Thứ Năm, 27 tháng 6, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI GÓP PHẦN BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG TRONG TÌNH HÌNH MỚI!

     Dựa trên nền tảng tư tưởng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại Việt Nam có vai trò tiên phong trong việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, góp phần nâng cao vị thế đất nước, xây dựng và quảng bá hình ảnh Việt Nam, đưa đất nước gắn kết ngày càng chặt chẽ với thế giới; đồng thời, đóng góp quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch!

Một số vấn đề chung về bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại
Bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là quan điểm xuyên suốt và được đặt ở vị trí hàng đầu trong công tác xây dựng Đảng. Đại hội VII của Đảng (năm 1991) xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”(1). Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW, “Về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”(2). Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) tiếp tục khẳng định: “kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(3).

Tư duy đối ngoại Việt Nam là luôn nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ lớn giữa ổn định, đổi mới và phát triển. Để đổi mới và phát triển cần dựa trên nền tảng vững chắc. Đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định: “Đổi mới tư duy về đối ngoại trước hết là sự kế thừa và phát triển truyền thống ngoại giao của dân tộc, vận dụng sáng tạo, linh hoạt chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với sự phát triển nhận thức về đối ngoại qua các nhiệm kỳ Đại hội Đảng và gắn với thực tiễn trong nước và bối cảnh quốc tế của từng thời kỳ, chọn lọc và tiếp thu tinh hoa của nhân loại. Đổi mới tư duy đúng và kịp thời sẽ giúp tạo dựng và nắm bắt cơ hội, đổi mới tư duy chậm thì sẽ dẫn đến trì trệ, thậm chí biến thành thách thức”(4).

Từ đó, nhiệm vụ bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại có thể hiểu là: 1- Vận dụng sáng tạo những giá trị thời đại trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại để những giá trị đó ngày càng thấm sâu, đóng vai trò chủ đạo trong nhận thức của toàn Đảng, toàn dân và trong quan hệ với bạn bè quốc tế; 2- Đề xuất, luận chứng các giải pháp đối ngoại nhằm bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng, đường lối, chính sách của Đảng, những thành tựu phát triển của đất nước; 3- Chủ động, kiên quyết đấu tranh dư luận và trong các hoạt động đối ngoại cụ thể nhằm phản bác, vô hiệu hóa những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động; 4- Phát huy vai trò tiên phong trong dự báo, xác định xu hướng, đưa nền tảng tư tưởng của Đảng vào thực tiễn.

Mối quan hệ giữa đối ngoại với bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng cho tư duy đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lê-nin cung cấp thế giới quan và phương pháp luận khoa học giúp Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn ra thế giới, luận giải tình hình, dự báo xu thế, từ đó đưa ra các quyết sách đối ngoại sáng suốt. Đây là sự kế thừa và phát triển những giá trị tiến bộ của tư tưởng nhân loại, được vận dụng và phát triển phù hợp với thực tiễn lịch sử xã hội. Tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng, “cẩm nang” cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, mà đến nay vẫn tiếp tục là “kim chỉ nam” cho đường lối đối ngoại Việt Nam.

Thứ hai, là người khai sinh ra nền ngoại giao của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một hệ thống tư duy đối ngoại, quan điểm về các vấn đề quốc tế, chiến lược và sách lược cách mạng Việt Nam trong quan hệ với thế giới. Bắt nguồn từ triết lý và truyền thống ngoại giao của ông cha ta, Người đã kế thừa và phát triển những giá trị đó lên tầm cao mới. Tư tưởng của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng cho sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam.

Đối ngoại góp phần tăng cường, bồi đắp, phát triển và đưa nền tảng tư tưởng của Đảng vào thực tiễn
Thứ nhất, mở rộng và nâng tầm quan hệ ngoại giao với các nước, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định “từ sớm, từ xa”, góp phần quan trọng bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh của đất nước, đồng thời tạo sự hiểu biết và ủng hộ của bạn bè quốc tế, trao đổi lý luận phục vụ sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai, tạo môi trường quốc tế thuận lợi và huy động hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài nhằm đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế - xã hội, góp phần xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Thứ ba, đẩy mạnh quảng bá sâu rộng công cuộc đổi mới, hình ảnh đất nước, con người Việt Nam, tích cực, đóng góp trách nhiệm vào nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế, từ đó nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của đất nước, khẳng định nền tảng tư tưởng đúng đắn và vai trò cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế.

Kết hợp hài hòa giữa “xây” và “chống”
Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay cần kết hợp nhuần nhuyễn giữa “bảo vệ” và “đấu tranh”, giữa “xây” và “chống”. Gắn kết chặt chẽ giữa “xây” và “chống”, trong đó “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược và lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và cấp bách. Với nhiệm vụ “bảo vệ” kết hợp với “đấu tranh”, cần dựa trên quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “thêm bạn, bớt thù”(5), lấy “tâm công” làm nền tảng, lấy giáo dục, thuyết phục, tuyên truyền làm trọng, lấy thực tiễn sinh động để chứng minh đường lối đúng đắn, tiến tới chuyển hóa được “đối tượng” thành “đối tác”, qua đó giữ vững đường lối đối ngoại. Cùng với đó, cần chủ động phòng ngừa, kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng đối với những nội dung, chủ thể “chống” trong những điều kiện cần thiết.

Chủ thể cần bảo vệ (xây) là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, quan điểm, đường lối đối nội và đường lối đối ngoại của Đảng và cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế của đất nước. Bên cạnh đó, cần bảo vệ nhân dân, bảo vệ Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, sự nghiệp đổi mới và quan hệ đối ngoại của đất nước; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh, kiên định, trình độ, tận tâm...

Với nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại tiếp tục góp phần bồi đắp, phát triển, đưa nền tảng tư tưởng của Đảng đi vào thực tiễn. Bằng sự vận dụng sáng tạo và không ngừng đổi mới tư duy, công tác lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn phát huy giá trị trong thời đại mới, ứng phó kịp thời trước những biến động nhanh chóng của thế giới.

Đối tượng phải đấu tranh (chống) là những quan điểm sai trái, thù địch, lợi dụng dư luận để xuyên tạc, kích động chống phá chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước; bôi nhọ uy tín, danh dự của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Hơn nữa, cần nhanh chóng dùng sự thật chân thực và thực tiễn cuộc sống của đất nước trên mọi phương diện để phản bác những thông tin sai lệch phủ nhận những thành tựu phát triển và hội nhập quốc tế của đất nước, đấu tranh chống những hành động nguy hại đối với môi trường hòa bình, ổn định, cố tình hạ thấp vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế...

Trước tình hình các thế lực thù địch, phản động có những hoạt động chống phá ngày càng tinh vi và diễn ra bằng nhiều hình thức, với nhiều thành phần, không chỉ là chủ nghĩa đế quốc, mà còn là một số thành phần theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại không chỉ diễn ra bên ngoài, mà cả ở bên trong. Bảo vệ Đảng trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, đồng thời bảo vệ lý tưởng của Đảng trước sự thoái hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Kiên quyết bác bỏ các luận điệu sai trái, thù địch hòng xuyên tạc, bôi nhọ, công kích đường lối đối ngoại của Đảng, hòng làm xói mòn niềm tin của nhân dân, phá hoại môi trường hòa bình, ổn định của đất nước
Một là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam là lạc hậu, lỗi thời, lý thuyết và phi thực tế.
Có thể khẳng định, tư duy và đường lối đối ngoại của Đảng luôn vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Muốn làm gì cũng cần vì lợi ích của dân tộc mà làm”(6), nghĩa là phải luôn đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu. Lời căn dặn của Người đã trở thành nguyên tắc nhất quán của đường lối đối ngoại Việt Nam trong suốt những năm tháng cách mạng và ngày nay.

Trên cơ sở bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, Đảng Cộng sản Việt Nam không ngừng đổi mới tư duy đối ngoại, không ngừng bám sát thực tế. Đó là quá trình phát triển từng bước vững chắc, luôn được kiểm nghiệm trong thực tiễn, có sự kế thừa và tiếp nối cho phù hợp với bối cảnh đất nước và xu thế bên ngoài(7). Tư duy đối ngoại của Đảng luôn kế thừa truyền thống lịch sử và có tính biện chứng, khoa học, thực tiễn.

Nhờ sự kiên định, vận dụng sáng tạo nền tảng tư tưởng đối ngoại của Đảng, cùng với quá trình đổi mới, Việt Nam đã hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng vào khu vực và toàn cầu, khơi thông, mở rộng và làm sâu sắc hơn các mối quan hệ đối ngoại. Thông qua đó, Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi trong huy động các nguồn lực bên ngoài phục vụ quá trình phát triển, phát huy vai trò nòng cốt của đối ngoại và từng bước nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế. Những kết quả đạt được trong quá trình hội nhập quốc tế đã góp phần quan trọng vào những thành tựu to lớn chung của đất nước.

Hai là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc, cổ xúy cho rằng, Việt Nam sẽ phải liên minh với một nước lớn chống nước khác.
Có thể thấy, trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc từ trước đến nay, nhân dân Việt Nam luôn kế thừa và phát huy truyền thống yêu nước, nêu cao ý chí độc lập, tự chủ. Đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ thể hiện qua chính sách quốc phòng “bốn không”(8) được Đảng, Nhà nước Việt Nam nhất quán thực hiện và khẳng định tính đúng đắn trong từng giai đoạn của đất nước.

Xuyên suốt lịch sử, đối ngoại Việt Nam luôn phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, vì lợi ích chung của cả nhân loại, không gây bất lợi cho đối tác bên ngoài và càng không vì một đối tác bên ngoài mà làm ảnh hưởng tới lợi ích chính đáng của đối tác khác.

Có thể khẳng định, quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam hiện nay hoàn toàn đúng đắn và phù hợp với xu thế chung của thế giới. Ưu tiên hàng đầu là bảo đảm cao nhất lợi ích của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả.

Ba là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng, Việt Nam thực hiện “ngoại giao đu dây”, “không dám thể hiện lập trường”.
Đối ngoại của Việt Nam luôn nhất quán, đó là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Việt Nam không chọn bên mà chọn chính nghĩa, sự công bằng, công lý và lẽ phải. Điều này cũng thể hiện tính xuyên suốt, nhất quán trong đường lối đối ngoại của Việt Nam. Đơn cử như, đối với cuộc xung đột Nga - U-crai-na, quan điểm nhất quán của Việt Nam là đứng về công lý và đề xuất biện pháp đối thoại, ngoại giao để giải quyết vấn đề. Quan điểm này của Việt Nam cũng phù hợp với tinh thần thông điệp của Đại hội đồng Liên hợp quốc: “Hãy mở rộng cánh cửa đối thoại và ngoại giao ngay từ bây giờ”(9). Đối với Việt Nam, cả Nga và U-crai-na đều là đối tác quan trọng. Việt Nam kêu gọi hai bên giảm leo thang căng thẳng, nối lại đối thoại và tìm kiếm giải pháp lâu dài trên cơ sở lợi ích và quan ngại của các bên, tôn trọng luật pháp quốc tế, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, an toàn của cư dân sinh sống, trong đó có cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Đây cũng là cách mà nhiều quốc gia trên thế giới đã lựa chọn(10).

Bốn là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tìm cách lôi kéo dư luận hòng can thiệp các vấn đề nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, âm mưu làm xói mòn lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; gây rối, ảnh hưởng đến an ninh, trật tự xã hội, phá hoại môi trường hòa bình ổn định để phát triển đất nước.
Có thể thấy, dân chủ là bản chất của chế độ Việt Nam, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển đất nước, vì vậy trong mỗi tiến trình phát triển của đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân(11). Trên nền tảng đó, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong bảo đảm quyền con người, trở thành một trong những nước chủ động, tích cực tham gia các điều ước quốc tế về nhân quyền của Liên hợp quốc và các tổ chức quốc tế. Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 điều ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Đó là minh chứng sinh động về tính đúng đắn của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam trong lĩnh vực dân chủ, nhân quyền và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Năm là, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc tập trung bôi nhọ, công kích lãnh đạo Đảng, Nhà nước, cán bộ ngoại giao và cơ quan ngoại giao Việt Nam.
Trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ nền độc lập, hòa bình, xây dựng và phát triển đất nước, những dấu mốc thắng lợi và thành tựu to lớn của Đảng và Nhà nước Việt Nam chính là sự khẳng định thuyết phục nhất, chân thực nhất về công lao và cống hiến to lớn của các thế hệ lãnh đạo Đảng, Nhà nước cùng toàn thể cán bộ đối ngoại. Trên thực tế, nhiều thủ đoạn bôi nhọ, công kích cán bộ vẫn còn hiện hữu, nhất là đối với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, hòng gây chia rẽ nội bộ, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Việc bịa đặt, bôi nhọ, tạo dựng thông tin sai lệch về con người, là việc làm xấu xa, trái với đạo đức, truyền thống quý báu của dân tộc.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà ngoại giao kiệt xuất, người sáng lập nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, đã trực tiếp dẫn dắt, chỉ đạo những thế hệ cán bộ ngoại giao đầu tiên sau cách mạng. Những di sản to lớn về tư tưởng, phong cách và nghệ thuật ngoại giao của Người đến nay vẫn tiếp tục soi sáng cho ngành ngoại giao. Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đội ngũ cán bộ ngành ngoại giao luôn phấn đấu trở thành những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững chuyên môn, thông thạo kỹ năng và năng động thích ứng với tình hình(12), hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao phó.

Các nhà ngoại giao Việt Nam qua từng thời kỳ đã khẳng định trình độ, bản lĩnh khi đại diện cho đất nước giữ những trọng trách quan trọng tại các tổ chức, diễn đàn quốc tế lớn ở khu vực và toàn cầu(13). Hiện nay, Việt Nam đang tự tin bước trên con đường hội nhập quốc tế với tâm thế mới, vận hội mới. Điều đó tiếp tục là một trong những minh chứng rõ nét khẳng định uy tín, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước, các nhà lãnh đạo và cán bộ làm công tác đối ngoại, góp phần vào cuộc đấu tranh chung trên mặt trận tư tưởng hiện nay.

Phương hướng phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại
Trong suốt chặng đường gần 40 năm đổi mới, đối ngoại đã phát huy mạnh mẽ vai trò tiên phong, góp phần bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong một thế giới đầy biến động. Trong thời gian tới, để tiếp tục phát huy vai trò tiên phong trong bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng, đối ngoại cần ưu tiên một số nội dung chính sau:
Thứ nhất, tập trung tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vận dụng và phát triển những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại.
Quá trình này sẽ góp phần minh chứng tính đúng đắn, khoa học, sáng tạo trong đường lối đối ngoại của Đảng, phục vụ lợi ích quốc gia - dân tộc, đặt con người vào vị trí trung tâm, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, việc tổng kết thực tiễn đối ngoại qua các thời kỳ, phân tích, đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân sẽ giúp rút ra những bài học quý giá để vận dụng vào công tác đối ngoại trong giai đoạn mới. Với nhận thức đó, đối ngoại cần phát huy vai trò tiên phong trong bảo vệ môi trường hòa bình, an ninh “từ sớm, từ xa”, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển và nâng cao vị thế của đất nước. Quán triệt sâu sắc đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác, phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa trên cơ sở kế thừa và phát huy tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Chú trọng xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng. Cần vận dụng linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với bối cảnh tình hình mới, kế thừa những giá trị cốt lõi về đối ngoại của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xử lý hài hòa, khéo léo các mối quan hệ, nhất là với các nước láng giềng và nước lớn, luôn “biết mình, biết người”, “biết thời, biết thế”, đặt lợi ích quốc gia - dân tộc lên hàng đầu và tôn trọng luật pháp quốc tế.

Thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu, dự báo, bám sát tình hình để kịp thời đổi mới tư duy, chủ động ứng phó và có giải pháp thích hợp trong công tác đối ngoại.
Trong bối cảnh kinh tế thế giới có nhiều biến động, nghiên cứu khoa học và nghiên cứu cơ bản trong lĩnh vực đối ngoại đã có những bước tiến đáng kể, dành được sự quan tâm lớn của ngành ngoại giao(14). Công tác nghiên cứu, dự báo sẽ góp phần đắc lực vào quá trình phát triển đất nước, đồng thời giúp Việt Nam tránh bị động trong đối phó, tạo cớ cho các thế lực thù địch, phản động lợi dụng.

Đối ngoại cần tiếp tục chủ động bám sát tình hình quốc tế và trong nước, nâng cao hiệu quả công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược, xây dựng kịch bản, tranh thủ các mạng lưới đối tác, tư vấn quốc tế, đối thoại chính sách kinh tế cho Việt Nam. Mặt khác, cần xây dựng cơ chế phối hợp nhanh chóng, hiệu quả trong xử lý các vấn đề quan trọng, đột xuất, những vấn đề mang tính quốc tế ở cả trong và ngoài nước, góp phần chủ động hơn nữa trong nắm bắt dư luận, sớm phát hiện các hoạt động chống phá, đấu tranh phản bác thông tin sai lệch, nhất là trong các vấn đề chủ quyền lãnh thổ, quan hệ nước lớn, xung đột, dân chủ, nhân quyền,... để có hình thức đấu tranh phù hợp, xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa đối tác và đối tượng, giữa “xây” và “chống”, qua đó giữ vững môi trường hòa bình, an ninh Tổ quốc.

Thứ ba, chủ động, sáng tạo trong giải thích, thông tin, truyền thông đối ngoại về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước để công chúng thấu hiểu, tự giác nâng cao nhận thức, giác ngộ trước các mưu đồ, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Công tác thông tin đối ngoại cần đẩy mạnh quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam để thế giới biết đến và thêm yêu mến Việt Nam. Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng phát triển, công tác thông tin đối ngoại đứng trước những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng mới, trong đó có sự chỉ đạo, trao đổi thông tin kịp thời giữa các cơ quan thông tấn, báo chí, các cơ quan đại diện trong và ngoài nước nhằm nắm bắt thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội,... nhất là nêu cao sự cảnh giác, nhanh nhạy và sắc bén trong nhận diện, đấu tranh, phản bác các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động.
Đối ngoại cần chủ động và tích cực tham gia cuộc đấu tranh dư luận bằng các biện pháp phù hợp, kể cả trên mặt trận tư tưởng văn hóa đến các phương tiện truyền thông đối ngoại, đồng thời đẩy mạnh hoàn thiện cơ chế, chính sách quản lý thông tin trên nền tảng số, mạng xã hội; chủ động cung cấp thông tin nhằm định hướng dư luận, đẩy lùi thông tin, văn hóa xấu, độc, nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Tích cực đổi mới phương thức, nội dung và tăng cường ứng dụng công nghệ hiện đại nhằm nâng cao hiệu quả tuyên truyền; coi trọng nội dung giáo dục nền tảng tư tưởng của Đảng, văn hóa, lịch sử, truyền thống dân tộc, bảo đảm thực hiện tốt, hiệu quả nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đấu tranh dư luận, cần chú trọng kết hợp các dạng thức truyền thông trên cơ sở phân cấp rõ ràng giữa các đơn vị triển khai nhằm tạo mặt trận dư luận có trình tự rõ ràng, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, không tạo khe hở để lực lượng cực đoan bên ngoài lợi dụng, kích động dư luận.

Thứ tư, xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh chính trị, “vừa hồng, vừa chuyên”.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(15); “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(16). Những năm tới là thời gian chuyển giao thế hệ những cán bộ làm công tác đối ngoại(17), do đó vấn đề kế thừa và phát triển đội ngũ cán bộ đối ngoại bản lĩnh, vừa hồng, vừa chuyên, bảo đảm sự chuyển giao thế hệ một cách vững vàng là một yêu cầu cấp thiết.

Trước hết, cần đẩy mạnh công tác xây dựng, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại về bản lĩnh, phẩm chất. Đây là khâu quan trọng nhất, bởi khi đã thấm nhuần đường lối, chủ trương của Đảng, bản sắc ngoại giao Việt Nam, cán bộ đối ngoại khi tham gia vào đời sống quốc tế mới đủ bản lĩnh, năng lực để kiến tạo điểm tương đồng, giảm thiểu điểm khác biệt, tiếp tục đấu tranh, bảo vệ và đẩy mạnh hợp tác quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc(18). Đặc biệt, tổ chức học tập, quán triệt thực hiện các văn bản, nghị quyết của Đảng về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong đó có Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18-5-2021, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW, ngày 15-5-2016, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Ngoài ra, chú trọng nghiên cứu tư tưởng, trường phái ngoại giao Việt Nam, qua đó vận dụng, phát huy các giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và truyền thống ngoại giao Việt Nam. Xây dựng kế hoạch phát triển nguồn nhân lực toàn diện, bảo đảm cả về chất lượng và số lượng. Ưu tiên đề cử, giới thiệu cán bộ có tiềm năng, triển vọng tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước. Chú trọng đào tạo tại chỗ, gắn đào tạo, bồi dưỡng với thi đua - khen thưởng, phát huy vai trò người đứng đầu. Bên cạnh đó, quán triệt thực hành rộng rãi, duy trì kỷ cương phép nước, chống quan liêu, lãng phí; tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, góp phần nâng cao tiềm lực, vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Đại hội XIII của Đảng đã mang đến cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta xung lực mới để vượt qua mọi thử thách, đóng góp nhiều hơn cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Bước vào giai đoạn mới, bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực đối ngoại trở thành một nhiệm vụ then chốt. Mọi cấp, mọi ngành, mọi cán bộ, đảng viên, người dân trong nước, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cần thấm nhuần và nâng cao hơn nữa ý thức, trách nhiệm của mình trong tham gia công tác đối ngoại.

Nhằm giữ vững và phát huy di sản quý báu, to lớn của các thế hệ đi trước, ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục vững bước tiến lên, và luôn đặt trên vai trọng trách thiêng liêng nhất là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới, đóng góp xứng đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
---------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1991, tr. 127
(2) Đảng đã khẳng định và cụ thể hóa: “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”. Xem: Nguyễn Ngọc Cơ: “Mỗi đảng viên phải có trách nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 12-11-2021, https://dangcongsan.vn/bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang/moi-dang-vien-phai-co-trach-nhiem-bao-ve-nen-tang-tu-tuong-cua-dang-596992.html
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 33
(4) Nguyễn Phú Trọng: “Kế thừa, phát huy truyền thống dân tộc, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, quyết tâm xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 21-11-2023, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/media-story/-/asset_publisher/V8hhp4dK31Gf/content/ke-thua-phat-huy-truyen-thong-dan-toc-tu-tuong-ngoai-giao-ho-chi-minh-quyet-tam-xay-dung-va-phat-trien-nen-doi-ngoai-ngoai-giao-toan-dien-hien-dai-man
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 4, tr. 215
(6) Nguyễn Dy Niên: Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 112
(7) Đổi mới tư duy đối ngoại được thể hiện rõ và đặc sắc nhất trong thời kỳ đổi mới, với ba giai đoạn: 1- Giai đoạn phá thế bao vây, cấm vận (1986 - 1995); 2- Giai đoạn mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế (1996 - 2010); 3- Giai đoạn đưa quan hệ đối ngoại đi vào chiều sâu và hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện (từ năm 2011 đến nay)
(8) 1- Không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác; 2- Không tham gia liên minh quân sự; 3- Không liên kết với nước này để chống nước kia; 4- Không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế
(9) António Guterres: “Secretary-General’s press remarks following vote of General Assembly on Ukraine” (Tạm dịch: Phát biểu với báo chí của Tổng Thư ký Liên hợp quốc sau cuộc bỏ phiếu của Đại hội đồng Liên hợp quốc về U-crai-na), United Nations, ngày 2-3-2022, https://www.un.org/sg/en/content/sg/
speeches/2022-03-02/remarks-following-vote-of-general-assembly-ukraine
(10) Nhiều quốc gia bỏ phiếu trắng khi thông qua hai nghị quyết của Đại hội đồng Liên hợp quốc. Xem: Mai Chi: “Công lý, đối thoại và ngoại giao”, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, ngày 8-4-2022, https://tuyengiao.vn/cong-ly-doi-thoai-va-ngoai-giao-143037
(11) Vũ Văn Hiền: Một số luận cứ phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đại hội XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 1, tr. 194
(12) Phạm Quang Hiệu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đối ngoại toàn diện, hiện đại, ngang tầm nhiệm vụ”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 22-4-2021, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/quoc-phong-an-ninh-oi-ngoai1/-/2018/821754/xay-dung-doi-ngu-can-bo-doi-ngoai-toan-dien%2C-hien-dai%2C-ngang-tam-nhiem-vu.aspx
(13) Tổng Thư ký ASEAN, Phó Tổng Thư ký ASEAN, Thành viên Ủy ban Luật pháp quốc tế của Liên hợp quốc (ILC)...
(14) Thể hiện qua việc đánh giá tình hình, đề ra đối sách, tham mưu điều hành kinh tế, tranh thủ tư vấn nước ngoài, nhìn nhận những xu thế mới trên thế giới để phục vụ lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các cơ quan hữu quan trong đưa ra những quyết sách thích hợp. Xem: Bộ Ngoại giao: Ngoại giao Việt Nam 2000 - 2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr. 186
(15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 309, 280
(17) Chuyển giao từ thế hệ cán bộ sinh ra trong lúc đất nước còn chiến tranh, học tập ở các nước xã hội chủ nghĩa sang thế hệ cán bộ sinh ra, lớn lên trong thời bình, được đào tạo từ trong nước và ngoài nước, sẽ đảm đương những nhiệm vụ quan trọng trên mặt trận đối ngoại
(18) Nguyễn Minh Vũ: Phát triển đội ngũ cán bộ đủ khả năng làm việc trong môi trường quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng (phần cuối), Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương, ngày 6-11-2021, http://hdll.vn/vi/nghien-cuu---trao-doi/phat-trien-doi-ngu-can-bo-du-kha-nang-lam-viec-trong-moi-truong-quoc-te--dap-ung-yeu-cau-hoi-nhap-quoc-te-toan-dien-va-sau-rong-phan-cuoi.html.
Ảnh: Ủy viên Trung ương Đảng, Quyền Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân trao quyết định bổ nhiệm cho các tân đại sứ, ngày 24-2-2024.

Ảnh: Liền chị mời trầu các nữ đại sứ và trưởng cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam thưởng thức chương trình dân ca quan họ Bắc Ninh.
Yêu nước ST.

ĐẤU TRANH CHỐNG CHIÊU TRÒ LỢI DỤNG TÌNH TRẠNG CÁN BỘ SỢ TRÁCH NHIỆM, NÉ TRÁNH TRÁCH NHIỆM ĐỂ CHỐNG PHÁ ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC - NHÌN TỪ CUỐN SÁCH CỦA TỔNG BÍ THƯ NGUYỄN PHÚ TRỌNG!

         Trong cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nêu, làm rõ thực trạng cán bộ, công chức, viên chức (CBCCVC) sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ; đồng thời vạch ra những nhiệm vụ, giải pháp để phòng trị, ngăn chặn thực trạng này. Đây là cơ sở lý luận và thực tiễn rất quan trọng để đấu tranh với những chiêu trò, luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù định, lợi dụng hiện tượng một bộ phận CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm để chống phá Đảng và Nhà nước ta; đồng thời là cẩm nang quý để xây dựng đội ngũ CBCCVC toàn tâm, toàn ý phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh!

Nhận diện, đấu tranh với chiêu trò lợi dụng tình trạng cán bộ, công chức, viên chức sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm để chống phá Đảng và Nhà nước ta
Trách nhiệm của CBCCVC là thực hiện đúng, đầy đủ chức trách, nhiệm vụ, thẩm quyền đã được Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó để phục vụ lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, của Đảng. Thời gian qua, nhiều địa phương, đơn vị xuất hiện tình trạng một bộ phận CBCCVC không thực hiện hoặc chậm trễ trong việc thực hiện nhiệm vụ, chức trách của mình, làm ảnh hưởng đến lợi ích của người dân, doanh nghiệp, địa phương, đất nước. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch đã tung ra luận điệu xuyên tạc để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá Đảng và Nhà nước ta, vì thế, cần vạch rõ bản chất của âm mưu, thủ đoạn đen tối này để có giải pháp đấu tranh ngăn chặn hiệu quả.

Thứ nhất, đấu tranh phản bác luận điệu cho rằng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là bản chất của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm không phải mới có mà đã tồn tại từ lâu, mang tính bản chất của chế độ ta, từ đó, quy chụp bộ máy nhà nước ta biến chất, cần phải xây dựng một bộ máy nhà nước khác (?!).

Sự thật là, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả hoạt động của Nhà nước đều nhằm mục đích bảo đảm cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Với mục tiêu, lý tưởng cao đẹp đó, hàng triệu đảng viên và CBCCVC trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước các cấp không ngừng phấn đấu, vượt qua mọi khó khăn, thách thức, thậm chí có người đã hy sinh cả tính mạng của mình vì lợi ích của đất nước, của nhân dân, của Đảng. “Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng chăm lo đời sống nhân dân. Đảng luôn luôn coi việc bảo đảm và cải thiện đời sống nhân dân là trách nhiệm to lớn thường xuyên của mình”(1). Nhưng, bên cạnh những CBCCVC luôn giữ được phẩm chất, đạo đức cách mạng, cũng có một bộ phận CBCCVC thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, ngại khó, ngại khổ, sợ trách nhiệm, nên không dám làm mà né tránh hay đùn đẩy trách nhiệm cho người khác. Tuy nhiên, không phải vì thế mà lấy hiện tượng để đánh giá bản chất, khi cho rằng CBCCVC trong hệ thống chính trị của chúng ta đều xấu, rằng “cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là bản chất” của nhà nước ta, bởi như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, “nếu xấu như vậy thì tại sao những năm qua chúng ta tiến hành sự nghiệp đổi mới đạt được những thành tựu to lớn mà cả thế giới thừa nhận, vị thế nước ta trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao?”(2). Đảng ta sẵn sàng nhìn nhận một cách khách quan, bên cạnh những thành tựu trong công tác xây dựng, phát triển đội ngũ đảng viên, CBCCVC, thời gian qua, vẫn còn một bộ phận đảng viên, CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm và đặt ra yêu cầu phải đấu tranh không khoan nhượng với những hạn chế, khuyết điểm đó. “Chiến đấu ở đây không phải chỉ hiểu đơn thuần là chiến đấu với kẻ thù, mà chiến đấu với tình trạng trì trệ, không phát triển; chiến đấu với việc làm sai trái; chiến đấu với chính bản thân mình để vượt lên những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân; chiến đấu chống lại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch”(3).

Thứ hai, đấu tranh phản bác luận điệu cho rằng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là do chế độ một đảng lãnh đạo.
Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, do ở Việt Nam chỉ có một đảng duy nhất lãnh đạo nên quyền lực chính trị tập trung, hạn chế sự sáng tạo của các cá nhân, dẫn đến nhiều CBCCVC thụ động, không dám có sáng kiến, coi “ý đảng” đứng trên pháp luật. Từ đó, các thế lực thù địch cho rằng, cần thực hiện đa nguyên, đa đảng, để quyền lực không còn tập trung, để có pháp luật bảo vệ (?!)

Sự thật là, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng định, Đảng Cộng sản Việt Nam “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(4), “Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”(5). Do đó, không có chuyện Đảng đứng trên pháp luật hay không theo pháp luật để lãnh đạo đất nước; nghị quyết của Đảng và pháp luật của Nhà nước bảo đảm tính thống nhất, không mâu thuẫn với nhau, bởi pháp luật chính là sự thể chế hoá chủ trương, đường lối, quan điểm được thể hiện trong nghị quyết của Đảng và nghị quyết của Đảng cũng không thể trái pháp luật. Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không can thiệp vào công việc cụ thể của Nhà nước mà chỉ định hướng hoạt động thông qua nghị quyết, đường lối của Đảng; thông qua tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục; thông qua đội ngũ đảng viên trong bộ máy nhà nước, thông qua công tác kiểm tra, giám sát và sự gương mẫu của đảng viên. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tổ chức quyền lực theo nguyên tắc phân công quyền lực, nhà nước của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, kế thừa những nhân tố hợp lý của mô hình nhà nước pháp quyền của nhân loại với mục tiêu bảo đảm cho pháp luật trở thành tối thượng, được thực thi trên thực tế. Điều đó thể hiện ở việc Đảng ta chỉ đạo thể chế hóa tổ chức quyền lực nhà nước theo nguyên tắc “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”(6). Như vậy, quyền lực nhà nước vẫn bảo đảm được vận hành hiệu quả “trên cơ sở các nguyên tắc pháp quyền, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”(7). Ở Việt Nam, dù một đảng lãnh đạo, dù chúng ta không thực hiện tam quyền phân lập, song vẫn bảo đảm Hiến pháp là tối thượng thông qua nguyên tắc pháp quyền. Không có cá nhân, tổ chức nào hoạt động đứng ngoài hay đứng trên pháp luật. Pháp luật ở nước ta đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của CBCCVC trong hoạt động công vụ(8) và đó cũng là cơ sở để xác định rõ trách nhiệm của CBCCVC. Vì vậy, để khắc phục tình trạng CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm, vấn đề cốt yếu không phải là “thay đổi thể chế chính trị” như các thế lực thù địch rêu rao, xuyên tạc, mà chính là cần phải hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, gắn với xây dựng một hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán.

Thứ ba, đấu tranh phản bác luận điệu cho rằng, cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là do đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực quá quyết liệt.
Các thế lực thù địch xuyên tạc rằng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chỉ nhằm “đấu đá nội bộ, triệt phe cánh đối lập”; do Đảng ta xử lý kỷ luật mạnh tay những đảng viên, CBCCVC tham nhũng, tiêu cực, cả những cán bộ đã nghỉ hưu, lật lại những vụ tham nhũng, tiêu cực cách đây nhiều năm, nên nhiều CBCCVC sợ trách nhiệm vì mang tâm lý “làm nhiều sai nhiều, làm ít sai ít, không làm thì không sai”, né tránh trách nhiệm để bảo đảm “an toàn”(?!).

Phát biểu tại Phiên họp thứ 21 của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, ngày 20-1-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã yêu cầu phải: “Chấn chỉnh, đấu tranh đẩy lùi, loại bỏ tư tưởng lo ngại việc đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng sẽ “làm chậm sự phát triển”, làm “hạn chế sức sáng tạo, dám nghĩ, dám làm”, “nhụt chí”, “làm cầm chừng”, “phòng thủ” trong một bộ phận cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”(9). Tổng Bí thư khẳng định: “Đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng và xây dựng, chỉnh đốn Đảng chỉ làm “chùn bước” những ai có động cơ không trong sáng, đã trót “nhúng chàm” và những người không nắm vững chủ trương, chính sách của Đảng, thiếu kiến thức, kinh nghiệm và bản lĩnh”(10).

Ngoài ra, thực tế cho thấy, tình trạng sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm có một phần nguyên nhân từ sự yếu kém của một bộ phận CBCCVC do hạn chế về năng lực, về phẩm chất, đạo đức hay đã từng mắc phải sai phạm trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ, nay sợ bị phát hiện và bị xử lý, nên không dám làm hoặc làm “cầm chừng”, “đối phó”, né tránh trách nhiệm để mong được “an toàn”. Cần nhận thức rằng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do Đảng ta, đứng đầu là Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lãnh đạo, với phương châm “kiên quyết, kiên trì, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai” được tiến hành mạnh mẽ, quyết liệt thời gian qua là động lực quan trọng để thúc đẩy phát triển đất nước, “chính nhờ làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã góp phần quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, tăng cường quốc phòng, an ninh và đối ngoại”(11). Đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiệu quả góp phần làm trong sạch bộ máy của Đảng, Nhà nước, giảm bớt sự nhũng nhiễu của một bộ phận CBCCVC đối với người dân, doanh nghiệp, qua đó, ngày càng củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước. Như vậy, rõ ràng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực mang lại nhiều lợi ích, không hề “làm cản trở sự phát triển của đất nước” như các thế lực thù địch xuyên tạc.

Giải pháp phòng, trị bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm
Tình trạng CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm như một căn bệnh đã và đang gây nhiều tác động tiêu cực đối với sự phát triển đất nước. “Thái độ sợ trách nhiệm của một số cán bộ, đảng viên đang là một trở ngại cho công tác của Đảng và Nhà nước, làm cho công việc bị trì trệ, dậm chân tại chỗ, làm cho những nhân tố mới không phát huy được, những khuyết điểm và nhược điểm không được khắc phục kịp thời, và làm cho trình độ, năng lực công tác của cán bộ chậm được nâng cao”(12). Trước hết, bệnh sợ trách nhiệm làm cho nhiều CBCCVC thụ động trong công việc, đùn đẩy trách nhiệm. Vì vậy, nhiều nhu cầu thiết thực, chính đáng của người dân, doanh nghiệp không được giải quyết kịp thời, dẫn đến sự suy giảm niềm tin đối với bộ máy công quyền. “Người sợ trách nhiệm thường làm việc một cách cầm chừng cho “đủ bổn phận”, cốt sao không phạm phải khuyết điểm gì lớn. Vì luôn luôn lo sợ phải chịu trách nhiệm về những việc sẽ xảy ra, cho nên không muốn cải tiến công tác, không dám mạnh dạn thay đổi những cái không hợp lý, chỉ làm theo nếp cũ. Vì sợ trách nhiệm mà đi đến bảo thủ”(13). Đáng lo ngại hơn, bệnh sợ trách nhiệm còn làm cho những khuyết điểm trong thực thi công vụ không được chỉ ra, vì “Người sợ trách nhiệm còn ngại “va chạm” trong quan hệ với các đồng chí trong đơn vị, với cấp trên và cả với cấp dưới. Lấy cớ phải có tác phong “thận trọng, chín chắn”, phải “giữ gìn đoàn kết”, các đồng chí đó không thẳng thắn phê bình những người phạm khuyết điểm, không đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực, những tư tưởng và việc làm trái với đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước”(14).

Để phòng, trị có hiệu quả những tác hại nghiêm trọng của căn bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm của một bộ phận CBCCVC, cần chú trọng thực hiện một số giải pháp:
Thứ nhất, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm có một phần nguyên nhân là do hệ thống pháp luật hiện hành còn những bất cập, chồng chéo, thiếu thống nhất, có thể cùng một vấn đề nhưng có nhiều cách hiểu và vận dụng khác nhau, dễ sai phạm, nên nhiều CBCCVC né tránh việc thực hiện. Vì vậy, cần quan tâm nghiên cứu, sửa đổi, hoàn thiện các quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản dưới luật, khắc phục tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo, bảo đảm tính thống nhất, chặt chẽ, đồng bộ, dễ hiểu, dễ triển khai thực hiện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để CBCCVC tự tin thực thi trách nhiệm công vụ trong chức trách, thẩm quyền của mình.

Thứ hai, quy định rõ trách nhiệm cá nhân, tập thể trong hoạt động công vụ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Hiện nay còn có những cơ quan, đơn vị vì phân công không rõ ràng, quy định không rành mạch về trách nhiệm và quyền hạn của từng người cho nên không thể đánh giá đúng ai làm tốt, ai làm không tốt; khi xảy ra việc làm sai gây tổn hại cho Đảng và Nhà nước thì chỉ có thể kiểm điểm tập thể chung chung, không biết quy trách nhiệm cụ thể về ai”(15). Do đó, cần tiếp tục thực hiện có hiệu quả chủ trương một người có thể làm nhiều việc nhưng công việc nào cũng phải có người phụ trách, quy định và phân biệt rạch ròi trách nhiệm cá nhân và tập thể, tránh trường hợp “tranh công đổ lỗi”, khi thành công thì nhận thành tích cá nhân, khi thất bại, kém hiệu quả lại đổ lỗi cho tập thể. Đặc biệt, cần có những quy định xác định rõ trách nhiệm cá nhân không chỉ khi thực hiện sai quy định pháp luật mà còn cả khi không thực hiện đầy đủ theo thẩm quyền được giao, để công việc bị chậm trễ. Khi trách nhiệm cá nhân trong hoạt động công vụ rõ ràng sẽ hạn chế được tình trạng CBCCVC không dám làm, sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm.

Thứ ba, phát huy dân chủ trong thực thi công vụ. Tình trạng cấp trên bao biện, không chú ý lắng nghe ý kiến và trao quyền cho cấp dưới đã và đang xảy ra ở nhiều cấp, nhiều ngành, tạo ra một đội ngũ CBCCVC thụ động, không dám làm, không dám quyết định và né tránh trách nhiệm. Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Có những cán bộ cấp trên không tôn trọng chức trách, quyền hạn của cấp dưới, đã không chú ý đề cao, phát huy tính chủ động sáng tạo của cán bộ cấp dưới, rồi tự cho mình là đi sâu đi sát, là có tác phong cụ thể. Cách làm việc như vậy thường khiến cho những cán bộ vốn ỷ lại, thụ động dễ dàng lẩn tránh trách nhiệm. Cũng có trường hợp người lãnh đạo ở cấp trên không khách quan lắng nghe ý kiến của cán bộ cấp dưới, chỉ muốn nghe những lời khen và đồng tình với mình, không thích những cán bộ có ý kiến trái với mình, cho nên không cổ vũ, khuyến khích cán bộ cấp dưới độc lập suy nghĩ, chủ động sáng tạo trong công việc và thẳng thắn phát biểu, đề đạt ý kiến. Thái độ đó của cấp trên thực tế là ủng hộ những cán bộ sợ trách nhiệm, những người “chỉ làm những việc mà người ta bảo làm””(16). Do đó, phải đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, trao quyền nhiều hơn cho cơ quan cấp dưới, cán bộ cấp dưới để họ có quyền quyết định và tự chịu trách nhiệm về quyết định của mình. Đồng thời, cán bộ lãnh đạo, quản lý phải có phong cách lãnh đạo và làm việc dân chủ, luôn lắng nghe, tôn trọng ý kiến của cấp dưới, khuyến khích cấp dưới phát biểu, đối thoại, đề ra sáng kiến, kể cả trái với quan điểm của mình, từ đó sẽ tạo ra một đội ngũ CBCCVC dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ làm rõ nguyên nhân khách quan, bên ngoài của căn bệnh CBCCVC sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm như thể chế, pháp luật…, mà còn nêu ra nguyên nhân chủ quan, bên trong. “Nguồn gốc chủ yếu của bệnh sợ trách nhiệm là chủ nghĩa cá nhân. Chính vì luôn luôn tính toán cho lợi ích cá nhân, bo bo “bảo vệ” lấy cái cá nhân của mình mà mất cả dũng khí đấu tranh,… không dám đương đầu trước khó khăn, không dám nghĩ, không dám làm, chỉ tránh khó ngại phiền”(17). Do đó, để trị tận gốc căn bệnh này, phải đổi mới toàn diện công tác cán bộ, trước hết là phải thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Khi đã một lòng, một dạ vì đất nước, lấy hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu, lý tưởng phấn đấu thì họ sẽ không ngại đương đầu với khó khăn, thử thách, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân để thực hiện mục tiêu, lý tưởng mà mình đã lựa chọn. Từ đó, bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm sẽ khó có đất để tồn tại.

Cùng với công tác đào tạo, bồi dưỡng, cần chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng công tác đánh giá CBCCVC theo hướng bổ sung tiêu chí cụ thể đối với những CBCCVC dám nghĩ, dám làm, có nhiều đổi mới, sáng kiến được tập thể, lãnh đạo cơ quan, đơn vị công nhận, đánh giá tốt, là tấm gương để những cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm thay đổi thái độ, tinh thần trách nhiệm trong công việc. Gắn việc đánh giá với công tác khen thưởng, kỷ luật, bổ nhiệm, thay thế, điều động, luân chuyển CBCCVC. Những cán bộ có tinh thần trách nhiệm cao trong thực thi công vụ, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, có tinh thần đổi mới, sáng tạo cần được đánh giá khách quan, khen thưởng kịp thời, được đề bạt, bổ nhiệm lên vị trí cao hơn. Ngược lại, những cán bộ làm việc cầm chừng, cố tình đùn đẩy, né tránh trách nhiệm cần có hình thức xử lý thích hợp, thậm chí điều chuyển hoặc truy cứu trách nhiệm chính trị, pháp lý, kỷ luật, thay thế kịp thời. Nâng cao chất lượng của công tác cán bộ ở tất cả các khâu, các quy trình là giải pháp vừa cấp bách trước mắt, vừa căn cơ lâu dài để phòng, trị căn bệnh sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm.

Để khắc phục tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm, cần vừa đấu tranh với luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, lợi dụng hạn chế này để chống phá Đảng và Nhà nước ta, vừa phải quyết liệt đấu tranh với chính những tiêu cực, hạn chế từ trong nội bộ đội ngũ CBCCVC của Đảng và hệ thống chính trị. Ngăn chặn, hạn chế tình trạng cán bộ sợ trách nhiệm, né tránh trách nhiệm là yêu cầu cấp thiết để thực hiện thành công chủ trương xây dựng đội ngũ cán bộ “7 dám” (dám nghĩ; dám nói; dám làm; dám chịu trách nhiệm; dám đổi mới sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung), mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh./.
--------------------------
(1), (2), (3), (9), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (16), (17) Nguyễn Phú Trọng: Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2023, tr. 229, 305, 293, 204 - 205, 100, 99, 468, 466, 467 - 468, 470, 470, 469
(4) Khoản 1, Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
(5) Khoản 3, Điều 4, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
(6) Khoản 3, Điều 2, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 175
(8) Luật Cán bộ, công chức năm 2008; Luật Viên chức năm 2010; Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.

Yêu nước ST.

Lời Bác dạy ngày 28/6/1966

“Phải mật thiết liên hệ với gia đình học trò. Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”.

Là nội dung huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài nói chuyện tại Hội nghị cán bộ Đảng ngành giáo dục, họp tháng 6 năm 1957.

Theo Bác, trong giáo dục cần làm cho học sinh biết yêu Tổ quốc, thương đồng bào, yêu lao động, biết vệ sinh, giữ kỷ luật, học văn hóa. Đồng thời phải giữ cho học sinh luôn được vui vẻ, hoạt bát, tự nhiên, trẻ trung của tuổi thơ, được hưởng quyền dân chủ, được vui chơi và học hành tiến bộ, mang lại cho trẻ em niềm hạnh phúc khi được sống cùng cha mẹ. Để làm được điều đó, giáo dục gia đình giữ vai trò rất quan trọng.

Thấm nhuần lời dạy của Bác Hồ về tầm quan trọng của gia đình, Đảng, Nhà nước, Chính phủ luôn đánh giá cao vị trí, vai trò của gia đình đối với sự phát triển bền vững của đất nước, luôn xác định gia đình là tế bào của xã hội. Ngày 28 tháng 6 năm 2000, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 55-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng cơ sở đối với công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em; Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 72/2001/QĐ-TTg, chọn ngày 28 tháng 6 hằng năm là Ngày Gia đình Việt Nam, nhằm đề cao trách nhiệm của các ngành, các cấp, các đoàn thể và tổ chức xã hội cùng toàn thể các gia đình thường xuyên quan tâm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Ngày Gia đình Việt Nam là dấu mốc quan trọng để những con người đất Việt hướng về cội nguồn, về những người thân yêu, qua đó nuôi dưỡng tình cảm đẹp, những giá trị văn hóa cao quý của dân tộc. Cho dù có đi đâu, làm gì, gia đình vẫn là nơi để nhớ, để yêu thương và để quay về.

Hoạt động của Quân đội là loại hình lao động đặc biệt, cán bộ, chiến sĩ cơ bản sống xa gia đình, gắn bó với đơn vị; do vậy, với mỗi người lính gia đình luôn có vị trí đặc biệt trong tâm tư, tình cảm và trách nhiệm của mỗi người. Để xây dựng được tinh thần đoàn kết đồng chí, đồng đội, gắn bó giữa bộ đội với cơ quan, đơn vị, các mô hình: “Đơn vị là nhà, cán bộ, chiến sĩ đều là anh em”, “Đảo là nhà, tàu là nhà, biển cả là quê hương”, “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, đồng bào các dân tộc là anh em ruột thịt”…đã được cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân triển khai thực hiện đạt hiệu quả thiết thực đã góp phần quan trọng xây dựng tinh thần đoàn kết đồng chí, đồng đội, đoàn kết quân dân và sự gắn bó của bộ đội với cơ quan, đơn vị, hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao, xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh, cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện.

Tỉnh táo, cảnh giác trước luận điệu vu khống, xuyên tạc tình hình nhân quyền ở Việt Nam

 

Có thể nhận thấy, mục đích đê hèn của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động lợi dụng dân chủ, nhân quyền là "chiêu bài" cuối cùng để chống phá Đảng, chống phá Nhà nước để đi tới âm mưu lật đổ chính quyền. Như đã chỉ ra ở trên, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng những vấn đề có tính nhạy cảm như vấn đề xã hội, dân tộc, tôn giáo, nhân quyền... để chống Việt Nam. Các hành vi này có tính chất ngày càng gay gắt, quyết liệt và nguy hiểm.

Đơn cử, như mới đây nhất, ông Thích Minh Tuệ từ hình ảnh một khất sĩ đầu trần chân đất, mặc tấm y chắp vá từ nhiều mảnh vải, đi khất thực dọc theo các tuyến đường từ Nam ra Bắc đã được các youtuber, tiktoker, facebooker… thổi lên thành “hiện tượng mạng”. Theo Ban Tôn giáo Chính phủ, việc nhiều người đi theo ông Thích Minh Tuệ đã gây ảnh hưởng đến giao thông, trật tự, trong đó một số người gặp vấn đề về sức khỏe, có người bị sốc nhiệt, đuối sức, nằm gục trên mặt đường, có người bị tử vong. Trước những sự việc nêu trên, các cơ quan chức năng đã gặp gỡ, trao đổi với ông Thích Minh Tuệ về việc Nhà nước nhất quán chủ trương tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo của mọi người; chính quyền các địa phương đã luôn quan tâm, tạo điều kiện để ông Thích Minh Tuệ được đi bộ và hành trình theo ý nguyện, song cần phải bảo đảm an toàn tính mạng, sức khỏe cho bản thân ông và người dân, cũng như sự ổn định xã hội. Ông Thích Minh Tuệ đã nhận thức rõ quyền và nghĩa vụ của công dân, tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực. 

Thế nhưng, khi ông Thích Minh Tuệ tự nguyện dừng việc đi bộ khất thực, các tổ chức như Việt Tân, Đài Á Châu Tự do, Chân trời mới media, Thời báo.de… liên tiếp xuyên tạc việc ông Thích Minh Tuệ dừng khất thực do bị “trấn áp”, xuyên tạc chính quyền đang “vùi dập một người chân tu chân chính”, “áp đặt người dân không được sống đúng với tín ngưỡng, tự do tôn giáo”. Từ đó, các tổ chức này xuyên tạc về tình hình tự do tín ngưỡng, tôn giáo tại Việt Nam, cố tình thổi phồng, và đưa thông tin không đúng sự thật, qua đó gieo rắc hoài nghi, phân biệt giữa người tu trong các tổ chức tôn giáo, kêu gọi người dân lên tiếng phản đối chính quyền, cổ súy người dân tiếp tục xuống đường...

Do vậy, để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị, thì mỗi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân cần hết sức tỉnh táo, đề cao cảnh giác tin tưởng, kiên định, giữ vững con đường cách mạng và thành tựu đổi mới, hội nhập, phát triển của đất nước ta. Trong đó, cần thiết phải nhận diện thấy rõ những âm mưu lợi dụng “dân chủ, nhân quyền” thông qua việc tìm hiểu những đặc điểm, ngôn từ, cách diễn đạt, nguồn địa chỉ thông tin, video, so sánh kiểm chứng đúng - sai, thật - giả trên các trang mạng khác nhau, xác định đường liên kết tên miền của Việt Nam hay nước ngoài của những tổ chức trong nước hay là các tổ chức phản động, lưu vong dựng chuyện. Từ đó, có những nhìn nhận chính xác được vấn đề, nhất là mạng xã hội mà các thế lực thù địch dùng làm phương tiện triển khai "chiêu bài nhân quyền". Đồng thời, theo điều kiện và khả năng thực tế cần tích cực tham gia đóng góp công sức vào quá trình phát triển của đất nước; chủ động đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động.

Có thể khẳng định, Đảng và Nhà nước ta, bảo vệ và phát huy quyền con người không chỉ là thành quả của cách mạng mà còn là mục tiêu nhất quán trong các giai đoạn cách mạng Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam luôn thực hiện nhất quán chính sách bảo đảm quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho mọi người, góp phần quan trọng xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc nhận diện, bóc trần và đập tan những thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề nhân quyền chống phá cách mạng Việt Nam hiện nay là nhằm góp phần ngăn chặn sự phá hoại của các thế lực thù địch, các phần tử xấu chống phá cách mạng Việt Nam, bảo vệ chế độ, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân Việt Nam nói chung trong tiến trình đổi mới đất nước, phát triển đất nước Việt Nam hùng cường dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

Chiêu trò đưa các thông tin, báo cáo quy chụp về nhân quyền của Việt Nam

 

Để thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá cách mạng Việt Nam, các thế lực thù địch không từ một thủ đoạn nào. Trong đó, điều đặc biệt là rất nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế, tổ chức tự xưng về nhân quyền chưa từng đặt chân đến Việt Nam nhưng lại dựa theo các báo cáo, thông tin để lợi dụng vấn đề “dân chủ, nhân quyền” nhằm mục đích kêu gọi sự can thiệp của quốc tế vào công việc nội bộ của Việt Nam.

Đơn cử, như có báo cáo nhân quyền và nội dung báo cáo nhân quyền của nhiều cơ quan, tổ chức quốc tế đã đưa ra những thông tin không chính xác cho rằng Việt Nam bắt, giam giữ những người vì hoạt động chính trị hoặc nhân quyền, vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do hội họp và lập hội... Nhằm minh chứng cho những nội dung được đưa ra trong bản báo cáo, nhiều đối tượng được liệt kê và họ cho là “các nhà hoạt động chính trị”, “nhà bảo vệ nhân quyền” thời gian qua như Lê Anh Hùng, Phan Tất Thành... Thực chất, đây đều là những đối tượng có hành vi vi phạm pháp luật, phạm các tội danh theo quy định của Bộ luật Hình sự, bị bắt giữ, điều tra, có đối tượng đã bị đưa ra xét xử và tuyên phạt với những bản án đúng người, đúng tội theo đúng pháp luật hiện hành, được dư luận và người dân Việt Nam đồng tình, ủng hộ.

Có thể thấy rằng, các chiêu bài cũ rích mà các thế lực, thù địch có quan điểm sai trái, thường hay vu cáo về nhân quyền Việt Nam trong một số báo cáo thường đưa ra các luận điệu như: Chính quyền Việt Nam tiếp tục nghiêm cấm việc thành lập các nghiệp đoàn độc lập và tổ chức nhân quyền độc lập; giám sát, sách nhiễu và trấn áp các nhóm tôn giáo độc lập; các blogger và các nhà hoạt động nhân quyền bị đe dọa, sách nhiễu, hạn chế đi lại, bắt giữ tùy tiện, biệt giam… Hay như, thông qua giải thưởng nhân quyền cho các đối tượng có hành vi chống phá Nhà nước. Đơn cử như, báo cáo “Sức mạnh nhân dân bị tấn công năm 2023” của tổ chức “Liên minh toàn cầu vì sự tham gia của công dân” (CIVICUS Monitor) nhằm bênh vực, đòi thả tự do cho số đối tượng vi phạm pháp luật Việt Nam khi có các hành vi phạm tội tuyên truyền chống nhà nước, lợi dụng các quyền tự do dân chủ như Trương Văn Dũng, Trần Văn Bang, Phan Sơn Tùng...

Những luận điệu sai trái của CIVICUS cho thấy âm mưu, thủ đoạn của tổ chức này là vu cáo Việt Nam quyền tự do dân chủ “bị bịt kín” nhằm cổ súy ra đời các tổ chức đội lốt “xã hội dân sự” hoạt động không đúng tôn chỉ mục đích; phủ nhận những thành tựu dân chủ, nhân quyền của Việt Nam. Từ đó, đưa ra những “yêu sách” đòi mở rộng quyền tự do, dân chủ đứng ngoài pháp luật; đòi thực hiện chế độ đa đảng và thúc đẩy ra đời các tổ chức chính trị đối lập với xu hướng thoát ly sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước; tìm cách kích động phản kháng, biểu tình, bạo loạn lật đổ, thực hiện mưu đồ triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi thể chế chính trị ở Việt Nam. 

Với mưu đồ chính trị, các thế lực thù địch, phản động, các phần tử cơ hội cực đoan đã cố tình xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước Việt Nam không coi trọng dân chủ, nhân quyền, phớt lờ các quyền cơ bản của con người, vi phạm quyền công dân. Hoạt động chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù địch phản động ngày càng mạnh mẽ hơn, quyết liệt hơn, chúng còn tuyên bố rằng vi phạm dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam xuất phát từ bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa phi dân chủ; chúng còn yêu cầu đưa Việt Nam vào danh sách đen các nước cần được quan tâm, giám sát đặc biệt về dân chủ nhân quyền.

Những quy chụp cho rằng Việt Nam xem xét nhân quyền với nội hàm quá rộng, thiên về khuôn phép xã hội, coi nhẹ bảo đảm quyền tự nhiên cụ thể của cá nhân cùng với những luận điệu nhân danh nhân quyền để ra sức cổ xuý các giá trị dân chủ tư sản “kiểu Mỹ” và phương Tây, lấy nhân quyền phương Tây để phổ quát toàn thế giới, cao hơn chủ quyền quốc gia là căn cứ phi khoa học để các thế lực thù địch xuyên tạc tình hình nhân quyền, dân chủ ở Việt Nam. Điều này vi phạm đến công ước và nguyên tắc quốc tế, can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác.

Lợi dụng triệt để thông tin, báo cáo, số liệu phiến diện, vu cáo, sai lệch của các tổ chức, các trang thông tin như BBC New, RFA, RFI, VOA tiếng Việt, Thoibao.de… và các tổ chức phản động như “Việt Tân”, “Ủy ban cứu người vượt biển (BPSOS)”… liên tục đăng các bài viết, rêu rao luận điểm, trích dẫn thông tin sai lệch từ các báo cáo nhằm xuyên tạc thành tựu nhân quyền của Việt Nam.

Chúng kích động, thổi phồng, quy chụp cho rằng chính quyền Việt Nam vi phạm nhân quyền, bắt bớ, giam cầm tuỳ tiện… Khi “điểm lại” một số vụ án như vụ Hoàng Thị Minh Hồng, Ngô Thị Tố Nhiên, Thái Văn Đường, Đặng Đình Bách… với những biệt danh rất nổi và “nổ” như “nhà hoạt động vì môi trường”, “chuyên gia năng lượng xanh”, “blogger”, “tù nhân chính trị”… và đưa ra luận điệu Việt Nam “tiếp tục hình sự hoá và bỏ tù những người bảo vệ nhân quyền bao gồm các nhà hoạt động môi trường, nhà hoạt động vì quyền của người thiểu số và các học giả trong khi các tù nhân chính trị bị đối xử tàn tệ trong tù”.

Về mặt bản chất, tất cả các thông tin trên đều bịa đặt, vu cáo, sai lệch, phiến diện; lợi dụng các đối tượng phạm tội là những người hoạt động trong lĩnh vực môi trường, năng lượng, luật sư,… nên thế lực bên ngoài đã câu kéo, móc nối để kích động, xuyên tạc, thổi phồng các vụ việc này, quy chụp cho chính quyền Việt Nam.

Thực tế, vụ án của bà Hoàng Thị Minh Hồng bị bắt tạm giam để điều tra hành vi vi phạm pháp luật khi bà Hồng không thực hiện quy định đóng thuế khi nhận những nguồn tài trợ kinh phí từ một số tổ chức nước ngoài để hoạt động; Nguyễn Thị Tố Nhiên - Giám đốc Công ty TNHH Sáng kiến về Chuyển dịch Năng lượng Việt Nam bị bắt tạm giam về tội chiếm đoạt tài liệu của cơ quan tổ chức quy định tại Điều 342 Bộ Luật Hình sự; “Thái Văn Đường” tên thật là Đường Văn Thái - một đối tượng phản động thường xuyên sử dụng mạng xã hội để đăng tải, phát tán thông tin xuyên tạc, bịa đặt, sai sự thật chống phá Đảng, Nhà nước, đang bỏ trốn tại Thái Lan, tháng 4/2023 xâm nhập trái phép vào Việt Nam qua đường mòn, lối mở ở khu vực biên giới thuộc xã Sơn Kim 1, Hương Sơn, Hà Tĩnh; Đặng Đình Bách - Giám đốc Trung tâm nghiên cứu pháp luật và chính sách phát triển bền vững bị khởi tố về tội trốn thuế…

Các thế lực thù địch, tổ chức phản động còn cáo buộc Việt Nam xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật hạn chế quyền tự do ngôn luận, kiểm soát trên không gian mạng. Việc các tổ chức phản động xuyên tạc vấn đề nhân quyền trên không gian mạng ở Việt Nam thực chất là muốn xoá bỏ Luật An ninh mạng nhằm tạo kẽ hở để chúng lợi dụng không gian mạng như phương tiện để nhằm phá hoại tư tưởng, can thiệp sâu hơn nữa vào tình hình nội bộ của nước ta.

Thực tế, hiện nay các quốc gia trên thế giới đều đã quan tâm đến những diễn biến, phát ngôn, hoạt động trên không gian mạng, theo số liệu thống kê của Liên Hợp Quốc, 138 quốc gia (trong đó 95 nước đang phát triển) đã ban hành Luật An ninh mạng, với nhiều cái tên khác nhau nhưng nội dung chính là nhằm cải thiện tình hình an ninh thông tin của các doanh nghiệp, cơ quan công quyền cũng như bảo vệ quyền của người dân trên môi trường không gian mạng. Cần phải khẳng định rõ rằng, Việt Nam cũng như các quốc gia khác ban hành Luật An ninh mạng không phải cấm đoán công dân tham gia hoạt động trên không gian mạng hoặc đăng tải, sử dụng thông tin trên không gian mạng… Luật An ninh mạng của Việt Nam tạo cơ sở để giúp các cơ quan chức năng thực hiện các hoạt động phòng, ngừa và xử lý hành vi sử dụng không gian mạng xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; trong đó Luật cũng liệt kê rõ ràng, cụ thể các hành vi nghiêm cấm về an ninh mạng, trong đó có những hành vi xâm phạm đến quyền con người. 

Một thủ đoạn các thế lực thù địch sử dụng những năm qua là “chính trị hoá” các vấn đề xã hội, các vụ án hình sự, qua đó xuyên tạc, áp đặt cho đó là vi phạm nhân quyền, vi phạm dân chủ, tranh dành quyền lực… suy diễn lái vụ việc sang những vấn đề chính trị, cho rằng đó là bản chất của chủ nghĩa xã hội, do “Đảng độc quyền lãnh đạo”. Một số vụ việc từ năm 2013 đến nay đã bị các thế lực thù địch lợi dụng, xuyên tạc trắng trợn, cắt ghép, thổi phồng những hạn chế, khuyết điểm của cán bộ, chính quyền địa phương, quy chụp do sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý của Nhà nước. Đơn cử như vụ việc ở xã Đồng Tâm (huyện Mỹ Đức, Hà Nội), khi có phương án dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp của chính quyền xã, xuất hiện nhóm “Đồng thuận” do ông Lê Đình Kình đứng đầu đã lừa mị người dân không nhận đất sản xuất, không đi bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân các cấp, lôi kéo người dân tổ chức khiếu kiện liên quan đến “đòi đất” quốc phòng; sau đó các đối tượng này đã manh động sát hại 3 chiến sĩ công an khi đang làm nhiệm vụ. Với những tội ác của mình, các đối tượng đã bị Toà án Nhân dân TP Hà Nội và Toà án Nhân dân Cấp cao Hà Nội xét xử về các tội “Giết người”, “Chống người thi hành công vụ”, trước toà các bị cáo đều đã nhận tội và thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Lợi dụng vụ việc này, các thế lực phản động trong và ngoài nước đã cắt ghép, dàn dựng, xuyên tạc chính quyền các cấp, vu cáo “Chính quyền coi dân như kẻ thù”, xuyên tạc trắng trợn “Quân đội đồng loã với chính quyền cướp đất đồng Sênh”, “quân đội thu hồi đất để làm sân gold”… từ đó lợi dụng vấn đề đất đai để đòi sửa Hiến pháp, Luật đất đai, “trả lại quyền tư hữu đất đai cho mọi người dân Việt Nam”. 

Hay như vụ việc bà Nguyễn Phương Hằng bị bắt tạm giam và bị xét xử về tội “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” theo Điều 331 Bộ Luật Hình sự. Rồi đến vụ việc Chủ tịch FLC Trịnh Văn Quyết bị bắt giam về hành vi “thao túng thị trường chứng khoán”, “che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán” và việc truy tố ông Đỗ Anh Dũng, Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc Tập đoàn Tân Hoàng Minh, về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản; vụ đại án Việt Á truy tố 2 cựu Bộ trưởng cùng một loạt Vụ trưởng, Vụ phó, cán bộ UBND tỉnh, tỉnh uỷ; lãnh đạo cấp sở, nhân viên y tế, cán bộ CDC của 24 tỉnh, thành… về các tội “Vi phạm đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, “Tham ô tài sản” và “Nhận hối lộ”, “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”… Và vụ án Vạn Thịnh Phát, Ngân hàng SCB do Trương Mỹ Lan cầm đầu đã được đưa ra xét xử sơ thẩm với những bản án nghiêm khắc cho thấy Việt Nam rất nghiêm minh, không có vùng cấm...

Tuy nhiên, lợi dụng sự chú ý của dư luận với những vụ đại án này, các trang mạng xã hội phản động đã tranh thủ tung ra các thông tin xấu, độc, xuyên tạc nhằm chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thậm chí chúng đưa ra những luận điệu vô căn cứ, bóp méo trắng trợn sự thật về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, rêu rao sai lệch về luật pháp, chính quyền, về chính sách đầu tư phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước ta.

 

Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay

 

Trong giai đoạn hiện nay, “xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch” được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, then chốt trong tiến trình xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lực lượng chủ công thực thi nhiệm vụ nêu trên chỉ có thể là đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Cán bộ hành chính gồm những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, ở các tỉnh thành trực thuộc Trung ương, ở huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh, như chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện; những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong thường trực hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân, bí thư, phó bí thư đảng ủy; người đứng đầu trong các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở xã, phường, thị trấn, như chủ tịch, phó chủ tịch hội đồng nhân dân; chủ tịch, phó chủ tịch ủy ban nhân dân, chủ tịch ủy ban Mặt trận Tổ quốc, bí thư đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ, chủ tịch hội nông dân và chủ tịch hội cựu chiến binh.

Công chức hành chính gồm những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc được giao giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan nhà nước ở Trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, như cán sự, chuyên viên làm việc trong các sở thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh, các phòng thuộc ủy ban nhân dân cấp huyện; những người được tuyển dụng, được giao giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc ủy ban nhân dân cấp xã, gồm có các chức danh: Chỉ huy trưởng quân sự, văn phòng - thống kê, địa chính - xây dựng, tài chính - kế toán, tư pháp - hộ tịch, văn hóa - xã hội.

Yêu cầu đặt ra đối với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng hiện nay là phải: “Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước...; có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Một trong những giải pháp quan trọng, hiệu quả để hiện thực hóa yêu cầu nói trên là phải tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; hướng tới xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là hoạt động có định hướng, có tổ chức, thông qua các phương pháp và bằng các hình thức phù hợp, hướng tới cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; qua đó, góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Sự vận dụng giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay thể hiện trên những điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, phải xác định cụ thể, rõ ràng mục đích đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Mục đích là cái mà cả quá trình đào tạo, bồi dưỡng phải hướng tới và là kết quả cuối cùng mà công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải đạt được. Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, ngày 1-9-2017, của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức quy định mục tiêu đào tạo, bồi dưỡng là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước.

Mục đích của đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính là cung cấp, trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính những phẩm chất đạo đức cách mạng, tri thức, hiểu biết về chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ nói chung, những kiến thức pháp luật cụ thể, cần thiết, liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng; góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Nếu như trên bình diện chung, Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”; thì cụ thể hóa lời dạy của Người vào hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính trong giai đoạn hiện nay, mục đích đó chính là: Xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.

Thứ hai, phải nâng cao năng lực đào tạo, bồi dưỡng của các chủ thể tham gia đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, trước hết, phụ thuộc vào năng lực đào tạo, bồi dưỡng, nhận thức về chức năng, nhiệm vụ và ý thức trách nhiệm của các chủ thể tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, cụ thể là các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính. Các cơ sở giáo dục cần xúc tiến mạnh mẽ sự chuẩn bị về cơ sở vật chất (giảng đường, thư viện, phòng đọc, trang thiết bị công nghệ thông tin, kết nối mạng internet...), các chương trình đào tạo, bồi dưỡng chuẩn, thiết thực, phù hợp với nhu cầu của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; xây dựng được đội ngũ giảng viên, chuyên gia có chất lượng chuyên môn cao, có kỹ năng sư phạm và tâm huyết; sẵn sàng để thực hiện nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Xây dựng đội ngũ cán bộ, giảng viên, chuyên gia có uy tín, chất lượng, trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng nghiệp vụ sư phạm giỏi, có đạo đức nghề nghiệp, tâm huyết với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính phải được coi là nhiệm vụ thường xuyên, có tầm chiến lược của các cơ sở giáo dục; với tinh thần “không cốt nhiều, chỉ cốt tinh”, để thực hiện lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về “cốt thiết thực, chu đáo hơn tham nhiều”.

Thứ ba, đối với đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, cần chuẩn bị năng lực nhận thức, các điều kiện vật chất, tinh thần khác để sẵn sàng lĩnh hội kiến thức chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, tri thức pháp luật cần thiết cho hoạt động chuyên môn, đáp ứng yêu cầu công vụ.

Chất lượng, hiệu quả của công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính không chỉ phụ thuộc vào chủ thể, mà còn phụ thuộc phần lớn vào chính đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Các nhà giáo, chuyên gia dù có giỏi đến mấy, đáp ứng được mọi yêu cầu, nhưng nếu không nhận được sự hợp tác chủ động, tích cực từ phía đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, thì không thể có được chất lượng, hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng như mong muốn. Mỗi cán bộ, công chức hành chính cần phải chủ động, tự giác, tích cực tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng, xuất phát từ nhu cầu lĩnh hội nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ, hiểu biết pháp luật.

Bên cạnh đó, mỗi cán bộ, công chức hành chính cần thường xuyên cập nhật thông tin về lĩnh vực chuyên môn của bản thân, chủ động tìm hiểu các chính sách, văn bản pháp luật mới, nhất là những văn bản pháp luật liên quan đến lĩnh vực chuyên môn đang đảm trách; nghĩa là phải phát huy tinh thần tự học như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Việc học phải lấy tự học làm cốt. Một mặt, nếu một cán bộ, công chức hành chính, dù đã tốt nghiệp kỹ sư, cử nhân, mà dừng lại, tự hài lòng, thỏa mãn với tấm bằng đại học của mình thì sẽ nhanh chóng trở nên lạc hậu trước những thay đổi nhanh chóng của thực tiễn đời sống. Mặt khác, mỗi cán bộ, công chức hành chính cũng cần thường xuyên rèn luyện các kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức chuyên môn, hiểu biết pháp luật vào quá trình thực thi công vụ, giải quyết nhiệm vụ được giao.

Thư tư, tiếp tục đổi mới nội dung đào tạo, bồi dưỡng toàn diện cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.

Ngoài những nội dung có tính chất chuyên biệt, chuyên sâu về lĩnh vực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính, còn cần phải chú trọng đào tạo, bồi dưỡng cao cấp lý luận chính trị, trung cấp lý luận chính trị; bồi dưỡng các kỹ năng lãnh đạo, quản lý; bồi dưỡng nội dung quản lý nhà nước trên các lĩnh vực; bồi dưỡng kiến thức quốc phòng, an ninh; bồi dưỡng ngoại ngữ, tin học; đào tạo, bồi dưỡng kiến thức pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính thuộc các cấp, các ngành phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ, nhu cầu và công tác quy hoạch cán bộ của Đảng, Nhà nước, các cơ quan hữu quan.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần tập trung xây dựng các bộ giáo trình, tài liệu tham khảo riêng cho từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bảo đảm độ sâu cần thiết về kiến thức chuyên môn, chuyên ngành, các kỹ năng nghiệp vụ, những kiến thức pháp luật phù hợp cho từng nhóm đối tượng. Khi thiết kế nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần căn cứ vào nhu cầu thông tin, kiến thức của từng đối tượng cán bộ, công chức hành chính; bổ sung, cập nhật kịp thời những vấn đề mới về chuyên môn, nghiệp vụ, các văn bản, chính sách, pháp luật mới vào nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Quá trình triển khai nội dung các môn học, học phần phải gắn lý luận với thực tiễn hành chính công vụ sinh động, tránh lý luận suông, khô khan, giáo điều, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Nội dung bồi dưỡng cũng cấn chú trọng trang bị cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính các kiến thức về phương pháp, kỹ năng thực hành công vụ, về áp dụng kiến thức pháp luật vào thực tiễn công vụ.

Thứ năm, đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính.

Đây là vấn đề cần được các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, các nhà giáo, chuyên gia đặc biệt quan tâm. Mặc dù trong những năm qua, các chủ thể đào tạo, bồi dưỡng ở nước ta đã áp dụng nhiều giải pháp nhằm đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng; song, kết quả vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của Nhà nước và xã hội. Để tạo ra bước đột phá trong việc đổi mới phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, các cơ sở giáo dục cần tập trung thực hiện có hiệu quả các giải pháp nhằm hướng trọng tâm của quá trình đào tạo, bồi dưỡng vào đội ngũ cán bộ, công chức hành chính, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo, tạo động lực cho họ đầu tư nhiều thời gian cho việc tự học. Muốn vậy, trước hết, cần kết hợp hài hòa giữa phương pháp thuyết trình truyền thống với phương pháp giảng dạy tích cực, như: nêu vấn đề, kết hợp giảng lý thuyết với việc nêu ra các tình huống và bài tập trắc nghiệm... Đội ngũ thầy, cô giáo hạn chế sử dụng phương pháp thuyết trình theo lối độc thoại một chiều; tăng cường các phương pháp đối thoại, thảo luận nhóm theo các chủ đề chuyên môn, phương pháp nêu tình huống, sự kiện thực tế để lôi cuốn cán bộ, công chức hành chính tích cực tranh luận, thảo luận, tìm ra hướng giải quyết hợp lý nhất... Chủ động chuyển mạnh từ “lấy người dạy làm trung tâm” sang phương pháp “lấy người học làm trung tâm”. Trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay, để nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng, mỗi giảng viên, chuyên gia cần ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy; mỗi cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cần xây dựng hệ thống thư viện điện tử, tạo cho cán bộ, công chức hành chính khả năng tiếp cận công nghệ hiện đại phục vụ hiệu quả cho việc học tập.

Các cơ sở giáo dục có chức năng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức hành chính cần triển khai tổng kết, đánh giá ưu điểm, nhược điểm của các phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; từ đó, tìm ra các phương pháp phù hợp với từng nhóm đối tượng. Cần có sự phân loại nội dung đào tạo, bồi dưỡng gắn với đặc thù của từng nhóm đối tượng cán bộ, công chức hành chính để sử dụng phương pháp đào tạo, bồi dưỡng phù hợp; tránh sự lãng phí, tốn kém không cần thiết về thời gian, công sức, tiền của.

Tư tưởng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng rất cụ thể, thiết thực và vẫn còn nguyên giá trị đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay. Vận dụng giá trị quan điểm của Người về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức vào thực tiễn xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải chú trọng thực hiện kỹ lưỡng từng mắt khâu, yếu tố của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng, từ việc xác định mục đích, chủ thể, đối tượng đào tạo, bồi dưỡng cho tới xây dựng nội dung, lựa chọn phương pháp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức hành chính. Chỉ khi đó, chúng ta mới có thể xây dựng được đội ngũ cán bộ, công chức hành chính có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung... như Đại hội XIII của Đảng đã đề ra./.

 

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về huấn luyện, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức

 Trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam, việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh luôn là yêu cầu, nhiệm vụ trung tâm, then chốt trong xây dựng Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh. Điều đó xuất phát từ vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng. Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, hơn ai hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh hiểu rất rõ ràng, đầy đủ về vị trí, vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức; thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước; bởi lẽ, hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền nhà nước phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Người dạy, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc” và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”. Người cũng chỉ rõ vị trí, vai trò của cán bộ, công chức trong bộ máy chính quyền nhà nước các cấp: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”. Bất cứ đường lối, chính sách gì, nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là “có lãi”; ngược lại, không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là “lỗ vốn”.

Đội ngũ cán bộ, công chức là những mắt khâu trung gian, là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ với quần chúng nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi đảng viên là một người thay mặt cho Đảng trước quần chúng, để giải thích chính sách của Đảng và của Chính phủ cho quần chúng hiểu rõ và vui lòng thi hành”.

Để làm công việc được Chính phủ, đoàn thể giao phó đạt chất lượng, hiệu quả cao, Người yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải có đủ “đức”, đủ “tài”. “Đức” và “tài” là những phẩm chất không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Ở đây, “đức” là những phẩm chất đạo đức cách mạng cần phải có ở người cán bộ cách mạng; “tài” là toàn bộ những năng lực, phẩm chất thuộc về trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ công tác của mỗi cán bộ, công chức.

Về đức, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, công chức phải hội đủ năm đức tính tốt: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Mỗi cán bộ, công chức phải thực sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư trong quan niệm của  Chủ tịch Hồ Chí Minh là mối quan hệ “với tự mình”. Người coi cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính cần có của con người, mang một lẽ tự nhiên, như trời có bốn mùa, đất có bốn phương.

Về tài, tài của người cán bộ, công chức thể hiện ở năng lực trí tuệ và năng lực tổ chức thực tiễn, đặc biệt là năng lực nắm bắt, tổ chức triển khai thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, công chức phải có trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, am hiểu pháp luật, thành thạo nghiệp vụ hành chính; có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Quan điểm nhất quán của Người là chú trọng chất trí tuệ và tính chuyên môn trong tổ chức bộ máy chính quyền nhà nước thông qua chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức.

Giữa đức và tài có mối quan hệ mật thiết với nhau, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đức là gốc nhưng đức và tài phải kết hợp, đi đôi với nhau, không thể có mặt này, thiếu mặt kia; có đức mà không có tài thì chỉ là người vô dụng; còn có tài mà không có đức thì làm việc gì cũng khó. Người so sánh: “Có đức không có tài như ông bụt ngồi trong chùa, không giúp ích gì được ai”.

Phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ, công chức không phải là những thứ tự dưng có, mà chỉ có thể là kết quả của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng và quá trình tự thân mỗi cán bộ, công chức không ngừng khổ công, nỗ lực học tập, rèn luyện mới có được. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”. Điều đó cho thấy Người rất coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức - thuật ngữ Người thường dùng là “huấn luyện cán bộ”.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, muốn có cán bộ tốt thì Đảng phải làm thật tốt công tác huấn luyện cán bộ, phải coi huấn luyện cán bộ là công việc gốc, hết sức quan trọng trong xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, Người chỉ rõ, “huấn luyện cán bộ là công việc gốc của Đảng”; bởi vậy, “Các cơ quan cần phải rất chú ý đến việc huấn luyện cán bộ”. Người cho rằng, huấn luyện cán bộ phải toàn diện, đồng thời phải chuyên sâu và có phương pháp khoa học. Cán bộ có cán bộ đảng, cán bộ nhà nước, cán bộ đoàn thể, cán bộ ở Trung ương, cán bộ ở địa phương và cơ sở... Huấn luyện cán bộ cũng phải có nội dung, kế hoạch phù hợp với từng loại cán bộ trong những lĩnh vực cụ thể. Huấn luyện cán bộ phải được Đảng, Nhà nước, chính quyền các cấp xác định là công việc thường xuyên, công phu, lâu dài, phải kiên trì và bền bỉ thì mới có kết quả tốt; bởi vì: “Không phải vài ba tháng, hoặc vài ba năm, mà đào tạo được một người cán bộ tốt... cần phải công tác, tranh đấu, huấn luyện lâu năm mới được”.

Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức thường được cấu thành từ các yếu tố cụ thể, gồm mục đích, chủ thể, đối tượng, nội dung, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải biết “Huấn luyện ai?... Ai huấn luyện?... Huấn luyện gì?... Huấn luyện thế nào?”. Mỗi thành tố nêu trên đều được Người đề cập một cách cụ thể trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức.

Về mục đích của việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, quan trọng nhất là phải xác định động cơ đào tạo, bồi dưỡng đúng đắn. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cán bộ, công chức phải nhận thức rõ rằng, đào tạo, bồi dưỡng không phải để chạy theo bằng cấp, mà mục đích cao cả của việc học là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”. Bên cạnh đó, “Học để sửa chữa tư tưởng... Học để tu dưỡng đạo đức cách mạng... Học để tin tưởng... Học để hành”. Trong thư gửi giáo sư và sinh viên Trường Dự bị Đại học ở Thanh Hóa, Người nhắc nhở: “… giáo dục cần nhằm vào mục đích là thật thà phụng sự nhân dân”. Chỉ khi nào cán bộ, công chức xác định được động cơ, mục đích đúng đắn thì việc học tập mới đạt tới yêu cầu của công tác đào tạo, bồi dưỡng.

Về chủ thể của hoạt động đào tạo, bồi dưỡng - những người trực tiếp tham gia vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao vị trí, vai trò của thầy, cô giáo, các chuyên gia tham gia công tác giáo dục, huấn luyện cán bộ. Vai trò của người thầy được Bác Hồ nhấn mạnh: “Nhiệm vụ giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo thì không có giáo dục. Bây giờ đang xây dựng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để dần dần đến chủ nghĩa xã hội. Kháng chiến thì cần nhiều cán bộ quân sự. Bây giờ xây dựng kinh tế. Không có cán bộ không làm được. Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hoá”. Bác cũng rất coi trọng việc xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác huấn luyện cán bộ; đồng thời, chú trọng phát huy vai trò của các cán bộ lãnh đạo trong tham gia công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người chỉ rõ: “Phải lựa chọn rất cẩn thận những nhân viên phụ trách việc huấn luyện đó. Những người lãnh đạo cần phải tham gia việc dạy”. Vì vậy, người làm công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ “phải làm kiểu mẫu về mọi mặt: tư tưởng, đạo đức, lối làm việc” và phải thường xuyên trau dồi kiến thức, “phải học thêm mãi thì mới làm được công việc huấn luyện của mình”.

Về nội dung đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nội dung đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ phải cụ thể, thiết thực, phải hàm chứa cả rèn đức, luyện tài, phải chú trọng trang bị cả kiến thức văn hóa, lý luận và thực tiễn. Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng vô cùng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước, chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân; do đó, họ cần phải được giáo dục, trang bị tri thức văn hóa, khoa học - kỹ thuật. Người lưu ý rằng, cán bộ, công chức phải có tinh thần ham hiểu biết các tri thức khoa học một cách toàn diện: “Các cháu phải cố gắng học tập kỹ thuật, văn hoá, chính trị... Nếu không học tập văn hóa, không có trình độ văn hóa thì không học tập được kỹ thuật, không học tập được kỹ thuật thì không theo kịp được nhu cầu kinh tế nước nhà; nhưng phải chú ý học tập chính trị vì nếu chỉ học văn hóa, kỹ thuật mà không có chính trị thì như người nhắm mắt mà đi”.

Học chính trị là học chủ nghĩa Mác - Lê-nin và đường lối, quan điểm của Đảng để hiểu rõ nhiệm vụ cách mạng; đồng thời, xây dựng cho bản thân mình phương pháp nhận thức đúng đắn trước những diễn biến phức tạp của cuộc sống, để từ đó vững tin vào lý tưởng cách mạng. Mặt khác, cần phải học tập khoa học - kỹ thuật, bởi chúng ta đang sống trong một thời đại khoa học và công nghệ, loài người đang vận dụng những thành tựu kỳ diệu của khoa học - kỹ thuật để đẩy mạnh sản xuất và cải tạo nhanh chóng bộ mặt của thế giới.

Về phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đã tổ chức và trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng nhiều thế hệ cán bộ cho đất nước nên nắm vững và vận dụng thuần thục các quy luật tư duy và phương pháp giảng dạy trong công tác đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ. Người đã đề ra hệ thống các nguyên lý, phương châm, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Chẳng hạn, “Huấn luyện phải chú trọng việc cải tạo tư tưởng”. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải gắn học tập với rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng, tác phong, phương pháp công tác; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải thực chất, chú trọng chất lượng: “Cốt thiết thực chu đáo hơn tham nhiều”. Trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải chú trọng thực hiện nguyên lý học đi đôi với hành: “Phải gắn liền lý luận với công tác thực tế”; khi truyền đạt lý luận, kinh nghiệm công tác phải gắn với liên hệ tình hình cụ thể để giải quyết những vấn đề thực tiễn đặt ra. “Huấn luyện phải nhằm đúng nhu cầu”; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ phải phù hợp với yêu cầu quy hoạch, sử dụng cán bộ...

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đề cao phương pháp tự học. Để làm giàu vốn tri thức, hiểu biết của mình, cán bộ, công chức cần có tinh thần tìm tòi, sáng tạo trong học tập, trong cuộc sống, nghĩa là cán bộ, công chức phải chú trọng việc tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp; “phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng với lý thuyết không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn. Phải bảo vệ chân lý, phải có nguyên tắc tính, không được ba phải, điều hòa”. Đặc biệt, Người nhấn mạnh việc tự giác học tập; tuy nhiên, Người cũng yêu cầu “không nên học gạo, không nên học vẹt” mà “học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học và hành phải kết hợp với nhau”. Người giảng giải: “Lý luận phải đem ra thực hành. Thực hành phải nhằm theo lý luận. Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên. Lý luận cốt để áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem loè thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích. Vì vậy, chúng ta phải gắng học, đồng thời học thì phải hành”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ, công chức phải thường xuyên không ngừng học tập, nâng cao trình độ, phải coi việc học tập là công việc suốt đời. Người chỉ rõ: “Một người học xong đại học, có thể gọi là có trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: công việc thực tế, y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải là trí thức hoàn toàn. Y muốn thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải đem cái trí thức đó áp dụng vào thực tế”. Vì lẽ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu mỗi cán bộ, công chức cần phải xác định: “Học hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn liền lý luận với công tác thực tế. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, biết hết rồi. Thế giới ngày ngày đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”.

Khi người cán bộ, công chức đã có cả phẩm chất và năng lực, có đức và có tài để gánh vác trọng trách, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục yêu cầu đội ngũ này phải thực hành phương pháp làm việc khoa học, tác phong chuyên nghiệp, hiện đại, sâu sát dân, gần dân, học hỏi dân để hoàn thiện mình. Theo Người, muốn học thành công phải có kế hoạch cụ thể, khoa học, phải tự nguyện, tự giác, tích cực, chủ động và kiên trì bền bỉ, quyết tâm thực hiện kế hoạch đến cùng; phải triệt để tận dụng mọi điều kiện, phương tiện, hình thức để học. Học đến đâu phải ra sức luyện tập thực hành đến đó, học phải đi đôi với hành, lý luận phải gắn liền với thực tiễn. Học mà không đi đôi với hành thì vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy. Trong thực hiện nhiệm vụ, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: “Cán bộ tỉnh phải đến tận các huyện, các xã. Cán bộ huyện phải đến tận các xã, các thôn. Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc nghĩ. Để thiết thực điều tra, giúp đỡ, kiểm soát, rút kinh nghiệm, trao đổi kinh nghiệm giúp đỡ nông dân và học hỏi dân”.

Có thể khẳng định rằng, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng, huấn luyện cán bộ đã hàm chứa khá đầy đủ các nguyên lý, nguyên tắc, các yếu tố cấu thành hoạt động giáo dục theo lý luận giáo dục học hiện đại. Điều đó cho thấy quan điểm Hồ Chí Minh về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có giá trị lý luận sâu sắc và giá trị thực tiễn to lớn, có thể vận dụng trong công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức nói chung, cán bộ, công chức hành chính nói riêng ở nước ta hiện nay.