Thứ Hai, 24 tháng 6, 2024

Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”

 


Đảng ta “là đạo đức, là văn minh” trước hết thể hiện ở bản chất và mục đích của Đảng, “đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Một đảng đạo đức, văn minh không phải là một tổ chức để làm quan phát tài, mà phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mục đích của người cách mạng là để làm đầy tớ cho nhân dân, một người đầy tớ xứng đáng, trong sạch, trung thành chứ không phải là mục đích thăng quan phát tài”. Nói cách khác, đạo đức cách mạng cao nhất của Đảng và mỗi đảng viên là chí công vô tư. Đảng viên phải thật thà, trung thành, hăng hái; trọng lợi ích của cách mạng hơn tính mệnh của mình; phải hy sinh lợi ích của mình cho Đảng, cho Tổ quốc và dân tộc. Bất kỳ lúc nào, bất kỳ việc gì, người cán bộ, đảng viên đều phải tính đến lợi ích chung, phải đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của Tổ quốc lên trên hết, trước hết.

MUỐN THÀNH CÁN BỘ TỐT, PHẢI CÓ TINH THẦN TỰ CHỈ TRÍCH

 Bác Hồ kính yêu đã dạy: “Có nhiều đồng chí hoặc tự cho mình có trình độ nhận thức cao, có kinh nghiệm đầy đủ về công tác - hoặc vì không có tinh thần tiến thủ, chỉ biết tới đâu hay đó, nên không chịu học tập, không biết tự chỉ trích để sửa đổi những lầm lỗi và bồi bổ những thiếu sót. Phải biết rằng tình hình khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt đi trước. Muốn được thích hợp với tình thế, muốn cùng tiến hay vượt các bạn khác, ta cần phải nhận thức và tự giáo dục không ngừng, cần phải có sự thành thực tự vạch ra những khuyết điểm sai lầm để bồi bổ và sửa đổi đi. Sau khi làm xong một công tác gì, hay sau mỗi ngày làm việc, cần phải tự mình kiểm điểm xem có chỗ nào nhầm lẫn, chỗ nào chưa đầy đủ, có được ưu điểm gì nên nhớ, được kinh nghiệm gì quý đáng ghi. Phải bỏ hẳn thái độ "xong việc thì thôi". Không chịu tự phê bình, tự chỉ trích thì không bao giờ tấn tới được”

Đó là những lời dạy bảo rất quý và luôn có giá trị với mỗi công dân. Do đó, mỗi người hãy phát huy cao ý thức tự giác học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại!

 

CẢM PHỤC TINH THẦN TỰ PHÊ BÌNH CỦA BÁC KÍNH YÊU!

 Trong bài viết đăng trên Báo Cứu quốc, số 153, ngày 28-1-1946. Bác đã viết: “Người đời không phải thánh thần, không ai tránh khỏi khuyết điểm. Chúng ta không sợ có khuyết điểm, nhưng chỉ sợ không biết kiên quyết sửa nó đi. Từ nay, tôi mong đồng bào ra sức giúp tôi sửa chữa những khuyết điểm đó bằng nhiều cách, trước hết là bằng cách thi hành cho đúng và triệt để những mệnh lệnh của Chính phủ. Vận mệnh nước ta ở trong tay ta. Chúng ta đồng tâm nhất trí, trên dưới một lòng, thì chúng ta nhất định thắng lợi”.

Là những thế hệ được thừa hưởng những thành quả Bác đã để lại, chúng ta hãy sống, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Bác Hồ từ những việc nhỏ nhất để cùng nhau chung sức xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh.

NHẬN DIỆN ĐÚNG, ĐẤU TRANH LÀM THẤT BẠI CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 Thực tế cho thấy, những năm qua các thế lực thù địch, các phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước không ngừng gia tăng các hoạt động chống phá, phủ nhận những thành tựu đạt được của Việt Nam sau 38 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước. Chúng ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực. Điều này dẫn đến việc nhận diện các hoạt động chống phá đó trở nên khó khăn, phức tạp hơn bao giờ hết.

Từ việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên lĩnh vực chính trị - xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng, vấn đề chính trị - xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm, chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn định chính trị, xã hội, giảm sút lòng tin của Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, từ đó dẫn tới rối loạn chính trị - xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, để rồi tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa, thành quả cách mạng của đất nước ta.

Bởi vậy, yêu cầu đặt ra bức thiết là phải chủ động nhận diện đúng các luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước hiện nay. Luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước diễn ra thường xuyên, liên tục, nhất là trong những thời điểm Đảng và Nhà nước có những chỉ đạo, chính sách, sự kiện mới hoặc ở những thời điểm đất nước ta gặp khó khăn. Chúng thường lợi dụng các nền tảng mạng xã hội như Facebook, YouTube, TikTok... và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA, RFA, BBC, RFI... để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Hoạt động của chúng thường tập trung vào một số vấn đề như:

Một là, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng ta, mà cụ thể là học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Bắt đầu từ sự phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đi đến phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều phương diện. Chúng thường xuyên tạc với những lập luận rằng, Chủ tịch Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác- Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp là một sai lầm, hay Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ kế thừa những tư tưởng sẵn có của nhân loại không có tư tưởng của riêng mình,... Ta có thể khẳng định rằng những lập luận này của chúng là sự xuyên tạc vô căn cứ, bởi lẽ Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ của dân tộc Việt Nam nên tư tưởng Người là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam, là sự kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa Mác-Lênin với những giá trị truyền thống của dân tộc và tinh hoa văn hóa của nhân loại.

Hai là, phủ nhận chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng.

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước thường xhuyên tạc rằng Việt Nam kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đi theo vết xe đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước kia. Chúng phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng xuyên tạc rằng, nếu không có Đảng Cộng sản Việt Nam thì dân tộc ta không phải thực hiện các cuộc chiến tranh lâu dài và đau thương, mất mát như thế; hay còn xuyên tạc rằng chính Đảng Cộng Sản Việt Nam đã kéo lùi sự phát triển của dân tộc Việt Nam,... Nhưng những thủ đoạn thâm hiểm đó nhanh chóng bị vạch trần bởi chính lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, bởi chính niềm tin mà Nhân dân dạn cho Đảng, Nhà nước, và rằng sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Điểm lại lịch sử có thể thấy, chỉ đến khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, với đường lối cách mạng đúng đắn, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng đã tạo ra bước ngoặt căn bản trong phong trào yêu nước, đánh dấu sự kết thúc thời kỳ khủng hoảng đường lối cứu nước của cách mạng Việt Nam.

Ba là, tập trung công kích đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.

Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước thường tập trung công kích vào đường lối đổi mới của Đảng bằng nhiều luận điệu xuyên tạc trắng trợn. Chúng rêu rao, tuyên truyền luận điệu cho rằng đường lối phát triển đất nước ta, đặc biệt là về chính sách phát triển kinh tế được đề cập trong văn kiện các kỳ Đại đội Đảng đều là chủ quan, duy ý chí, phi thực tế, thiếu nguồn lực, phủ nhận những thành tựu đổi mới của đất nước,.... Tuy nhiên, chính niềm tin của Nhân dân dành cho Đảng, Nhà nước ngày càng cao và thành tựu “rực rỡ” sau 38 năm đổi mới là những minh chứng rõ nét nhất để đập tan các luận điệu xuyên tạc, chống phá đó.

Bốn là, xuyên tạc, bịa đặt, nói xấu cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, xuyên tạc kết quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng do Đảng chỉ đạo.

Việc chống phá bằng thông tin bịa đặt, bôi nhọ đời tư lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước, xuyên tạc kết quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng của Đảng do các thế lực thù địch, phản động được thực hiện thường bắt đầu từ bịa đặt, xuyên tạc về nguồn gốc xuất thân, sức khỏe, về quá trình học hành, tư cách đạo đức, cất nhắc, bổ nhiệm, khối lượng tài sản… để gây mất uy tín, niềm tin của nhân dân vào cán bộ lãnh đạo. Chúng còn lợi dụng thành quả trong công cuộc đấu tranh chống tham nhũng do Đảng ta khởi xướng để xuyên tạc, bóp méo, vu khống cho rằng đó là cuộc “thanh trừng phe cánh”, “diệt tận gốc mầm mống của các phe cánh” giữa các nhóm lợi ích....

