Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

PHẢN BÁC NHỮNG ĐÁNH GIÁ SAI LỆCH VỀ SÁCH TRẮNG “TÔN GIÁO VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM”!

         Kể từ khi được công bố, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” cung cấp những thông tin chân thực về tôn giáo, chính sách tôn giáo, thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và những ưu tiên nhằm thúc đẩy việc thụ hưởng ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Với vai trò quan trọng đó, Sách trắng cũng trở thành tâm điểm công kích, phê phán thiếu thiện chí của các lực lượng cực đoan nhằm phủ nhận chính sách tôn giáo và những thành tựu quan trọng về bảo đảm quyền tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong suốt thời kỳ đổi mới. Do đó, việc nhận diện và phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là rất cần thiết, nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo!

Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” được Ban Tôn giáo Chính phủ cho ra mắt bạn đọc vào tháng 12-2022, là cuốn cẩm nang hữu ích, cung cấp đầy đủ thông tin về việc thực thi và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách tập trung vào các nội dung: Giới thiệu chung về các tôn giáo ở Việt Nam; quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, những nguyên tắc hiến định và chính sách, pháp luật hiện hành về tín ngưỡng, tôn giáo; thành tựu, thách thức và hướng ưu tiên của Việt Nam trong việc bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Cuốn Sách trắng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ cung cấp đầy đủ những thông tin chân thực về tình hình tôn giáo mà còn làm rõ cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý vững chắc của việc bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, một số tổ chức phản động, thù địch và các lực lượng cực đoan đã cố tình bóp méo, xuyên tạc và bịa đặt trắng trợn nội dung, ý nghĩa của cuốn sách nhằm tạo luồng dư luận trái chiều, gây nhiễu loạn thông tin và kích động phản ứng tiêu cực từ một số tổ chức quốc tế và các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước. Những luận điệu sai trái, thù địch của các lực lượng chống phá được đăng tải trên các diễn đàn và trên các phương tiện truyền thông xã hội chủ yếu tập trung vào một số vấn đề sau:

Một là, trắng trợn vu cáo Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là “bức bình phong” che đậy “các vi phạm về tôn giáo, tín ngưỡng kéo dài tại Việt Nam”(?!) - nguyên nhân khiến Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào Danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo (SWL) năm 2022 và khuyến nghị đưa trở lại Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) năm 2023.

Như đã trở thành thông lệ, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF) của Hoa Kỳ hằng năm đều tự cho mình cái quyền đưa các bản báo cáo nhân quyền, tự do tôn giáo để giám sát, can thiệp và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các nước trên thế giới nếu “vi phạm hệ giá trị, chuẩn mực về nhân quyền, phẩm giá con người” mà Hoa Kỳ tự ý và chủ quan áp đặt. Theo Đạo luật tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, những nước gần chạm ngưỡng CPC phải được đưa vào SWL để theo dõi sát sao và nếu sau một thời gian vẫn không cải thiện thì đó là căn cứ để chính thức đưa vào CPC. Các nước bị chỉ định CPC phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt, nặng nhất là cấm vận.

Những nhận định thiếu khách quan của nhiều nước phương Tây về tự do tôn giáo ở Việt Nam trong các báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế không còn là vấn đề mới(1). Trong nhiều năm trở lại đây, USCIRF luôn vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo”,... Những cáo buộc này làm sai lệch thông tin về hoạt động tôn giáo và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Phải khẳng định rằng, nguồn thông tin mà USCIRF của Hoa Kỳ thu thập trong các bản báo cáo chủ yếu là những thông tin phiến diện, không đáng tin cậy, có được do tiếp cận với các tổ chức phản động, cá nhân chống đối, có tư tưởng hẹp hòi dân tộc, thù hận, bất mãn với chế độ. Luận điệu của các tổ chức, cá nhân đó không thể đại diện cho bất kỳ tổ chức tôn giáo nào, không vì lợi ích cộng đồng, mà mang mưu đồ, lợi ích cá nhân, do đó không có giá trị tham khảo(2). USCIRF đã cố tình không trích dẫn những đánh giá của chức sắc, giáo sĩ... trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước Việt Nam công nhận tư cách pháp nhân(3), có tiếng nói đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo ở Việt Nam.

Rõ ràng, việc USCIRF và các lực lượng cực đoan sử dụng những phát ngôn và nhận định thiếu cơ sở để cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo trên các diễn đàn là thiếu khách quan; càng phi lý hơn khi lấy đó là lý do để phê phán Sách trắng của Việt Nam. Bởi, ở Việt Nam, không có cái gọi là một sự “bưng bít” “những vi phạm kéo dài”, càng không thể có “bức bình phong” nào được tạo ra, vì Việt Nam luôn sẵn sàng công bố với quốc tế bức tranh chân thực về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo với những nội dung thông tin phản ánh trung thực, súc tích và đầy sức thuyết phục của Sách trắng.

Hai là, xuyên tạc rằng, Sách trắng nhưng chưa minh bạch và vẫn thiếu tự do tôn giáo vì “chủ nghĩa tam vô”(?!).

Phải khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tam vô” (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) là sự phỉ báng lịch sử, xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạ thấp uy tín của Việt Nam, lấy đó làm sự xảo biện xuyên tạc nội dung của Sách trắng.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần yêu Tổ quốc kết hợp với tinh thần yêu thương nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Do đó, người cộng sản không những không “vô tổ quốc”, mà họ còn xứng đáng là những người yêu nước nhất. Những người cộng sản cũng luôn coi gia đình là tế bào của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt” (4).

Những người cộng sản cũng luôn thừa nhận và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của nhân dân. Do đó, trong Cương lĩnh, chính sách và hành động thực tế, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như không tín ngưỡng, tôn giáo. Chỉ ra điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo và lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đó là xây dựng một xã hội tốt đẹp, giải phóng con người và mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Ở Việt Nam, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao sự tương đồng về mục đích giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản(5). Theo đó, khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản không nhất thiết dẫn tới sự biệt lập nếu đôi bên hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau trong một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng về cách mạng, đi theo cách mạng. Người cho rằng, đồng bào có đạo vẫn có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng, chỉ cần họ tích cực hoạt động cách mạng, “trung thành và hăng hái làm nhiệm vụ” (6). Ngày nay, thực hiện lời căn dặn của Người, cũng như quán triệt chủ trương của Đảng về kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo, nhiều tín đồ, chức sắc của các tôn giáo đã được kết nạp vào Đảng, trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam(7).

Do đó, có thể khẳng định rằng, không có “chủ nghĩa tam vô” ở Việt Nam, đặc biệt là ở những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là minh chứng cho thấy, Sách trắng hoàn toàn minh bạch khi tuyên bố công khai về tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Ba là, xuyên tạc trắng trợn rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” công bố tự do tôn giáo song nhiều “nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động”(?!).

“Các nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động” được các tổ chức thiếu thiện chí nhắc đến, trên thực tế, là những tổ chức bất hợp pháp, đội lốt tôn giáo để truyền bá tư tưởng cực đoan, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam. Các hoạt động của các tổ chức này vi phạm pháp luật của Việt Nam.

Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Quyền tự do tôn giáo không thể đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xuyên tạc, kích động ly khai, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo; gây rối trật tự công cộng và xâm phạm đến an ninh quốc gia. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung về quyền tự do tôn giáo đã nêu trong các văn kiện quốc tế, như Công ước quốc tế năm 1966 về các quyền chính trị và dân sự quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hay tín ngưỡng của một người chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác” (8). Nội luật hóa hệ thống luật pháp quốc tế, ở mỗi quốc gia cũng đều có những quy định riêng về hoạt động tôn giáo để bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia(9). Không một quốc gia nào cho phép hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài sự quản lý của nhà nước. Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nghiêm cấm lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập, đoàn kết dân tộc, chống phá Nhà nước hay ngăn cản tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân. Điều này được phản ánh rất rõ trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo: “Nghiêm cấm các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường” (10).

Vì vậy, việc ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các nhóm đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, làm trái pháp luật Việt Nam là điều cần thiết. Đó không phải là sự đàn áp hay ngăn cấm hoạt động của các nhóm tôn giáo, mà là sự bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật.

Bốn là, bóp méo rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” phản ánh sự áp đặt trong định hướng chính trị của chủ thể Nhà nước chứ không phản ánh sự tôn trọng niềm tin tôn giáo và bảo đảm thực hành nghi lễ tôn giáo của người dân(?!).

Chính sách tôn giáo nhất quán của Việt Nam được khẳng định trong Sách trắng là sự lựa chọn phù hợp với thực tiễn lịch sử và đáp ứng nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân có tín ngưỡng. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa “ý Đảng” và “lòng dân”.

Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố và thực hiện chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tự do tín ngưỡng”. Nhờ chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng triệu người dân Việt Nam, dù “lương” hay “giáo” đều có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của nước nhà(11). Ngày 14-6-1955, trong Sắc lệnh số 234/SL, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân, không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy”. Các Hiến pháp sau này (1959, 1980, 1992, 2013) vẫn hiến định phương châm, chính sách về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với bối cảnh trong nước và quốc tế, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chính sách đó được thể hiện thông qua các văn kiện chính trị của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước.

Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức rõ rằng, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn bị, bảo đảm tốt hơn nữa quyền tự do của con người, của công dân, trong đó có quyền tự do theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ, cũng như lợi ích của các tổ chức tôn giáo; không kỳ thị, phân biệt đối xử với các tín ngưỡng, tôn giáo và người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay cả đối với người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù cũng có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo(12). Đồng thời, Nhà nước cũng đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân theo tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng, bảo vệ trật tự xã hội và thể chế nhà nước cũng như quyền tự do của cá nhân và tổ chức khác. Các tôn giáo và người theo tôn giáo gắn bó, đồng hành với dân tộc, cùng chung tay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung(13). Đặc biệt, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”(14).

Chính vì thế, cần khẳng định rõ, không có bất kỳ sự áp đặt nào trong định hướng chính trị của Nhà nước đối với chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Rõ ràng, phải dựa trên cơ sở tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, mỗi bên nhận thức được ranh giới, nghĩa vụ, quyền hạn của chính mình thì mới có thể chung sống hòa hợp, cùng nhau thúc đẩy sự phát triển chung. Nếu không phải là một chính sách tôn giáo tiến bộ, hợp thời đại và hợp lòng dân, chắc chắn không thể có một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như ngày nay. Nội dung của Sách trắng hướng tới khẳng định, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Nhà nước ghi nhận, bảo hộ theo chiều hướng tiến bộ, tích cực(15). Nhà nước luôn coi trọng đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, bảo đảm các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật. Đây là sự thật không thể phủ nhận!

