Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

PHẢN BÁC NHỮNG ĐÁNH GIÁ SAI LỆCH VỀ SÁCH TRẮNG “TÔN GIÁO VÀ CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM”!

         Kể từ khi được công bố, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” cung cấp những thông tin chân thực về tôn giáo, chính sách tôn giáo, thành tựu bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam và những ưu tiên nhằm thúc đẩy việc thụ hưởng ngày càng tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Với vai trò quan trọng đó, Sách trắng cũng trở thành tâm điểm công kích, phê phán thiếu thiện chí của các lực lượng cực đoan nhằm phủ nhận chính sách tôn giáo và những thành tựu quan trọng về bảo đảm quyền tự do tôn giáo của Đảng, Nhà nước Việt Nam trong suốt thời kỳ đổi mới. Do đó, việc nhận diện và phản bác những đánh giá sai lệch về Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là rất cần thiết, nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo!

Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” được Ban Tôn giáo Chính phủ cho ra mắt bạn đọc vào tháng 12-2022, là cuốn cẩm nang hữu ích, cung cấp đầy đủ thông tin về việc thực thi và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách tập trung vào các nội dung: Giới thiệu chung về các tôn giáo ở Việt Nam; quan điểm của Đảng về tín ngưỡng, tôn giáo trong thời kỳ đổi mới, những nguyên tắc hiến định và chính sách, pháp luật hiện hành về tín ngưỡng, tôn giáo; thành tựu, thách thức và hướng ưu tiên của Việt Nam trong việc bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Cuốn Sách trắng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ cung cấp đầy đủ những thông tin chân thực về tình hình tôn giáo mà còn làm rõ cơ sở chính trị, căn cứ pháp lý vững chắc của việc bảo đảm thực thi quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, một số tổ chức phản động, thù địch và các lực lượng cực đoan đã cố tình bóp méo, xuyên tạc và bịa đặt trắng trợn nội dung, ý nghĩa của cuốn sách nhằm tạo luồng dư luận trái chiều, gây nhiễu loạn thông tin và kích động phản ứng tiêu cực từ một số tổ chức quốc tế và các đối tượng cơ hội chính trị, bất mãn trong nước. Những luận điệu sai trái, thù địch của các lực lượng chống phá được đăng tải trên các diễn đàn và trên các phương tiện truyền thông xã hội chủ yếu tập trung vào một số vấn đề sau:

Một là, trắng trợn vu cáo Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” là “bức bình phong” che đậy “các vi phạm về tôn giáo, tín ngưỡng kéo dài tại Việt Nam”(?!) - nguyên nhân khiến Hoa Kỳ đưa Việt Nam vào Danh sách theo dõi đặc biệt về tôn giáo (SWL) năm 2022 và khuyến nghị đưa trở lại Danh sách các nước cần quan tâm đặc biệt (CPC) năm 2023.

Như đã trở thành thông lệ, Ủy ban Tự do tôn giáo quốc tế (USCIRF) của Hoa Kỳ hằng năm đều tự cho mình cái quyền đưa các bản báo cáo nhân quyền, tự do tôn giáo để giám sát, can thiệp và áp dụng các biện pháp chế tài đối với các nước trên thế giới nếu “vi phạm hệ giá trị, chuẩn mực về nhân quyền, phẩm giá con người” mà Hoa Kỳ tự ý và chủ quan áp đặt. Theo Đạo luật tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ, những nước gần chạm ngưỡng CPC phải được đưa vào SWL để theo dõi sát sao và nếu sau một thời gian vẫn không cải thiện thì đó là căn cứ để chính thức đưa vào CPC. Các nước bị chỉ định CPC phải đối mặt với các biện pháp trừng phạt, nặng nhất là cấm vận.

Những nhận định thiếu khách quan của nhiều nước phương Tây về tự do tôn giáo ở Việt Nam trong các báo cáo thường niên về tự do tôn giáo quốc tế không còn là vấn đề mới(1). Trong nhiều năm trở lại đây, USCIRF luôn vu cáo Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo”,... Những cáo buộc này làm sai lệch thông tin về hoạt động tôn giáo và tự do tôn giáo ở Việt Nam. Phải khẳng định rằng, nguồn thông tin mà USCIRF của Hoa Kỳ thu thập trong các bản báo cáo chủ yếu là những thông tin phiến diện, không đáng tin cậy, có được do tiếp cận với các tổ chức phản động, cá nhân chống đối, có tư tưởng hẹp hòi dân tộc, thù hận, bất mãn với chế độ. Luận điệu của các tổ chức, cá nhân đó không thể đại diện cho bất kỳ tổ chức tôn giáo nào, không vì lợi ích cộng đồng, mà mang mưu đồ, lợi ích cá nhân, do đó không có giá trị tham khảo(2). USCIRF đã cố tình không trích dẫn những đánh giá của chức sắc, giáo sĩ... trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước Việt Nam công nhận tư cách pháp nhân(3), có tiếng nói đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo ở Việt Nam.