Việc chủ động nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, chống phá đối với Đảng, Nhà nước và đối với chế độ xã hội chủ nghĩa của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước là cơ sở để đấu tranh có hiệu quả với các hoạt động đó, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Để thực hiện hiệu quả, cần tập trung vào những nội dung cụ thể sau:

Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về sự nguy hiểm của âm mưu “Diễn biến hòa bình” do các thế lực thù địch, phản động tiến hành.

Phải kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định với sự lãnh đạo của Đảng tin tưởng và thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đất nước.

Thường xuyên đổi mới phương thức, cách thức tiến hành, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch.

Tăng cường ứng dụng các thành tự của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đặc biệt là các thành tựu về công nghệ - thông tin làm cơ sở tiến hành đầu tranh có hiệu quả với các hoạt động chống phá của thế lực thù địch.

Lời Bác dạy năm xưa

 


 “Tiền đồ của mỗi người nằm trong tiền đồ của cách mạng, của dân tộc”. 

 Câu nói trên trích trong bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Đại hội chiến sĩ thi đua ngành thương nghiệp lần thứ nhất được tổ chức từ ngày 31-5 đến ngày 5-6-1956, tại Hà Nội. Tham dự đại hội có 354 đại biểu là chiến sĩ thi đua và đại diện cho các đơn vị tiên tiến thuộc ngành thương nghiệp cả nước.

NGOẠI GIAO CÂY TRE VIỆT NAM

Chỉ trong vòng 1 năm, từ tháng 6/2023 – đến tháng 6/2024, theo thống kê chưa đầy đủ thì Việt Nam đã có 13 nguyên thủ quốc gia đến thăm. Đáng chú ý là chỉ trong 9 tháng qua thì cả 3 cường quốc lớn nhất thế giới đều chọn Việt Nam là điểm đến.

- Tháng 9/2023, Tổng thống Mỹ Joe Biden

- Tháng 12/2023, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình

- Tháng 6/2024, Tổng thống Nga Vladimir Putin

Thế mới thấy đường lối đối ngoại “CÂY TRE VIỆT NAM” gốc khỏe, thân vững, cành uyển chuyển là rất đúng đắn, thể hiện bản lĩnh, tâm hồn, khí phách, cốt cách con người Việt Nam.

Nhờ luôn kiên trì, kiên định đường lối độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ và thực hiện chính sách quốc phòng “4 không” mà chúng ta cân bằng các mối quan hệ với các cường quốc, tối đa hóa lợi ích từ các nước lớn để xây dựng nước ta ngày càng đoàng hoàng hơn, to đẹp hơn. Đồng thời, cũng tránh được trở thành con cờ trong bàn cờ chính trị của các nước lớn.

Vì vậy, dù ai nói ngả nói nghiêng thì chúng ta vẫn phải luôn kiên định quan điểm “lợi ích của quốc gia, dân tộc là trên hết”. 

PHÒNG, CHỐNG THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ĐỂ PHÁ HOẠI NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

 Trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence-AI) đã, đang và sẽ mở ra những cơ hội cũng như thách thức đối với công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Sức mạnh AI có thể được sử dụng để tăng cường hiệu quả truyền thông, quản lý và định hướng tư tưởng. Tuy nhiên, đi liền với cơ hội là nguy cơ khi các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để “nâng cấp” các thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Thực tế đó đặt ra phải triển khai các biện pháp ứng phó phù hợp nhằm tận dụng cơ hội cũng như phòng ngừa mặt trái từ AI, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Nhận diện âm mưu, thủ đoạn lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước

Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động tận dụng AI và mạng xã hội để “nâng cấp” các thủ đoạn phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng một cách bài bản, có tổ chức và ngày càng tinh vi hơn. Thủ đoạn phổ biến mà các thế lực thù địch đang sử dụng là lợi dụng AI để tạo và lan tỏa thông tin xấu độc (tin giả) đến các tầng lớp nhân dân một cách liên tục, rộng khắp, thần tốc với mục tiêu gây hoang mang, xói mòn niềm tin của nhân dân vào đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước.

Các thế lực thù địch tạo ra thông tin xấu độc bằng cách lợi dụng AI tạo ra những câu chuyện hoàn toàn không có thật, thông tin dựa trên đồn đoán, chèn thông tin giả vào một sự kiện có thật, chắp nối các sự kiện không liên quan với nhau, sử dụng nhân chứng giả hoặc nhân chứng có thành kiến (định kiến) về một chủ đề, trích dẫn tuyên bố của một người có uy tín vào một tình huống không liên quan.

Theo nghiên cứu của các cơ quan chức năng, ở Việt Nam hiện nay, các tin giả trên mạng chủ yếu được tạo ra bởi một số phần tử phản động và những cá nhân cơ hội chính trị, cực đoan chống đối. Một số tin giả khác được tạo ra bằng cách sử dụng các “robot mạng” (còn gọi là “bots”) có sử dụng công nghệ AI. Những tin giả này được tự động tán phát vào các nhóm phản động, sau đó lan rộng ra các hội nhóm khác, tạo ra một lượng lớn tin giả trong thời gian ngắn. Nhiều tin giả được lan truyền thông qua các “tài khoản con rối” (tài khoản giả mạo được tạo ra bởi AI), làm cho người dùng internet không biết được số lượng thực sự và danh tính của những người chia sẻ thông tin trên mạng. Gần đây, các thế lực thù địch còn lợi dụng một số phần mềm AI như “photoshop giọng nói” hoặc “kỹ thuật chỉnh sửa video” để chỉnh sửa nội dung phát biểu của các nhân vật, thậm chí làm giả hoàn toàn một video clip để tạo ra các câu chuyện không đúng sự thật phục vụ các mục đích chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Dưới sự hỗ trợ của AI, các đối tượng đã tạo ra các nhân vật ảo với khuôn mặt và giọng điệu giống hệt những người dẫn chương trình từ các kênh thông tin chính thống. Tiếp đó, chúng xây dựng những kịch bản hấp dẫn, thường có tính chất gay cấn với nội dung sai lệch, phản động, nhằm thu hút sự chú ý và tương tác từ cộng đồng mạng. Nhiều video còn được gắn thêm logo của các kênh tin tức uy tín, gây nhầm lẫn cho người xem rằng đây là thông tin đã được kiểm chứng.

Thủ đoạn tinh vi hơn là các thế lực thù địch lợi dụng AI để thu thập dữ liệu thông tin cá nhân, từ đó điều hướng thông tin và thao túng tâm lý người dùng. Đây là thủ đoạn hết sức nguy hiểm vì nó đã và đang được các thế lực thù địch tiến hành một cách thường xuyên, liên tục nhằm tạo hiệu ứng “mưa dầm thấm lâu”. Theo các chuyên gia công nghệ, hiện nay, tất cả hoạt động trên không gian mạng như bài đăng, lượt thích, bình luận, thời gian tương tác... đều trở thành dữ liệu để các nền tảng thu thập. Trên cơ sở dữ liệu đó, AI hoàn toàn có thể “vẽ được chân dung chi tiết của mỗi cá nhân”, hình thành sự hiểu biết về người dùng. Từ những tri thức này, hệ thống AI sẽ học và hiểu người dùng cả trong ngắn và dài hạn. Khi biết được tư duy, định hướng của người dùng thì việc định hướng thông tin (gửi các thông tin, thông điệp phù hợp với từng cá nhân), hay tập hợp lực lượng “những người có chung quan điểm” để phục vụ mục đích nào đó càng trở nên dễ dàng hơn.

