Quan hệ Việt Nam - Lào
là quan hệ hữu nghị vĩ đại được xây dựng, vun đắp và phát triển bởi các thế hệ
lãnh đạo và nhân dân hai nước, là tài sản quý giá của hai dân tộc. Trong giai
đoạn mới với bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp và lợi ích đan xen, dựa trên
những nét tương đồng về tư tưởng, mục tiêu và lợi ích, quan hệ Việt Nam - Lào
vẫn luôn được đề cao, duy trì và phát triển bền vững trong cả hiện tại và tương
lai.
Sự tương đồng về hệ tư
tưởng
Phát huy và kế thừa
truyền thống của Liên minh Việt Nam - Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp
và chống đế quốc Mỹ xâm lược, được kế tục trong thời kỳ cả hai nước thực hiện
nhiệm vụ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, quan hệ đặc biệt Việt Nam
- Lào từ sau năm 1986 tiếp tục được xây dựng, phát triển trên nền tảng cùng ý
thức hệ, cùng có chung mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cả ở Lào và
Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-xít - Lê-nin-nít, có chung cội
nguồn là Đảng Cộng sản Đông Dương. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào vẫn
luôn duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết, luôn hết lòng tương trợ, giúp đỡ lẫn
nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước dù tình hình mỗi nước hay
bối cảnh quốc tế, khu vực cũng như các mối quan hệ quốc tế của mỗi bên có nhiều
thay đổi.
Lịch sử đã chứng minh,
hai nước Việt Nam và Lào có chung hoàn cảnh, gần gũi về địa lý và điều kiện tự
nhiên, có chung mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự
nhất trí về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược là cơ sở xây dựng mối
quan hệ đặc biệt giữa hai nước Lào và Việt Nam.
Mối quan hệ giữa hai
nước được các thế hệ lãnh đạo Việt Nam và Lào dày công vun đắp. Nhận thức rõ
tầm quan trọng trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào, Chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp cách mạng của Lào, Người cho
rằng “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”(1). Do đó, khi nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân
Xu-pha-nu-vông đã thống nhất thành lập Liên quân Lào - Việt vào ngày
30-10-1945, do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Tổng chỉ huy, tổ chức xây dựng lực
lượng, kháng chiến chống thực dân Pháp. Đầu năm 1946, khi cách mạng Việt Nam
còn đang rất khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đoàn cố vấn sang giúp Lào,
phân công ông Lê Thiệu Huy(2) làm bí thư riêng, phụ tá cho Hoàng thân
Xu-pha-nu-vông, Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Tổng Tư lệnh Pa-thét Lào.
Năm 1952, tại Hội nghị
lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v.,
mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải
phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của
ta lại phải ra sức giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực
hơn. Đó là nhiệm vụ quốc tế của chúng ta”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan
tâm giúp đỡ, xây dựng và phát triển lực lượng, phát huy tinh thần tự chủ của
cách mạng Lào, coi đây là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết và
liên minh chiến đấu Việt - Lào(4). Ngày 13-3-1963, trong buổi chiêu đãi vua
Sa-vang Vat-tha-na và đoàn đại biểu Hoàng gia Lào nhân chuyến thăm chính thức
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào: “Hai dân
tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi
Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như
anh em… Ngày nay, chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới.
Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai
nhạt được”(5).
Về phía Lào, cả Chủ
tịch Xu-pha-nu-vông và Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đều luôn dành cho Chủ
tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam tình cảm trân quý và coi trọng quan hệ
hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Theo Chủ tịch Xu-pha-nu-vông, trong cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc của mình, nhân dân Lào “luôn luôn có nhân dân Việt Nam
anh em ở bên cạnh, sẵn sàng giúp đỡ”(6). Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng
5-1971, Chủ tịch Xu-pha-nu-vông khẳng định: “Quan hệ hữu nghị anh em giữa nhân
dân Lào và Việt Nam thật là vĩ đại... Tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt Lào -
Việt Nam cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, thơm hơn bông hoa nào
thơm nhất. Tình hữu nghị tốt đẹp đó được vun đắp bằng tinh thần trong sáng,
không có kẻ thù nào có thể phá vỡ nổi”(7). Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng
sản Việt Nam (ngày 15-12-1976), Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã phát biểu về
quan hệ giữa hai nước: “Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có nhiều tấm
gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ
có sự đoàn kết liên minh, chiến đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như vậy, hơn 30
năm đã qua mà vẫn trong sáng như xưa - một sự đoàn kết liên minh bền vững...”
và “Mối quan hệ Lào - Việt Nam đã trở thành mối quan hệ đặc biệt trong sáng,
thủy chung mẫu mực, hiếm có và ngày càng được củng cố và phát triển tươi đẹp”.
Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản thay mặt cho lãnh đạo và nhân dân Lào cam kết:
Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và nhân dân các dân tộc Lào rất tự hào về mối quan
hệ thủy chung, son sắt Lào - Việt, “nguyện ra sức củng cố và tăng cường mối
quan hệ đặc biệt đó, bảo vệ tình đoàn kết Lào - Việt như bảo vệ con ngươi của
mắt mình”(8). Các thế hệ lãnh đạo mới ở Lào cũng tiếp tục coi trọng mối quan hệ
của Lào với Việt Nam và khẳng định quyết tâm tăng cường mối quan hệ hữu nghị,
đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện của Lào với Việt Nam. Như vậy, có thể
nhận định từ khi được đặt nền móng trong quan hệ ngoại giao, quan hệ đặc biệt
giữa hai nước Việt Nam - Lào đã cùng chung hệ tư tưởng trong xây dựng và phát
triển đất nước, không ngừng được các thế hệ lãnh đạo hai nước đề cao, củng cố,
xây dựng và vun đắp.
Sự chia sẻ mục tiêu
quốc gia
Từ năm 1986, khi hai
nước bước vào thời kỳ đổi mới, với mục tiêu chung là tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa và tăng cường hội nhập quốc tế. Hai nước cùng xây dựng mô hình
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo
của một chính đảng duy nhất.
Sự tương đồng giữa hai
Đảng, hai bộ máy nhà nước và lý tưởng chung xã hội chủ nghĩa, về quan điểm tư
tưởng, đường lối, chiến lược phát triển đã giúp hai nước xây dựng được Liên
minh chiến đấu Việt Nam - Lào, là điều kiện quan trọng tạo nên mối quan hệ đặc
biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới. Chiến lược phối hợp hiệp đồng, không vụ
lợi như thế chỉ có thể sinh ra từ một đường lối chính trị có sự nhất trí cao độ
về quan điểm và lợi ích chân chính. “Về mặt đường lối, mối quan hệ cùng chung
một dòng máu chính trị, là tài sản quý báu nhất của hai Đảng, hai nhà nước và
hai dân tộc, là một yếu tố quan trọng quyết định đến thắng lợi của cách mạng
hai nước trong quá trình chiến đấu trường kỳ gian nan vất vả”(9). Như vậy, sự
tương đồng về ý thức hệ cũng như mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước của
mỗi bên đang là nhân tố cơ bản tác động đến mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt
Nam.
Để có được điều đó là
nhờ: 1- Cả hai nước Việt Nam và Lào đang xây dựng và phát triển đất nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có cùng ý thức hệ. Những kinh nghiệm và sự hỗ trợ
của Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn là vô cùng cần thiết và quý giá đối với
Lào, ngay trong công cuộc đổi mới đất nước, trong từng bước đi đều có sự trao
đổi, bàn bạc nhằm tranh thủ sự giúp đỡ và kinh nghiệm của Việt Nam; Việt Nam đã
cử nhiều cán bộ cấp cao sang giới thiệu kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới
tại các hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào(10). Việc xây dựng lực
lượng cán bộ cốt cán về Đảng, chính quyền, quốc phòng - an ninh... của Lào đều
có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Việt Nam, hầu hết các thế hệ lãnh đạo chủ chốt
trong hệ thống chính trị của Lào đều được gửi qua đào tạo ở Việt Nam. Vì vậy,
Lào và Việt Nam dễ tìm kiếm quan điểm chung trong các chính sách, chiến lược
phát triển; 2- Kể từ khi hai nước tiến hành công cuộc đổi mới, lãnh đạo hai
nước đều chủ trương xây dựng mối quan hợp tác trên nguyên tắc “bình đẳng cùng
có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu
tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”. Điều này có nghĩa là, lãnh đạo hai nước đều quán
triệt nguyên tắc giúp đỡ nhau trên tinh thần đồng chí, chí công vô tư, tương
trợ tối đa; 3- Công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam và Lào đều được tiến hành