Rõ ràng, việc USCIRF và các lực lượng cực đoan sử dụng những phát ngôn và nhận định thiếu cơ sở để cáo buộc Việt Nam vi phạm nhân quyền, vi phạm tự do tôn giáo trên các diễn đàn là thiếu khách quan; càng phi lý hơn khi lấy đó là lý do để phê phán Sách trắng của Việt Nam. Bởi, ở Việt Nam, không có cái gọi là một sự “bưng bít” “những vi phạm kéo dài”, càng không thể có “bức bình phong” nào được tạo ra, vì Việt Nam luôn sẵn sàng công bố với quốc tế bức tranh chân thực về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo với những nội dung thông tin phản ánh trung thực, súc tích và đầy sức thuyết phục của Sách trắng.

Hai là, xuyên tạc rằng, Sách trắng nhưng chưa minh bạch và vẫn thiếu tự do tôn giáo vì “chủ nghĩa tam vô”(?!).

Phải khẳng định rằng: “Chủ nghĩa tam vô” (vô gia đình, vô tổ quốc, vô tôn giáo) là sự phỉ báng lịch sử, xuyên tạc lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, bôi nhọ tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo, hạ thấp uy tín của Việt Nam, lấy đó làm sự xảo biện xuyên tạc nội dung của Sách trắng.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh luôn đề cao tinh thần yêu Tổ quốc kết hợp với tinh thần yêu thương nhân loại. Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Do đó, người cộng sản không những không “vô tổ quốc”, mà họ còn xứng đáng là những người yêu nước nhất. Những người cộng sản cũng luôn coi gia đình là tế bào của xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Rất quan tâm đến gia đình là đúng và nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình. Chính vì muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội mà phải chú ý hạt nhân cho tốt” (4).

Những người cộng sản cũng luôn thừa nhận và tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, coi tôn giáo là nhu cầu tinh thần chính đáng của nhân dân. Do đó, trong Cương lĩnh, chính sách và hành động thực tế, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, cũng như không tín ngưỡng, tôn giáo. Chỉ ra điểm tương đồng giữa lý tưởng của tôn giáo và lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đó là xây dựng một xã hội tốt đẹp, giải phóng con người và mưu cầu tự do, hạnh phúc cho nhân dân.

Ở Việt Nam, ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề cao sự tương đồng về mục đích giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản(5). Theo đó, khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa cộng sản không nhất thiết dẫn tới sự biệt lập nếu đôi bên hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau trong một khối đại đoàn kết toàn dân tộc, hướng về cách mạng, đi theo cách mạng. Người cho rằng, đồng bào có đạo vẫn có thể đứng trong hàng ngũ của Đảng, chỉ cần họ tích cực hoạt động cách mạng, “trung thành và hăng hái làm nhiệm vụ” (6). Ngày nay, thực hiện lời căn dặn của Người, cũng như quán triệt chủ trương của Đảng về kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo, nhiều tín đồ, chức sắc của các tôn giáo đã được kết nạp vào Đảng, trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Việt Nam(7).

Do đó, có thể khẳng định rằng, không có “chủ nghĩa tam vô” ở Việt Nam, đặc biệt là ở những đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Đây cũng là minh chứng cho thấy, Sách trắng hoàn toàn minh bạch khi tuyên bố công khai về tự do tôn giáo ở Việt Nam.

Ba là, xuyên tạc trắng trợn rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” công bố tự do tôn giáo song nhiều “nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động”(?!).

“Các nhóm tôn giáo độc lập bị đàn áp, ngăn cấm hoạt động” được các tổ chức thiếu thiện chí nhắc đến, trên thực tế, là những tổ chức bất hợp pháp, đội lốt tôn giáo để truyền bá tư tưởng cực đoan, kích động chống phá Nhà nước Việt Nam. Các hoạt động của các tổ chức này vi phạm pháp luật của Việt Nam.

Pháp luật Việt Nam luôn tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, tạo điều kiện thuận lợi để người dân tham gia các hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Quyền tự do tôn giáo không thể đứng ngoài và đứng trên pháp luật. Việt Nam không chấp nhận việc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để xuyên tạc, kích động ly khai, chia rẽ các dân tộc, tôn giáo; gây rối trật tự công cộng và xâm phạm đến an ninh quốc gia. Điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần và nội dung về quyền tự do tôn giáo đã nêu trong các văn kiện quốc tế, như Công ước quốc tế năm 1966 về các quyền chính trị và dân sự quy định: “Quyền tự do bày tỏ tôn giáo hay tín ngưỡng của một người chỉ có thể bị giới hạn theo quy định của pháp luật và khi sự giới hạn đó là cần thiết để bảo vệ an ninh, trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức xã hội hoặc để bảo vệ các quyền và tự do cơ bản của người khác” (8). Nội luật hóa hệ thống luật pháp quốc tế, ở mỗi quốc gia cũng đều có những quy định riêng về hoạt động tôn giáo để bảo vệ trật tự xã hội và an ninh quốc gia(9). Không một quốc gia nào cho phép hoạt động tôn giáo vượt ra ngoài sự quản lý của nhà nước. Pháp luật Việt Nam cũng có những quy định nghiêm cấm lợi dụng tôn giáo phá hoại độc lập, đoàn kết dân tộc, chống phá Nhà nước hay ngăn cản tín đồ thực hiện nghĩa vụ công dân. Điều này được phản ánh rất rõ trong Luật Tín ngưỡng, tôn giáo: “Nghiêm cấm các hoạt động tín ngưỡng, hoạt động tôn giáo xâm phạm quốc phòng, an ninh, chủ quyền quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, môi trường” (10).

Vì vậy, việc ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm các nhóm đối tượng lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, làm trái pháp luật Việt Nam là điều cần thiết. Đó không phải là sự đàn áp hay ngăn cấm hoạt động của các nhóm tôn giáo, mà là sự bảo đảm nguyên tắc thượng tôn pháp luật.

Bốn là, bóp méo rằng, Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam” phản ánh sự áp đặt trong định hướng chính trị của chủ thể Nhà nước chứ không phản ánh sự tôn trọng niềm tin tôn giáo và bảo đảm thực hành nghi lễ tôn giáo của người dân(?!).

Chính sách tôn giáo nhất quán của Việt Nam được khẳng định trong Sách trắng là sự lựa chọn phù hợp với thực tiễn lịch sử và đáp ứng nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân có tín ngưỡng. Đó là sự kết hợp hài hòa giữa “ý Đảng” và “lòng dân”.

Ngay từ khi mới ra đời, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tuyên bố và thực hiện chính sách “tín ngưỡng tự do, lương giáo đoàn kết”. Hiến pháp năm 1946 khẳng định: “Mọi công dân Việt Nam đều có quyền tự do tín ngưỡng”. Nhờ chính sách đoàn kết dân tộc, tôn giáo, trong suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, hàng triệu người dân Việt Nam, dù “lương” hay “giáo” đều có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, sẵn sàng hy sinh vì nền độc lập của nước nhà(11). Ngày 14-6-1955, trong Sắc lệnh số 234/SL, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục nhấn mạnh: “Chính phủ bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng và tự do thờ cúng của nhân dân, không ai được xâm phạm đến quyền tự do ấy”. Các Hiến pháp sau này (1959, 1980, 1992, 2013) vẫn hiến định phương châm, chính sách về quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo.

Từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, chính sách tôn giáo của Nhà nước Việt Nam ngày càng phù hợp hơn với bối cảnh trong nước và quốc tế, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, góp phần củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Chính sách đó được thể hiện thông qua các văn kiện chính trị của Đảng và các văn bản pháp luật của Nhà nước.

Đảng và Nhà nước Việt Nam nhận thức rõ rằng, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cần xây dựng hệ thống pháp luật hoàn bị, bảo đảm tốt hơn nữa quyền tự do của con người, của công dân, trong đó có quyền tự do theo hoặc không theo tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước tạo hành lang pháp lý cho hoạt động tín ngưỡng, tôn giáo; thừa nhận, tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của tín đồ, cũng như lợi ích của các tổ chức tôn giáo; không kỳ thị, phân biệt đối xử với các tín ngưỡng, tôn giáo và người theo các tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau. Mọi người đều có quyền bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo; thực hành lễ nghi tín ngưỡng, tôn giáo. Ngay cả đối với người bị tạm giữ, tạm giam, chấp hành hình phạt tù cũng có quyền sử dụng kinh sách, bày tỏ niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo(12). Đồng thời, Nhà nước cũng đòi hỏi mọi tổ chức, cá nhân theo tôn giáo phải tuân thủ Hiến pháp, pháp luật; tôn trọng, bảo vệ trật tự xã hội và thể chế nhà nước cũng như quyền tự do của cá nhân và tổ chức khác. Các tôn giáo và người theo tôn giáo gắn bó, đồng hành với dân tộc, cùng chung tay xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì mục tiêu chung(13). Đặc biệt, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương “phát huy những giá trị văn hóa, đạo đức tốt đẹp và các nguồn lực của các tôn giáo cho sự nghiệp phát triển đất nước”(14).

Chính vì thế, cần khẳng định rõ, không có bất kỳ sự áp đặt nào trong định hướng chính trị của Nhà nước đối với chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Rõ ràng, phải dựa trên cơ sở tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau, mỗi bên nhận thức được ranh giới, nghĩa vụ, quyền hạn của chính mình thì mới có thể chung sống hòa hợp, cùng nhau thúc đẩy sự phát triển chung. Nếu không phải là một chính sách tôn giáo tiến bộ, hợp thời đại và hợp lòng dân, chắc chắn không thể có một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như ngày nay. Nội dung của Sách trắng hướng tới khẳng định, trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo luôn được Nhà nước ghi nhận, bảo hộ theo chiều hướng tiến bộ, tích cực(15). Nhà nước luôn coi trọng đời sống tín ngưỡng, tôn giáo của người dân, bảo đảm các hoạt động tôn giáo diễn ra bình thường theo đúng quy định của pháp luật. Đây là sự thật không thể phủ nhận!