Phòng ngừa, khắc phục mặt trái của AI để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Trên cơ sở nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước, chúng ta cần triển khai những giải pháp khoa học, đồng bộ nhằm phòng ngừa, khắc phục những mặt trái của AI để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Việc cần làm trước hết là tăng cường tuyên truyền, giáo dục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và tác tầng lớp nhân dân nâng cao nhận thức và khả năng phòng ngừa, ứng phó trước những thông tin xấu độc trên mạng xã hội. Đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, là cơ sở tiền đề để chúng ta nâng cao “khả năng tự miễn dịch” trước những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Để triển khai thực hiện giải pháp này cần phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân; trong đó, hệ thống các cơ quan báo chí chính thống đóng vai trò then chốt trong việc cung cấp thông tin chính xác và định hướng dư luận tích cực, giúp mọi người nhận biết và nhận thức đúng về cơ hội, thách thức cũng như âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước.

Các cơ quan báo chí, truyền thông cần chủ động cập nhật các thông tin về sự phát triển của AI trên thế giới, nhất là những cảnh báo về mặt trái của AI; tăng cường phối hợp với các đơn vị, tổ chức chuyên trách trong nước về chống tin giả, từ đó xây dựng hệ thống các chương trình, nội dung tuyên truyền, phân tích và làm rõ các chiêu trò, thủ đoạn lợi dụng AI để tạo và lan truyền tin giả, tin sai trái, xuyên tạc. Bên cạnh đó, các cơ quan báo chí, truyền thông quan tâm tuyên truyền, định hướng, trang bị cho công chúng, cộng đồng mạng những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết để tự bảo vệ thông tin cá nhân; nâng cao tinh thần cảnh giác trước những thông tin xấu độc, ứng phó hiệu quả với những thách thức đến từ AI nói chung, âm mưu, thủ đoạn lợi dụng AI chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng của các thế lực thù địch, phản động nói riêng.

Giải pháp căn cơ là chú trọng xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, chuyên gia trong nghiên cứu, khai thác làm chủ và phát triển các ứng dụng AI phục vụ công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Trước mắt, tập trung ưu tiên nguồn nhân lực cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức trực tiếp tham gia thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Cùng với đó, cần quan tâm đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở, trang bị kỹ thuật nhằm ứng dụng và phát huy AI trong công tác đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch. Hiện nay, việc ứng dụng công nghệ AI vào thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của các cơ quan, đơn vị chuyên trách còn những hạn chế nhất định. Một trong các nguyên nhân của hạn chế này là hệ thống hạ tầng cơ sở, trang thiết bị, nhất là hệ thống các trung tâm dữ liệu lớn chưa đồng bộ; các cơ quan chủ quản dữ liệu số chưa sẵn sàng kết nối, chia sẻ dữ liệu; hệ thống dữ liệu chưa được chuẩn hóa dẫn đến sức mạnh dữ liệu chưa được giải phóng, gây khó khăn trong triển khai, phát triển các ứng dụng liên quan đến AI.

Do vậy, việc xây dựng, phát triển hệ thống hạ tầng cơ sở, trung tâm dữ liệu lớn là vấn đề cấp thiết. Theo đó, cần ưu tiên xây dựng hệ thống hạ tầng cơ sở gắn với mục tiêu chuyển đổi số quốc gia theo lộ trình đã xác định; đẩy mạnh xây dựng mới, củng cố, nâng cấp hệ thống các trung tâm dữ liệu theo hướng tập trung phát triển sản phẩm AI (ngôn ngữ Việt Nam) cung cấp các thông tin mang tính đặc thù, bản địa, đặc trưng của người Việt và theo từng vùng, miền, lĩnh vực cụ thể để người dùng có thể hỏi đáp các thông tin mang tính đặc thù của Việt Nam, như: Quy định, văn bản pháp luật, lịch sử, địa lý, văn học, phong tục tập quán..., từ đó có thể dễ dàng tìm kiếm các nguồn thông tin nhanh chóng, chính xác và tin cậy. Mặt khác, cần đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng, phát triển các sản phẩm sử dụng AI mang thương hiệu Việt Nam với mục tiêu nâng cao chất lượng thông tin, truyền thông; tự động phát hiện, phòng chống tin giả, tin chống phá Đảng, Nhà nước.

Trong bối cảnh hiện nay, việc xây dựng các văn bản pháp luật, khung pháp lý về giám sát và quản lý AI ở nước ta cần đáp ứng các yêu cầu vừa phải bảo đảm duy trì kiểm soát, kiểm duyệt nội dung thông tin phù hợp định hướng, thuần phong mỹ tục, vừa phải tạo ra không gian đủ rộng để doanh nghiệp phát triển. Theo đó, thực hiện các biện pháp như: Yêu cầu nhà cung cấp nền tảng phải đăng ký dịch vụ và tiến hành đánh giá an ninh trước khi sản phẩm được tung ra thị trường; bắt buộc dán nhãn trên nội dung do AI tạo ra; sử dụng dữ liệu hợp pháp để huấn luyện mô hình AI và cung cấp thông tin khi cơ quan chức năng yêu cầu; cấm sử dụng các nội dung kích động lật đổ chính quyền và chế độ cũng như vi phạm quyền riêng tư; quyền yêu cầu các đơn vị cung cấp dịch vụ loại bỏ nội dung bất hợp pháp và ngăn chặn việc tán phát thông tin xấu độc.

AI là sản phẩm của văn minh nhân loại, mang đến cơ hội to lớn để mỗi quốc gia nói chung, Việt Nam nói riêng thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, song cũng đặt ra những thách thức không nhỏ trên mọi lĩnh vực, nhất là quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đây cũng là vấn đề đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu ra tại Hội nghị Trung ương 8 (khóa XIII): “Thế giới ngày nay đã, đang và sẽ đứng trước nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức mới đan xen đối với sự phát triển nhanh và bền vững dưới tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Trí tuệ nhân tạo và một số thành tựu công nghệ mới có khả năng thay thế con người trên một số lĩnh vực, tạo ra khối lượng thông tin, tri thức khổng lồ và những hiệu ứng làm thay đổi cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, con người và lối sống”.

Nhận thức rõ điều đó, chúng ta vừa tận dụng những tiến bộ, lợi ích, vừa chủ động phòng ngừa những mặt trái của AI; đồng thời tỉnh táo nhận diện, kiên quyết đấu tranh với các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng AI để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN, qua đó góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

 Ngày 25/6/1952 Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn chống tham ô lãng phí, chống quan liêu thì phải dân chủ, gây tự phê bình và phê bình, làm cho mọi người biết tự phê bình mình và dám phê bình người”.

Lời dạy của Người rất thiêt thực với chúng ta, nhất là trong khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đang tích cực thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; kiên quyết, kiên trì phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; triển khai thực hiện quy định chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới.

Trong cuộc sống hằng ngày cũng như trong công tác, những người chân thành, thắng thắn, mạnh dạn, góp ý phê bình bạn chính là những người bạn tốt, ngược lại những ai biết rõ bạn mình đang làm sai mà không khuyên can thì đó chính là người chưa tốt. Biết đồng chí động đội đang mắc khuyết điểm, lầm đường lạc lối mà vẫn “Mũ ni che tai”, “Bình chân như vại” chính là làm hại đồng chí đồng đội và tổ chức, những biểu hiện đó chúng ta phải đấu tranh phê phán. Nhưng tự phê bình và phê bình phải trên cơ sở nguyên tắc và bảo đảm đoàn kết. Thiết nghĩ không dám và không biết tự phê bình, phê bình, tự soi tự sửa cũng là biểu hiện của suy thoái, là nguồn gốc sinh ra tham ô, lãng phí, tham nhũng tiêu cực, quan liêu, những thói hư tật xấu vừa hại mình, hại người và để các thế lực thù địch cơ hội lợi dụng chống phá.

PHÊ PHÁN ĐỂ KỊP THỜI NẮN CHỈNH NHỮNG HÀNH VI “LỆCH CHUẨN”

 Trước những hành vi lệch lạc, “lệch chuẩn” trong xã hội và trên không gian mạng hiện nay, mỗi công dân đều cần trang bị cho mình đầy đủ kiến thức và ý thức để “tự phản tỉnh”, nhận diện đúng và chủ động phê phán. Đó cũng là cách để từng bước củng cố “thế trận lòng dân”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh mới.

Nhận diện hành vi lệch lạc, “lệch chuẩn”

Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã tạo nhiều điều kiện để phát triển kinh tế, xã hội, kéo theo là sự biến đổi các giá trị và chuẩn mực xã hội theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực. Kể từ khi các trang mạng xã hội phát triển mạnh mẽ và có thể trở thành trang thông tin dẫn dắt, định hướng dư luận như hiện nay, xuất hiện nhiều loại thông tin xấu độc, mang tính chống phá Đảng, Nhà nước. Đáng nói, những loại thông tin này không chỉ xuất hiện từ các thế lực thù địch, phản động ở nước ngoài mà còn xuất hiện từ một bộ phận nhỏ trong nước, vì suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức.

Facebook và Tiktok đang là hai trang mạng xã hội thu hút đông đảo người dùng hiện nay. Ngoài những nội dung mang tính chất chia sẻ thông tin, giải trí, có thể bắt gặp những dạng bình luận tiêu cực, mang tính chống phá từ nhiều tài khoản người dùng. Bên dưới những bài đăng, có một loại bình luận như “parky”, “Bắc Kỳ”,... mang tính xuyên tạc, phân biệt vùng miền, chống phá nhân dân và đất nước.

Hay trước khi có sự kiện quan trọng nào của đất nước được diễn ra, trên các trang mạng xã hội sẽ xuất hiện các bài viết xuyên tạc, bịa đặt về lãnh đạo Nhà nước, tổ chức, cơ quan,... khiến nhân dân hoang mang, khó phân biệt tin tức thật – giả. Hoặc trong một số vụ án lớn, cơ quan chức năng đang điều tra nhưng trên mạng xã hội đã xuất hiện nhiều thông tin bịa đặt về tình tiết vụ án, diễn biến và đưa ra các thông tin sai lệch về pháp luật Nhà nước.

Vụ khủng bố tại Đắk Lắk vào tháng 6/2023 vừa qua cũng là một hành vi điển hình về “lệch chuẩn” trong xã hội. Đây là vụ tấn công manh động, liều lĩnh và bất chấp luật pháp, đạo lý. Vụ việc gây bất ổn trong xã hội, làm phức tạp tình hình tại khu vực Tây Nguyên. Khi xảy ra vụ việc, các thế lực thù địch liên tiếp tung ra những luận điệu xuyên tạc, bóp méo bản chất để chia rẽ dân tộc, tôn giáo, chia rẽ niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Một số hành vi lệch lạc, “lệch chuẩn” thường thấy trong xã hội và trên các mạng xã hội có thể kể đến như: bịa đặt, xuyên tạc về nguyên tắc tổ chức, cán bộ, công tác nhân sự tại Đại hội Đảng các cấp; phủ nhận vai trò của lãnh đạo Đảng; chống phá nền tư tưởng của Đảng, đường lối của Đảng; đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”; phủ nhận chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh...

Tăng cường bảo vệ nền tư tưởng của Đảng

Trong khi các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị quyết liệt chống phá, lật đổ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, thì việc tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phán bác các quan điểm lệch lạc là nhiệm vụ quan trọng. Ngay từ những ngày đầu thành lập, Đảng ta đã xác định đúng đắn và kiên quyết bảo vệ đường lối, chống lại các tư tưởng tả khuynh, hữu khuynh. Cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ngày càng mang tính quyết liệt hơn nữa.

Trong suốt 38 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về phát triển kinh tế, xã hội, ngoại giao, đạt được vị thế và uy tín quốc tế. Đây chính là kết quả của quá trình nỗ lực phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, phù hợp với thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, góp phần khẳng định niềm tin vào con đường chủ nghĩa xã hội mà Bác Hồ, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn.

Trước những hành động chống phá ngày càng tinh vi của các thế lực thù địch trong xã hội và trên không gian mạng, mỗi công dân cần tỉnh táo nhận diện được mưu đồ, phân biệt rõ ràng các quan điểm sai trái, tạo “miễn dịch” trước nguồn thông tin xấu, độc, không để các bài đăng trên mạng xã hội có nội dung xuyên tạc dẫn dắt tư tưởng. Không để bị dao động trước sự tấn công trên mặt trận tư tưởng, chính trị. Khi sử dụng các trang mạng xã hội, cần xác định đúng mục tiêu khi chia sẻ thông tin, tránh để các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc, xây dựng trang cá nhân trở thành một kênh thông tin đúng đắn, tuyên truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.

THÀNH TỰU BẢO VỆ, THỰC THI QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM LÀ KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN

 Với sự quan tâm thường xuyên của Đảng, Chính phủ, những năm qua, Việt Nam luôn nhất quán chính sách thúc đẩy và bảo vệ quyền con người; coi con người là trung tâm, là động lực của quá trình đổi mới và phát triển đất nước. Tuy nhiên, xuất phát từ mục đích thiếu trong sáng, vẫn có một số tổ chức quốc tế cố tình đưa ra nhiều nhận định phiến diện nhằm phủ nhận thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam.

Thời gian gần đây, nhiều tổ chức quốc tế đã có những báo cáo thiếu khách quan về tình hình nhân quyền và công tác bảo vệ quyền con người ở Việt Nam. Điển hình là ngày 29/5 vừa qua, Liên minh Châu Âu (EU) đã công bố Báo cáo thường niên về nhân quyền và dân chủ trên thế giới năm 2023. Trong bản báo cáo này, EU đã đưa ra một số nhận định, đánh giá không đúng về việc bảo đảm thực thi quyền con người ở Việt Nam. Liên minh Châu Âu cho rằng, không gian xã hội dân sự ở Việt Nam ngày càng bị thu hẹp. Đồng thời, kêu gọi Việt Nam trả tự do cho tất cả những người bị giam giữ vì thực hiện quyền tự do ngôn luận.

Nội dung Báo cáo thường niên về nhân quyền và dân chủ trên thế giới năm 2023 do Liên minh Châu Âu công bố đã đưa ra những nhận định thiếu khách quan và thiếu thiện chí đối với Việt Nam khi cho rằng: Các nhóm dân tộc thiểu số và các nhóm tôn giáo tiếp tục là nạn nhân của sự sách nhiễu của chính quyền. Báo cáo còn bày tỏ quan ngại về tình hình của những người bảo vệ nhân quyền, sự siết chặt không gian và môi trường làm việc đối với các tổ chức xã hội dân sự.

Trước đó, Báo cáo nhân quyền năm 2023 do Bộ Ngoại giao Mỹ công bố vào cuối tháng 4/2024 cũng đưa ra những thông tin sai lệch, thiếu khách quan về tình hình nhân quyền ở Việt Nam. Theo đó, Báo cáo này nhận định là “chính quyền Việt Nam vẫn không có tiến bộ về nhân quyền”; “Việt Nam vi phạm nhân quyền”;… Báo cáo này đề cập đến một số cá nhân mà họ gọi là “tù nhân chính trị”, “nhà hoạt động chính trị”,... Điển hình như Ngụy Thị Khanh, Lê Anh Hùng, Bùi Tuấn Lâm,… Song thực tế, đây lại là những đối tượng có các hành vi vi phạm pháp luật, đã bị bắt giữ, điều tra, xét xử và tuyên án phạt với những bản án nghiêm minh, đúng người, đúng tội.

Đặc biệt, Báo cáo nhân quyền năm 2023 còn thể hiện rõ cách nhìn phiến diện, một chiều khi cho rằng “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet”. Nhưng thực tiễn nhiều năm trở lại đây, internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Tính đến đầu năm năm 2024, Việt Nam ghi nhận có khoảng 78,44 triệu người dùng internet; số lượng người dùng mạng xã hội là khoảng 72,70 triệu người, chiếm 73,3% dân số. Đặc biệt, số lượng kết nối di động tại Việt Nam đạt tới 168.5 triệu, tương đương 169.8% dân số. Nhờ đó, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Như vậy, internet ở Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Hoàn toàn không có việc “Việt Nam hạn chế nghiêm trọng tự do internet” như các nhìn nhận trong Báo cáo nói trên.

Ở góc độ tiếp cận khác, các chuyên gia cho rằng, nhân quyền là vấn đề mang tính phổ quát của toàn cầu. Tuy nhiên, với mỗi quốc gia, dân tộc, tùy theo đặc điểm văn hoá, lịch sử đều có những tiêu chuẩn, quy định riêng. Đối với Việt Nam, thực tế thời gian qua cho thấy, Việt Nam luôn tôn trọng, bảo vệ nhân quyền, quyền con người và có những hành động cụ thể thực thi quyền con người theo những công ước mà Việt Nam đã ký kết. Tiêu biểu là việc Bộ luật Hình sự năm 2015 tiếp tục bỏ án tử hình ở 8 tội danh; không áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, người đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội. Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế. So với nhiều nước, Việt Nam không thua kém về số lượng các công ước đã ký kết. Ngay cả nước Mỹ hiện nay vẫn là nước duy nhất trên thế giới chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về trẻ em năm 1989. Quốc gia này cũng chưa phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1966.

Xin dẫn lời của Thủ tướng Phạm Minh Chính: “Nhân quyền lớn nhất ở Việt Nam là lo cho 100 triệu dân ấm no, và hạnh phúc, dân chủ, cuộc sống bình yên, an ninh, an toàn, an dân, phát huy tối đa yếu tố con người”. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Đảng, Nhà nước ta đã luôn luôn nhất quán chính sách “tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền, quyền và nghĩa vụ của công dân”. Mọi quyết sách đều xuất phát từ con người; mọi thành quả phát triển đều hướng vào bảo đảm tốt nhất quyền con người. Chỉ tính từ năm 2019 đến nay, GDP bình quân ở Việt Nam đã tăng 25%, tỷ lệ hộ nghèo giảm 1,5%/năm. Mạng lưới y tế dự phòng được tổ chức rộng khắp trên toàn quốc, gắn chặt với y tế cơ sở, tỷ lệ bao phủ bảo hiểm y tế đã tăng từ hơn 81% năm 2016 lên mức 93,35% vào năm 2023; 85% người khuyết tật có hoàn cảnh khó khăn được trợ giúp xã hội, chăm sóc và phục hồi chức năng.

Những nội dung ở trên đã cho thấy phần nào các thành tựu quan trọng trong bảo vệ, thực thi quyền con người ở Việt Nam. Những thành tựu đó đã được nhiều quốc gia trên thế giới ghi nhận và đánh giá cao. Minh chứng rõ nhất là Việt Nam lần thứ hai trúng cử vào Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc nhiệm kỳ 2023 - 2025 (lần đầu là nhiệm kỳ 2014 - 2016). Điều này thể hiện sự tín nhiệm, tin tưởng của cộng đồng quốc tế đối với những đóng góp của Việt Nam trong bảo vệ và thực thi quyền con người.

Thành tựu bảo vệ, thực thi quyền con người ở Việt Nam là không thể phủ nhận. Thiết nghĩ, những nhận định phiến diện, thiếu khách quan, không chính xác về vấn đề quyền con người ở Việt Nam cần bị đấu tranh, lên án mạnh mẽ, qua đó đưa đến sự nhìn nhận khách quan, toàn diện, chính xác về những thành tựu trong bảo vệ và thực thi quyền con người ở Việt Nam hiện nay./.

 

NHẬN DIỆN ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH PHỦ NHẬN NỀN VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN MỚI

 Hiện nay, cùng với công kích chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ra sức xuyên tạc, phủ nhận nền văn hóa Việt Nam. Các thế lực phủ địch phủ nhận chủ nghĩa yêu nước Việt Nam; phủ nhận giá trị các cuộc kháng chiến chống thực dân, đế quốc xâm lược của dân tộc; đánh đồng chính nghĩa và phi nghĩa, làm lẫn lộn vai trò của những chiến sĩ cách mạng chân chính với những kẻ cướp nước và bè lũ bán nước. Chúng tuyên truyền cho các giá trị văn hóa phương Tây; cố tình hạ thấp giá trị các sáng tác văn học, nghệ thuật ca ngợi cuộc sống lao động, chiến đấu của quần chúng công - nông; tán dương các tác phẩm có khuynh hướng bôi nhọ lịch sử, phủ nhận chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phẩm chất cao đẹp của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang…Một số kẻ còn lợi dụng tự do sáng tác để đả kích, nói xấu chế độ; kích động những người bất mãn viết hồi ký, tiểu thuyết, truyện ngắn để xuyên tạc, vu khống Đảng, Nhà nước và chế độ. Điển hình như: Hồi ký của một thằng hèn của Tô Hải; Hồi ký của Nguyễn Đăng Mạnh; cuốn cẩm nang du lịch Trương Gia Giới phát cho du khách tại Công ty lữ hành Saigontourist, trong đó in hình bản đồ Trung Quốc có đường lưỡi bò ở Biển Đông; cuốn sách Đèn cù của Trần Đĩnh và Đêm giữa ban ngày của Vũ Thư Hiên; Bộ phim Điệp vụ Biển Đỏ của đạo diễn Lâm Siêu Hiền…hòng ca ngợi chủ nghĩa hưởng thụ, sống gấp, sống không có tương lai, hoài bão, thiếu lý tưởng, gieo rắc tư tưởng hoài nghi hoài nghi con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; cổ vũ bạo lực, đề cao danh vị, đồng tiền; chạy theo thần tượng, theo trend trái với thuần phong mỹ tục dân tộc, làm mất đi phương hướng thẩm mỹ tích cực, tác động tiêu cực đến tâm tư, tình cảm, suy nghĩ của công chúng, gây rối lòng dân, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, làm suy giảm lòng tin của các tầng lớp nhân dân vào thể chế chính trị và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam…

Với những âm mưu, thủ đoạn tinh vi và xảo quyệt của các thế lực thù địch trên lĩnh vực văn hóa đang là “nguy cơ hiện hữu” làm thay đổi các thang giá trị về đạo đức, lối sống trong xã hội; khơi dậy bản năng chạy theo lợi ích vật chất, cá nhân mà quên đi đạo lý, nghĩa vụ và trách nhiệm của người công dân trong một quốc gia văn minh, tiến bộ; thậm chí làm cho con người sa ngã, quay lưng lại với truyền thống, với những giá trị mang đậm bản sắc của cốt cách con người Việt, dân tộc Việt Nam.

Để đấu tranh bảo vệ nền văn hóa của dân tộc trong tình hình mới, thiết nghĩ, trước hết mỗi cấp ủy, chính quyền, cơ quan ban, ngành chức năng cần phải nâng cao hơn nữa nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa, quán triệt đầy đủ các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng về Văn hóa với trách nhiệm "phải soi đường cho quốc dân đi". Trên cơ sở đó xây dựng các chương trình, kế hoạch thực hiện, huy động tối đa các nguồn lực để phát triển văn hóa.

Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; thực hiện đúng quan điểm Đại hội XIII của Đảng: “Phát triển kinh tế là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam làm nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững.

Tiếp tục phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất; xây dựng con người Việt Nam thời kỳ đổi mới với những giá trị chuẩn mực phù hợp, gắn với giữ gìn, phát huy giá trị gia đình Việt Nam, hệ giá trị văn hóa, giá trị của quốc gia - dân tộc; phát triển các phong trào văn hóa sâu rộng, thực chất; cải thiện điều kiện, nâng cao mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân, bảo đảm sự công bằng; kết hợp nhuần nhuyễn những giá trị truyền thống với giá trị thời đại.

Phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, chủ thể thụ hưởng văn hóa là nhân dân; đề cao, phát huy vai trò tiên phong của đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, của những người làm công tác văn hóa; tôn trọng và bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hóa, của người dân, các dân tộc, các vùng, miền.

Xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, xây dựng thị trường văn hóa lành mạnh. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

 

NHẬN DIỆN BỆNH “THÀNH TÍCH” CỦA MỘT BỘ PHẬN CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN HIỆN NAY

 Thành tích là kết quả tốt đẹp do sự cố gắng, nỗ lực mà đạt được. Thành tích đi liền với biểu dương, khen thưởng sẽ là động lực cho sự phát triển. Đáng tiếc hiện nay, nhiều “thành tích” ảo vì bị một bộ phận cán bộ, đảng viên nhào nặn mà thành.

Có thể thấy, họ ham thích đến mức sính thành tích, trở thành một căn bệnh của xã hội-bệnh sính thành tích. Những người này làm việc gì cũng chỉ vì thành tích, sẵn sàng làm gian dối, thích được ca ngợi, thích được tung hô, vì vậy, họ cố tình “báo cáo khống”, có một báo mười, thậm chí hàng trăm, hàng nghìn để thổi phồng thành tích. Một số khác (thường là những cá nhân có chức, có quyền) lại sử dụng công quỹ và nhân danh tập thể để rùm beng, biến thành tích của đơn vị, địa phương thành thành tích cá nhân.

Nguy hại hơn, vì thành tích mà họ cố tình che giấu khuyết điểm bằng cách tự “nặn ra thành tích”, không được thì họ “chạy thành tích”, cậy cục, gõ cửa cấp trên, lo lót cho một số cán bộ có chức quyền để báo cáo gian dối, xuyên tạc kết quả, thậm chí sẵn sàng dùng những mánh khóe để đánh lừa cấp trên và dư luận... Vì thành tích mà họ thù ghét những ai vạch mặt, chỉ tên những hạn chế, khuyết điểm của mình. Họ nâng sự che giấu khuyết điểm lên tầm “nghệ thuật”, gọi là “nghệ thuật” che giấu khuyết điểm. Sính thành tích và che giấu khuyết điểm luôn gắn liền với nhau, là hệ lụy của nhau. Họ dùng thành tích để che giấu khuyết điểm, đánh bóng tên tuổi, tạo sự vững mạnh giả tạo, làm bình phong che chắn cho mình, để mở cánh cửa thăng tiến, củng cố vị trí, quyền lực.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí MInh đã chỉ rõ những biểu hiện của những kẻ sính thành tích, đó là: “... ham chuộng hình thức, làm việc không xét đến kết quả thiết thực, cần kíp, chỉ chăm về hình thức bên ngoài, chỉ muốn phô trương cho oai; làm được ít suýt ra nhiều...; tự cao, tự đại, ham địa vị, hay lên mặt. Ưa người ta tâng bốc mình, khen ngợi mình. Ưa sai khiến người khác. Hễ làm được việc gì hơi thành công thì khoe khoang vênh váo, cho ai cũng không bằng mình; báo cáo dối, giấu cái dở, cái xấu, chỉ nêu cái tốt, cái hay...”. Thực tế thời gian qua, nhiều cán bộ, đảng viên, có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cao bị kỷ luật, thậm chí ra hầu tòa, nhưng trước đó đều được xếp loại hoàn thành tốt, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, được biểu dương, khen thưởng...

Căn bệnh này đã được Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII chỉ ra là một trong những biểu hiện của tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống: Mắc bệnh thành tích, háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, đánh bóng tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; “chạy thành tích”, “chạy khen thưởng”, “chạy danh hiệu”... Bệnh sính thành tích và che giấu khuyết điểm đã và đang gây ra những hệ lụy nghiêm trọng, gây mất đoàn kết nội bộ, mất niềm tin dẫn đến hủy hoại uy tín, danh dự của cá nhân và sức mạnh của tổ chức, xa hơn, nó còn làm tổn hại đến Đảng, Nhà nước và chế độ.

Nhận diện căn bệnh này không quá khó, nhưng khá phức tạp vì nó thường được che giấu bởi vẻ bề ngoài hào nhoáng, bóng bẩy. Nếu không nhìn nhận thấu đáo, soi vào bản chất, logic của vấn đề thì khó đoán biết, phải qua kiểm tra, giám sát của tổ chức, cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân mới phát hiện được chính xác. Bệnh sính thành tích và "nghệ thuật” che giấu khuyết điểm xuất phát từ nhiều nguyên nhân, cả khách quan và chủ quan.

 

Cảnh giác trước những luận điệu chống phá quân đội của các thế lực thù địch

 


Thời gian gần đây, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch tiếp tục diễn biến phức tạp; chúng triệt để lợi dụng các sự kiện chính trị, một số “điểm nóng” xảy ra trong nước liên quan đến đời sống sinh hoạt, quyền lợi chính trị, kinh tế của các tầng lớp nhân dân; tình hình biên giới, biển đảo, dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền…... Những nội dung chống phá của chúng rất phản động, bóp méo sự thật; tung tin thất thiệt với hình ảnh phản cảm trên các trang mạng xã hội, gây tâm lý hoài nghi, hoang mang trong các tầng lớp nhân dân và cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang, làm ảnh hưởng xấu đến chính trị nội bộ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội và hình ảnh tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”.

Không thể xuyên tạc vai trò lãnh đạo của Đảng

 


Bôi nhọ, hạ thấp, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi Việt Nam phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Mới đây, Đào Tăng Dực tiếp tục nhai lại những luận điệu cũ rích này qua bài viết “Chúng ta phải làm gì?”.

Đấu tranh làm thất bại âm mưu chia rẽ mối quan hệ đoàn kết giữa Quân đội với nhân dâm của các thế lực thù địch hiện nay

 


Mối quan hệ gắn bó máu thịt, mật thiết của quân đội với nhân dân, “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu”, “quân với dân một ý chí” là truyền thống cực kỳ quý báu, nền tảng, cội nguồn sức mạnh chiến đấu của quân đội nhân dân Việt Nam, kết tinh thành biểu trưng sáng ngời “Bộ đội Cụ Hồ”. Các thế lực thù địch luôn tập trung tìm mọi cách để phá hoại cội nguồn sức mạnh của quân đội, của dân tộc, một trong những mũi nhọn mà chúng tập trung công kích gần đây chính là thường xuyên kích động, chia rẽ mối quan hệ đoàn kết gắn bó máu thịt giữa quân đội và nhân dân bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, chiêu thức thâm độc, làm phai nhạt tình cảm quân -  dân, chúng cố tình xuyên tạc, phủ nhận bản chất, truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”. Vì vậy, kiên quyết đấu tranh với những hoạt động chống phá của các thế lực thù địch là một nhiệm vụ có tính cấp thiết hiện nay.

Góp phần đạp tan luận điệu “Quân đội phi chính trị”

 


Hiện nay, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá với luận điệu đòi “phi chính trị hoá” quân đội với nhiều thủ đoạn rất tinh vi, thâm độc. Chúng cho rằng, “Quân đội, công an do Nhà nước nuôi dưỡng nên chỉ phục tùng nhà nước, không phục tùng đảng phái nào”; chúng lấy dẫn chứng ở các thể chế chính trị tư sản với chế độ đa đảng, quân đội, công an không do đảng nào lãnh đạo… Từ đó, phủ nhận nguyên tắc “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt”, đòi bỏ quy định “lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Đảng” ở Điều 65 Hiến pháp năm 2013.

Phòng, chống “chiến tranh tâm lý” trên không gian mạng

 


Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của truyền thông xã hội, chiến tranh tâm lý cũng không ngừng “tiến hoá” và “khoác lên mình” một diện mạo hoàn toàn mới, trở thành phương thức tác chiến chiến lược chủ đạo ở hiện tại, tương lai; trong cả thời bình và thời chiến.

XÂY DỰNG NỀN QUỐC PHÒNG TOÀN DÂN VỮNG MẠNH - PHƯƠNG THỨC TỐI ƯU ĐỂ BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA

 

Xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh là yêu cầu khách quan, chủ trương chiến lược, nhất quán của Đảng, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh hiện nay, quán triệt và thực hiện có hiệu quả chủ trương trên còn là phương thức tối ưu để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.

1. Thực tiễn đã cho thấy, dân tộc Việt Nam là dân tộc yêu chuộng hòa bình, luôn mong muốn, khát vọng được sống trong hòa bình, độc lập. Tuy nhiên, xuyên suốt lịch sử của dân tộc, các thế lực ngoại bang luôn tìm mọi cách để thôn tính, xâm lăng, chống phá nước ta. Vì vậy, chăm lo phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh để làm cho “quốc phú - binh cường”; chú trọng giữ vững ổn định ở bên trong và tiến hành bang giao hòa hiếu với các quốc gia láng giềng để giữ cho “nội yên - ngoại tĩnh” đã trở thành ý thức thường trực, kinh nghiệm quý báu trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Kế thừa, phát huy truyền thống, kinh nghiệm quý báu của dân tộc, trong suốt quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc và luôn quan tâm, chăm lo xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh nhằm mục tiêu giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Sau cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước thắng lợi, cả nước bước vào thời kỳ độc lập, thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, nước ta vẫn phải đối mặt với vô vàn khó khăn, thử thách nặng nề; khi đó, Đại hội IV của Đảng (năm 1976) chỉ rõ nhiệm vụ cấp bách cần phải tập trung giải quyết là: “Xây dựng đất nước phải đi đôi với bảo vệ đất nước. Đi đôi với việc xây dựng đất nước về mọi mặt, phải ra sức xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng công nghiệp quốc phòng, bảo đảm cho đất nước sẵn sàng đánh bại mọi cuộc tiến công của bọn xâm lược. Phải kết hợp chặt chẽ nghĩa vụ lao động với nghĩa vụ quân sự để vừa đẩy mạnh xây dựng kinh tế, vừa bảo đảm củng cố quốc phòng một cách vững chắc”.

Tuy nhiên, trong khi tình hình kinh tế - xã hội đang khó khăn chồng chất chưa được tháo gỡ, thì ngay sau đó, nước ta lại phải tiến hành hai cuộc chiến đấu chống xâm lược để bảo vệ biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc của Tổ quốc. Trong bối cảnh đó, Đại hội V của Đảng (năm 1982) đã chỉ rõ: Để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, “phải xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện và hiện đại... Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, quốc phòng với kinh tế, từng bước phát triển công nghiệp quốc phòng đi đôi với tăng cường tiềm lực kinh tế của đất nước. Đó là những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp của công cuộc bảo vệ Tổ quốc”. Chính tinh thần cảnh giác, chủ động và sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đã tạo nên sức mạnh to lớn để chúng ta vượt qua thử thách ngặt nghèo, đánh bại mưu đồ đen tối của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với đường lối đổi mới toàn diện, đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực, tư duy mới của Đảng về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc cũng từng bước được hình thành, bổ sung và phát triển. Đại hội VI của Đảng (năm 1986) xác định: “Chúng ta phải thấu suốt và thực hiện đúng quan điểm “Toàn dân xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc”, “Toàn quân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước”, kiên trì chấp hành và cụ thể hoá đường lối quân sự của Đảng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Tuy nhiên, khi đất nước ta vừa bắt tay vào công cuộc đổi mới, thì các nước xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng dẫn đến sụp đổ...; lúc này, vấn đề bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa được đặt ra cấp thiết hơn bao giờ hết. Vì vậy, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã nhấn mạnh: “Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây dựng đất nước, nhân dân ta luôn luôn nâng cao cảnh giác, củng cố quốc phòng, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ Tổ quốc và các thành quả cách mạng”.

Đặc biệt, tháng 7-2003, Hội nghị Trung ương 8 khóa IX ban hành “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, trong đó chỉ rõ: Chúng ta kiên định lấy việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa là lợi ích cao nhất của đất nước. Do đó, “sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước, trước hết là tiềm lực về chính trị, tinh thần, tiềm lực kinh tế; tiếp tục củng cố nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân mà mấu chốt là thế trận lòng dân; đẩy mạnh giáo dục quốc phòng; phát triển phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức làm nòng cốt cùng toàn dân thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống”.

Như vậy, tư duy của Đảng về quân sự, quốc phòng đã có bước phát triển rất quan trọng, đó là “từ tư duy quân sự là chủ yếu sang tư duy về quốc phòng là cơ bản” nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột và xem đây là lợi ích cao nhất của đất nước.

Tháng 10-2013, trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và dự báo những nhân tố tác động mới, Hội nghị Trung ương 8 khóa XI ban hành Nghị quyết số 28-NQ/TW về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”. Trong đó, xác định củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; phải tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh, đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới.

Đặc biệt, ngày 16-4-2018, Bộ Chính trị khóa XII ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW về “Chiến lược quốc phòng Việt Nam”. Nghị quyết xác định rõ mục tiêu, quan điểm, nguyên tắc, phương châm, phương thức, nhiệm vụ và giải pháp xây dựng nền quốc phòng vững mạnh để chủ động bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa. Về nguyên tắc xây dựng nền quốc phòng, Đảng ta khẳng định: Thực hiện chính sách quốc phòng mang tính chất hòa bình và tự vệ; kiên quyết, kiên trì đấu tranh giải quyết mọi tranh chấp, bất đồng bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế. Tích cực, chủ động ngăn ngừa, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, thực hiện phương châm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, sẵn sàng chống chiến tranh xâm lược. Những nguyên tắc trên thể hiện rõ mục đích, tính chất của nền quốc phòng Việt Nam, đồng thời cho thấy mong muốn, thiện chí của Việt Nam trong quan hệ quốc tế.

Trên cơ sở đó, phương châm chỉ đạo được xác định là: Thực hiện “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến; kiên định mục tiêu, nguyên tắc chiến lược, vận dụng sách lược mềm dẻo, linh hoạt; chủ động ứng phó với âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, sự biến động phức tạp của tình hình, sự đan xen, chuyển hóa phức tạp giữa đối tác và đối tượng. Kiên định phương châm “người trước, súng sau”, lấy con người là trung tâm, trọng tâm trong công tác quốc phòng. Xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao có phẩm chất đạo đức, bản lĩnh, trình độ, năng lực hoạt động thực tiễn trong sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì kết hợp vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên cơ sở nắm vững và tuân thủ luật pháp quốc tế; thêm bạn bớt thù, giữ cân bằng chiến lược với các nước lớn và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của các nước và các tổ chức quốc tế, không để nước ngoài lợi dụng hoặc thỏa hiệp với nhau làm phương hại tới độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, lợi ích quốc gia - dân tộc.

Về phương thức xây dựng nền quốc phòng toàn dân, Chiến lược quốc phòng Việt Nam nhấn mạnh yêu cầu phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và toàn dân, toàn diện, bảo vệ vững chắc hòa bình, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ mà không phải tiến hành chiến tranh; tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các loại hình tổ chức kinh tế - xã hội và từng vùng, miền. Xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững trên cả nước, mạnh ở trọng điểm. Thời bình thực hiện sự nghiệp quốc phòng là “của dân, do dân, vì dân”; quốc phòng thời chiến phải “bám trụ, bám dân” để chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Chuẩn bị sẵn sàng chuyển đất nước từ thời bình sang thời chiến.

Đến Đại hội XIII của Đảng, Đảng chủ trương xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh với phương hướng: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh; xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”. Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại...

Trên cơ sở tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 8 khóa XI, Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII (tháng 10-2023) tiếp tục ban hành Nghị quyết số 44-NQ/TW, về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”, trong đó xác định: Phát huy vai trò to lớn của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; thực hiện hiệu quả đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; “… dựa vào dân, lấy “dân là gốc”, khơi dậy, phát huy ý chí tự lực, tự cường, truyền thống văn hóa, yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng “thế trận lòng dân”, lấy “yên dân” là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời, tăng cường đầu tư thích đáng cho việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, lực lượng vũ trang nhân dân, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc “từ sớm, từ xa”, giữ nước từ khi nước chưa nguy; tuyệt đối không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Cùng với tập trung xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, trong thời kỳ mới, Đảng và Nhà nước ta rất chú trọng đẩy mạnh hoạt động đối ngoại và đấu tranh quốc phòng. Năm 2019, trong lần thứ tư công bố Sách trắng quốc phòng, Đảng và Nhà nước ta khẳng định: “Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo phương châm “Tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả” nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế; tăng cường lòng tin chiến lược, duy trì môi trường hòa bình, hợp tác cùng phát triển, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”. Đồng thời, “Việt Nam chủ trương phát triển quan hệ hợp tác quốc phòng với tất cả các nước, nhất là các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện, xây dựng lòng tin, tạo sự ủng hộ, giúp đỡ quốc tế để ngăn ngừa nguy cơ và đối phó với chiến tranh xâm lược”. Đặc biệt, “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào. Việt Nam tăng cường hợp tác quốc phòng đa phương nhằm góp phần bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia".

Về đấu tranh quốc phòng, Việt Nam chủ trương phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, trong đó lực lượng vũ trang làm nòng cốt trong đấu tranh quốc phòng, cả phi vũ trang và vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa; không để nước ngoài lợi dụng, thỏa hiệp với nhau hoặc với các thế lực thù địch làm phương hại đến độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc; xử trí linh hoạt, hiệu quả từng tình huống. Điều này cho thấy, mong muốn, thiện chí và lập trường kiên định trước sau như một của Việt Nam trong đối ngoại và đấu tranh quốc phòng là vì một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển, không có xung đột, chiến tranh.

Trên cơ sở những kết quả đã đạt được và trước yêu cầu của thời kỳ mới, ngày 28-4-2023, Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Kết luận số 53-KL/TW, về “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”, trong đó xác định rõ: Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng nhằm góp phần tăng cường tiềm lực, khả năng tự lực, tự cường về quân sự, quốc phòng, nâng cao sức mạnh quốc phòng và sức mạnh tổng hợp của đất nước để thực hiện thắng lợi sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại quốc phòng trong giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước; nâng cao vị thế, vai trò, uy tín của đất nước và Quân đội nhân dân Việt Nam trên trường quốc tế.

2. Như vậy, trong thời kỳ mới, tư duy của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc nói chung, về xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói riêng có bước phát triển quan trọng và ngày càng hoàn thiện, với phương châm cốt lõi là làm cho đất nước không phải tiến hành chiến tranh mới là quốc phòng tối ưu và càng chuẩn bị tốt nhất cho sẵn sàng chiến tranh thì chiến tranh càng lùi xa. Do đó, quốc phòng, an ninh không ngừng được củng cố, tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, đặc biệt là “thế trận lòng dân” được củng cố ngày càng vững chắc, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa. Tuy nhiên, sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay cũng đang gặp nhiều khó khăn, thách thức, việc xây dựng nền quốc phòng toàn dân vẫn tồn tại những bất cập, hạn chế; trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động chống phá với những thủ đoạn ngày càng tinh vi, quyết liệt và toàn diện hơn. Vì vậy, để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, cần thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng và nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng nền quốc phòng toàn dân trong tình hình mới.

Đây là nội dung quan trọng hàng đầu nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm, phát huy vai trò, tính tích cực, chủ động của cả hệ thống chính trị và toàn dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, toàn diện. Do đó, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh, làm cho mọi cán bộ, đảng viên và toàn dân thấm nhuần sâu sắc truyền thống đánh giặc, giữ nước kiên cường, anh dũng của dân tộc, khơi dậy lòng yêu nước, lòng tự hào, tự tôn dân tộc; thấy rõ được giá trị của hòa bình, độc lập, tự do; nhận thức đúng đắn quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc nói chung, xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói riêng, từ đó, phát huy ý thức, trách nhiệm, tích cực tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Giáo dục, quán triệt cho cán bộ, đảng viên và nhân dân nắm vững quan điểm về đối tác, đối tượng; biết nhận diện đúng âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là âm mưu xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc...; nâng cao cảnh giác, tích cực tham gia đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá ngay từ địa phương, cơ sở, bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa.

Hai là, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, ngày càng hiện đại, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Hiện nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng nên sự ảnh hưởng, phụ thuộc và thâm nhập lẫn nhau giữa hoạt động quân sự, quốc phòng với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội ngày càng gia tăng. Vì vậy, sự nghiệp củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc không thể chỉ dựa vào lực lượng vũ trang, mà phải thấm sâu và trở thành ý thức thường trực, hành động cách mạng của mọi tầng lớp nhân dân và trong tất cả các hoạt động, các lĩnh vực của đời sống xã hội. Để xây dựng nền quốc phòng toàn dân, toàn diện, phải không ngừng củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; thể chế hóa kịp thời các chủ trương, chính sách về xây dựng nền quốc phòng toàn dân; hoàn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ Tổ quốc; tạo cơ chế để huy động tốt nhất sự đóng góp của các cấp, các ngành, của mọi tầng lớp nhân dân cho sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn và sức ép “chọn bên” ngày càng gay gắt hiện nay, đòi hỏi chúng ta phải xây dựng nền quốc phòng theo hướng độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước, lấy sức mạnh nội lực là chính; đồng thời, mở rộng hợp tác quốc phòng, tranh thủ có hiệu quả nguồn lực từ bên ngoài để xây dựng nền quốc phòng ngày càng toàn diện, hiện đại cả về lực lượng, thế trận, vũ khí trang bị, khoa học và nghệ thuật quân sự, bảo đảm có đủ tiềm lực, sức mạnh tổng hợp để bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Ba là, chăm lo xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc.

Thực tiễn lịch sử của đất nước ta cho thấy, khi nào lòng dân thuận thì thế nước mạnh, lòng dân ly tán thì thế nước yếu. Trong bối cảnh phát triển nền kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch hiện nay, thì vấn đề xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân càng có ý nghĩa quan trọng. Do đó, phải tập trung đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, y tế, giáo dục, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là ở địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn... Thu hẹp khoảng cách giàu, nghèo, khoảng cách giữa các vùng, miền; thực hiện tiến bộ, công bằng và bảo đảm an sinh xã hội, làm cho mọi người dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Đặc biệt, phải luôn coi trọng giữ gìn, bồi đắp mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân; thực sự trọng dân, gần dân, sát dân, tin dân, hiểu dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, quan tâm, chăm lo đến lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, xử lý triệt để những vấn đề gây bất bình, bức xúc trong nhân dân. Đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện, thực hiện có hiệu quả phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc; động viên toàn dân tham gia xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân vững chắc ở tất cả các cấp, các địa bàn, biên giới, biển, đảo và trên các môi trường (trên bộ, trên không, trên biển, không gian mạng), sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ quốc phòng thời bình và chuyển hóa thành thế trận chiến tranh nhân dân khi đất nước có chiến tranh, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống.

Bốn là, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh, thực sự là nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc.

Lực lượng vũ trang nhân dân, nhất là Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, phải tập trung xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, trước hết là Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại. Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam, Công an nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, kiên định với mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng; có chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong mọi tình huống. Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam có cơ cấu, tổ chức hợp lý, tinh, gọn, cơ động, có sức chiến đấu cao, có vũ khí, trang bị hiện đại; nâng cao khả năng phòng thủ tác chiến tầm cao, tầm xa, khả năng kiểm soát vùng trời, vùng biển, đảo xa bờ, tác chiến ban đêm, sẵn sàng đánh thắng trong các tình huống xung đột và chiến tranh. Cùng với đó, chú trọng xây dựng lực lượng dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp; lực lượng dự bị động viên hùng hậu, có chất lượng cao; đồng thời, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của lực lượng Công an nhân dân Việt Nam; nâng cao hiệu quả phối hợp giữa quân đội với công an và dân quân tự vệ tạo sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi phải thực hiện đồng bộ, toàn diện các chủ trương, giải pháp để làm cho đất nước mạnh lên về mọi mặt; trong đó, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh chính là phương thức tối ưu, hiệu quả nhất để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa./.