trên cơ sở những chủ trương và bằng những phương thức về cơ bản tương đồng với
nhau. Đó cũng là thuận lợi cơ bản để hai nước củng cố và tăng cường quan hệ hữu
nghị, đoàn kết đặc biệt trong bối cảnh mới. Nhờ sự tương đồng về thể chế chính
trị - xã hội, có cùng định hướng và mục tiêu phát triển chiến lược, sự kiên
định của mỗi bên trong việc gắn bó chặt chẽ với nhau về chính trị; sự tin cậy
lẫn nhau, mà quan hệ giữa hai nước được triển khai đều khắp, sâu rộng trên cả
ba kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ Trung ương đến các địa phương; 4- Việt
Nam và Lào đều coi nhau là đối tác đặc biệt, ưu tiên cao nhất trong chính sách
đối ngoại của mỗi nước; khẳng định “Lào coi trọng việc tăng cường quan hệ hữu
nghị, tình đoàn kết đặc biệt truyền thống và sự hợp tác có hiệu quả với Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(11) và “Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên
cao nhất cho mối quan hệ đặc biệt với Lào”(12). Đây là nhân tố có ý nghĩa quan
trọng, cơ bản nhất và mang tính chi phối nhất trong quan hệ Việt Nam - Lào, là
cơ sở để kết hợp các nhân tố, thúc đẩy quan hệ hữu nghị gắn bó, đoàn kết đặc
biệt giữa hai nước trong hiện tại và tương lai.
Trên phương diện lợi
ích quốc gia - dân tộc
Về mặt địa - chính
trị, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam và Lào đều đứng trước những cơ
hội và thách thức lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nuớc xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu không chỉ tạo ra những khó khăn trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và
Lào, mà còn gây ra những tác động nhất định về mặt an ninh chính trị, tư tưởng
của mỗi nước. Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình, tăng cường chống phá,
chia rẽ khối đoàn kết Việt Nam - Lào, không ngừng sử dụng chiến lược “diễn biến
hòa bình” để tấn công vào sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Nhận thức rõ an
ninh của mỗi nước không tồn tại độc lập, nên cả hai nước đều chú trọng, tăng
cường hợp tác chặt chẽ về quốc phòng - an ninh, bởi sự hợp tác này được xây
dựng trên cơ sở truyền thống chống ngoại xâm của hai dân tộc từ ngàn xưa và sự
tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi
nước trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Lịch sử đã chứng minh,
hai dân tộc Việt Nam và Lào gắn kết với nhau như là quy luật tự nhiên và sự gắn
kết đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự ổn định về chính trị và sự phát
triển của mỗi nước. Yếu tố quốc phòng - an ninh ngày càng trở nên quan trọng và
có tác động qua lại lẫn nhau rất rõ rệt. Hợp tác hiệu quả về quốc phòng - an
ninh giữa hai nước sẽ giúp an ninh và ổn định chính trị của hai nước được bảo
đảm.
Về mặt địa - kinh tế,
Lào là nước nằm sâu trong nội địa, không có biển, do đó rất cần các cửa ngõ
thông thương ra thế giới. Trong thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, Lào chỉ có thể
chính thức giao thương với các nước xã hội chủ nghĩa thông qua cảng Đà Nẵng của
Việt Nam, đó cũng là một trong những lý do khiến Việt Nam trở nên vô cùng quan
trọng đối với Lào. Sang thời kỳ đổi mới, con đường thông thương của Lào được mở
rộng hơn qua các cảng biển khác của Việt Nam, như: Cửa Lò, Vũng Áng, Đà Nẵng...
do khoảng cách từ Viêng Chăn đến các cảng của Việt Nam tương đối gần, tạo điều
kiện cho hàng hóa của Lào thông thương ra thế giới được dễ dàng hơn. Có thể
nói, với hệ thống “đường xương cá” và hệ thống cảng biển thuận lợi, Việt Nam là
cầu nối quan trọng để Lào mở rộng sản xuất, thu hút đầu tư, lưu thông hàng
hóa... với các nước trong khu vực và thế giới.
Với chính sách mở cửa
thị trường, con đường thông thương của Lào qua Thái Lan đã được mở ra. Tuy
nhiên, với vị trí địa chiến lược quan trọng của Việt Nam ở Biển Đông, các cảng
biển của Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của Lào.
Trước hết, không chỉ bởi khoảng cách di chuyển ngắn hơn nhiều so với qua Thái Lan
mà còn do những thuận lợi phía Việt Nam dành cho Lào. Miền Trung Việt Nam có
thể nói là cửa ngõ ra biển của Lào và Bắc Thái Lan. Vì vậy, sự hiện diện của
Thái Lan trong cửa ngõ thông thương ra biển đối với Lào cũng không làm giảm
mạnh tầm quan trọng của các cảng biển Việt Nam. So sánh khoảng cách từ cảng Cửa
Lò tới Viêng Chăn là 397km, trong khi từ cảng Băng Cốc tới Viêng Chăn là 642km;
từ cảng Vũng Áng tới Viêng Chăn tương đương với khoảng cách từ cảng Băng Cốc
tới Viêng Chăn; từ cảng Đà Nẵng tới Sa-vẳn-na-khệt khoảng 485km; từ cửa khẩu
Đen-sa-vẳn - Lao Bảo tới Đà Nẵng 249km. Đồng thời, với việc hai Chính phủ Việt
Nam - Lào đầu tư và khai thác cảng Vũng Áng (Việt Nam góp 80% vốn đầu tư, Lào
góp 20%) đã tạo lợi thế cạnh tranh cho các cảng biển Việt Nam so với Thái Lan.
Đây cũng là lý do khiến nhu cầu khai thác vị trí địa chiến lược của Việt Nam
đối với Lào ngày càng trở nên cần thiết. Với Việt Nam, trong bối cảnh đẩy mạnh
công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Lào như là cầu nối đi sang các nước
ASEAN khác, tiêu biểu như Hành lang kinh tế Đông - Tây nối Việt Nam qua Lào,
Thái Lan sang Myanmar.
Đối với Việt Nam, vị
trí địa - chính trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ
biên giới, ngăn chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía Tây vào Việt Nam.
Thực tế, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, một số hoạt động chống phá của
các thế lực bên ngoài đã lợi dụng địa hình rừng núi làm căn cứ hoạt động và bàn
đạp nhằm thâm nhập chống phá Việt Nam. Lào cũng là một nước nằm ở hạ lưu sông
Mê Công và việc xây các đập nước của các nước trên dòng Mê Công đã và đang đặt
Việt Nam vào tình thế phải gánh chịu những tác động nặng nề về môi trường, ảnh
hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là tác động trực tiếp
đến sinh kế của hàng chục triệu người dân sống tại đồng bằng sông Cửu Long, làm
mất dần sản lượng cá, canh tác lúa và mất đất ra biển(13). Vì vậy, vị trí địa -
chính trị của Lào trên dòng sông Mê Công đã và đang khiến nhu cầu mong muốn hợp
tác chặt chẽ Việt Nam - Lào ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Như vậy, sự ổn định
trong hòa bình và phát triển của Lào và việc củng cố mối quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào trên các lĩnh vực trở thành một trong những yếu tố cấu thành lợi ích
quan trọng, chính đáng của Việt Nam. An ninh và ổn định của Lào có ảnh hưởng
trực tiếp tới an ninh, ổn định và phát triển của Việt Nam do vị trí địa - chính
trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới, ngăn
chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía tây vào Việt Nam. Sự ổn định an ninh
của Lào là điều kiện quan trọng bảo đảm an ninh của Việt Nam và ngược lại. Do
vậy, việc tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh luôn là vấn đề sống còn của
cả hai quốc gia Việt Nam - Lào.
Có thể thấy, việc tăng
cường phát triển quan hệ đặc biệt giữa hai quốc gia giúp Việt Nam và Lào bảo vệ
được những lợi ích quốc gia của mình. Những sự tương đồng và lợi ích quốc gia
của mỗi nước rõ ràng có tác động tích cực đến quan hệ Việt Nam - Lào, vừa xuất
phát từ ý muốn chủ quan (hệ tư tưởng và đường lối của đảng cầm quyền), vừa từ
thực tế khách quan do sự phát triển của mỗi nước đòi hỏi./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét