Thứ Ba, 25 tháng 6, 2024

QUAN HỆ HỮU NGHỊ VĨ ĐẠI VIỆT NAM - LÀO - TÌNH ĐOÀN KẾT, GẮN BÓ ĐẶC BIỆT TRONG SỨ MỆNH VÀ CON ĐƯỜNG PHÁT TRIỂN CHUNG

Quan hệ Việt Nam - Lào là quan hệ hữu nghị vĩ đại được xây dựng, vun đắp và phát triển bởi các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước, là tài sản quý giá của hai dân tộc. Trong giai đoạn mới với bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp và lợi ích đan xen, dựa trên những nét tương đồng về tư tưởng, mục tiêu và lợi ích, quan hệ Việt Nam - Lào vẫn luôn được đề cao, duy trì và phát triển bền vững trong cả hiện tại và tương lai.

Sự tương đồng về hệ tư tưởng

Phát huy và kế thừa truyền thống của Liên minh Việt Nam - Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, được kế tục trong thời kỳ cả hai nước thực hiện nhiệm vụ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào từ sau năm 1986 tiếp tục được xây dựng, phát triển trên nền tảng cùng ý thức hệ, cùng có chung mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cả ở Lào và Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-xít - Lê-nin-nít, có chung cội nguồn là Đảng Cộng sản Đông Dương. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào vẫn luôn duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết, luôn hết lòng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước dù tình hình mỗi nước hay bối cảnh quốc tế, khu vực cũng như các mối quan hệ quốc tế của mỗi bên có nhiều thay đổi.

Lịch sử đã chứng minh, hai nước Việt Nam và Lào có chung hoàn cảnh, gần gũi về địa lý và điều kiện tự nhiên, có chung mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược là cơ sở xây dựng mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Lào và Việt Nam.

Mối quan hệ giữa hai nước được các thế hệ lãnh đạo Việt Nam và Lào dày công vun đắp. Nhận thức rõ tầm quan trọng trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp cách mạng của Lào, Người cho rằng “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”(1). Do đó, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đã thống nhất thành lập Liên quân Lào - Việt vào ngày 30-10-1945, do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Tổng chỉ huy, tổ chức xây dựng lực lượng, kháng chiến chống thực dân Pháp. Đầu năm 1946, khi cách mạng Việt Nam còn đang rất khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đoàn cố vấn sang giúp Lào, phân công ông Lê Thiệu Huy(2) làm bí thư riêng, phụ tá cho Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Tổng Tư lệnh Pa-thét Lào.

Năm 1952, tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v., mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của ta lại phải ra sức giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực hơn. Đó là nhiệm vụ quốc tế của chúng ta”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm giúp đỡ, xây dựng và phát triển lực lượng, phát huy tinh thần tự chủ của cách mạng Lào, coi đây là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết và liên minh chiến đấu Việt - Lào(4). Ngày 13-3-1963, trong buổi chiêu đãi vua Sa-vang Vat-tha-na và đoàn đại biểu Hoàng gia Lào nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em… Ngày nay, chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”(5).

Về phía Lào, cả Chủ tịch Xu-pha-nu-vông và Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đều luôn dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam tình cảm trân quý và coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Theo Chủ tịch Xu-pha-nu-vông, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mình, nhân dân Lào “luôn luôn có nhân dân Việt Nam anh em ở bên cạnh, sẵn sàng giúp đỡ”(6). Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5-1971, Chủ tịch Xu-pha-nu-vông khẳng định: “Quan hệ hữu nghị anh em giữa nhân dân Lào và Việt Nam thật là vĩ đại... Tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt Lào - Việt Nam cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, thơm hơn bông hoa nào thơm nhất. Tình hữu nghị tốt đẹp đó được vun đắp bằng tinh thần trong sáng, không có kẻ thù nào có thể phá vỡ nổi”(7). Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 15-12-1976), Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã phát biểu về quan hệ giữa hai nước: “Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh, chiến đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như vậy, hơn 30 năm đã qua mà vẫn trong sáng như xưa - một sự đoàn kết liên minh bền vững...” và “Mối quan hệ Lào - Việt Nam đã trở thành mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thủy chung mẫu mực, hiếm có và ngày càng được củng cố và phát triển tươi đẹp”. Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản thay mặt cho lãnh đạo và nhân dân Lào cam kết: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và nhân dân các dân tộc Lào rất tự hào về mối quan hệ thủy chung, son sắt Lào - Việt, “nguyện ra sức củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt đó, bảo vệ tình đoàn kết Lào - Việt như bảo vệ con ngươi của mắt mình”(8). Các thế hệ lãnh đạo mới ở Lào cũng tiếp tục coi trọng mối quan hệ của Lào với Việt Nam và khẳng định quyết tâm tăng cường mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện của Lào với Việt Nam. Như vậy, có thể nhận định từ khi được đặt nền móng trong quan hệ ngoại giao, quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào đã cùng chung hệ tư tưởng trong xây dựng và phát triển đất nước, không ngừng được các thế hệ lãnh đạo hai nước đề cao, củng cố, xây dựng và vun đắp.

Sự chia sẻ mục tiêu quốc gia

Từ năm 1986, khi hai nước bước vào thời kỳ đổi mới, với mục tiêu chung là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường hội nhập quốc tế. Hai nước cùng xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất.

Sự tương đồng giữa hai Đảng, hai bộ máy nhà nước và lý tưởng chung xã hội chủ nghĩa, về quan điểm tư tưởng, đường lối, chiến lược phát triển đã giúp hai nước xây dựng được Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, là điều kiện quan trọng tạo nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới. Chiến lược phối hợp hiệp đồng, không vụ lợi như thế chỉ có thể sinh ra từ một đường lối chính trị có sự nhất trí cao độ về quan điểm và lợi ích chân chính. “Về mặt đường lối, mối quan hệ cùng chung một dòng máu chính trị, là tài sản quý báu nhất của hai Đảng, hai nhà nước và hai dân tộc, là một yếu tố quan trọng quyết định đến thắng lợi của cách mạng hai nước trong quá trình chiến đấu trường kỳ gian nan vất vả”(9). Như vậy, sự tương đồng về ý thức hệ cũng như mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước của mỗi bên đang là nhân tố cơ bản tác động đến mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.

Để có được điều đó là nhờ: 1- Cả hai nước Việt Nam và Lào đang xây dựng và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có cùng ý thức hệ. Những kinh nghiệm và sự hỗ trợ của Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn là vô cùng cần thiết và quý giá đối với Lào, ngay trong công cuộc đổi mới đất nước, trong từng bước đi đều có sự trao đổi, bàn bạc nhằm tranh thủ sự giúp đỡ và kinh nghiệm của Việt Nam; Việt Nam đã cử nhiều cán bộ cấp cao sang giới thiệu kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới tại các hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào(10). Việc xây dựng lực lượng cán bộ cốt cán về Đảng, chính quyền, quốc phòng - an ninh... của Lào đều có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Việt Nam, hầu hết các thế hệ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị của Lào đều được gửi qua đào tạo ở Việt Nam. Vì vậy, Lào và Việt Nam dễ tìm kiếm quan điểm chung trong các chính sách, chiến lược phát triển; 2- Kể từ khi hai nước tiến hành công cuộc đổi mới, lãnh đạo hai nước đều chủ trương xây dựng mối quan hợp tác trên nguyên tắc “bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”. Điều này có nghĩa là, lãnh đạo hai nước đều quán triệt nguyên tắc giúp đỡ nhau trên tinh thần đồng chí, chí công vô tư, tương trợ tối đa; 3- Công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam và Lào đều được tiến hành trên cơ sở những chủ trương và bằng những phương thức về cơ bản tương đồng với nhau. Đó cũng là thuận lợi cơ bản để hai nước củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt trong bối cảnh mới. Nhờ sự tương đồng về thể chế chính trị - xã hội, có cùng định hướng và mục tiêu phát triển chiến lược, sự kiên định của mỗi bên trong việc gắn bó chặt chẽ với nhau về chính trị; sự tin cậy lẫn nhau, mà quan hệ giữa hai nước được triển khai đều khắp, sâu rộng trên cả ba kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ Trung ương đến các địa phương; 4- Việt Nam và Lào đều coi nhau là đối tác đặc biệt, ưu tiên cao nhất trong chính sách đối ngoại của mỗi nước; khẳng định “Lào coi trọng việc tăng cường quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt truyền thống và sự hợp tác có hiệu quả với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(11) và “Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ đặc biệt với Lào”(12). Đây là nhân tố có ý nghĩa quan trọng, cơ bản nhất và mang tính chi phối nhất trong quan hệ Việt Nam - Lào, là cơ sở để kết hợp các nhân tố, thúc đẩy quan hệ hữu nghị gắn bó, đoàn kết đặc biệt giữa hai nước trong hiện tại và tương lai.

Trên phương diện lợi ích quốc gia - dân tộc

Về mặt địa - chính trị, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam và Lào đều đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nuớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không chỉ tạo ra những khó khăn trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và Lào, mà còn gây ra những tác động nhất định về mặt an ninh chính trị, tư tưởng của mỗi nước. Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình, tăng cường chống phá, chia rẽ khối đoàn kết Việt Nam - Lào, không ngừng sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để tấn công vào sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Nhận thức rõ an ninh của mỗi nước không tồn tại độc lập, nên cả hai nước đều chú trọng, tăng cường hợp tác chặt chẽ về quốc phòng - an ninh, bởi sự hợp tác này được xây dựng trên cơ sở truyền thống chống ngoại xâm của hai dân tộc từ ngàn xưa và sự tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi nước trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.

Lịch sử đã chứng minh, hai dân tộc Việt Nam và Lào gắn kết với nhau như là quy luật tự nhiên và sự gắn kết đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự ổn định về chính trị và sự phát triển của mỗi nước. Yếu tố quốc phòng - an ninh ngày càng trở nên quan trọng và có tác động qua lại lẫn nhau rất rõ rệt. Hợp tác hiệu quả về quốc phòng - an ninh giữa hai nước sẽ giúp an ninh và ổn định chính trị của hai nước được bảo đảm.

Về mặt địa - kinh tế, Lào là nước nằm sâu trong nội địa, không có biển, do đó rất cần các cửa ngõ thông thương ra thế giới. Trong thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, Lào chỉ có thể chính thức giao thương với các nước xã hội chủ nghĩa thông qua cảng Đà Nẵng của Việt Nam, đó cũng là một trong những lý do khiến Việt Nam trở nên vô cùng quan trọng đối với Lào. Sang thời kỳ đổi mới, con đường thông thương của Lào được mở rộng hơn qua các cảng biển khác của Việt Nam, như: Cửa Lò, Vũng Áng, Đà Nẵng... do khoảng cách từ Viêng Chăn đến các cảng của Việt Nam tương đối gần, tạo điều kiện cho hàng hóa của Lào thông thương ra thế giới được dễ dàng hơn. Có thể nói, với hệ thống “đường xương cá” và hệ thống cảng biển thuận lợi, Việt Nam là cầu nối quan trọng để Lào mở rộng sản xuất, thu hút đầu tư, lưu thông hàng hóa... với các nước trong khu vực và thế giới.

Với chính sách mở cửa thị trường, con đường thông thương của Lào qua Thái Lan đã được mở ra. Tuy nhiên, với vị trí địa chiến lược quan trọng của Việt Nam ở Biển Đông, các cảng biển của Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của Lào. Trước hết, không chỉ bởi khoảng cách di chuyển ngắn hơn nhiều so với qua Thái Lan mà còn do những thuận lợi phía Việt Nam dành cho Lào. Miền Trung Việt Nam có thể nói là cửa ngõ ra biển của Lào và Bắc Thái Lan. Vì vậy, sự hiện diện của Thái Lan trong cửa ngõ thông thương ra biển đối với Lào cũng không làm giảm mạnh tầm quan trọng của các cảng biển Việt Nam. So sánh khoảng cách từ cảng Cửa Lò tới Viêng Chăn là 397km, trong khi từ cảng Băng Cốc tới Viêng Chăn là 642km; từ cảng Vũng Áng tới Viêng Chăn tương đương với khoảng cách từ cảng Băng Cốc tới Viêng Chăn; từ cảng Đà Nẵng tới Sa-vẳn-na-khệt khoảng 485km; từ cửa khẩu Đen-sa-vẳn - Lao Bảo tới Đà Nẵng 249km. Đồng thời, với việc hai Chính phủ Việt Nam - Lào đầu tư và khai thác cảng Vũng Áng (Việt Nam góp 80% vốn đầu tư, Lào góp 20%) đã tạo lợi thế cạnh tranh cho các cảng biển Việt Nam so với Thái Lan. Đây cũng là lý do khiến nhu cầu khai thác vị trí địa chiến lược của Việt Nam đối với Lào ngày càng trở nên cần thiết. Với Việt Nam, trong bối cảnh đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Lào như là cầu nối đi sang các nước ASEAN khác, tiêu biểu như Hành lang kinh tế Đông - Tây nối Việt Nam qua Lào, Thái Lan sang Myanmar.   

Đối với Việt Nam, vị trí địa - chính trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới, ngăn chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía Tây vào Việt Nam. Thực tế, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, một số hoạt động chống phá của các thế lực bên ngoài đã lợi dụng địa hình rừng núi làm căn cứ hoạt động và bàn đạp nhằm thâm nhập chống phá Việt Nam. Lào cũng là một nước nằm ở hạ lưu sông Mê Công và việc xây các đập nước của các nước trên dòng Mê Công đã và đang đặt Việt Nam vào tình thế phải gánh chịu những tác động nặng nề về môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là tác động trực tiếp đến sinh kế của hàng chục triệu người dân sống tại đồng bằng sông Cửu Long, làm mất dần sản lượng cá, canh tác lúa và mất đất ra biển(13). Vì vậy, vị trí địa - chính trị của Lào trên dòng sông Mê Công đã và đang khiến nhu cầu mong muốn hợp tác chặt chẽ Việt Nam - Lào ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.

Như vậy, sự ổn định trong hòa bình và phát triển của Lào và việc củng cố mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực trở thành một trong những yếu tố cấu thành lợi ích quan trọng, chính đáng của Việt Nam. An ninh và ổn định của Lào có ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh, ổn định và phát triển của Việt Nam do vị trí địa - chính trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới, ngăn chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía tây vào Việt Nam. Sự ổn định an ninh của Lào là điều kiện quan trọng bảo đảm an ninh của Việt Nam và ngược lại. Do vậy, việc tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh luôn là vấn đề sống còn của cả hai quốc gia Việt Nam - Lào.

Có thể thấy, việc tăng cường phát triển quan hệ đặc biệt giữa hai quốc gia giúp Việt Nam và Lào bảo vệ được những lợi ích quốc gia của mình. Những sự tương đồng và lợi ích quốc gia của mỗi nước rõ ràng có tác động tích cực đến quan hệ Việt Nam - Lào, vừa xuất phát từ ý muốn chủ quan (hệ tư tưởng và đường lối của đảng cầm quyền), vừa từ thực tế khách quan do sự phát triển của mỗi nước đòi hỏi./.


Sức hút từ cuốn sách của Tổng Bí thư về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

 Với hàng ngàn ý kiến của trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ, đảng viên, nhân dân ta ở trong nước và ở nước ngoài tỏ rõ sự đồng tình và hoan nghênh đối với cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, càng giúp chúng ta hiểu rõ vì sao cuốn sách có sức hút, sức lan tỏa nhanh và lớn như vậy.

Trước khi cuốn sách ra mắt bạn đọc, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia - Sự thật đã nhận được sự hưởng ứng, hoan nghênh của đông đảo cán bộ, nhân dân, của bạn bè quốc tế quan tâm Việt Nam khi đọc các bài nói, bài viết của Tổng Bí thư đăng trên các báo, tạp chí. Trong tổng số 623 trang, có hơn 100 trang ở phần cuối trích đăng các ý kiến này của các nhà khoa học, các cán bộ hoạt động thực tiễn; đặc biệt, có ý kiến của các tầng lớp nhân dân, từ trẻ đến già, có một số cán bộ lão thành đã dùng thơ để thể hiện những cảm nhận sâu xa của mình về một quyết tâm chính trị của Đảng, Nhà nước ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong quá trình chỉ đạo cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay. Tôi tự hỏi: nguyên nhân nào tạo ra sự quan tâm của đông đảo các tầng lớp, giai tầng xã hội đối với các bài nói, bài viết đã được tập hợp in trong cuốn sách?

Trước hết, theo tôi, nội dung cuốn sách đề cập một chủ trương lớn trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay - đó là phải tăng cường đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống trong bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, mà nét nổi rõ nhất là hiện tượng quan liêu, tham nhũng cho “đến nay vẫn tồn tại và có mặt diễn biến phức tạp hơn, trong đó có tệ tham nhũng, tiêu cực” - như lời nhấn mạnh của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Tác giả chỉ rõ: “Phòng chống tiêu cực, mà trọng tâm là phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, tức là trị tận gốc của tham nhũng”!

Từ Hội nghị giữa nhiệm kỳ Đại hội VII (tháng 1/1994), tham nhũng được Đảng ta nhận diện là một trong bốn nguy cơ đối với Đảng và cách mạng Việt Nam; đến Đại hội IX đã trở thành một nguy cơ lớn đe dọa sự sống còn của chế độ ta và đến nay vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Nội dung ở nhiều phần trong cuốn sách, được Tổng Bí thư phân tích, làm sáng rõ những luận điểm quan trọng nói trên trong các văn kiện của các Đại hội, từ Đại hội VII cho đến Đại hội XIII hiện nay.

Bằng lối viết giản dị, dễ hiểu, dễ thấm, kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý luận và thực tiễn ở nước ta cũng như trên thế giới, cuốn sách đã tạo ra sự cuốn hút, sự đồng thuận cao đối với người đọc. Nói một cách khác, chủ trương kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là đòi hỏi tự thân của Đảng và toàn xã hội nhằm góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là Đảng cầm quyền, tất cả đều xuất phát từ lợi ích của Đảng, của Dân, thì lẽ đương nhiên, chủ trương đó nhận được sự đồng tình, ủng hộ tích cực của nhân dân.

Với cuốn sách dày hơn 600 trang, mà thu hút một số lượng lớn người đọc gồm nhiều thành phần như vậy, thì điều đó càng làm sáng rõ chân lý: một khi “ý Đảng gặp lòng Dân” sẽ biến thành sức mạnh to lớn, thúc đẩy công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ta nhanh và bền vững.

Thứ hai, sức hút của cuốn sách còn ở chỗ, người đọc vui mừng khi thấy Đảng ta đã và đang thực hiện tốt phương châm “nói đi đôi với làm”, thể hiện tinh thần “trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, triển khai có bài bản, lớp lang với quyết tâm cao “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Trong 10 năm qua (2010-2022), đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó hơn 100 cán bộ diện Trung ương quản lý (có 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, 36 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương, hơn 50 sĩ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang...).

Công tác điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng kinh tế cũng được tiến hành kiên quyết, kiên trì, không khoan nhượng, không nương nhẹ, không làm oan, sai, không bỏ lọt tội phạm. Điều mà được dư luận xã hội đồng tình cao là xử lý rất nghiêm minh, nhưng cũng rất nhân văn. Nhiều người tâm đắc với hình tượng mà Tổng Bí thư nói về phương châm xử lý kỷ luật cán bộ: chặt một cành cây sâu để cứu cái cây; chặt một cây sâu để cứu cả cánh rừng; xử lý một người để cứu cả tập thể; xử lý để “cảnh tỉnh”, “răn đe” hàng vạn người nếu đang có biểu hiện “nhúng chàm”, để “trị bệnh cứu người”... Trong những năm gần đây, Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư khuyến khích những cán bộ tự giác nhận lỗi lầm, tự nguyện xin thôi chức; từ đó các cơ quan pháp luật sẽ miễn truy tố hình sự. Như vậy tính nghiêm minh đi liền tính nhân văn, Đảng ta đã kế thừa và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xem xét kỷ luật cán bộ.

Cần nói thêm, cùng với xử lý kỷ luật, chúng ta đã chú trọng công tác thu hồi tài sản tham nhũng. Tỉ lệ thu hồi tài sản tham nhũng trong các vụ án ngày càng tăng lên. Riêng các vụ án thuộc diện Ban chỉ đạo Trung ương theo dõi, đã thu hồi tài sản đạt 41,3%, nhiều vụ đã kê biên, thu giữ tài sản hàng nghìn tỉ đồng, như vụ Hứa Thị Phấn hơn 10.000 tỉ đồng; vụ Phan Văn Anh Vũ hơn 22.000 tỉ đồng, vụ Phạm Công Danh hơn 9.000 tỉ đồng; vụ AVG hơn 8.870 tỉ đồng... Kết quả này càng củng cố niềm tin của nhân dân vào hiệu quả nhiều mặt của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Thứ ba, đông đảo người đọc hoan nghênh ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư nhấn mạnh nhiệm vụ “xây là chính”, “chống phải quyết liệt”. Muốn vậy, cần khẩn trương hoàn thiện cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể” tham nhũng, tiêu cực. Từ năm 2012 đến nay, Trung ương đã ban hành hơn 250 văn bản về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, nhất là các quy định về phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Trung ương, Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư; người đứng đầu các cấp, các ngành; về kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, về tài sản, thu nhập của cán bộ, đảng viên; về công tác cán bộ, miễn nhiệm, từ chức; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ, về cơ chế chỉ đạo, phối hợp trong hoạt động kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án và một số lĩnh vực trọng yếu khác.

Trong hàng loạt biện pháp cần thiết ấy, Tổng Bí thư chỉ rõ một yếu điểm cơ bản cần được khắc phục quyết liệt đó là khâu tổ chức thực hiện. Người đọc thú vị với câu tổng kết mang tính khái quát “rằng hay thì thật là hay, xem ra thực hiện còn gay trăm bề”. Như vậy, cách lý giải, trình bày vấn đề không một chiều, mà mặt thuận, mặt nghịch đều được phân tích rành rẽ với phương châm “nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật” để tìm ra giải pháp đúng và trúng trong từng thời gian cụ thể. 

Thứ tư, có một nhân tố nữa làm nên sức hút của cuốn sách - đó là cách trình bày thể hiện tính đối thoại bình đẳng, cởi mở, cùng hướng đến tiếp cận chân lý, không hề “lên gân”, áp đặt. Một trong những ví dụ điển hình: tác giả cởi mở trao đổi về một số ý kiến cho rằng, nếu quá tập trung vào chống tham nhũng, sẽ làm “nhụt chí”, “chùn bước” những người dám nghĩ, dám làm và làm “chậm” sự phát triển của đất nước. Tác giả khẳng định: cuộc chiến chống tham nhũng, tiêu cực đã góp phần rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững ổn định chính trị, đặc biệt là từng bước lấy lại và củng cố niềm tin của nhân dân.

Tôi tâm đắc với sự phân tích có lý, có tình của tác giả: mục tiêu của công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là nhằm làm trong sạch bộ máy nhà nước, để phát triển đất nước; là cuộc đấu tranh chống “giặc nội xâm”, không phải là cuộc đấu tranh giữa các “phe cánh” hay “đấu đá nội bộ” như có người không hiểu hoặc cố tình xuyên tạc với động cơ sai, dụng ý xấu. Khi nói đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, không có nghĩa là phủ nhận hết thành quả to lớn của gần 40 năm đổi mới đất nước vừa qua. Như Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Bạn bè quốc tế cũng ca ngợi quyết tâm chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng và Nhà nước ta.

Mặt khác, trong quá trình tiếp tục thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập ngày càng đi vào chiều sâu, chúng ta đã và đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có nạn tham nhũng, tiêu cực vẫn đang tiếp diễn ở nơi này, nơi khác, khi trắng trợn, lúc tinh vi, gây nghi ngờ, phân tâm xã hội. Đảng ta đã nhìn nhận rõ sự thật ấy nên đã nhiều lần nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì chống lại “giặc nội xâm” này bằng những cơ chế, chính sách cụ thể với quyết tâm cao độ và sự nhất quán về chủ trương, nguyên tắc cũng như cách thức tiến hành nhằm đạt hiệu quả cao.

Một ví dụ nữa, tác giả giải thích một số thắc mắc của một số người khi đề nghị cần làm rõ một số khái niệm, ví như có người đặt vấn đề là dùng “tư tưởng chính trị”, hay “chính trị tư tưởng”, hay “chính trị, tư tưởng” (có dấu phẩy sau từ chính trị)? Theo tác giả, “hai cách nói đó không khác nhau, nhưng cũng không hoàn toàn trùng khớp nhau. Ta thường nói xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Nói chính trị là nói cương lĩnh chính trị, đường lối chính trị, hệ tư tưởng chính trị, bản lĩnh chính trị…; về tư tưởng thì cũng có rất nhiều thứ tư tưởng: tư tưởng cá nhân, tư tưởng cục bộ, tư tưởng bản vị, tư tưởng bè cánh...; về tổ chức thì có nguyên tắc tổ chức, cơ cấu tổ chức, cơ chế vận hành, phương thức lãnh đạo, lề lối làm việc. Nếu nói suy thoái về chính trị, tư tưởng thì suy thoái về chính trị có nghĩa là suy thoái về đường lối rồi, suy thoái về định hướng rất cơ bản rồi. Ở đây nói tư tưởng chính trị là tư tưởng mang tính chính trị, có nghĩa là anh theo khuynh hướng chính trị nào, anh đứng trên lập trường nào, anh theo quan điểm nào, anh đứng về phía ai, bảo vệ ai? Tác giả cho biết, “đã xem lại các nghị quyết trước đây về xây dựng Đảng đều viết là “suy thoái về tư tưởng chính trị”, thậm chí có chỗ nói mức độ hơn là “nhận thức tư tưởng chính trị”, hàm ý là do nhận thức chưa tốt dẫn đến suy thoái tư tưởng chính trị, còn bây giờ nếu quy vào suy thoái về chính trị thì nặng quá, lớn quá. Cho nên dùng “suy thoái về tư tưởng chính trị” thì phù hợp hơn”. Đây là sự giải thích dễ hiểu, tạo được sự đồng thuận cao.

Thứ năm, điều hấp dẫn của cuốn sách đối với nhiều bạn đọc, nhất là đối với người làm báo - đó là ngoài những bài phát biểu quan trọng ở các Hội nghị Trung ương, ở các ngành, các cấp, các địa phương trên cương vị là Tổng Bí thư, nhưng ngay từ khi còn công tác tại Tạp chí Cộng sản, tác giả đã có nhiều bài viết ngắn gọn mà sắc sảo. Ví như bài “Bệnh sợ trách nhiệm” (bút danh Người Xây dựng), bài “Của công của riêng”, bài “Móc ngoặc”, bài “Tình đồng chí” (bút danh Trọng Nghĩa), bài “Chức vụ và uy tín” (bút danh Trọng Nghĩa), bài “Làm xiếc” (bút danh Trọng Nghĩa), bài “Một sự thật nhức nhối” (bút danh Trọng Nghĩa), bài “Cái làm nên uy tín đảng viên”, v.v... Có đồng nghiệp hỏi tôi: sao tác giả không ký tên thật? Tôi cởi mở nói ý kiến riêng của mình: từ xưa đến nay, rất nhiều lãnh tụ, như Bác Hồ, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng... và nhiều cán bộ lãnh đạo cao cấp khác khi viết báo thường dùng bút danh, mà Bác Hồ là điển hình có hàng chục bút danh khác nhau. Thời đổi mới, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã viết hàng chục bài đăng trên báo Nhân Dân trong chuyên mục Những việc cần làm ngay và ký bút danh N.V.L (với ý nghĩa Nói và Làm). Không ký tên và chức danh thật, tác giả muốn để bạn đọc hiểu được một thực trạng cụ thể trong một lĩnh vực cụ thể nhằm giúp người đọc có cách tiếp cận khách quan tình hình cụ thể; và một khi có ai đó thể hiện sự đồng tình hay không đồng tình, tác giả ký bút danh có điều kiện trao đổi cởi mở, thân tình, gần gũi với người có ý kiến khác với điều mình viết. Việc ký các bút danh khác nhau đã trở thành phổ biến trong làng báo Việt Nam từ xưa đến nay.

Khép lại bài viết này, tôi xin trích một đoạn trong Thư chúc mừng của Tổng thống Mỹ Joe Biden ngày 23/2/2021 gửi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhân được Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam bầu lại làm Tổng Bí thư nhiệm kỳ thứ ba: “Tôi hoan nghênh nỗ lực chống tham nhũng và thúc đẩy quản trị tốt của Ngài trên cương vị Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. Giải quyết nạn tham nhũng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hòa bình và an ninh trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới”. Còn ông Thomas Pedersen, Tổng Giám đốc Công ty Việt Nam và Lào thì nói rằng: “Giống như hầu hết các quốc gia khác, tham nhũng vẫn luôn tồn tại trong đời sống ở Việt Nam với đủ dạng thức lớn, nhỏ. Không dễ để xóa bỏ tham nhũng. Tuy nhiên, cuộc chiến chống tham nhũng của Việt Nam đang mạnh mẽ hơn lúc nào hết, kể từ khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi đầu cuộc chiến này… Là một nhà đầu tư, tôi rất mừng khi thấy Chính phủ Việt Nam nhận thức được những hành động chống tham nhũng. Việt Nam đang chống tham nhũng thực sự hiệu quả”.

Cùng với hàng ngàn ý kiến của các trí thức, văn nghệ sĩ, cán bộ, đảng viên, nhân dân ta ở trong nước và ở nước ngoài tỏ rõ sự đồng tình và hoan nghênh, mà cuốn sách mới trích dẫn phần nào, chúng ta càng hiểu rõ cội nguồn vì sao cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có sức hút và sức lan tỏa nhanh và lớn như vậy!

 

 

 

 

“BẤT CỨ CÔNG VIỆC GÌ, THIẾU CÁN BỘ KHÓ THỰC HIỆN”

Là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài viết: “Tại sao hợp tác xã chưa thấy xuất hiện ở thôn quê?” đăng trên Báo Cứu quốc số 270, ngày 19 tháng 6 năm 1946, với bút danh Q.Th. Sau khi cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, chúng ta tập trung củng cố chính quyền, quan tâm đến đời sống của nhân dân, xây dựng lực lượng cách mạng, chủ động đối phó với thù trong giặc ngoài. Lúc này ở miền Bắc đang đẩy mạnh phong trào xây dựng hợp tác xã kiểu mới theo chủ chương của Chính phủ; song đội ngũ cán bộ của ta còn mỏng về số lượng, phần lớn chưa qua đào tạo, kinh nghiệm về xây dựng hợp tác xã kiểu mới còn nhiều hạn chế. Để khắc phục những khó khăn trên, Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm đến công tác cán bộ, Người luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của cán bộ trong mọi công việc; đồng thời, Bác luôn căn dặn đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải là người tiên phong đưa đường lối, chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống, đi vào quần chúng nhân dân lao động. Biến đường lối, chủ trương đó thành hiện thực. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, do đó: “Cán bộ quyết định mọi việc”.

Hơn 75 năm qua, lời chỉ dẫn của Bác kính yêu về vai trò của cán bộ trong phát triển kinh tế hợp tác xã vẫn giữ nguyên giá trị cả về lý luận và thực tiễn. Thấm nhuần tư tưởng ấy, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai các chính sách, cơ chế khuyến khích phát triển mạnh hơn nữa các loại hình kinh tế, các kiểu hợp tác xã mới với các chương trình đào tạo cán bộ nông nghiệp, đào tạo nghề, hướng dẫn cho nông dân ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật cao vào trong nôi trồng, sản xuất các sản phẩn nông nghiệp chất lượng cao, đã và đang phát huy hiệu quả thiết thực nhằm đưa kinh tế nước ta ngày càng phát triển; chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.

Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Bác về vị trí, vai trò quan trọng của công tác cán bộ, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong toàn quân luôn coi trọng và tập trung lãnh đạo nâng cao chất lượng toàn diện đội ngũ cán bộ các cấp đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của quân đội trong tình hình mới. Đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cán bộ chủ trì quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng; tích cực, tự giác học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao. Dù trong điều kiện, hoàn cảnh nào, đội ngũ cán bộ đều giữ vững lập trường, quan điểm, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân; có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, trung thực thẳng thắn, không cục bộ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có phong cách lãnh đạo, phong cách làm việc khoa học, cách mạng, chính quy, dân chủ, kỷ luật, tôn trọng tập thể, đoàn kết thống nhất, gắn bó với quần chúng, tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề thuộc về nguyên tắc, năng động, sáng tạo, nhạy bén, có tính quyết đoán, dám nghĩa, dám làm, dám chịu trách nhiệm; có tri thức, trình độ, năng lực lãnh đạo, chỉ huy, chuyên môn, nghiệp vụ ngày càng cao; có tinh thần trách nhiệm tốt, gương mẫu trong hành động, nói đi đôi với làm, nói ít làm nhiều, làm có hiệu quả; kiểm tra sâu sát, tỷ mỷ, cụ thể… đã trực tiếp góp phần nâng cao trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của Quân đội, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh tiêu biểu, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực tiêu biểu”, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.


KHÔNG THỂ XUYÊN TẠC NHỮNG THÀNH QUẢ CỦA VIỆT NAM TRONG BẢO ĐẢM QUYỀN TỰ DO BÁO CHÍ

Như thành thông lệ, hằng năm RSF (tổ chức phóng viên không biên giới) lại công bố cái gọi là báo cáo về “Chỉ số tự do báo chí”. Năm nay, tổ chức này xếp Việt Nam đứng thứ 174 trong số 180 quốc gia về tự do báo chí - thuộc “vùng trũng của tự do báo chí”. Đây không phải là lần đầu tiên RSF đưa ra bảng xếp hạng và  những nhận định phiến diện, thiếu khách quan, xuyên tạc những thành quả của Việt Nam trong bảo đảm quyền tự do báo chí, bất chấp thực tế đời sống báo chí ở Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ, chuyên nghiệp và hiệu quả. 

Bảo đảm quyền tự do báo chí là mục tiêu nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam.

Ngay tại Điều 10 trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (năm 1946) khẳng định: “Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Điều 25, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện hành (năm 2013) tiếp tục khẳng định: “Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, hội họp, lập hội, biểu tình. Việc thực hiện các quyền này do pháp luật quy định”. Hay tại Điều 13, Luật Báo chí 2016 quy định: “Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí và để báo chí phát huy đúng vai trò của mình”. Theo đó, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí của mọi công dân là quyền được tự do có quan điểm và giữ vững quan điểm của mình, cũng như được tự do tìm kiếm và tiếp nhận, chia sẻ thông tin nhưng phải nằm trong giới hạn mà pháp luật quy định, phù hợp với các giá trị đạo đức, văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam. 

Trên cơ sở hành lang pháp lý được quy định rõ ràng, cụ thể, thực tiễn hoạt động của báo chí Việt Nam những năm qua rất sôi động với nhiều thành tựu nổi bật. Báo chí thực sự là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội; là diễn đàn của nhân dân. Đảng, Nhà nước ta luôn tạo điều kiện thuận lợi để quyền tự do báo chí của nhân dân được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật.

          Theo thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông cho thấy, đến năm 2023, cả nước có 6 cơ quan truyền thông đa phương tiện chủ lực, 127 cơ quan báo, 671 cơ quan tạp chí, 72 cơ quan Đài phát thanh, truyền hình. Nhân sự hoạt động trong lĩnh vực báo chí có khoảng 41.000 người, tăng gấp 6 lần so với năm 2000. 

Về khía cạnh quyền tự do internet, sử dụng mạng xã hội, theo số liệu thống kê của Bộ Thông tin và Truyền thông, tính đến tháng 9/2022, ở Việt Nam, hạ tầng 3G/4G đã phủ sóng 99,8% dân cư và internet cáp quang đã tới 98% số phường, xã; số người dùng internet là 72,1 triệu người, chiếm khoảng 73,2% dân số cả nước. Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên thế giới và đứng thứ 6 trong 35 quốc gia và vùng lãnh thổ tại châu Á. Đây là những minh chứng rõ ràng, thuyết phục nhất cho vấn đề tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam được bảo đảm.

Việt Nam cam kết thực hiện nghiêm túc quyền tự do báo chí theo Hiến chương Liên Hợp quốc và các nghị định, hiệp ước quốc tế, khu vực liên quan.

Có thể thấy, Việt Nam là một trong những nước đã tích cực, chủ động tham gia vào hầu hết các công ước quốc tế về quyền con người. Đến nay, Việt Nam đã là thành viên của 7/9 công ước cơ bản của Liên Hợp quốc về quyền con người; 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), trong đó có 7/8 công ước cơ bản. Việt Nam luôn cam kết và nỗ lực thực hiện nghĩa vụ theo các công ước đã tham giao, coi đó là trách nhiệm chính trị, pháp lý của Nhà nước. Gần 40 hãng truyền thông quốc tế có mặt tại Việt Nam, trong đó có nhiều hãng lớn như: CNN, Reuters, AP, AFP, Kyodo, Hãng thông tấn Asia (Hàn Quốc), Nhật báo kinh tế Aju (Hàn Quốc) và Hãng thông tấn Rossiya Segodnya (Nga)... Các cơ quan truyền thông quốc tế như: CNN, TV5, NHK, DW, Australia Network, KBS, Bloomberg và hầu hết kênh truyền thông lớn thế giới đều đến được với công chúng Việt Nam dễ dàng, thuận tiện mà không có bất kỳ rào cản công nghệ hay pháp lý nào. Các nhà báo quốc tế được Chính phủ Việt Nam tạo điều kiện thuận lợi để tác nghiệp. 

Từ những minh chứng trên cho thấy, trong suốt tiến trình phát triển của đất nước, việc bảo đảm tự do báo chí, tự do ngôn luận là mục tiêu nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam, được khẳng định và bảo đảm thực hiện thông qua Hiến pháp và các quy định của pháp luật, phù hợp với các quy định của quốc tế, được nhân dân đồng tình ủng hộ. Còn những nhận định, quy chụp của RSF là hoàn toàn phiến diện, thiếu khách quan và không phản ánh đúng về tình hình tự do báo chí ở Việt Nam cần phải lên án và đấu tranh bác bỏ kịp thời./.

 


CỦNG CỐ, TĂNG CƯỜNG NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN VỀ ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC

Ngày 20/5/2024, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến đã báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân. Trong đó có nội dung: Cử tri và nhân dân đánh giá rất cao công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực dưới sự lãnh đạo của Đảng, đứng đầu là đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục đạt được kết quả quan trọng, toàn diện, “nói đi đôi với làm”, thật sự không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; các cơ quan chức năng không chỉ xử lý kịp thời, nghiêm minh người vi phạm mà còn thu hồi được nhiều tài sản cho Nhà nước(7).

Đại đa số cử tri và nhân dân đồng tình, đánh giá cao ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng (ngày 13/3/2024). Tổng Bí thư đã chỉ rõ tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy quy hoạch, chạy luân chuyển, chạy phiếu bầu, chạy bằng cấp, chạy khen thưởng, chạy danh hiệu, chạy tội..., trong đó có cả cán bộ cấp cao, đã được ngăn chặn nhưng vẫn chưa hoàn toàn bị đẩy lùi, hiện tượng cán bộ “Làm việc gì, giữ chức vụ gì cũng chỉ tính đến lợi quyền, bổng lộc cho cá nhân mình, gia đình mình trước nhất, quên cả thanh liêm, danh dự”. Tổng Bí thư chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ là một nguyên nhân quan trọng làm cho đất nước phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Cử tri và nhân dân rất tin tưởng vào Đảng, Nhà nước “không ngừng, không nghỉ” trong cuộc đấu tranh cam go, phức tạp này.

Ở đây có hai mệnh đề: Đảng, Nhà nước ta đã “dũng cảm chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém của một bộ phận cán bộ và những hạn chế, bất cập trong công tác cán bộ” và nhân dân thì “rất tin tưởng vào Đảng, Nhà nước”.

Rõ ràng là không hề có sự “khủng hoảng niềm tin” hay “khủng hoảng nhân sự lãnh đạo” ở Việt Nam như những giọng điệu suy diễn, xuyên tạc của các thành phần chống phá, bất mãn hoặc thiếu hiểu biết rêu rao trên không gian mạng. Việc một số cán bộ lãnh đạo vi phạm pháp luật, vi phạm Điều lệ Đảng bị xử lý là hoàn toàn bình thường thậm chí rất đáng hoan nghênh. Điều đó cho thấy hệ thống quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước đã ngày càng hoàn thiện, chặt chẽ, nghiêm minh. Công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại Việt Nam đang đi đúng hướng, vừa nhân văn, vừa nghiêm khắc, vừa chặt chẽ, vừa bao dung. Việc “mạnh tay” xử lý cán bộ kể cả cán bộ cấp chiến lược, thay đổi cán bộ tuyệt nhiên không ảnh hưởng đến sự ổn định chính trị của đất nước.

Quốc hội Việt Nam đang họp tại Ba Đình Thủ đô Hà Nội sau khi những vị trí lãnh đạo cấp cao chủ chốt của Đảng, Nhà nước và Quốc hội đã được kiện toàn, bổ sung theo quy trình chặt chẽ. Không có sự xáo trộn chính trị nào như mong đợi của những kẻ mượn danh nghĩa “dân chủ” vẫn lu loa. Một thể chế chính trị khoẻ mạnh vẫn đang được vận hành theo đúng tinh thần của một Đảng cầm quyền, một Nhà nước của Dân, do Dân và vì Dân.

Công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đi liền với việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm không chỉ khẳng định quyết tâm xây dựng, chỉnh đốn Đảng; quyết tâm xử lý nghiêm những vi phạm với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, mà còn góp phần quan trọng nâng cao năng lực, sức chiến đấu của Đảng cầm quyền; không ngừng củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng Cộng sản Việt Nam./.


Hệ lụy khôn lường của trào lưu “bóc phốt”

 Không biết từ khi nào “bóc phốt” trở thành sở thích của nhiều người dùng mạng xã hội. Ghét người này, phật ý người kia là lên mạng “bóc phốt”. Mỗi ngày trôi qua chúng ta phải chứng kiến biết bao vụ “bóc phốt”. Từ cá nhân “bóc phốt” đến các hội nhóm “bóc phốt”. Giờ đây, “bóc phốt” trở thành nỗi ám ảnh của nhiều người bởi những hệ lụy khôn lường mà nó mang tới.

Lên mạng là gặp… “bóc phốt”

“Bóc phốt” được xem là hành động công khai những thông tin lên mạng xã hội cho nhiều người cùng biết, phán xét và đánh giá. Những thông tin này thường không mấy tốt đẹp, trong đó chủ yếu là xúc phạm danh dự, nhân phẩm của các tổ chức, cá nhân khác; sử dụng ngôn ngữ phản cảm, vi phạm thuần phong mỹ tục; tung tin giả, tin sai sự thật…

a%3fnh 1.jpeg -0
Anh H từng rơi vào khủng hoảng tâm lý khi cửa hàng của mình bị tẩy chay vì việc bóc phốt bịa đặt của khách hàng.

Anh Lê Văn H, 33 tuổi, chủ một tiệm cắt tóc ở phố Ngô Thì Nhậm (quận Hà Đông, Hà Nội) - một nạn nhân của trào lưu bóc phốt bức xúc chia sẻ: “Suốt một thời gian dài, cửa hàng tóc của tôi phải chịu tổn thất nặng nề về kinh tế chỉ vì một khách hàng lên mạng tố tôi dùng thuốc nhuộm rởm khiến đầu cô ấy bị dị ứng. Điều đáng nói là, hầu hết các khách hàng không hề kiểm chứng xem thông tin đó là thật hay giả nhưng cũng nhảy vào tẩy chay như đúng rồi. Họ hoàn toàn không biết sự thật đằng sau đó là nữ khách hàng này ban đầu đã yêu cầu tôi nhuộm loại thuốc đắt nhất nhưng đến khi thanh toán tiền thì lại không có đủ để trả. Khi cửa hàng yêu cầu phải đặt lại đồ vật, khi nào chuyển đủ tiền sẽ trả thì người này sửng cồ và sau đó lên mạng bịa chuyện về chất lượng thuốc nhuộm của cửa hàng chúng tôi”.

Không chỉ “bóc phốt” về những câu chuyện làm ăn, nhiều người còn sẵn sàng lên mạng để “bóc phốt” những góc khuất riêng tư, những câu chuyện ngoại tình như một sự trả thù hả hê dành cho người phản bội. Trước đó không lâu cộng đồng mạng được dịp hóng drama “Cô bảo mẫu trà xanh” trên kênh TikTok Pơ - một người Việt đang sinh sống tại Canada.

Loạt video đăng trên kênh TikTok của Pơ có nội dung “bóc phốt” chuyện tình cảm giữa em rể và bảo mẫu của gia đình (cả 2 đều là người Việt Nam - PV). Trong đó, người kể chuyện cho biết mình là chị gái của người vợ bị lừa dối, muốn thay mặt vạch trần sự việc.

Nhân vật bị bóc phốt là cô bảo mẫu sinh năm 2002, cô này nhận học bổng của một trường ở Canada và đã học được 2 năm. Tháng 11/2023, cô trở thành bảo mẫu cho gia đình Pơ, có nhiệm vụ đón các bé sau khi tan học và trông đến tối, khi bố mẹ đi làm về. Theo lời của Pơ chia sẻ, thời gian đầu cô bảo mẫu ăn mặc rất giản dị và kín đáo, chăm sóc các bé tốt nên nhận được sự tin tưởng.

Đến một lần em của Pơ về nhà mà không báo trước, cô phát hiện có người đang ở nhà cùng với chồng mình nhưng anh này chối bay chối biến. Sau khi có thêm những chi tiết mờ ám khác, chị em Pơ sang nhà hàng xóm nhờ trích xuất camera thì nhận ra người đó là cô bảo mẫu. Cuối cùng gia đình quyết định cho cô bảo mẫu nghỉ việc.

ĐẤU TRANH PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG, TIÊU CỰC KHÔNG ẢNH HƯỚNG TỚI MÔI TRƯỜNG ĐẦU TƯ

          Luận điệu cho rằng công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mà Đảng, Nhà nước ta đang tích cực thực hiện “sẽ làm ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế, giảm thu hút đầu tư nước ngoài” cũng chỉ là những suy diễn không có cơ sở hoặc cố tình “hướng lái” vì mục đích phản động, chống phá.

Trước tiên, cần phải nhìn nhận, tham nhũng, tiêu cực tác động trực tiếp đến sự ổn định và phát triển mọi mặt của đời sống xã hội. Hành vi này gây ra những hậu quả, tác hại to lớn trên các lĩnh vực, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa, xã hội. Trong lĩnh vực kinh tế, tình trạng tham nhũng gây thất thoát nghiêm trọng tài sản công, bào mòn ngân sách nhà nước để làm lợi cho một số cá nhân và “nhóm lợi ích”. Tham nhũng, tiêu cực còn đe dọa sự ổn định chính trị , an ninh xã hội, xâm hại thể chế và giá trị dân chủ, “gặm nhấm” và dần hủy hoại những giá trị đạo đức, công lý... Nếu không kịp thời ngăn chặn, nạn tham nhũng sẽ trở thành mối đe dọa nghiêm trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và là một trong những nguy cơ đối với sự tồn vong của chế độ.

Thời gian qua, nếu như chúng ta không kịp thời trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, mạnh mẽ trong đấu tranh xử lý tội phạm thì những con “bạch tuộc” như AIC, Phúc Sơn, Xuyên Việt Oil, Thuận An… sẽ tiếp tục âm thầm gặm nhấm nền kinh tế, những hậu quả và hệ lụy về nhiều mặt sẽ còn nặng nề và to lớn hơn rất nhiều. Hoạt động phi pháp của những doanh nghiệp này cùng với sự tiếp tay của một số cán bộ, đảng viên có chức quyền không chỉ làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh tế mà còn làm tác động tiêu cực đến tính liêm chính của hệ thống chính trị, tạo nên sự bất bình đẳng rất lớn giữa các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế.

Ngược lại với những “lo ngại” của các “nhà dân chủ cuội” về “làn sóng rời bỏ thị trường Việt Nam”, thì, theo số liệu mới được Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư công bố, trong quý I/2024, đã có hơn 6,17 tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài đăng ký vào Việt Nam, tăng 13,4% so với cùng kỳ năm 2023. Trong số này, vốn đăng ký mới đạt hơn 4,77 tỷ USD, tăng 57,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Như vậy, ngoài vốn đầu tư điều chỉnh và góp vốn, mua cổ phần giảm, thì vốn đầu tư đăng ký mới vẫn duy trì mức tăng so với cùng kỳ và tăng khá cao. Tương tự, vốn giải ngân đạt 4,63 tỷ USD, tăng 7,1% so với cùng kỳ năm 2023. 

Ngoài ra, có thể kể đến hàng loạt dự án trong các lĩnh vực sản xuất pin, tế bào quang điện, thanh silic, linh kiện - sản phẩm điện tử cùng các sản phẩm nhiều giá trị gia tăng khác đã được cấp chứng nhận đăng ký đầu tư trong 3 tháng đầu năm 2024 như: Dự án 120 triệu USD của Boviet Hải Dương, chuyên sản xuất tấm tế bào quang điện năng lượng mặt trời; dự án 454 triệu USD của Trina Solar Cell tại Thái Nguyên; dự án 275 triệu USD của Gokin Solar Hải Hà Việt Nam tại Quảng Ninh…

Ngân hàng Thế giới trong báo cáo (cập nhật ngày 19/4/2024) cho rằng, tăng trưởng kinh tế của Việt Nam từ mức 5% năm 2023 dự kiến sẽ đạt 5,5% vào năm 2024, nhờ nhu cầu toàn cầu ngày càng tăng và niềm tin của người tiêu dùng trong nước được khôi phục. Tăng trưởng GDP thực tế dự kiến sẽ tăng trong 3 năm tới và vào năm 2026 sẽ đạt mức tăng trưởng trung bình trước đại dịch COVID-19.

Trong bài báo có tựa đề “Đánh thức con hổ: Sự trỗi dậy của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu”, tác giả nhận định: Việt Nam đang vận hành một cách hiệu quả để định vị mình là một phần quan trọng trong chuỗi cung ứng công nghiệp toàn cầu. Cách tiếp cận chủ động của chính phủ nhằm cải thiện cơ sở hạ tầng và đưa ra các chính sách thương mại thuận lợi đã thu hút đầu tư nước ngoài đáng kể và tạo ra một môi trường kinh doanh năng động. Điều này đã đưa Việt Nam trở thành quốc gia đóng vai trò ngày càng quan trọng....

James Borton (nghiên cứu viên cao cấp tại Viện Chính sách Đối ngoại Johns Hopkins/SAIS) viết trên Asian Times: Những nỗ lực chống tham nhũng của Việt Nam đã dẫn đến sự thôi chức của một số lãnh đạo cấp cao, thúc đẩy sự đổi mới trong các quan chức của Đảng và cuối cùng là xây dựng niềm tin vào Đảng và môi trường kinh doanh mở rộng của Việt Nam....


XỬ LÝ CÁN BỘ VI PHẠM CÓ TẠO NÊN “BẤT ỔN CHÍNH TRỊ”?

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực không ngừng nghỉ trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết, kiên trì xử lý những cán bộ vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Điều đó cho thấy sự nghiêm minh, không có vùng cấm, đồng thời thể hiện rõ tính nhân văn, “thấu lý đạt tình” xem xét, cân nhắc trên nhiều mặt... Thay vì ủng hộ những động thái tích cực, mạnh mẽ của Đảng và Nhà nước ta, một số đối tượng, trong đó có cả những cá nhân là công dân Việt Nam đã cố tình bôi nhọ, suy diễn, bóp méo và gán ghép “hiện tượng” thành “bản chất” từ một số vụ việc đơn lẻ nhằm quy chụp, xuyên tạc đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Những “nhà ngụy lý luận” trên không gian mạng còn lớn tiếng về cái gọi là “những sai lầm” trong công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ, công tác chuẩn bị nhân sự tại Đại hội Đảng. Một số “nhà dân chủ mạng” thì lu loa về cái gọi là “khủng hoảng nhân sự cấp cao” khi một số lãnh đạo chủ chốt của Đảng, Nhà nước xin thôi chức và được Trung ương chấp nhận. Không ít những nội dung trên các mạng xã hội xuyên biên giới còn “lên tiếng yêu cầu” lãnh đạo cao nhất của Đảng, Nhà nước “phải chịu trách nhiệm” cho các vi phạm khuyết điểm của cán bộ, đảng viên...(!).

Để phản bác lại những giọng điệu nêu trên, xin nêu ra một sự thật hiển nhiên, đó là, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong quá trình thực thi trách nhiệm quyền lực, việc thay đổi nhân sự, kể cả nhân sự cấp cao nhất cũng là điều rất bình thường, không có gì lạ.

Chẳng hạn như ở Mỹ - quốc gia mà những “nhà dân chủ mạng” thường lấy “làm ví dụ” và tự hào về “nền chính trị, dân chủ bậc nhất”, việc những chính khách cấp cao bất ngờ “ra đi khỏi chính trường” cũng không phải hiếm. Đơn cử, ngày 3/10/2023, Chủ tịch Hạ viện Kevin McCarthy (nhân vật quan trọng thứ ba, sau Tổng thống và Phó Tổng thống) phải “rời ghế” do bị bất tín nhiệm. Trước đó, tháng Giêng năm 2023, vị Hạ nghị sĩ của bang California này đã phải vượt qua 15 vòng bỏ phiếu mới trúng cử chức Chủ tịch Hạ viện, tuy nhiên sau khi trúng cử, ông chỉ giữ được chiếc ghế quyền lực trong 9 tháng. Sau nhiều cuộc đàm phán trong 3 tuần, các Hạ nghị sĩ Mỹ đã bầu ông Mike Johnson (Đảng Cộng hòa) làm tân Chủ tịch Hạ viện. Ông Johnson vượt qua 2 Hạ nghị sĩ là Steve Scalise và Jim Jordan để nhận được sự đề cử của Đảng Cộng hòa chỉ vì đảng này đã “không còn sự lựa chọn nào khác”.

Một ví dụ khác, nước Anh cũng từng trải qua giai đoạn 2 tháng 3 Thủ tướng. Cụ thể, tháng 7/2022, Thủ tướng Boris Johnson từ chức. Ngày 5/9/2022, Ngoại trưởng Liz Truss, 47 tuổi, giành chiến thắng trong cuộc bầu cử lãnh đạo của Đảng Bảo thủ và trở thành Thủ tướng tiếp theo nước Anh. Tuy nhiên, “nhiệm kỳ” của Thủ tướng Liz Truss lại kết thúc vào ngày 20/10/2022 khi nữ thủ tướng này tuyên bố từ chức. Năm ngày sau, ngày 25/10/2022, ông Rishi Sunak chính thức trở thành Thủ tướng mới của Anh.

Nêu lại một số sự việc như trên để thấy rằng, việc một quan chức cấp cao thôi chức “giữa chừng” là chuyện bình thường trong đời sống chính trị - xã hội, điều này có thể diễn ra với bất cứ quốc gia nào, bất cứ hệ thống, thể chế chính trị nào.

Vì thế, trong bối cảnh mới, tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác, khi các thiết chế chính trị tương đối hoàn chỉnh, việc thôi chức vụ và “ra đi” của những nhân sự cấp cao khó có thể gây ra “khủng hoảng” hay “bất ổn chính trị” được. Nhất là khi hệ thống chính trị, pháp lý được thiết kế bài bản, vững chắc, có nhiều tầng nấc, quy định ràng buộc.

Do đó, những “ý kiến phản biện” và “đóng góp” của những một số “nhà hoạt động”, “nhà dân chủ” từ hải ngoại hoặc trên “diễn đàn mạng” về công tác cán bộ, công tác nhân sự và công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta, xuất phát từ mấy lý do: hoặc là họ chưa hiểu hết về sự vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam, xuất phát từ sự thiếu hiểu biết, non kém về nhận thức; hoặc là chiêu trò “bổn cũ soạn lại” để bẻ cong sự thật, thổi phồng, bóp méo, xuyên tác nhằm mục đích chống phá; hoặc chỉ đơn giản là để rêu rao nhãn hiệu “nhà dân chủ” tự xưng nhằm “câu like”, thu hút những đối tượng hiếu kỳ, bồng bột...

Cần khẳng định lại, việc xử lý những cán bộ có khuyết điểm ở nước ta trong thời gian qua là sự thể hiện ý chí, quyết tâm lớn cũng như như năng lực, bản lĩnh của Đảng và Nhà nước trong phát hiện, xử lý những sai phạm của cán bộ, đảng viên, kể cả nhân sự cấp cao trong hệ thống chính trị. Thay vì xuê xoa, bao che, Đảng, Nhà nước đã có những hành động quyết liệt, nghiêm khắc trong xử lý; nghiêm túc trong phê bình và tự phê bình; công khai, minh bạch trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xử lý những cán bộ trót “nhúng tràm”. Đây cũng là một cách để khẳng định tính chính danh của Đảng cầm quyền, để giữ vững niềm tin cho các đảng viên và quần chúng nhân dân. Việc làm này không chỉ góp phần quan trọng làm trong sạch đội ngũ mà còn tạo thêm xung lực mới cổ vũ, động viên khích lệ toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tiếp tục đóng góp tích cực cho sự nghiệp cách mạng trong bối cảnh mới.


PHẢN BÁC LUẬN ĐIỆU “VIỆC XỬ LÝ CÁN BỘ TẠO RA NHỮNG BẤT ỔN CHÍNH TRỊ”

Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực không ngừng nghỉ trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; kiên quyết, kiên trì xử lý những cán bộ vi phạm quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Điều đó cho thấy sự nghiêm minh, không có vùng cấm, đồng thời thể hiện rõ tính nhân văn, “thấu lý đạt tình” xem xét, cân nhắc trên nhiều mặt... Tuy nhiên, trên mạng xã hội lại có những ý kiến “phản biện” rằng, việc xử lý cả những cán bộ cấp cao như vừa qua là một biểu hiện của “những bất ổn chính trị”. Sự thật có phải như vậy?

Chỉ tính từ đầu nhiệm kỳ khóa XIII đến đầu tháng 5/2024, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã thi hành kỷ luật gần 100 cán bộ cao cấp thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có một số cán bộ đã bị xử lý hình sự(1).

Từ đầu năm 2024 đến nay, Ủy ban Kiểm tra Trung ương đã tích cực, khẩn trương hoàn thành 7/8 cuộc kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đối với 7 tổ chức đảng liên quan đến các vụ án thuộc diện Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (Ban Chỉ đạo) theo dõi, chỉ đạo. Qua kiểm tra, đã xử lý kỷ luật đối với 68 tổ chức đảng, 104 đảng viên, trong đó có 20 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Chỉ đạo, đôn đốc 68 cấp ủy, tổ chức đảng tiến hành kiểm tra 830 dự án, gói thầu liên quan đến Công ty AIC...(2).

Liên quan đến những sai phạm xảy ra tại một số ngành, lĩnh vực, một số cán bộ, trong đó có lãnh đạo chủ chốt, lãnh đạo cấp cao cũng đã bị thôi các chức vụ. Theo cơ quan kiểm tra của Đảng, những cán bộ này phải chịu trách nhiệm người đứng đầu theo các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước hoặc đã có vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên...

Từ những kết quả đạt được vừa qua, có thể khẳng định, công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã được Đảng và Nhà nước ta tiến hành bài bản, đúng quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước, thận trọng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể đó là ai; bảo đảm thực hiện nghiêm những kết luận của Ban Chỉ đạo như kết luận của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngày 10/5/2023(3).

Việc xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật cũng cho thấy tính hiệu quả của việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, công tác bảo vệ chính trị nội bộ; là biện pháp nhằm sàng lọc, củng cố, xây dựng đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ. Qua đó nhằm giữ vững kỷ cương của Đảng và thực hiện nghiêm minh pháp luật của Nhà nước.

TỔNG THỐNG VLADIMIR PUTIN: NHẬN HUÂN CHƯƠNG HỒ CHÍ MINH VÀ HÀNH ĐỘNG XÓA NỢ 11 TỶ USD CHO VIỆT NAM

Có thể các bạn không biết, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã được trao Huân chương Hồ Chí Minh vào năm 2001. Huân chương cao quý thứ 2 của Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, chỉ sau Huân chương Sao Vàng.

Lý do vì sao mà vị lãnh đạo vừa mới nhận chức Tổng thống Nga, chưa có lần nào sang thăm Việt Nam, lại được tặng Huân chương cao quý đến như vậy? Là vì ngay khi vừa nhận chức Tổng thống vào năm 2000, Tổng thống Putin đã ngay lập tức tiến hành các thủ tục xóa nợ hơn 11 tỷ USD cho phía Việt Nam. Phải nói rằng, vào đúng những năm tháng vừa thoát cấm vận, hòa nhập cùng với kinh tế thế giới, khoản nợ ấy như đã “tháo xích” cho nền kinh tế Việt Nam. Nhất là nước Nga vào những năm đầu thế kỷ 21 vẫn còn rất nhiều khó khăn, vậy mà nước bạn vẫn quyết định xóa một khoản nợ lớn đến như vậy. 

Và nhờ hành động đó, chỉ mấy năm sau, Việt Nam xoay được nguồn tiền để khởi công xây dựng nhà máy Thủy điện Sơn La lớn nhất Đông Nam Á, giúp giải được phần nào bài toán thiếu điện cho công nghệ hóa, hiện đại hóa sau này. 

Trước khi được xóa nợ, mỗi năm Việt Nam phải trả cho Nga/Liên Xô khoảng hơn 80 triệu USD quy đổi giá trị tiền tệ. Sau khi xóa nợ xong, ông Putin nắm tay Chủ tịch nước Trần Đức Lương nói rằng từ tình cảm của Bác Hồ với nước Nga - Xô Viết, những người Việt Nam đã chiến đấu bảo vệ nước Nga - Xô Viết và tình cảm nhân dân hai nước. Nước Nga đã quyết định xóa nợ, hai nước bình đẳng, không nợ nần nhau gì cả, cùng nhau phát triển, khoản nợ ấy từ lâu đã tồn tại như một "vật cản", giờ thì không còn gì có thể cản nữa.

Theo những câu chuyện kể lại của nhiều lãnh đạo phía ta kể lại, Tổng thống Putin hoàn toàn đủ điều kiện để đặc cách nhận Huân chương Sao Vàng. Nhưng phía ông ấy phản hồi rằng từ bé đã rất ngưỡng mộ Chủ tịch Hồ Chí Minh, nên rất mong muốn nhận được huân chương mang tên Bác. Và ông Putin còn muốn đóng góp thêm rất nhiều cho quan hệ Việt Nam - Nga, khi nào cảm thấy xứng đáng với Huân chương Sao Vàng thì ông ấy mới dám nhận.

 


Cảnh báo tội phạm tổ chức đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá trên mạng.

 Giải vô địch bóng đá Châu Âu (Euro) 2024 đang diễn ra hiện thu hút đông đảo người hâm mộ trên toàn thế giới và Việt Nam quan tâm theo dõi. Đây cũng là điều kiện để tội phạm cá độ bóng đá hoạt động phức tạp hơn, đặc biệt cá độ bóng đá trên không gian mạng. Loại hình tội phạm cờ bạc này còn là nguyên nhân nảy sinh nhiều loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác, như: tín dụng đen, lừa đảo, cướp, trộm cắp tài sản… đe dọa cuộc sống bình yên, hạnh phúc của nhân dân.

Các đối tượng trong đường dây “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” qua mạng vừa bị Công an quận Hải Châu triệt xóa. Ảnh: MAI VINH
Nhóm đối tượng cầm đầu Trần Đình Bá, Đoàn Trọng và Nguyễn Huỳnh Văn Đợi.

Thời gian qua, Công an các đơn vị, địa phương đã triệt phá nhiều đường dây, băng nhóm tổ chức cá độ bóng đá qua mạng Internet. Điển hình, ngày 20-6-2024, Công an quận Hải Châu phối hợp với Phòng An ninh mạng và phòng chống tội phạm công nghệ cao- Công an TP Đà Nẵng và các đơn vị nghiệp vụ liên quan đồng loạt bắt giữ 3 đối tượng cầm đầu đường dây cá độ bóng đá qua mạng quy mô lớn trên địa bàn, gồm: Nguyễn Huỳnh Văn Đợi (58 tuổi, trú P. Phước Ninh, Q. Hải Châu), Trần Đình Bá (64 tuổi, P. Hoà Cường Nam, Q. Hải Châu) và Đoàn Trọng (59 tuổi, trú P. An Hải Bắc, Q. Sơn Trà, Đà Nẵng) cùng 12 đối tượng có liên quan.

Bước đầu, các đối tượng khai nhận: Từ tháng 8-2023 đến nay được nhà cái cung cấp đầu mạng với hạn mức 3 triệu USD (hơn 60 tỷ đồng) mỗi tháng để tham gia cược thắng thua các trận bóng đá trong và ngoài nước. Sau đó, 3 đối tượng trên đã phân bổ, chia tài khoản do nhà cái cung cấp với hạn mức nhỏ hơn cho các đại lý để tổ chức và lôi kéo nhiều người tham gia cá cược.Các đối tượng thừa nhận đã tổ chức cá độ bóng đá qua mạng với số tiền giao dịch, cá cược khoảng 8 triệu USD (hơn 160 tỷ đồng) mỗi tháng. Tiến hành điều tra, cơ quan Công an ghi nhận trên tài khoản của các đối tượng có khoảng 83.000 lượt cá cược với tổng giá trị giao dịch khoảng trên 1.000 tỷ đồng. Hiện vụ việc đang được Công an quận Hải Châu tiếp tục điều tra làm rõ.

Các đối tượng trong đường dây “Tổ chức đánh bạc” và “Đánh bạc” qua mạng vừa bị Công an quận Hải Châu triệt xóa. Ảnh: MAI VINH

Theo cơ quan Công an, từ thực tế đấu tranh, xử lý tội phạm liên quan cá độ bóng đá cho thấy, cá độ bóng đá rất đa dạng về hình thức, quy mô: Từ hình thành tự phát, đơn giản, nhỏ lẻ đến các đường dây, băng nhóm tổ chức trên không gian mạng hoạt động liên tỉnh, xuyên quốc gia, với thủ đoạn rất tinh vi, số lượng hàng chục nghìn người tham gia, số lượng tiền để đánh bạc đến hàng nghìn tỷ đồng. Có đường dây cá độ bóng đá được hình thành bởi các đối tượng cầm đầu tổ chức cờ bạc chuyên nghiệp móc nối với các đối tượng, nhà cái quản lý các trang web cá độ, có máy chủ đặt tại nước ngoài để thiết lập chia nhỏ cho các chân rết tổ chức cá độ bóng đá trên không gian mạng tại Việt Nam...

Đối với người chơi chỉ cần có các thiết bị kết nối Internet, đăng ký tài khoản thành viên, mở tài khoản cá nhân tại các ngân hàng đã có thể tham gia cá cược.Đặc biệt nhiều người chơi được các đối tượng cấp cho tài khoản đánh bạc và mật khẩu cùng một khoản tiền ảo ứng trước để cá cược, nếu thua không có tiền thanh toán, có thể bị các đối tượng này sử dụng biện pháp cưỡng ép trả tiền như: bắt giữ người trái pháp luật, cưỡng đoạt tài sản hoặc thuê các đối tượng hình sự đòi nợ...

Do đó, để chủ động phòng ngừa, đấu tranh với loại tội phạm đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá trên không gian mạng, Bộ Công an khuyến cáo: Mỗi người dân hãy nhận thức đầy đủ các giá trị giải trí tốt đẹp của môn thể thao bóng đá, xem bóng đá với tâm lý giải trí lành mạnh; không tham gia cá độ bóng đá, tổ chức cá độ bóng đá dưới mọi hình thức. Quan tâm quản lý, giáo dục, vận động người thân và những người xung quanh nâng cao cảnh giác, tránh xa cá độ bóng đá. Trường hợp phát hiện các đối tượng có biểu hiện nghi vấn liên quan đến cá độ bóng đá cần kịp thời báo tin tố giác với cơ quan Công an gần nhất để được tiếp nhận, giải quyết.