Việc xuất bản Sách trắng chính là nhằm công khai rộng rãi tới công chúng trong nước và bạn bè quốc tế về chính sách ưu tiên, chính sách bền vững của Việt Nam đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ quyết tâm thực hiện mục tiêu ngày càng bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo./.
----------------------------
(1) Từ năm 2004 đến năm 2005, Việt Nam lần đầu tiên bị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa vào CPC, tới năm 2006 Việt Nam được đưa ra khỏi danh sách này. Tuy nhiên, liên tiếp từ năm 2012 đến nay, USCIRF - cơ quan tham vấn độc lập do Quốc hội Hoa Kỳ thành lập và là “cánh tay nối dài” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - thường xuyên đề nghị đưa Việt Nam trở lại CPC, bất chấp những nỗ lực và thành tựu quan trọng của Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi
(2) Xem: “Nhận diện những đánh giá sai lệch về Sách trắng Tôn giáo ở Việt Nam”, Trang Thông tin điện tử Công an Quảng Ninh, ngày 27-3-2023, https://congan.quangninh.gov.vn/tin-antt-va-canh-bao-toi-pham/nhan-dien-nhung-danh-gia-sai-lech-ve-sach-trang-ton-giao-o-viet-nam-25069.html
(3) Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự, Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: “Trong tất cả các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, không hề có sự khó khăn nào trong việc thực hành niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của mình”; Mục sư Charlie McKenzie, Cộng đồng Tin Lành quốc tế Hanoi International Fellowship nhận định: “Khi được biết các tổ chức cáo buộc Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, tôi muốn nói với họ rằng, hãy thử đến sống ở Việt Nam, cùng với người Việt Nam, đi hằng ngày trên các con đường ở Việt Nam và đặc biệt hãy đến nhà thờ vào ngày chủ nhật trước khi đưa ra phán xét. Tự do tôn giáo có ở Việt Nam không ư? Có nhiều là đằng khác!”, xem: “Luận điệu xuyên tạc về tự do tôn giáo tại Việt Nam”, phóng sự trên VTV4, ngày 12-6-2022, https://youtu.be/JgATs9LQE1E?si=EL93-dKpT7z2WkqN
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 300
(5) Người luôn chủ trương “cầu đồng tồn dị”, nghĩa là khuyến khích điểm tương đồng và chấp nhận sự dị biệt, không quá nhấn mạnh sự khác biệt về mặt tư tưởng - duy tâm hay duy vật, hễ là người dân Việt Nam dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều hướng đến mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung tư tưởng nhân văn, sâu sắc này của Hồ Chí Minh được chuyển tải cô đọng trong đoạn văn nổi tiếng của Người: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò của các vị ấy” (Xem: Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 13)
(6) Xem: Phạm Hữu Xuyên: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, 2006
(7) Từ năm 2019 đến nay, cùng với việc triển khai Quy định số 06-QĐ/TW, ngày 28-8-2018, của Bộ Chính trị, về Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người theo tôn giáo và đảng viên là người theo tôn giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo (thay thế Quy định số 123-QĐ/TW, ngày 28-9-2004, quy định về kết nạp Đảng của người có đạo), công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo đạt được nhiều kết quả đáng khẳng định. Tính đến tháng 6-2021, theo số liệu thống kê từ cấp ủy các địa phương, toàn Đảng có 79.219 đảng viên theo tôn giáo (chiếm 1,5% tổng số đảng viên trong toàn Đảng), trong đó 60.946 đảng viên là tín đồ tôn giáo, 17.686 đảng viên là nhà tu hành tôn giáo, 486 đảng viên là chức việc tôn giáo, 101 đảng viên là chức sắc tôn giáo (Dẫn theo: Lê Tâm Đắc: “Công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: Từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 7, 2022, tr. 29)
(8) United Nations: International Convenant on Civil and Political rights, https://treaties.un.org/doc/treaties/1976/03/19760323%2006-17%20am/ch_iv_04.pdf, 1967
(9) Ở Hoa Kỳ, mặc dù không ban bố luật pháp riêng về tôn giáo nhưng các hoạt động tôn giáo đều được đặt dưới hệ thống pháp luật dân sự giống như bất kỳ tổ chức xã hội nào khác. Ở Pháp, “Luật phân ly” không thiếu các điều khoản nhằm tăng cường sự giám sát của chính quyền đối với các hiệp hội tôn giáo và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ, ly khai dân tộc. Tháng 2-2016, Chính phủ Pháp còn ban hành Đạo luật ly khai, trong đó cấm các hoạt động tôn giáo tuyên truyền về ly khai. Ở Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản phải sửa đổi, bổ sung “Luật Pháp nhân tôn giáo” để hạn chế quyền của các nhóm tôn giáo, tránh làm tổn hại đến an ninh quốc gia
(10) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tài liệu giới thiệu Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2017, tr. 9
(11) Lịch sử Việt Nam ghi nhận, trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, nhiều nhà sư phát nguyện cởi áo cà sa ra trận, trở thành những chiến sĩ vệ quốc đoàn kiên trung, nhiều cơ sở tôn giáo là căn cứ địa cách mạng nuôi giấu cán bộ kháng chiến, hàng vạn thanh niên trong vùng đồng bào có đạo hăng hái tham gia tòng quân, chi viện cho chiến trường
(12) Sách trắng nêu rõ, để bảo đảm quyền tự do tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù, hiện nay đã cung cấp 4.418 cuốn thuộc 17 đầu sách liên quan đến tôn giáo được đưa vào thư viện của 54 trại giam, tr. 92
(13) Xem: Vũ Hoàng Công: Chính sách tôn giáo trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tlđd
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 171
(15) Xem: Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 73.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: PHÁT HUY VÀ LAN TỎA GIÁ TRỊ VĂN HÓA “BỘ ĐỘI CỤ HỒ” TRONG TÌNH HÌNH MỚI!

         Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước là quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta. Đối với Quân đội, quan điểm về xây dựng nền văn hóa đó đã được kết tinh thành những giá trị cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” và không ngừng lan tỏa bằng những hành động, việc làm vì Tổ quốc, vì nhân dân của cán bộ, chiến sĩ Quân đội trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành!

Phẩm chất của “Bộ đội Cụ Hồ” cũng là đại diện tiêu biểu cho phẩm chất đạo đức của người chiến sĩ cộng sản, người quân nhân cách mạng; được Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XI khái quát: “Kiên định vững vàng, động cơ trong sáng, trách nhiệm cao, hành động đẹp; đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư; có tri thức khoa học, trình độ quân sự, năng lực, phương pháp, tác phong công tác và sức khỏe tốt; dân chủ, kỷ luật tự giác, nghiêm minh; đoàn kết, tôn trọng, gắn bó máu thịt với Nhân dân, có tinh thần quốc tế trong sáng”. Đó cũng là những giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” mà dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã được phát huy, lan tỏa để hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, làm tròn chức năng đội quân công tác. Sự lan tỏa đó được biểu hiện rõ trong bất cứ điều kiện, hoàn cảnh nào, toàn quân đều thực hiện tốt công tác dân vận, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tích cực tham gia xây dựng, củng cố cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, xóa đói, giảm nghèo,... làm sâu sắc hơn mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Quân đội với nhân dân, góp phần tăng cường lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Trên thực tế, các phong trào “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”; chương trình “Cảnh sát biển đồng hành cùng ngư dân”, “Hải quân Việt Nam làm điểm tựa cho ngư dân vươn khơi, bám biển”, “Nâng bước em tới trường”, “Bò giống giúp người nghèo nơi biên giới”, “Con nuôi đồn biên phòng”,… đã được triển khai phù hợp thực tiễn ở từng cơ quan, đơn vị, mang lại hiệu quả cao trong công tác dân vận. Riêng từ năm 2020 đến 2022, Quân đội vừa huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, vừa tích cực, chủ động đi đầu trong phòng, chống dịch Covid-19; phòng, chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng nhân dân. Đặc biệt, trong năm 2022, Quân đội đã huy động 119.503 lượt cán bộ, chiến sĩ và 5.634 lượt phương tiện tham gia cứu nạn hiệu quả 1.105 vụ, cứu được 1.107 người, 231 phương tiện; dập cháy 629 nhà và 310,43 ha rừng; di dời 32.142 hộ dân đến nơi an toàn tránh bão lũ; sửa chữa 3.559 nhà, 198 km đường giao thông; thu hoạch 23.540 ha lúa và hoa màu, v.v.

Những kết quả trên đã tiếp tục khẳng định truyền thống “Trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam. Hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” luôn có mặt kịp thời ở những nơi khó khăn gian khổ, kề vai sát cánh giúp đỡ nhân dân trong ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh đã để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng nhân dân, góp phần lan tỏa giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội; được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Quân đội luôn là lực lượng nòng cốt, xung kích đi đầu trong phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục sự cố môi trường; qua đó, ngày càng làm sâu sắc hơn, tỏa sáng phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới,... cán bộ, chiến sĩ toàn quân đã thực sự là chỗ dựa vững chắc, tin cậy của Đảng, Nhà nước và Nhân dân, xứng đáng là Quân đội của Nhân dân, Quân đội trong lòng dân”3.

Ở nước ta, những năm gần đây, cùng với sự xuất hiện các giá trị văn hóa mới, những hiện tượng phản văn hóa ngày một gia tăng, làm sói mòn, thậm chí phá vỡ một số chuẩn mực thiêng liêng đã được xây dựng từ ngàn đời trong văn hóa dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, mặt trái của nền kinh tế thị trường đã ảnh hưởng tiêu cực đến đạo đức, văn hóa, xã hội; làm phân hóa giàu nghèo, cạnh tranh không lành mạnh, gia tăng tội phạm, tệ nạn xã hội, v.v. Một số người đề cao các yếu tố vật chất đã hình thành, phát triển lối sống thực dụng, bỏ qua những giá trị, chuẩn mực đạo đức, nhân cách con người, văn hóa xã hội để làm giàu, kiếm tiền bằng mọi thủ đoạn, kể cả chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Tất cả đều thuộc về những nhận thức, hành vi phản văn hóa đã và đang tồn tại trong đời sống xã hội nước ta, đòi hỏi phải đấu tranh khắc phục, xóa bỏ trong quá trình xây dựng đời sống văn hóa mới và con người mới xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng hiện nay.

Để đấu tranh loại bỏ những hành vi phản văn hóa hiện nay, bên cạnh những biện pháp hành chính và pháp luật mang tính răn đe, cần lan tỏa những điều tốt đẹp, nhân rộng những tấm gương bình dị và trong sáng, người tốt, việc tốt trong toàn xã hội; để “mỗi người tốt, việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp” như lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy và không ngừng lan tỏa giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội chính là nhằm thực hiện phương châm “lấy cái đẹp, dẹp cái xấu”, góp phần làm trong sạch, lành mạnh môi trường văn hóa xã hội ở nước ta hiện nay. Theo đó, cần tập trung vào một số nội dung, giải pháp chủ yếu sau:

Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm gìn giữ và phát huy các giá trị truyền thống của Quân đội nhân dân Việt Nam. Đó là truyền thống quyết chiến, quyết thắng, mưu trí, dũng cảm, kiên cường, bất khuất, “trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Theo đó, trong điều kiện hiện nay, các cơ quan, đơn vị cần phát huy và làm lan tỏa tinh thần kiên định với mục tiêu lý tưởng của Đảng, vì hạnh phúc của nhân dân; dám đương đầu với khó khăn, thử thách và tìm mọi biện pháp để vượt qua; dám đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì khi Tổ quốc cần; luôn đấu tranh với tư tưởng bàn lùi, né tránh, trông chờ, ỷ lại, không nỗ lực phấn đấu vươn lên, v.v. Giữ vững và tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, gắn bó máu thịt quân - dân, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, chức năng “đội quân công tác” trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Trong thực hiện, lãnh đạo, chỉ huy các cấp cần coi trọng việc tuyên truyền, vận động cán bộ, chiến sĩ tích cực tham gia phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng đời sống văn hóa và nông thôn mới, giảm nghèo bền vững; nhất là ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, biên giới, hải đảo, góp phần xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh. Tiếp tục đổi mới phương thức, nâng cao hiệu quả phong trào thi đua “Dân vận khéo” và công tác tuyên truyền đặc biệt, góp phần củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết quân - dân, giữa nhân dân với Đảng.

Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp và vai trò xung kích của đoàn viên, thanh niên khi tổ chức lực lượng thực hiện nhiệm vụ tuyến đầu. Cán bộ chủ trì các cấp cần có tinh thần quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức cho bộ đội tham gia phòng, chống thiên tai, dịch bệnh, cứu giúp nhân dân; tập trung cao độ tinh thần, trí tuệ để tìm ra những phương pháp, cách thức tổ chức điều hành linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải hăng hái, xung phong nhận việc khó, nơi phức tạp, vị trí tiềm ẩn nhiều nguy hiểm để làm gương, mang lại sức mạnh hiệu triệu, cổ vũ tinh thần cho bộ đội trong thực hiện chức năng “đội quân công tác”. Bên cạnh đó, cấp ủy, chỉ huy đơn vị cần có biện pháp huy động sức trẻ, sự năng động, sáng tạo, xung kích của thanh niên Quân đội. Cần xác định đây là lực lượng nòng cốt ở các vị trí, thời điểm thiết yếu để thường xuyên giáo dục, động viên, nêu cao tinh thần trách nhiệm, sẵn sàng xả thân vì nhân dân của đoàn viên, thanh niên. Tăng cường huấn luyện, rèn luyện và thường xuyên định hướng, uốn nắn, chỉ bảo để đoàn viên, thanh niên hoàn thành mọi nhiệm vụ trong tham gia phòng, chống thiên tai, dịch bệnh; nhất là, khi hoạt động độc lập, dưới sự quản lý, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương.

Đổi mới tư duy và hành động trong lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, cán bộ chủ trì các cấp đối với tổ chức thực hiện Cuộc vận động Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới. Đặt trọng tâm Cuộc vận động vào việc giữ vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” với nội dung mới phù hợp với sự phát triển của thực tiễn. Đồng thời, cũng cần hướng vào việc thu hút nhân tài, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của quá trình hiện đại hóa Quân đội trong những năm tới; nhất là, nguồn nhân lực phục vụ trực tiếp cho các lĩnh vực tiến thẳng lên hiện đại, như: tác chiến không gian mạng, tác chiến điện tử, không quân, hải quân, công nghiệp quốc phòng, thông tin liên lạc, v.v.

Tiếp tục triển khai các hoạt động xây dựng môi trường văn hóa trong Quân đội nhân dân Việt Nam, xây dựng cảnh quan, môi trường ngày càng “sáng, xanh, sạch, đẹp” và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của bộ đội. Trong đó, tập trung xây dựng các mối quan hệ văn hóa ngày càng tốt đẹp, chuẩn mực, trở thành hình mẫu trong đời sống xã hội, như: quan hệ cấp trên - cấp dưới, đồng chí - đồng đội; đoàn kết gắn bó máu thịt quân - dân; đoàn kết hữu nghị, hiểu biết, tin cậy với quân đội và nhân dân các nước láng giềng của các đơn vị đóng quân ở các địa bàn biên giới, v.v. Cùng với đó, thường xuyên quan tâm đào tạo, bồi dưỡng xây dựng đội ngũ văn nghệ sĩ, trí thức Quân đội ngày càng đông đảo về số lượng, tinh mạnh về chất lượng; có cơ chế mạnh mẽ động viên, khuyến khích đội ngũ này phát huy tối đa năng lực sáng tạo, lòng nhiệt huyết trong nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận, thực tiễn xây dựng và phát triển văn hóa quân sự Việt Nam trong tình hình mới. Đây cũng là lực lượng nòng cốt trong sáng tác, biểu diễn, quảng bá các tác phẩm văn học, nghệ thuật có chất lượng cao phản ánh đầy đủ đời sống của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hôm nay, góp phần làm lan tỏa những giá trị cao đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ” trong đời sống xã hội.

Bằng những hành động, việc làm cụ thể, thiết thực, hiệu quả, cán bộ, chiến sĩ toàn quân tiếp tục phát huy và làm lan tỏa những giá trị văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ” cao đẹp để góp phần đẩy lùi, dẹp bỏ những nhận thức, hành vi phi văn hóa, phản văn hóa, xây dựng xã hội mới, con người mới xã hội chủ nghĩa./.


Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: HỌC BÁC HỒ VIẾT BÁO ĐỂ PHỤNG SỰ TỔ QUỐC, PHỤC VỤ NHÂN DÂN!

     Chào mừng 99 năm Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2024), chúng ta nhớ về cuộc đời hoạt động báo chí cách mạng của Bác Hồ, hiểu sâu sắc hơn tầm vóc, giá trị và ý nghĩa của báo chí cách mạng, nhất là cái tâm - cái tầm - cái tuệ của Bác. Từ đó, ra sức học tập, làm theo tấm gương của Bác để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động báo chí cách mạng “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”!
Đúng vậy! Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Bác Hồ đã tìm ra vũ khí tư tưởng, lý luận sắc bén để đấu tranh bảo vệ người nghèo, vạch trần tội ác của bọn thực dân, phong kiến; lên án tệ nạn áp bức, bóc lột, bất công; ra sức bảo vệ lẽ phải và chân lý. Bác đã học viết báo và dùng nó để thực hiện mục tiêu cách mạng. Công việc khó khăn ấy được bắt đầu ngay từ những ngày đầu tiên, khi Bác đặt chân lên đất Pháp. Ngoài việc lao động để kiếm sống và tham gia các hoạt động xã hội, Bác đã dành thời gian học tiếng Pháp, tiếp cận với nghề báo và học cách viết bài báo với hy vọng sử dụng báo chí làm công cụ thực hiện mục tiêu, lý tưởng “giúp đồng bào ta”. 
Sống ở nơi đất khách quê người, Bác ý thức rõ rằng, muốn người Pháp biết nỗi thống khổ của dân Việt Nam không có cách nào khác là phải học tiếng Pháp và dùng nó để viết báo, vạch trần tội ác của quân xâm lược. Lúc đầu, Bác đã nhờ những người bạn Pháp dạy cách viết bài, làm báo. Nhờ đó, Bác đã được các bạn Pháp hướng dẫn cách viết tin ngắn, ban đầu từ 5-6 dòng, sau đó tăng dần 7-8 dòng, rồi viết thành các bài tin ngắn về tình hình Việt Nam... Qua nhiều lần viết đi, viết lại, cuối cùng những bài báo ngắn gọn của Bác đã được đăng. Bác rất vui sướng ngắm nhìn những bài bào ấy thật lâu, đọc đi đọc lại nhiều lần rồi tự rút ra bài học kinh nghiệm quý sau khi so sánh, đối chiếu với bản thảo ban đầu. Một tháng rồi nửa năm trôi mau, Bác đã học nói tiếng Pháp và viết báo theo cách ấy. Thành công bước đầu đã đến và nó giúp Bác bước chân vào làng báo một cách vững vàng, vượt qua những năm tháng gian nan, một mình vừa học vừa phải sống ở nơi đất khách, quê người. 
Sau này, Bác kể lại rằng, người có công giúp đỡ Bác làm báo là ông Jean Laurent Frederick Longuet - cháu ngoại của Các Mác - Chủ nhiệm tờ báo Dân chúng (Populaire) - Cơ quan tuyên truyền của Đảng Xã hội Pháp. Với các bài báo đã đăng trên tờ Dân chúng, người dân Pháp biết về sự bất công đang diễn ra ở Việt Nam. 
Khi đã tự tin viết báo, Bác được ông Marcel Cachin, chủ bút Báo Nhân đạo (L' Humanité) - Cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Pháp mời viết bài và trở thành cộng tác viên. Với sự giúp đỡ tận tình, hiệu quả của bạn bè Pháp, kỹ năng viết báo của Bác dần dần được nâng cao. Bác đã công bố 3 bài báo chính luận có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội Pháp, đó là “Tâm địa thực dân”, “Vấn đề dân bản xứ” hay “Yêu sách của nhân dân An Nam”… Trong đó, bài “Yêu sách của nhân dân An Nam”, lần đầu tiên Bác ký tên là Nguyễn Ái Quốc để gửi tới Hội nghị Versailles năm 1919. 
Với lý lẽ sắc bén, các bài báo đầu tiên của Bác đã thu hút sự chú ý của các đại biểu tham sự Hội nghị Versailles và độc giả người Pháp bởi tinh thần phê phán thâm sâu về chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân; đòi quyền độc lập, tự quyết cho các dân tộc thuộc địa… 
Mục đích viết báo của Bác là dùng thứ vũ khí sắc bén để đấu tranh chống lại cái xấu, cái ác; bảo vệ cái đúng, cái tốt; lấy nó làm phương tiện “giúp đồng bào thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc”. Để tiện cho công tác tuyên truyền, Bác đã sáng lập ra một tờ báo riêng và đặt tên tờ báo là “Người cùng khổ” (Le Paria). Tờ báo do Bác là chủ bút kiêm chủ nhiệm; đồng thời là người chữa bài, thủ quỹ, xuất bản và liên lạc. Đây là cơ quan ngôn luận của Hội Liên hiệp thuộc địa. 
Là một tờ báo độc lập, Bác và các cộng sự đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, nhất là khâu tài chính và sự kiểm duyệt để duy trì và phát triển tờ báo. Sự ra đời của báo “Người cùng khổ” đã thể hiện tâm nguyện của Bác là quy tụ, tập hợp, đoàn kết và phát huy vai trò của nhân dân các nước thuộc địa với nhân dân chính quốc nhằm đấu tranh chống thực dân, đế quốc; xóa bỏ ách áp bức, bóc lột, bất công, đem lại cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc cho người dân. 
Sự kiện mang tính bước ngoặc đánh dấu thành công bước đầu về hoạt động báo chí của Bác là ngày 1-4-1922, tờ báo “Người cùng khổ” (Le Paria) ra số báo đầu tiên bằng ba thứ tiếng Pháp, Ả rập và Trung Quốc và tờ báo này đã xuất bản liên tục trong 4 năm, từ tháng 4-1922 đến tháng 4-1924, ra được 38 số; mỗi số gần 5.000 bản. Trong thời gian này, Bác không chỉ viết bài cho báo Le Paria, mà còn viết cho rất nhiều tờ báo khác như L’Humanité, La Vie Ouvrière… Nhờ lao động kiên trì và bền bỉ, Bác đã lập nên phong cách báo chí Nguyễn Ái Quốc. Tính vượt trội và dấu ấn riêng là trong các bài viết và tranh minh họa, Bác đều ký tên Nguyễn Ái Quốc và nó đều thể hiện dũng khí đấu tranh kiên cường, đã vạch trần chính sách bóc lột của chủ nghĩa thực dân nói chung và thực dân Pháp nói riêng. Qua đó, Bác kêu gọi các dân tộc bị áp bức, bóc lột đúng dậy đấu tranh tự giải phóng mình.
Sau khi tờ Người cùng khổ (Le Paria) được phát hành rộng rãi, Bác tiếp tục cho ra mắt các tờ báo: Thanh niên, Công nông, Lính Kách mệnh, Thân ái, Đỏ, Việt Nam độc lập và Cứu quốc. Cuối năm 1924, Bác về Quảng Châu (Trung Quốc) để tổ chức huấn luyện cán bộ cho cách mạng Việt Nam. Để thuận lợi cho công việc, Bác đã sáng lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, ra tờ báo Thanh niên - Cơ quan ngôn luận của Hội và xuất bản Báo Thanh niên được 88 số bằng tiếng Việt, số báo đầu tiên được phát hành vào ngày 24-6-1925 và số cuối dừng xuất bản vào tháng 4-1927, khi các điều kiện duy trì hoạt động của tờ báo không còn. Kinh nghiệm hoạt động báo chí đã giúp Bác chỉ đạo, biên tập và viết nhiều bài chính luận với tầm nhìn và tính tư tưởng sâu sắc. Do yêu cầu của cách mạng, Bác đã lập ra báo Công Nông vào tháng 12-1926. Sau đó, vào tháng 2-1927, Bác đã sáng lập báo Lính Kách mệnh để tuyên truyền tư tưởng chính trị - quân sự cho đội ngũ chiến sĩ cách mạng (tờ báo Lính Kách mệnh là tiền thân của báo Quân đội nhân dân ngày nay). 
Như vậy, từ năm 1922 đến năm 1929, các tờ báo do Bác sáng lập đều nhằm mục đích truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định để cách mạng Việt Nam giành thắng lợi, đem lại tự do, cơm no, áo ấm cho nhân dân và nó cũng là ước nguyện cháy bỏng của Bác. Sau khi Đảng ta ra đời, Bác đã dành tâm huyết sáng lập và chỉ đạo tạp chí Đỏ, xuất bản số đầu tiên ngày 5-8-1930, đồng thời, Bác chỉ đạo các tờ báo Đảng như: Búa liềm, Tranh đấu, Tiếng nói của chúng ta hoạt động đúng tôn chỉ, mục đích...
Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dù bận trăm công ngàn việc, Bác vẫn dành thời gian chỉ đạo và trực tiếp viết bài cho Báo Sự Thật (tiền thân của Báo Nhân dân) với 23 bút danh khác nhau, đăng được 1.206 bài viết trên Báo Nhân dân từ số 1 (ngày 11/3/1951) đến số 5526 (ngày 1/6/1969). 
Với tư cách là người khai sinh, định hình và phát triển nền báo chí cách mạng Việt Nam, Bác đã để lại phong cách báo chí mẫu mực và đến nay, nó vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt, những lời dạy của Bác dành cho người làm báo, nhất là những người làm báo trẻ tuổi: viết báo là làm cách mạng, bằng những tác phẩm báo chí của mình, nhà báo bắc những nhịp cầu nối liền ý Đảng, lòng dân thành một khối thống nhất. 
Kỷ niệm 99 năm ngày báo chí cách mạng Việt Nam năm nay, chúng ta thành kính cảm ơn Bác kính yêu; thấy rõ hơn tầm vóc, giá trị và ý nghĩa của báo chí cách mạng, đặc biệt là tư tưởng, đạo đức, phong cách báo chí của Người; thấm nhuần sâu sắc hơn tư tưởng của Bác: Viết cho ai, viết để làm gì và viết như thế nào để báo cách mạng Việt Nam thực hiện tốt vai trò “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: KỊP THỜI RÀ SOÁT, SÀNG LỌC ĐƯA RA KHỎI ĐẢNG NHỮNG ĐẢNG VIÊN KHÔNG ĐỦ TƯ CÁCH!

     1. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam quy định: Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên tắc: tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân; Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng chỉ kết nạp những phần tử hăng hái nhất, cách mạng nhất; Đảng có những điều kiện kỷ luật bắt buộc mà mỗi đảng viên phải tuân thủ; khi đã vào Đảng thì mọi đảng viên phải theo tư tưởng của Đảng, chấp hành chỉ thị, nghị quyết và kỷ luật của Đảng. Theo Hồ Chí Minh: kỷ luật của Đảng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đòi hỏi phải được thực hiện nghiêm túc. Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam quy định rất rõ ràng và trong lời thề, lời tuyên thệ của đảng viên khi vào Đảng đều cam kết và hứa chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng. Đồng thời, Hồ Chí Minh còn yêu cầu cùng với chấp hành nghiêm kỷ luật của Đảng, phải chấp hành nghiêm “cả kỷ luật của các đoàn thể nhân dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”. 
Những tư tưởng, lời dạy trên của Hồ Chí Minh tiếp tục được quán triệt, vận dụng , thực hiện tích cực trong thời kỳ mới với nhiều chủ trương, biện pháp phù hợp, hiệu quả. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu rõ: “Cần hết sức coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng viên, qua đó kịp thời phát hiện, biểu dương nhân rộng các điển hình tiên tiến; kịp thời củng cố các tổ chức đảng yếu kém; xử lý nghiêm các đảng viên thoái hóa, biến chất, vi phạm pháp luật và kỷ luật Đảng”.
2. Các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường xuyên tạc, vu cáo rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam là một tổ chức vô kỷ luật, nếu có thì Đảng chỉ lợi dụng kỷ luật để đấu đá nội bộ, thanh trừng lẫn nhau và chỉnh đốn Đảng sẽ làm cho Đảng càng nhanh chóng tan rã, mất niềm tin trong nhân dân…
Sự thật lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam đã bác bỏ những thông tin sai trái mang tính chống phá đó. Lãnh tụ Hồ Chí Minh và Đảng chỉ rõ: mục đích của việc chỉnh đốn Đảng, duy trì kỷ luật Đảng là để “dùi mài cán bộ và đảng viên trở thành những chiến sĩ xứng đáng là người đầy tớ của nhân dân”, để Đảng đủ phẩm chất, năng lực, uy tín lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ nghiêm kỷ luật Đảng thường xuyên được Đảng duy trì, thực hiện nghiêm túc. Đảng cũng chú trọng, tăng cường xây dựng đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống các biểu hiện lệch lạc dễ dẫn đến tình trạng coi thường kỷ luật Đảng. Ngày 9-5-2024, Quy định số 144-QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XIII đã quy định rõ chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới, trong đó có những nội dung: nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật, kỷ cương, nhất là kỷ luật phát ngôn; nói và làm theo đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chấp hành các quy định của cơ quan, đơn vị, phục tùng sự phân công của Đảng, của tổ chức. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII cũng thẳng thắn chỉ rõ: Đảng chưa làm tốt công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên và chưa thường xuyên rà soát, kiên quyết sàng lọc đưa đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng. Từ đó, Đảng khẳng định sẽ: “Tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách”.
3. Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt nhấn mạnh trách nhiệm đảng viên phải chấp hành tốt kỷ luật Đảng. Điều lệ Đảng quy định đảng viên phải tham gia xây dựng, bảo vệ đường lối, chính sách và tổ chức của Đảng; thường xuyên tự phê bình và phê bình, trung thực với Đảng; phục tùng kỷ luật, giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng. Hồ Chí Minh xác định đó là nghĩa vụ, trách nhiệm của đảng viên: “Không giữ vững kỷ luật của Đảng, không kiên quyết chấp hành chính sách và nghị quyết của Đảng, không thiết tha quan tâm đến lợi ích của Đảng - là trái với nghĩa vụ đảng viên”. Người khẳng định rất rõ ràng: nếu đảng viên không làm những việc Đảng yêu cầu, vi phạm kỷ luật Đảng thì phải cần xử lý nghiêm minh, thậm chí là “đuổi ra ngoài Đảng”. Cũng theo Hồ Chí Minh, khi thực hiện kỷ luật Đảng, phải chú ý đến tính tự giác, tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, trong đó cán bộ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu. Tiêu biểu như trong Quân đội nhân dân Việt Nam, tinh thần: “Trên làm gương mẫu mực, dưới tích cực làm theo” được duy trì, phát huy sâu rộng, góp phần xây dựng Đảng bộ Quân đội luôn trong sạch, vững mạnh, kỷ luật nghiêm minh, xứng đáng làm kiểu mẫu cho các tổ chức đảng trong toàn Đảng học tập như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Đảng và nhân dân ta thường xuyên biểu dương, khẳng định. 
4. Trong thời kỳ đổi mới hiện nay, vấn đề kỷ luật Đảng càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đảng ta đã cố gắng phấn đấu làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ nghiêm kỷ luật Đảng, nhưng bên cạnh ưu điểm là cơ bản, vẫn còn có những hạn chế, khuyết điểm. Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII đã chỉ ra một số biểu hiện: “Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao”. Vì vậy, Nghị quyết Trung ương 5 khóa XIII xác định một trong những nhiệm vụ, giải pháp quan trọng là: “Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng”.
Thực hiện hiệu quả giải pháp trên cần có sự quyết tâm, hành động quyết liệt của các tổ chức đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua các hoạt động của mình, phát huy vai trò của đoàn viên, hội viên và nhân dân tham gia xây dựng Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngày càng trong sạch, vững mạnh”, đúng như chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Đảng Cộng sản Việt Nam./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH KẾT THÚC TỐT ĐẸP CHUYẾN CÔNG TÁC DỰ WEF ĐẠI LIÊN 2024 VÀ LÀM VIỆC TẠI TRUNG QUỐC!

     Chiều 27/6, chuyên cơ chở Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam đã về tới Sân bay quốc tế Nội Bài, Hà Nội, kết thúc tốt đẹp chuyến công tác tham dự Hội nghị thường niên các nhà tiên phong lần thứ 15 của Diễn đàn Kinh tế thế giới tổ chức tại Đại Liên (Hội nghị WEF Đại Liên 2024) và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 24-27/6 theo lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lý Cường và Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch điều hành WEF Klaus Schwab!

Hội nghị WEF Đại Liên 2024 thu hút sự tham dự đông đảo nhất trong số 15 lần hội nghị được tổ chức tại Trung Quốc với hơn 1.700 đại biểu đến từ 80 quốc gia, tổ chức quốc tế, học giả, các tập đoàn đa quốc gia và các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo của WEF.

Trong khuôn khổ hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã tham dự và phát biểu tại các phiên thảo luận và làm việc; cùng Nhà sáng lập kiêm Chủ tịch điều hành WEF Klaus Schwab chủ trì Phiên đối thoại với lãnh đạo các tập đoàn lớn của WEF; chủ trì Tọa đàm với doanh nghiệp đối mới sáng tạo của WEF.

Tại WEF Đại Liên 2024, Thủ tướng Phạm Minh Chính đóng góp thảo luận vào các vấn đề toàn cầu; đồng thời chia sẻ câu chuyện thành công của Việt Nam sau 40 năm đổi mới; truyền cảm hứng về đổi mới, hội nhập và phát triển của Việt Nam; kêu gọi cộng đồng quốc tế đoàn kết, cùng phát triển, nhất là trong các lĩnh vực đổi mới sáng tạo, hướng tới “Những chân trời tăng trưởng mới”.

Đối với hoạt động song phương với Trung Quốc, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính có các cuộc hội đàm, hội kiến với Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình; Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Lý Cường; Chủ tịch Chính hiệp toàn quốc Trung Quốc Vương Hộ Ninh.

Tại các cuộc hội kiến, hội đàm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và các nhà lãnh đạo Trung Quốc cùng nhìn lại những tiến triển tích cực trong quan hệ song phương Việt Nam - Trung Quốc kể từ sau các chuyến thăm lẫn nhau mang tính lịch sử của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng (tháng 10/2022) và Tổng Bí thư, Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (tháng 12/2023), cùng nhất trí đánh giá quan hệ Việt Nam - Trung Quốc chưa bao giờ sâu sắc, toàn diện, thực chất như ngày nay.

Cùng với việc điểm lại quá trình và kết quả thực hiện, hai bên thống nhất cùng chỉ đạo các cấp, các ngành hai nước đi sâu quán triệt, thực hiện tốt các thỏa thuận và nhận thức chung của hai đồng chí Tổng Bí thư, thúc đẩy quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược phát triển ngày càng thực chất, hiệu quả, bền vững theo phương hướng “6 hơn”.

Cùng với đó, Thủ tướng Phạm Minh Chính cùng Phó Thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc Trương Quốc Thanh dự và phát biểu tại Hội nghị “Hợp tác Việt Nam - Trung Quốc về phát triển hạ tầng chiến lược giao thông và vai trò của các doanh nghiệp Việt Nam - Trung Quốc”.

Thủ tướng cũng có các cuộc tiếp lãnh đạo các tập đoàn hàng đầu Trung Quốc trong lĩnh vực phát triển hạ tầng như: Công ty TNHH đầu máy và toa xe Đại Liên; Tập đoàn xây dựng Điện lực Trung Quốc; Tập đoàn Thông tin tín hiệu đường sắt Trung Quốc; Tập đoàn xây dựng Thái Bình Dương; Tập đoàn Thiên Doanh…

Thủ tướng mong muốn các doanh nghiệp Trung Quốc hợp tác, tham gia triển khai các dự án hạ tầng quy mô lớn tại Việt Nam như các tuyến đường bộ cao tốc, đường sắt tốc độ cao, đường sắt liên vùng, đường sắt đô thị; chuyển giao kinh nghiệm quản trị, công nghệ hiện đại, đào tạo nguồn nhân lực, thu hút đầu tư cho phát triển hạ tầng Việt Nam.

Chuyến công tác của Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp tục triển khai hiệu quả đường lối đối ngoại theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chỉ thị 25 của Ban Bí thư về đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương đến năm 2030 góp phần làm sâu sắc quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược; và quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa Việt Nam và WEF./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: ĐỂ VIỆC “CÓ LÊN, CÓ XUỐNG” TRỞ THÀNH BÌNH THƯỜNG TRONG CÔNG TÁC CÁN BỘ!

     Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hoá ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc "có lên, có xuống", "có vào, có ra" trở thành bình thường trong công tác cán bộ!

Đây là một trong những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được nêu trong Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 19/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ vừa được Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành.

Ngăn chặn, đẩy lùi tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ
Cụ thể, về nhiệm vụ tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ, Nghị quyết nêu rõ: Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, triển khai đồng bộ; thường xuyên hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện; ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả những tiêu cực, tham nhũng trong công tác cán bộ.

Thể chế hoá, cụ thể hoá các chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ theo hướng: Đồng bộ, liên thông, nhất quán trong hệ thống chính trị và phù hợp với thực tế; đẩy mạnh phân cấp, phân quyền; ràng buộc trách nhiệm và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; siết chặt kỷ luật, kỷ cương; tạo môi trường, điều kiện để thúc đẩy đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Đổi mới công tác đánh giá cán bộ theo hướng: Xuyên suốt, liên tục, đa chiều, theo tiêu chí cụ thể, bằng sản phẩm, thông qua khảo sát, công khai kết quả và so sánh với chức danh tương đương; gắn đánh giá cá nhân với tập thể và kết quả thực hiện nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị.

Đổi mới công tác tuyển dụng, luân chuyển cán bộ
Tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ: Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực.

Xây dựng Chương trình quốc gia về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và học tập ngoại ngữ.

Gắn quy hoạch với đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh và đẩy mạnh thực hiện luân chuyển cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị để rèn luyện qua thực tiễn ở các lĩnh vực, địa bàn khác nhau.

Thực hiện việc bố trí bí thư cấp uỷ cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương theo mục tiêu đề ra; khuyến khích thực hiện đối với các chức danh khác, nhất là chức danh chủ tịch Ủy ban nhân dân, nếu có điều kiện.

Quy định khung cơ chế, chính sách ưu đãi để phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài có trọng tâm, trọng điểm, nhất là các ngành, lĩnh vực mũi nhọn phục vụ cho phát triển nhanh, bền vững. Xây dựng Chiến lược quốc gia về thu hút và trọng dụng nhân tài theo hướng không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, người Việt Nam ở trong nước hay ở nước ngoài.

Cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới
Về đổi mới công tác ứng cử, bầu cử, bổ nhiệm, bố trí, sử dụng cán bộ cần hoàn thiện các quy định, quy chế để cấp uỷ các cấp có cơ cấu hợp lý, tinh giản số lượng và nâng cao chất lượng, không nhất thiết địa phương, cơ quan, đơn vị nào cũng phải có cấp uỷ viên.

Tiếp tục thực hiện chủ trương bầu trực tiếp bí thư tại đại hội đảng bộ các cấp ở những nơi có điều kiện; thực hiện nghiêm việc lựa chọn, bầu cử có số dư; ứng viên trước khi bổ nhiệm phải trình bày chương trình hành động và cam kết trách nhiệm thực hiện.

Nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới; trường hợp đặc biệt do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định. Nhân sự không trúng cử cấp uỷ cấp dưới thì không giới thiệu để bầu cấp uỷ cấp trên.

Cấp uỷ các cấp và người đứng đầu phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, sắp xếp, bố trí, tạo điều kiện, cơ hội phát triển cho cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số. Xây dựng chỉ tiêu cơ cấu phù hợp, nếu chưa bảo đảm chỉ tiêu cơ cấu thì phải để trống, bổ sung sau; gắn việc thực hiện chỉ tiêu với trách nhiệm của cấp uỷ và người đứng đầu.

Quy định trách nhiệm của lãnh đạo và cấp uỷ viên các cấp trong việc tiến cử người có đức, có tài; người đứng đầu có trách nhiệm đào tạo, bồi dưỡng, tiến cử người thay thế mình.

Có cơ chế phát hiện, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, bố trí cán bộ có bản lĩnh, năng lực nổi trội và triển vọng phát triển vào vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả vượt cấp, nhất là cán bộ trẻ.

Xây dựng quy định để việc nhận trách nhiệm, từ chức, từ nhiệm trở thành nếp văn hoá ứng xử của cán bộ; hoàn thiện các quy định về cách chức, bãi nhiệm, miễn nhiệm để việc "có lên, có xuống", "có vào, có ra" trở thành bình thường trong công tác cán bộ.

Xử lý nghiêm những người có sai phạm
Thực hiện lộ trình cải cách tiền lương phù hợp với từng nhóm đối tượng theo vị trí việc làm, chức danh, chức vụ, năng suất lao động, hiệu quả công tác và điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, nguồn lực của đất nước.

Xây dựng chính sách nhà ở theo hướng: Nhà nước thống nhất ban hành cơ chế, chính sách; địa phương quy hoạch đất ở, nhà ở; cán bộ, công chức, viên chức mua và thuê mua. Thực hiện nghiêm, đúng đắn, chính xác chế độ thi đua, khen thưởng.

Xây dựng quy định về thẩm quyền, trách nhiệm của người đứng đầu trong công tác cán bộ và quản lý cán bộ; xử lý nghiêm những người có sai phạm, kể cả khi đã chuyển công tác hoặc nghỉ hưu.

Tăng cường công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Nắm chắc lịch sử chính trị và tập trung vào vấn đề chính trị hiện nay. Hoàn thiện quy định để xử lý, sử dụng những trường hợp có vấn đề về chính trị. Không xem xét quy hoạch, bổ nhiệm, giới thiệu ứng cử khi chưa có kết luận về tiêu chuẩn chính trị.

Mở rộng thi tuyển lãnh đạo cấp vụ, sở
Tiếp tục nghiên cứu, thực hiện thí điểm một số chủ trương: Mở rộng việc thi tuyển để bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp vụ, sở, phòng.

Người đứng đầu lựa chọn, giới thiệu cán bộ trong quy hoạch để thực hiện quy trình bầu cử, bổ nhiệm cấp phó của mình; bí thư cấp uỷ giới thiệu để bầu uỷ viên ban thường vụ theo một quy trình nhất định, bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ và phải chịu trách nhiệm về việc giới thiệu của mình.

Giao quyền cho người đứng đầu bổ nhiệm cán bộ trong quy hoạch, miễn nhiệm đối với cấp trưởng cấp dưới trực tiếp và chịu trách nhiệm về quyết định của mình./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ ĐỦ ĐỨC, ĐỦ TÀI, XỨNG ĐÁNG VỚI NIỀM TIN CỦA NHÂN DÂN!

         Từ trước đến nay, cán bộ và công tác cán bộ luôn giữ vị trí, vai trò quan trọng, là nhân tố quyết định sự thành bại của sự nghiệp cách mạng. Trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới hiện nay, vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ - “khâu then chốt” trong công tác xây dựng Đảng lại càng đặt ra cấp thiết hơn lúc nào hết!

Để chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV của Đảng, Tổng Bí thư đã chỉ rõ vấn đề quan trọng hàng đầu là phải xác định một số yêu cầu trọng tâm trong xây dựng Ban Chấp hành Trung ương mà hạt nhân là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo chủ chốt của Đảng trên tinh thần lựa chọn khách quan, chính xác nhân tố đủ đức, đủ tài, luôn xứng đáng với niềm tin của nhân dân. Trên cơ sở quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp cần có những phẩm chất như sau:
Một là, có tinh thần yêu nước sâu sắc, có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, Hiến pháp của Nhà nước và lợi ích của quốc gia - dân tộc.

Hai là, có phẩm chất đạo đức và lối sống trong sáng, gương mẫu, được cán bộ, đảng viên và nhân dân tín nhiệm.

Ba là, có trí tuệ, tầm nhìn, tư duy chiến lược và kiến thức tương đối toàn diện để tham gia hoạch định đường lối, chính sách và sự lãnh đạo tập thể của Ban Chấp hành Trung ương.

Thông điệp trong bài phát biểu quan trọng “Một số vấn đề cần được đặc biệt quan tâm trong công tác chuẩn bị nhân sự Đại hội XIV của Đảng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên họp đầu tiên của Tiểu ban Nhân sự Đại hội XIV của Đảng chính là những chỉ dẫn quan trọng cho công tác nhân sự của Đảng, là cơ sở đề ra phương hướng, yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng đội ngũ cán bộ Đại hội XIV./.
Yêu nước ST.

 NHẤT QUAN CHÍNH SÁCH NGOẠI GIAO CỦA VIỆT NAM


Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, việc thực thi đường lối đối ngoại, ngoại giao đặc sắc, đậm đà bản sắc dân tộc Việt theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được triển khai linh hoạt, chủ động trên tinh thần “muốn làm gì cũng vì lợi ích của dân tộc mà làm” và Việt Nam “làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”.

“THỰC LỰC LÀ CÁI CHIÊNG MÀ NGOẠI GIAO LÀ CÁI TIẾNG”

Nhất quán tư tưởng xuyên suốt “nước ta là một bộ phận của thế giới, mọi việc trong thế giới đều có quan hệ với nước ta, việc gì trong nước ta cũng quan hệ với thế giới”, trên những chặng đường cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng, Nhà nước Việt Nam không chỉ luôn “tin vào sức ta trước hết: Chỉ có nỗ lực mới làm cho ngoại giao toàn thắng”; luôn coi độc lập, tự chủ là nền tảng vững chắc để thực thi đường lối đối ngoại, ngoại giao, mà còn đặt cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của cách mạng thế giới để tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ quốc tế đối với sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước đã được triển khai, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp cách mạng.

Thực tế, việc thấu triệt quan điểm “muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã” và “sự giúp đỡ của các nước bạn là quan trọng, nhưng không được ỷ lại, không được ngồi mong chờ người khác. Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập” đã được triển khai thành công từ sau Hội nghị Trung ương Tám (5/1941); trong thời kỳ chuẩn bị và tiến hành Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945; trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược (1945-1975)…, mà còn được tiếp tục thực hiện linh hoạt, chủ động trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng trên tinh thần nhất quán quan điểm: “Lợi ích của nhân dân tức là lợi ích của Đảng và phải đặt lợi ích của nhân dân và của Đảng lên trên hết, trước hết”. Đó chính là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, đa dạng hóa, đa phương hóa vì lợi ích quốc gia - dân tộc trên tinh thần phát huy nguồn sức mạnh nội lực (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng…) gắn liền với khai thác, tranh thủ ngoại lực, “thêm bạn bớt thù” nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp để kiên quyết, khôn khéo thực hiện mục tiêu của cách mạng và bảo vệ quyền lợi quốc gia - dân tộc. 

Kiên định thực hiện đường lối đổi mới; kiên định thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao “là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế” và “không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”, phấn đấu vì hòa bình, độc lập, phát triển đã trở thành hiện thực sinh động khi Việt Nam đã, đang, tiếp tục là một quốc gia chủ động, tích cực hội nhập toàn diện, sâu rộng với thế giới. Thực tế là, nhất quán về nguyên tắc, mục tiêu, song linh hoạt, khôn khéo về sách lược; phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng, đồng bộ, hiệu quả giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân, đến nay “Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính... 

THẾ VÀ LỰC CỦA VIỆT NAM NGÀY CÀNG ĐƯỢC CỦNG CỐ VÀ NÂNG CAO

Kiên định con đường cách mạng Việt Nam- con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm Việt Nam kiên trì thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao độc lập, tự chủ coi đây vừa là mục tiêu cao nhất vừa là nguyên tắc bất biến bảo vệ tốt nhất lợi ích quốc gia - dân tộc. Những thành tựu đạt được từ việc nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại, ngoại giao vận dụng sáng tạo những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa và phát huy truyền thống, bản sắc đối ngoại, ngoại giao và văn hóa dân tộc và tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, tư tưởng tiến bộ của thời đại, Việt Nam “đã xây dựng nên một trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam” không chỉ được các tầng lớp nhân dân tin tưởng; được cộng đồng quốc tế đánh giá cao; được bạn bè quốc tế ủng hộ, tôn trọng, mà còn góp phần làm nên một Việt Nam “chưa bao giờ có được tiềm lực vị thế, và uy tín quốc tế như ngày nay”, tạo cho đất nước ta có thế và lực không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.

Sự kiện Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố nâng cấp quan hệ lên Đối tác chiến lược toàn diện nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam của Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden ngày 10-11/9/2023, không chỉ thể hiện sự coi trọng của Hoa Kỳ đối với Việt Nam và Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, mà còn khẳng định vị thế, uy tín ngày càng cao của Việt Nam. Đó không chỉ là một minh chứng thuyết phục với các nước trên thế giới về “trái ngọt” của một quá trình “gieo trồng”, gây dựng lòng tin, sự hợp tác bền bỉ, chân thành và hiệu quả của công tác đối ngoại, ngoại giao, cùng nhau nỗ lực phát triển quan hệ với tinh thần “gác lại quá khứ, vượt qua khác biệt, phát huy tương đồng, hướng tới tương lai”, mà còn mở ra không gian cho sự phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ trong nhiều thập niên tới…

Sự kiện Việt Nam - Nhật Bản nhất trí nâng cấp quan hệ hai nước lên “Đối tác Chiến lược toàn diện vì hòa bình và thịnh vượng tại châu Á và trên thế giới” nhân chuyến thăm chính thức Nhật Bản ngày 27-30/11/2023 của Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng không chỉ khẳng định sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện, thực chất trên tất cả các lĩnh vực của quan hệ hai nước, với sự tin cậy chính trị cao, sự gắn kết chặt chẽ trên các lĩnh vực kinh tế, nguồn nhân lực, hợp tác địa phương, mà còn góp phần làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác hai nước; mở ra một thời kỳ phát triển mới mạnh mẽ, sâu rộng hơn, đáp ứng nhu cầu, lợi ích chung của cả hai nước  cũng như đóng góp cho hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới…

Sự kiện Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc về việc “Tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc” nhân chuyến thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Tập Cận Bình ngày 12 - 13/12/2023; trong đó: “Việt Nam khẳng định luôn coi quan hệ với Trung Quốc là ưu tiên hàng đầu trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại” và Trung Quốc “cũng khẳng định ủng hộ Việt Nam phát triển phồn vinh, nhân dân hạnh phúc, xây dựng nền kinh tế lớn mạnh, độc lập, tự chủ, thúc đẩy đồng bộ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế toàn diện, phát triển quan hệ đối ngoại rộng mở, hữu nghị”… không chỉ cho thấy quan hệ Việt Nam - Trung Quốc không ngừng mở rộng, đi vào chiều sâu, hợp tác trong các lĩnh vực đạt tiến triển tích cực, toàn diện, mà còn góp phần vào hòa bình, ổn định, phát triển, phồn vinh ở khu vực và thế giới…

Cùng với những hoạt động đối ngoại Đảng, Nhà nước và ngoại giao nhân dân khác, 3 sự kiện quan trọng nêu trên chính là những minh chứng sinh động nhất cho bản sắc đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”. Đó chính là: “Vững ở gốc là nguyên tắc vì lợi ích quốc gia - dân tộc để phục vụ, là đường lối đối ngoại độc lập - tự chủ, lấy thực lực làm gốc, lấy đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng để tạo thế, lập thời; lấy phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng soi đường, chỉ lối. Chắc ở thân là những phương thức tạo nên sức mạnh, trong đó sức mạnh đoàn kết là nhân tố sống còn; đại đoàn kết trong nước là căn bản, đoàn kết quốc tế là nhân tố bổ trợ hết sức quan trọng... Sức mạnh của Việt Nam còn ở tính chính danh, chính nghĩa, cách ứng xử nhân văn, thủy chung, thượng tôn pháp luật và phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Uyển chuyển ở cành là phong cách, nghệ thuật ứng xử linh hoạt, nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, đặc biệt trong các hoàn cảnh khó khăn, phức tạp, có sự mâu thuẫn giữa những xu thế khác nhau, giữa đòi hỏi phải hài hòa cái chung và cái riêng, nhằm giữ vững bản sắc, giá trị đất nước và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam phù hợp với những giá trị chung của nhân loại. Đó là cách ứng xử “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, “biết dừng, biết biến” của tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh” như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định.

Đặc biệt, việc nâng tầm quan hệ với Hoa Kỳ, Trung Quốc và Nhật Bản năm 2023 không những cho thấy vai trò, vị thế quốc tế ngày càng cao của Việt Nam, mà còn thể hiện bản lĩnh của những người lãnh đạo đất nước. Đó chính là một Việt Nam luôn “mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo nhưng rất bản lĩnh, kiên định, can trường trước mọi thử thách, khó khăn vì độc lập dân tộc, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân”; đồng thời luôn “đoàn kết, nhân ái, nhưng kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc” và “biết nhu, biết cương; biết thời, biết thế; biết mình, biết người; biết tiến, biết thoái, “tùy cơ ứng biến”, “lạt mềm buộc chặt” để “để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ và phát huy mạnh mẽ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, để vinh quang đời đời thuộc về dân tộc Việt Nam văn hiến và anh hùng”./.

Bảo đảm an ninh quốc gia của đất nước thời kỳ mới

 

An ninh quốc gia là vấn đề đặc biệt hệ trọng, then chốt của quốc gia. Công tác bảo đảm an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu và thường xuyên, được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.

Những nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia

Trong những năm gần đây, tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường, cục diện thế giới có sự biến động mạnh mẽ, các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia cũng ngày càng đa dạng, như sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn; các thế lực thù địch luôn tìm cách đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; những thách thức an ninh phi truyền thống mang tính toàn cầu…

Trong bối cảnh đó, Đảng ta luôn chủ động nhận định, đánh giá tình hình, bổ sung, phát triển nhận thức tư duy về an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia. Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII, Đảng ta đã chỉ ra 4 nguy cơ đối với sự tồn vong của Đảng, của chế độ, đồng thời với an ninh quốc gia, bao gồm: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới do điểm xuất phát thấp, nhịp độ tăng trưởng chưa cao và chưa vững chắc, lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh gay gắt; nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa nếu không khắc phục được những lệch lạc trong chủ trương, chính sách và chỉ đạo thưc hiện; nguy cơ về nạn tham nhũng và tệ nạn quan liêu; nguy cơ “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch”.

Từ đó đến nay, qua các kỳ đại hội, Đảng ta đều thẳng thắn đánh giá các nguy cơ này vẫn tồn tại, đồng thời xuất hiện nhiều nguy cơ mới, bao gồm các nguy cơ do tác động từ bên ngoài và các nguy cơ nảy sinh từ bên trong. Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, nguy cơ “diễn biến hòa bình” của thế lực thù địch nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp; khoảng cách giàu - nghèo, phân hóa xã hội ngày càng tăng… Bảo vệ chủ quyền biển đảo đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn. Tình hình chính trị - xã hội ở một số địa bàn còn tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định”.

Ngày nay, các mối đe dọa về an ninh phi truyền thống gia tăng, với quy mô, tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng, tác động đến lợi ích, an toàn, an ninh quốc gia Việt Nam. Tại Đại hội XI, lần đầu tiên, Đảng ta chỉ ra các nguy cơ, thách thức phi truyền thống đan xen với các nguy cơ, thách thức truyền thống. Theo đó, “những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng” (3). Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Những vấn đề toàn cầu, như: bảo vệ hòa bình, an ninh con người, thiên tai, bệnh dịch, an ninh xã hội và an ninh phi truyền thống, nhất là an ninh mạng, biến đổi khí hậu, nước biển dâng, ô nhiễm môi trường,… tiếp tục diễn biến phức tạp” đặt ra nhiều thách thức lớn chưa từng có cho phát triển bền vững. Những thách thức an ninh phi truyền thống này có thể xuất hiện bất cứ lúc nào, bất cứ lĩnh vực nào của đời sống xã hội, ngày càng đa dạng, phức tạp, tác động sâu rộng. Nếu không chủ động và tích cực phòng ngừa, ứng phó thì khi phát sinh dễ tạo ra những hậu quả khó lường đối với an ninh quốc gia.

Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, mở ra nhiều cơ hội, song cũng đặt ra không ít thách thức đối với vấn đề an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống, nhất là tội phạm công nghệ cao, đe dọa thông tin, an ninh mạng. Điều này càng trở nên phức tạp khi chúng ta chưa chủ động về công nghệ, còn lệ thuộc vào các nhà cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, tiềm ẩn nguy cơ gây mất chủ quyền an ninh thông tin. Nhu cầu đầu tư vũ khí, trang bị kỹ thuật quân sự công nghệ cao có thể dẫn đến cuộc chạy đua vũ trang nguy hiểm, đe dọa an ninh các quốc gia.

Trên cơ sở phân tích, dự báo bối cảnh mới và các vấn đề đặt ra với an ninh quốc gia và bảo vệ an ninh quốc gia hiện nay, bảo đảm các vấn đề mang tính nguyên tắc, Đảng ta đưa ra những quan điểm đổi mới về bảo đảm an ninh quốc gia của đất nước trong thời kỳ mới, phù hợp với diễn biến của bối cảnh quốc tế và tình hình trong nước; tham khảo các quan điểm về an ninh quốc gia trên thế giới, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn phát triển. Đó là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, nhất là vai trò của nhân dân; giữ nước phải giữ từ thời bình, giữ nước phải giữ từ khi nước chưa lâm nguy; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế; xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân thực sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, làm nòng cốt cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu của sự kết hợp hai nhiệm vụ chiến lược, xây dựng gắn liền với bảo vệ Tổ quốc là phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng; là kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; quốc phòng với an ninh; quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá, xã hội và đối ngoại để giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường hòa bình để xây dựng và phát triển đất nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 chỉ rõ nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là: “Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, lãnh thổ toàn vẹn của Tổ quốc, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, sự ổn định chính trị, trật tự và an toàn xã hội, quyền làm chủ của nhân dân, làm thất bại mọi âm mưu và hành động của các thế lực đế quốc, phản động phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn dân và của Nhà nước”.

Đại hội XIII của Đảng xác định vị trí của nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong mối tương quan với các nhiệm vụ chiến lược khác: “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Như vậy, nhiệm vụ bảo đảm quốc phòng, an ninh trở thành một trong bốn nhiệm vụ trọng yếu trong sự nghiệp cách mạng hiện nay.

Trong bối cảnh, tình hình mới, an ninh quốc gia đứng trước những nguy cơ, thách thức mới rất phức tạp, đòi hỏi phải có chiến lược mới với tầm nhìn, hệ thống giải pháp dài hạn, chủ động để giữ vững an ninh quốc gia trong mọi tình huống. Đại hội XIII của Đảng nhận định, vấn đề an ninh quốc gia cần được hiểu một cách toàn diện hơn, rộng hơn, sâu hơn, không chỉ có các vấn đề an ninh chính trị, quân sự truyền thống, mà còn bao quát cả những vấn đề an ninh phi truyền thống. An ninh quốc gia bao gồm: An ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh quân sự, an ninh biên giới, biển, đảo, an ninh đối ngoại, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh xã hội, an ninh thông tin, an ninh cơ sở dữ liệu, an ninh mạng, an ninh doanh nghiệp, an ninh tài chính - tiền tệ, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh dân cư, an ninh dân số, an ninh môi trường, an ninh con người... Tại Đại hội XIII, vấn đề “an ninh con người” được chú trọng, đề cao và được đề cập trong nhiều nội dung của Văn kiện Đại hội, điều này cũng phản ánh quan điểm lấy người dân làm trung tâm của Đảng ta.

Phương thức bảo đảm an ninh quốc gia trong tình hình mới

Trải qua hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia đã đạt được những thành tựu to lớn. An ninh trên các lĩnh vực, các địa bàn được giữ vững; trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm, tạo môi trường hòa bình, ổn định, phục vụ công cuộc xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thành tựu đó là kết quả phấn đấu của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với vai trò nòng cốt của lực lượng quân đội nhân dân, công an nhân dân. Trong mỗi giai đoạn phát triển, tùy thuộc vào từng điều kiện, bối cảnh những thuận lợi, thách thức về an ninh, Đảng ta đề ra những chiến lược, kế sách phù hợp bảo vệ an ninh quốc gia vững chắc.

“Đại hội XIII của Đảng diễn ra trong bối cảnh đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra phải giải quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực dự báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức toàn cầu về biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học và công nghệ đang tác động mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế giới”. Để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia trong tình hình mới, cần tập trung thực hiện một số  phương thức và giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, xác định “chủ động phòng ngừa” là chính. Ứng phó kịp thời, hiệu quả với các đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch. Chú trọng an ninh, an toàn là một trong những yếu tố hàng đầu trong cuộc sống của người dân. Trong bối cảnh, tình hình thế giới, khu vực diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo, để bảo đảm các mục tiêu phát triển, Đại hội XIII của Đảng xác định phương hướng: “Chủ động chuẩn bị về mọi mặt, sẵn sàng các phương án bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và giữ vững an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội trong mọi tình huống” (8). Điều này thể hiện tư duy trong bảo vệ an ninh quốc gia là luôn giữ vững thế chủ động chiến lược trong mọi tình huống, trong mọi hoàn cảnh. Tinh thần an ninh chủ động còn được thể hiện rõ nét ở việc mở rộng phạm vi, không gian bảo vệ an ninh quốc gia, chú trọng giải quyết cả các vấn đề về an ninh phi truyền thống: “Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh” (9) …

Thứ hai, chú trọng xây dựng lực lượng bảo vệ an ninh quốc gia cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Văn kiện Đại hội XIII nêu rõ: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại, tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030, xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại” (10). Xây dựng, phát triển nền công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh, hiện đại, hữu dụng.

Thứ ba, xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân; xây dựng, củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ, có hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và ngược lại. Cụ thể hóa và thực hiện có hiệu quả hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ an ninh quốc gia trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; trong từng địa phương, vùng, địa bàn chiến lược và trong từng nhiệm vụ, chương trình, kế hoạch cụ thể . Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, chủ động tích cực, hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực. Xét về phương diện bảo vệ an ninh quốc gia, xây dựng, phát triển toàn diện kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại là cơ sở, tiền đề, là phương thức để bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia và bảo đảm an ninh quốc gia là điều kiện quan trọng để xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các phương thức đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia cần được sử dụng một cách tổng hợp, linh hoạt, mềm dẻo, đặt trong mối quan hệ và sự tương tác lẫn nhau để huy động sức mạnh tổng hợp và vai trò của mọi lĩnh vực, mọi lực lượng để bảo vệ Tổ quốc./.

 

 Chủ động phòng ngừa, đấu tranh với hành vi lợi dụng mạng xã hội chống phá Đảng, Nhà nước

Hiện nay, với tốc độ phát triển mạnh mẽ của Internet và các trang mạng xã hội, hầu hết máy chủ của các mạng xã hội như Facebook, Tiktok, Instagram, Twitter, Wechat… đều đặt ở nước ngoài dẫn đến việc quản lý của các cơ quan nhà nước gặp không ít khó khăn. Thống kê cho thấy, Việt Nam có gần 70 triệu người sử dụng Internet, chiếm khoảng 70% dân số; trên 65 triệu người sử dụng mạng xã hội (tốp 20 Quốc gia có số người sử dụng internet nhiều nhất thế giới). Nhận biết được điều này, thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội để tán phát các tin bài, video, clip có nội dung chống phá Đảng, Nhà nước với sự gia tăng về cấp độ, tần suất và lưu lượng, nhằm gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội đối với nước ta.

Các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội chính trị thường xuyên đăng tải, phát tán thông tin xuyên tạc liên quan đến những sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, vụ việc mang tính thời sự, dư luận xã hội quan tâm, như: công tác đấu tranh, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; công tác nhân sự của Đảng, Nhà nước (bị xuyên tạc là đấu đá nội bộ, phe cánh, bè nhóm trong Đảng, hạ bệ lẫn nhau), các vụ việc “nóng” về khiếu kiện, môi trường, dân sinh, giải phóng mặt bằng, quan hệ ứng xử của cán bộ, công chức, lực lượng vũ trang, việc thực thi công vụ của lực lượng chức năng. Chúng thường đăng tải, tán phát các bài viết, hình ảnh, video, clip có nội dung mang tính bình luận, núp bóng “phản biện xã hội”, để gợi mở, đặt vấn đề nghi vấn, lợi dụng “khoảng trống thông tin”, đưa ra các thông tin chưa kiểm chứng, sai sự thật hoặc đã bị bóp méo, cắt ghép, đánh vào sự tò mò, tạo ra sự hoài nghi đối với người tiếp cận. Vì thế, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra với mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và Nhân dân là cần tỉnh táo, cảnh giác, đồng thời, nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong việc chuyển tải thông tin trên trang mạng xã hội.

Trong thời gian qua, đại đa số cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân đã có những nhận thức đúng đắn, đề phòng, cảnh giác trước những thông tin xấu độc. Tuy nhiên, để nâng cao hơn nữa về phòng ngừa, đấu tranh với các hành vi lợi dụng Internet, mạng xã hội chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, thiết nghĩ, mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và quần chúng nhân dân cần tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, từ đó, làm cho cán bộ, đảng viên, Nhân dân thấy rõ tác động tích cực, tiêu cực của Internet và mạng xã hội; vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch, phần tử phản động; nâng cao khả năng nhận diện thông tin xấu, độc, nguy hại đối với bản thân và xã hội, xây dựng phong cách văn hóa khi tham gia trên không gian mạng, chỉ cập nhật thông tin chính thống, không chia sẻ thông tin chưa được kiểm chứng. Bên cạnh đó, tập trung đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch, đồng thời, chủ động và thường xuyên tham gia bình luận, chia sẻ bài viết về điển hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt, những mô hình mới, cách làm hay của các cơ quan, đơn vị, địa phương và cá nhân trong tham gia thực hiện phong trào thi đua yêu nước.

Phòng ngừa, ngăn chặn hoạt động lợi dụng Internet, mạng xã hội để chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta là công việc khó khăn, phức tạp, lâu dài. Do vậy, cần thiết phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị, sự chung tay, góp sức của mỗi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân để tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm đấu tranh đẩy lùi, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá, qua đó, góp phần bảo vệ thành quả và công cuộc cách mạng của nước ta./.

CĐ, VS (st)


PHÁT NGÔN XẰNG BẬY!

Dioxin là hậu quả nặng nề mà Mỹ đã gây ra cho hàng triệu người dân Việt Nam. Hiện nay, ước tính có khoảng 4,8 triệu người Việt Nam bị nhiễm chất độc da cam/dioxin, sống tập trung tại các tỉnh dọc đường Trường Sơn và biên giới với Campuchia. Hàng trăm nghìn người trong số đó đã qua đời. Hàng triệu người và cả con cháu của họ đang phải sống trong bệnh tật, nghèo khó do di chứng của chất độc da cam.

Vậy mà, một ông sư béo tốt, sống trong thời bình ngồi diễn giải với Phật tử của mình “Tại sao người này lại làm con của người chất độc da cam, còn người khác thì không? Mình phải làm con của ông bố bị chất độc da cam dioxin, cũng là do ác nghiệp của mình”. “Do kiếp trước mình tạo những nghiệp ác, gây thù kế oán với chúng sinh, cho nên kiếp này mình bị nó báo thù” - ông Thích Trúc Thái Minh nói.

Tiếp lời anh, chị Phạm Thị Yến, cánh tay phải của anh Minh còn giải thích thêm “Anh hùng chiến sĩ đi đánh giặc họ chịu quả báo nhẹ, vì sao? Vì chính là họ đang chống lại những người đến xâm lược nhà mình; Vì đất nước Việt Nam ta không đi xâm chiếm người khác, ta không trộm cắp mà họ vào đất nước ta là họ xâm lược và họ đã mắc tội trộm cắp. Vì người ta bảo vệ nên cái nghiệp đó là do các anh hùng liệt sĩ trong tiền kiếp trước cũng mắc vào nghiệp sát sinh”.

Tôi cũng đến quỳ lạy nhận thức và phát ngôn của 2 anh chị. Không dám bàn bạc nhiều, tôi chỉ mong Ban Tôn giáo, Giáo hội Phật giáo Việt Nam vào cuộc, để xem động cơ, mục đích nào mà 2 anh chị dám phát ngôn xằng bậy như vậy!

  

XÂY DỰNG MỘT NỀN VĂN HÓA THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG

     Chúng tôi tâm đắc với ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: "Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, một nền văn hóa thống nhất trong đa dạng, dựa trên các giá trị tiến bộ, nhân văn..." trong bài viết "Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng" nhân dịp kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

    Khi nghiên cứu văn hóa các dân tộc trên nhiều vùng miền của Tổ quốc, chúng tôi nhận thức sâu sắc rằng, tính đa dạng văn hóa của văn hóa các tộc người làm nên bức tranh đa sắc của văn hóa dân tộc. Cần nhận thức rõ điều này để có sự tôn trọng, bảo vệ sự đa dạng văn hóa trong xây dựng chính sách và thực hiện chính sách ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, góp phần phát triển bền vững văn hóa, làm đặc sắc bức tranh văn hóa chung của quốc gia, dân tộc Việt Nam.

    Sự đa dạng văn hóa có thể đóng góp cho sự phát triển bền vững đất nước. Phát triển kinh tế vùng muốn bền vững cần dựa trên cơ sở đáp ứng bảo vệ môi trường và khai thác thế mạnh của đa dạng văn hóa.

    Đại hội XIII của Đảng định hướng: Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, đưa du lịch thành một ngành kinh tế mũi nhọn, đồng thời bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ mai sau.

    Phát biểu tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ đạo cụ thể hơn: “quan tâm hơn nữa đến việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của các vùng, miền, của đồng bào các dân tộc, kết hợp với tiếp thu tinh hoa văn hóa của thời đại”. Đó là những định hướng dẫn đường cho việc bảo vệ đa dạng văn hóa hôm nay.

    Xu hướng toàn cầu hóa có thể ảnh hưởng xấu tới tính sáng tạo và đa dạng văn hóa, gây ra sự đồng nhất văn hóa. Toàn cầu hóa đặt các nền văn hóa dân tộc trước nguy cơ không còn sự khác biệt văn hóa giữa các vùng miền, làm đơn giản hóa các sắc màu và đường nét của “bức tranh văn hóa” ở mỗi quốc gia cũng như của toàn nhân loại. Nền văn hóa quốc gia sẽ nhạt nhòa, nghèo nàn, thiếu bản sắc và không thể phát triển bền vững.

    Ở Việt Nam, trong một thời gian dài, quan điểm “bảo tồn có chọn lọc” vô hình trung tạo ra nhiều rào cản trong việc bảo tồn các di sản văn hóa. Chỉ một số di sản và những hoạt động thực hành văn hóa được đánh giá là tốt mới được lựa chọn để bảo tồn, còn những gì bị coi là “lạc hậu”, “rườm rà” được khuyến khích xóa bỏ. Quan điểm “tiến hóa văn hóa” còn tạo ra sự suy diễn mang tính phân biệt, sai lệch và tiêu cực, rằng các dân tộc thiểu số thường lạc hậu, không văn minh bằng dân tộc đa số. Với quan điểm các dân tộc đều bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau, trong văn hóa không thể phân chia “cao-thấp” mà cần tôn trọng “sự khác nhau”. Khi không còn những lễ hội, lễ thức, phong tục cổ truyền, những tri thức bản địa đặc trưng và đặc sắc... cũng chính là lúc văn hóa của vùng đó, của dân tộc đó mất đi sức hấp dẫn.

    Sự đa dạng văn hóa có thể đóng góp cho sự phát triển bền vững đất nước. Phát triển kinh tế vùng muốn bền vững cần dựa trên cơ sở đáp ứng bảo vệ môi trường và khai thác thế mạnh của đa dạng văn hóa. Có thể phát triển có hiệu quả và bền vững các vùng nông nghiệp, vùng lâm nghiệp, vùng du lịch dựa trên đặc trưng của những vùng thiên nhiên, vùng văn hóa, vùng dân tộc để thu được lợi ích nhiều mặt: vừa tăng nguồn thu cho địa phương, phát triển kinh tế, an sinh xã hội, giáo dục, y tế... vừa bảo vệ được sự đa dạng văn hóa, giữ gìn môi trường và không lãng phí tài nguyên.

    Tuy nhiên, cần chú ý rằng, không có hình mẫu phát triển chung cho mọi cộng đồng dân tộc thiểu số. Sự đầu tư của Nhà nước với vùng dân tộc thiểu số như các dự án phát triển sinh kế, phát triển y tế, giáo dục, văn hóa cần chú ý tới đặc thù sinh thái của mỗi vùng, đặc thù văn hóa của mỗi tộc người. Các dự án phát triển cần phải dựa trên kết quả điều tra, nghiên cứu khoa học về sự phù hợp của những đối tượng sẽ chịu tác động, tôn trọng sự đa dạng, lắng nghe tiếng nói của người trong cuộc và đề cao tính chủ động, phát huy nội lực của các cộng đồng./.