc, lịch sử, chủ quyền…, còn có các vấn đề chung, như: Bôi nhọ lãnh tụ, xuyên tạc sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước; xuyên tạc tự do, dân chủ; phủ nhận thành tựu phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, ngoại giao, quốc phòng – an ninh; lợi dụng các vấn đề thời sự trong nước và quốc tế, như đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp, phòng, chống dịch COVID-19, tình hình Biển Đông… để xuyên tạc, chống phá.
Về chủ thể, các tổ chức, cá nhân chống phá chủ yếu là những hội, nhóm trá hình các tổ chức mượn danh tôn giáo, dân tộc, các tổ chức phản động lưu vong, những phần tử cực đoan, bất mãn chính trị trong nước. Các hội nhóm và cá nhân trong nước thường có mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức bên ngoài, các tổ chức và cá nhân có tư tưởng bài xích Việt Nam. Ở các nước phương Tây có những tổ chức, như: Hội Ái hữu Khmer Campuchia Krôm (AKKK), Hội Bảo vệ nhân quyền Khmer Campuchia Krôm, Hội sư sãi Khmer Campuchia Krôm, Liên hiệp Ủy ban chủ nghĩa dân tộc (KKK)… Các tổ chức này móc nối, tài trợ kinh phí, kích động một số tổ chức, cá nhân tôn giáo trong nước ly khai khỏi Giáo hội Phật giáo Việt Nam; đòi thành lập cái gọi là “nhà nước Khmer Krôm tự trị” (?!)…
Một số đối tượng thanh niên do nhận thức hạn chế, bị lôi kéo, dụ dỗ “hùa” theo các trang mạng chống đối, đưa ra những thông tin không đúng sự thật để bôi xấu chế độ, vu cáo chính quyền vi phạm tự do, dân chủ, nhân quyền… Liên quan đến tôn giáo, một nhóm người hình thành cái gọi là tổ chức “Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo thuần túy” đối lập với Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, xuyên tạc Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, vu cáo chính quyền phân biệt đối xử, vi phạm tự do tôn giáo, vi phạm quyền công dân…
Về cách thức, phổ biến nhất là lập các trang mạng để thông tin sai sự thật, bình luận theo hướng xuyên tạc các sự kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… trong nước và các địa phương. Các tổ chức ở nước ngoài hỗ trợ kinh phí cho các hội nhóm, cá nhân chống đối trong nước để kích động, xúi giục một số sư, tăng, đối tượng trong nước “ly khai”, chống đối.
Về tư tưởng, các thế lực xấu, thù địch chủ yếu kích động tư tưởng dân tộc cực đoan dưới nhiều hình thức, như: mượn cớ các vấn đề lịch sử, tôn giáo và dân tộc để xuyên tạc về lãnh thổ của Việt Nam, vu cáo Nhà nước Việt Nam “đàn áp tôn giáo”, kích động tách Phật giáo Nam tông Khmer thành “một hệ phái độc lập”… Họ lấy “Tuyên ngôn của Liên hợp quốc về quyền của các dân tộc bản địa” làm cái cớ để đòi Nhà nước ta công nhận các dân tộc thiểu số là “dân tộc bản địa”, có “quyền tự quyết”, từ đó đưa ra những đòi hỏi vô lý về chính trị, âm mưu chia tách, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc.
Về hoạt động, các tổ chức này đều có trang web, đài phát thanh riêng… và dựa vào đó để tuyên truyền, kích động; lợi dụng chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo để truyền đạo trái phép. Họ gửi “thỉnh nguyện thư” đến các tổ chức nhân quyền quốc tế và các quốc gia kêu gọi lên tiếng “bảo vệ” người dân tộc thiểu số ở Việt Nam, gây sức ép đòi thả những người vi phạm pháp luật… Ở trong nước, các hội nhóm, cá nhân kích động biểu tình, tạo điểm nóng chính trị để gây sự chú ý của dư luận thế giới, được hà hơi tiếp sức bởi các tổ chức quốc tế, như Human Right Watch (Theo dõi nhân quyền – HRW), Amnesty International (Ân xá quốc tế – AI), Đài phát thanh Á châu Tự do (Radio Free Asia – RFA)…
Phát triển bền vững và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ: Giải pháp căn cơ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Từ những thủ đoạn chống phá trên của các thế lực thù địch, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch ở vùng Tây Nam Bộ đặt ra một số vấn đề cần lưu ý:
Thứ nhất, về mục tiêu: Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trước hết cần tập trung vào việc bảo vệ những vấn đề cốt lõi, nguyên tắc then chốt, luận điểm cơ bản nhất của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về đại đoàn kết dân tộc, tự do tôn giáo và tín ngưỡng, bảo đảm quốc phòng – an ninh, ổn định chính trị, phát triển kinh tế – xã hội, xóa đói, giảm nghèo, chăm lo nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách đại đoàn kết dân tộc…
Thứ hai, về nội dung: Những vấn đề mang tính đặc thù của vùng đất Tây Nam Bộ, như về lịch sử, lãnh thổ, dân tộc… cần tiếp tục được nghiên cứu làm rõ, củng cố thêm các căn cứ lịch sử, pháp lý, từ đó đẩy mạnh tuyên truyền tạo sự thống nhất trong nhận thức của đông đảo nhân dân.
Để tuyên truyền thuyết phục, cần tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong thực tiễn. Chính sách đại đoàn kết dân tộc, quyền tự do tôn giáo và tín ngưỡng, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, chính sách xóa đói, giảm nghèo, bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc… phải bảo đảm được thực hiện đầy đủ và hiệu quả trên thực tế, hướng đến sự phát triển bền vững của vùng Tây Nam Bộ. Bất cứ sự vi phạm nào đối với quyền con người, quyền bình đẳng giữa các dân tộc cũng sẽ tạo cớ để các thế lực thù địch chống phá.
Thứ ba, về chủ thể: Mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng trong hệ thống chính trị đều có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các luận điểm sai trái, thù địch, trong đó lực lượng chủ công, nòng cốt là ban chỉ đạo 35 các cấp, các cơ quan tuyên giáo, báo chí, lực lượng đấu tranh của Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông… Cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là ở cơ sở, có năng lực và phẩm chất đạo đức, luôn gần dân, trọng dân, quan tâm chia sẻ và biết cách giải quyết những nguyện vọng, khó khăn của dân. Có như thế, chính quyền mới thật sự là chỗ dựa của người dân trong các vấn đề dân sinh, còn người dân là chỗ dựa của chính quyền trong các vấn đề về tổ chức và quản lý xã hội. Song song đó, quan tâm phát triển giáo dục – đào tạo để nâng cao trình độ dân trí, chọn lựa và đào tạo cán bộ ngay trong vùng đồng bào các dân tộc, xây dựng họ thành hạt nhân đoàn kết để lãnh đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đối với đồng bào các dân tộc, do điều kiện sống còn khó khăn, điều kiện tiếp cận thông tin còn hạn chế, nên cần phải chú trọng công tác dân vận thông qua các trí thức, các chức sắc tôn giáo, người có uy tín trong cộng đồng. Bên cạnh đó, cần phân hóa các đối tượng chống đối, nhất là những đối tượng trẻ tuổi, để tuyên truyền, giáo dục, chuyển hóa.
Thứ tư, về cách thức: Việc tuyên truyền thông qua báo chí, các phương tiện truyền thông xã hội phải được xem là một mặt trận quan trọng. Cần nâng cao chất lượng, nội dung của các loại hình báo chí: báo viết, báo nói, báo hình, báo điện tử tiếng dân tộc. Đài Tiếng nói Việt Nam (VOV) và một số đài phát thanh, truyền hình ở vùng Tây Nam Bộ đã có chương trình tiếng Khmer với nội dung phong phú, được đồng bào quan tâm. Các tỉnh Sóc Trăng, Trà Vinh, thành phố Cần Thơ đã có tờ báo tiếng Khmer và các trang điện tử tiếng Khmer… Vấn đề đặt ra là tạo điều kiện để các cơ quan thông tin đại chúng không chỉ là kênh tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước mà còn thật sự là diễn đàn, là nơi thể hiện tiếng nói của đồng bào các dân tộc thiểu số và các tôn giáo trong vùng Tây Nam Bộ đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và các sư sãi, tầng lớp thanh niên để lực lượng này trở thành những nhân tố tích cực trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tích cực tuyên truyền, phổ biến các chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Cùng với những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể độc đáo, đồng bào Khmer, Chăm, Hoa và các tôn giáo trong vùng Tây Nam Bộ còn có những hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng đặc thù gắn liền với lịch sử và văn hóa tộc người, tạo thành các phong tục, tập quán, lễ hội giàu bản sắc văn hóa. Vì thế, chú trọng công tác bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của các dân tộc và tôn giáo phải được xem là một giải pháp quan trọng trong thực hiện chính sách đại đoàn kết các dân tộc ở vùng Tây Nam Bộ. Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa các dân tộc, các tôn giáo chính là nuôi dưỡng tính đa dạng trong thống nhất; tăng cường đoàn kết thông qua khẳng định sự đóng góp của các tộc người và các tôn giáo, xây dựng cơ sở của sự gắn kết dựa trên sự phát triển bình đẳng giữa các dân tộc và quyền tự do tôn giáo, tín ngưỡng. Chính trong sự đa dạng, các dân tộc sẽ nhận ra tính thống nhất và vị trí không tách rời của mình trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Chăm lo cho sinh kế và đời sống, giáo dục và chăm sóc sức khoẻ, sự phát triển ổn định và lâu dài của đồng bào các dân tộc, sự phát triển tự do và hài hòa của các tôn giáo là vấn đề gốc, căn bản trong công tác đấu tranh tư tưởng. Khi đời sống đồng bào không ngừng được nâng cao, các dân tộc bình đẳng về cơ hội phát triển trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, giàu mạnh thì không thế lực nào có thể chia rẽ được khối đại đoàn kết dân tộc.
Phát triển bền vững các dân tộc cần hướng đến ba trụ cột: Bền vững sinh kế, bền vững văn hoá – giáo dục và bền vững về môi trường. Bền vững sinh kế giúp đồng bào cải thiện điều kiện sống, phát triển kinh tế gia đình, tạo sự bình đẳng về kinh tế. Bền vững văn hoá – giáo dục giúp bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống, nâng cao dân trí, qua đó bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển. Bền vững môi trường giúp đồng bào có một môi trường sống lành mạnh, an toàn. Đó cũng chính là thực hiện mục tiêu đại đoàn kết dân tộc trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở vùng Tây Nam Bộ./.
                                                                                           Theo TS Phan Công Khanh

Thứ Bảy, 13 tháng 8, 2022

CẢNH GIÁC TRƯỚC SỰ CHỐNG PHÁ QUÂN ĐỘI CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH!

     Thời gian gần đây các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã tán phát nhiều tài liệu có nội dung chống phá Quân đội, nhằm thu hút sự chú ý của dư luận, tác động xấu tới tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và dư luận nhân dân đối với Quân đội.
     Để kịp thời đấu tranh, ngăn chặn âm mưu, thủ đoạn và các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, mỗi cán bộ, chiến sĩ ở các cơ quan, đơn vị cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện nghiêm túc các chỉ thị, quy định của Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về công tác bảo đảm an toàn thông tin, công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục cho mọi cán bộ, chiến sĩ nâng cao bản lĩnh chính trị, tin tưởng tuyệt đối vào chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng, nhận thức sâu sắc nhiệm vụ của Quân đội và đơn vị; đồng thời nêu cao ý thức cảnh giác, nhận rõ và chủ động phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn kịp thời âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động; tích cực bảo vệ mình, bảo vệ nội bộ cơ quan, đơn vị. Quản lý chặt chẽ bộ đội, tình hình của cơ quan, đơn vị, các mối quan hệ của quân nhân, nhất là việc sử dụng các thiết bị điện tử thông minh của các đối tượng trong cơ quan, đơn vị. Tuyên truyền sâu rộng bản chất, truyền thống tốt đẹp của Quân đội, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, những tấm gương bình dị, cao quý, hành động dũng cảm của cán bộ, chiến sĩ trong thực hiện nhiệm vụ, gương người tốt, việc tốt. Phối hợp chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền, cơ quan chức năng địa phương nắm chắc tình hình ANCT, TTATXH và âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của kẻ địch và phần tử xấu trên địa bàn đóng quân; chủ động xây dựng kế hoạch, phương án phối hợp xử lý tốt các vụ việc, tình huống phức tạp xảy ra, giữ vững đơn vị an toàn, địa bàn an toàn, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Chủ động nắm, quản lý, dự báo, thông tin định hướng tư tưởng cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân trước các thông tin xấu độc, ảnh hưởng đến bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội./.




Yêu nước ST.

CÁN BỘ, CHIẾN SỸ QUÂN ĐỘI NHẬN DIỆN ĐÚNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH TRONG TÌNH HÌNH MỚI!

         Như chúng ta đã biết Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi soi đường cho thắng lợi của cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc trong thực hiện nhiệm vụ đấu tranh giành và bảo vệ độc lập dân tộc và ngày nay là xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.



Yêu nước ST.

DÂN TA PHẢI BIẾT SỬ TA: NHÂN VIỆC "HỘI ĐỒNG NGUYỄN TỘC" ĐÒI XÂY LĂNG CHO VUA BẢO ĐẠI-VỊ VUA BÁN NƯỚC CẦU VINH!

         Nạn đói năm Ất Dậu (1945) đã lấy đi mạng sống của hơn 2 triệu người Việt. Đây không chỉ là sự kiện tàn khốc nhất trong lịch sử hiện đại Việt Nam, một vết sẹo trong ký ức dân tộc, mà còn là một trong những nạn đói kinh hoàng nhất từng xảy ra trong lịch sử nhân loại.
Hơn 2 triệu người đã chế.t vì đói... Cả nhà đói, cả dòng họ đói, cả làng cả xóm cùng đói. Cái đói kinh hoàng năm Ất Dậu 1945 ấy, người trẻ hôm nay sẽ không tưởng tượng nổi.
     Đây là tỷ lệ chế.t đó.i rất cao, vì dân số toàn Việt Nam năm 1945 chỉ khoảng 23 triệu, trong đó khoảng 9 triệu sinh sống ở các tỉnh xảy ra nạn đói.
     Ngoài các chính sách tô cao thuế nặng, Nhật còn đưa ra một “chương trình kinh tế chỉ huy” nhằm thực hiện một cách triệt để chủ trương quân phiệt của mình.
     Cụ thể, bắt đầu từ ngày 6-5-1941 Nhật buộc Pháp ký một hiệp ước kinh tế yêu cầu Pháp phải cung cấp lương thực ở Đông Dương cho Nhật hằng năm.
     Bốn năm liền từ 1941-1944 Nhật - Pháp đã ký bốn hiệp định giao nộp lúa, ngô cho Nhật mỗi năm từ 700.000 - 1,3 triệu tấn, tương đương 50-80% tổng sản lượng lương thực VN thời đó.
     Để phục vụ chiến tranh, PX Nhật còn cần rất nhiều nguyên liệu từ những cây trồng có sợi, có dầu như đay, gai, bông, thầu dầu... nên chúng đã bắt rất nhiều vùng quê nhổ lúa trồng đay và các loại cây trên.
     Tài liệu của người Pháp thống kê: năm 1944 VN trồng tới 45.000ha đay, gấp chín lần diện tích của năm 1940 do 10 công ty độc quyền của Nhật thu mua, chế biến, kinh doanh thứ cây này.
     Cũng theo tài liệu trên, chiến tranh của đồng minh với Nhật tại Đông Dương khiến 50% hệ thống giao thông Nam - Bắc VN bị phá hủy, 90% phương tiện vận tải bị hư hỏng khiến việc đưa lương thực cứu trợ từ Nam ra Bắc càng thêm khó khăn.
     Chiến tranh làm cho nhu cầu nhiên liệu: than, dầu, điện của Nhật tăng cao. Chúng đã lấy ngô, vừng, lạc và cả lúa gạo để thay thế những nhiên liệu này phục vụ mưu đồ quân phiệt, đẩy người dân vào thả.m họa chế.t đó.i.
     Không chỉ làm số lượng lớn người chế.t đói, nạn đói còn khiến hàng trăm ngàn người phải rời bỏ quê hương, ly tán khắp nơi, nhiều người không còn quay về quê quán. 
     Nhiều gia đình, dòng họ bị tan vỡ sau nạn đói này, không thể tìm lại được người thân thích. Tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945 đã mô tả rõ nét tình cảnh này./.


Ảnh 1: Hai em bé đổ cháo vào miệng bố, chụp tại Phủ Lý, Hà Nam.
Ảnh 2: Một người làm từ thiện đang rửa xương của những nạn nhân chế.t đ.ói. 
Ảnh 3: Xương những người chế.t đó.i ở trại Giáp Bát.
Môi trường ST.

LỜI BÁC HỒ DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA: NGÀY 13 THÁNG 8 NĂM 1958!

         “Thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua”.
     Lời dạy của Bác Hồ trong “Bài nói với cán bộ và đồng bào tỉnh Nam Định”, ngày 13/8/1958.
     Đây là thời điểm miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân, lật đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, nhằm giải phóng quê hương, thống nhất đất nước; phong trào thi đua yêu nước sau 10 năm thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đạt được những kết quả bước đầu rất quan trọng, động viên, khích lệ đồng bào và chiến sĩ cả nước đoàn kết một lòng, phát huy ý chí tự lực, tự cường, lòng tự hào, tự tôn dân tộc, vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, ra sức thi đua, đóng góp sức người, sức của vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc; trong đó tỉnh Nam Định là một điểm sáng của cả nước, được Bác về thăm và nói chuyện; trong đó, Người căn dặn: “Thi đua phải đoàn kết, đoàn kết để thi đua”.
     Đoàn kết đã trở thành một truyền thống quý báu của dân tộc ta, trở thành sức mạnh vô địch, đưa dân tộc Việt Nam vượt lên mọi khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này, đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vẻ vang. Chính vì vậy, củng cố và phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc thông qua các phong trào thi đua đã trở thành một trong những bài học kinh nghiệm lớn, là phương thức, là điều kiện bảo đảm thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đoàn kết chặt chẽ thì sức mạnh thi đua càng mạnh, phong trào thi đua càng có sức lan tỏa sâu rộng, kết quả đạt được càng toàn diện và vững chắc.
     Học tập và làm theo lời Bác dạy, phong trào thi đua Quyết thắng trong quân đội được cấp ủy, chỉ huy, hội đồng thi đua - khen thưởng, cơ quan chính trị các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, xác định đúng trọng tâm, trọng điểm với nhiều phong trào đã gắn với lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, tiêu biểu như: “Giết giặc lập công”, “Nhằm thẳng quân thù mà bắn”, “Bám thắt lưng địch mà đánh”, “Một tấc không đi, một ly không dời”, “Yêu xe như con, quý xăng như máu”… đã phát triển sâu rộng, có sức lan tỏa mạnh mẽ, đã động viên, khích lệ cán bộ, chiến sĩ vượt qua mọi hiểm nguy, sẵn sàng hy sinh, chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược. Trước yêu cầu xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, phong trào thi đua Quyết thắng tiếp tục có bước phát triển mới, đồng hành, gắn chặt với từng lĩnh vực công tác, luôn bám sát nhiệm vụ chính trị, đặc điểm, tình hình hoạt động của mỗi loại hình cơ quan, đơn vị trong toàn quân được cán bộ, chiến sĩ tích cực hưởng ứng thực hiện và đạt được kết quả tích cực, tạo động lực tinh thần to lớn cho toàn quân hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ, xứng đáng là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân./.
Môi trường ST.