Việc xuất bản Sách trắng chính là nhằm công khai rộng rãi tới công chúng trong nước và bạn bè quốc tế về chính sách ưu tiên, chính sách bền vững của Việt Nam đối với quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Nhà nước Việt Nam đã, đang và sẽ quyết tâm thực hiện mục tiêu ngày càng bảo đảm, bảo vệ và thúc đẩy tốt hơn các quyền cơ bản của người dân, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo./.
----------------------------
(1) Từ năm 2004 đến năm 2005, Việt Nam lần đầu tiên bị Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ đưa vào CPC, tới năm 2006 Việt Nam được đưa ra khỏi danh sách này. Tuy nhiên, liên tiếp từ năm 2012 đến nay, USCIRF - cơ quan tham vấn độc lập do Quốc hội Hoa Kỳ thành lập và là “cánh tay nối dài” của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - thường xuyên đề nghị đưa Việt Nam trở lại CPC, bất chấp những nỗ lực và thành tựu quan trọng của Việt Nam về bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận rộng rãi
(2) Xem: “Nhận diện những đánh giá sai lệch về Sách trắng Tôn giáo ở Việt Nam”, Trang Thông tin điện tử Công an Quảng Ninh, ngày 27-3-2023, https://congan.quangninh.gov.vn/tin-antt-va-canh-bao-toi-pham/nhan-dien-nhung-danh-gia-sai-lech-ve-sach-trang-ton-giao-o-viet-nam-25069.html
(3) Thượng tọa Thích Đức Thiện, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội đồng Trị sự, Giáo hội Phật giáo Việt Nam khẳng định: “Trong tất cả các hoạt động Phật sự của Giáo hội Phật giáo Việt Nam, không hề có sự khó khăn nào trong việc thực hành niềm tin tín ngưỡng, tôn giáo của mình”; Mục sư Charlie McKenzie, Cộng đồng Tin Lành quốc tế Hanoi International Fellowship nhận định: “Khi được biết các tổ chức cáo buộc Việt Nam vi phạm tự do tôn giáo, tôi muốn nói với họ rằng, hãy thử đến sống ở Việt Nam, cùng với người Việt Nam, đi hằng ngày trên các con đường ở Việt Nam và đặc biệt hãy đến nhà thờ vào ngày chủ nhật trước khi đưa ra phán xét. Tự do tôn giáo có ở Việt Nam không ư? Có nhiều là đằng khác!”, xem: “Luận điệu xuyên tạc về tự do tôn giáo tại Việt Nam”, phóng sự trên VTV4, ngày 12-6-2022, https://youtu.be/JgATs9LQE1E?si=EL93-dKpT7z2WkqN
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 12, tr. 300
(5) Người luôn chủ trương “cầu đồng tồn dị”, nghĩa là khuyến khích điểm tương đồng và chấp nhận sự dị biệt, không quá nhấn mạnh sự khác biệt về mặt tư tưởng - duy tâm hay duy vật, hễ là người dân Việt Nam dù theo tôn giáo hay không theo tôn giáo đều hướng đến mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Nội dung tư tưởng nhân văn, sâu sắc này của Hồ Chí Minh được chuyển tải cô đọng trong đoạn văn nổi tiếng của Người: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu hạnh phúc cho loài người, mưu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên cõi đời này, nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết. Tôi cố gắng làm người học trò của các vị ấy” (Xem: Viện Nghiên cứu Tôn giáo: Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr. 13)
(6) Xem: Phạm Hữu Xuyên: “Quan điểm của Hồ Chí Minh về đề cao sự tương đồng, tôn trọng sự khác biệt giữa tôn giáo và chủ nghĩa xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 5, 2006
(7) Từ năm 2019 đến nay, cùng với việc triển khai Quy định số 06-QĐ/TW, ngày 28-8-2018, của Bộ Chính trị, về Một số điểm về kết nạp đảng viên đối với người theo tôn giáo và đảng viên là người theo tôn giáo tham gia sinh hoạt tôn giáo (thay thế Quy định số 123-QĐ/TW, ngày 28-9-2004, quy định về kết nạp Đảng của người có đạo), công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo đạt được nhiều kết quả đáng khẳng định. Tính đến tháng 6-2021, theo số liệu thống kê từ cấp ủy các địa phương, toàn Đảng có 79.219 đảng viên theo tôn giáo (chiếm 1,5% tổng số đảng viên trong toàn Đảng), trong đó 60.946 đảng viên là tín đồ tôn giáo, 17.686 đảng viên là nhà tu hành tôn giáo, 486 đảng viên là chức việc tôn giáo, 101 đảng viên là chức sắc tôn giáo (Dẫn theo: Lê Tâm Đắc: “Công tác kết nạp đảng viên là người theo tôn giáo ở Việt Nam hiện nay: Từ lý luận đến thực tiễn”, Tạp chí Công tác tôn giáo, số 7, 2022, tr. 29)
(8) United Nations: International Convenant on Civil and Political rights, https://treaties.un.org/doc/treaties/1976/03/19760323%2006-17%20am/ch_iv_04.pdf, 1967
(9) Ở Hoa Kỳ, mặc dù không ban bố luật pháp riêng về tôn giáo nhưng các hoạt động tôn giáo đều được đặt dưới hệ thống pháp luật dân sự giống như bất kỳ tổ chức xã hội nào khác. Ở Pháp, “Luật phân ly” không thiếu các điều khoản nhằm tăng cường sự giám sát của chính quyền đối với các hiệp hội tôn giáo và ngăn chặn các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây chia rẽ, ly khai dân tộc. Tháng 2-2016, Chính phủ Pháp còn ban hành Đạo luật ly khai, trong đó cấm các hoạt động tôn giáo tuyên truyền về ly khai. Ở Nhật Bản, chính phủ Nhật Bản phải sửa đổi, bổ sung “Luật Pháp nhân tôn giáo” để hạn chế quyền của các nhóm tôn giáo, tránh làm tổn hại đến an ninh quốc gia
(10) Ban Tôn giáo Chính phủ: Tài liệu giới thiệu Luật Tín ngưỡng, tôn giáo, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2017, tr. 9
(11) Lịch sử Việt Nam ghi nhận, trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, nhiều nhà sư phát nguyện cởi áo cà sa ra trận, trở thành những chiến sĩ vệ quốc đoàn kiên trung, nhiều cơ sở tôn giáo là căn cứ địa cách mạng nuôi giấu cán bộ kháng chiến, hàng vạn thanh niên trong vùng đồng bào có đạo hăng hái tham gia tòng quân, chi viện cho chiến trường
(12) Sách trắng nêu rõ, để bảo đảm quyền tự do tôn giáo đối với người chấp hành án phạt tù, hiện nay đã cung cấp 4.418 cuốn thuộc 17 đầu sách liên quan đến tôn giáo được đưa vào thư viện của 54 trại giam, tr. 92
(13) Xem: Vũ Hoàng Công: Chính sách tôn giáo trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Tlđd
(14) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 171
(15) Xem: Ban Tôn giáo Chính phủ: Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội, 2022, tr. 73.
Yêu nước ST.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét