Thứ Ba, 30 tháng 7, 2024

Ý nghĩa và những bài học lịch sử của Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954

 Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam không chỉ là mốc son quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, mà còn là sự kiện có ý nghĩa lịch sử, là thành quả của “trận đánh” lớn đầu tiên trên vũ đài quốc tế của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Bảy mươi năm đã trôi qua, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi, song ý nghĩa và những bài học từ Hội nghị lịch sử này vẫn vẹn nguyên giá trị.

Bối cảnh dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ và ý đồ của các bên

Bối cảnh quốc tế

Vào những năm 50 của thế kỷ XX, nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn  chặn chủ nghĩa cộng sản”, chủ nghĩa đế quốc - đứng đầu là đế quốc Mỹ - đã đẩy mạnh chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” và chính sách ngoại giao “bên miệng hố chiến tranh”, để bao vây Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Sau thành công của cách mạng Trung Quốc năm 1949, so sánh tương quan lực lượng trên thế giới phần nào có lợi cho các lực lượng cách mạng. Phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, với liên minh Liên Xô - Trung Quốc làm nòng cốt, được củng cố. Hai nước đẩy mạnh phát triển kinh tế theo kế hoạch dài hạn.

Phe xã hội chủ nghĩa đoàn kết, nhất trí giương cao ngọn cờ chống đế quốc, bảo vệ hòa bình thế giới và ủng hộ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc. Xu hướng trung lập tích cực không tham gia các liên minh quân sự của Mỹ và phương Tây được đẩy mạnh.

Chiến tranh lạnh do Mỹ phát động nhằm chống Liên Xô bước vào giai đoạn phát triển cao. Hai phe đều coi trọng tập hợp lực lượng và đấu tranh với nhau quyết liệt. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, hai phe lại đi vào hòa hoãn. Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) là một trong những cuộc chiến tranh lớn, khốc liệt, có nhiều nước tham gia nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời là kết quả của tình trạng căng thẳng giữa hai phe trong Chiến tranh lạnh. Ngày 27-11-1953, hiệp định ngừng bắn được ký kết ở Bàn Môn Điếm - ngôi làng nằm giữa biên giới Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc - quy định trở lại nguyên trạng Khu phi quân sự liên Triều (DMZ) ngăn cách hai miền Triều Tiên và trao trả tù binh tại vĩ tuyến 38.

Chiến tranh Triều Tiên kết thúc cho thấy các cuộc xung đột quân sự ở Viễn Đông có thể giải quyết được bằng con đường chính trị, đó là xu thế hòa hoãn giữa các cường quốc. Ngày 25-1-1954, tại khu vực do Mỹ kiểm soát ở Thủ đô Béc-lin (Đức), diễn ra Hội nghị bốn bên giữa Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô, nhằm giải quyết việc thống nhất nước Đức, vấn đề nước Áo. Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa các nước lớn kể từ năm 1949. Ngày 18-2-1954, hội nghị kết thúc mà không đạt được thỏa thuận nào về hai vấn đề trên. Tuy nhiên, bốn nước đã nhất trí triệu tập một hội nghị tại Thủ đô Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương.

Tình hình trên chiến trường

Tại Đông Dương, sau Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, Chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950, Chiến dịch Tây Bắc năm 1952..., ta ngày càng khẳng định được thế chủ động chiến lược, nhất là trên chiến trường miền Bắc. Mặc dù được sự can thiệp, hỗ trợ của Mỹ, quân Pháp vẫn tiếp tục lún sâu vào thế bị động, sa lầy, đứng trước những thất bại to lớn. Để cải thiện tình hình, Pháp đề ra Kế hoạch Na-va (tháng 7-1953) với hy vọng giành lấy một thắng lợi quân sự quyết định trong vòng 18 tháng, buộc Việt Nam thương lượng theo điều kiện của Pháp. Tuy nhiên, quân và dân ta càng đánh càng mạnh, nắm vững quyền chủ động trên các chiến trường. Sau những thất bại về quân sự, cục diện chiến trường diễn biến theo chiều hướng bất lợi cho quân Pháp, buộc thực dân Pháp thay đổi kế hoạch, xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ở Tây Bắc Việt Nam. Điện Biên Phủ được coi là cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “pháo đài quân sự bất khả xâm phạm”, sẵn sàng “nghiền nát” lực lượng bộ đội chủ lực của Việt Nam.

Trong bối cảnh lịch sử phức tạp lúc đó, trên cơ sở dự đoán chính xác âm mưu của thực dân Pháp, phân tích so sánh lực lượng giữa ta và địch và khả năng diễn biến của chiến tranh, Bộ Chính trị đã họp và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu, hy sinh gian khổ, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về nhân dân Việt Nam.

Quan điểm của Việt Nam

Ngay từ trước khi bước vào Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn báo Expressen của Thụy Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”.

Quan điểm của Pháp

Chiến tranh kéo dài khiến tình hình kinh tế - xã hội Pháp ngày càng gặp khó khăn; phong trào nhân dân Pháp chống chiến tranh phát triển mạnh mẽ, lan rộng, làm rung chuyển dữ dội nội bộ xã hội và dân tình nước Pháp; cùng lúc đó, Đảng Cộng sản Pháp giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội nước này. Giới cầm quyền Pháp cũng phân hóa thành hai phái: phái chủ hòa và phái chủ chiến. Ngày 20-10-1953, Quốc hội Pháp thảo luận về vấn đề Đông Dương. Nhiều nghị sĩ trong Quốc hội Pháp đã yêu cầu Chính phủ Pháp đàm phán ngay với Chính phủ Việt Nam, khiến Thủ tướng Pháp Giô-xép La-ni-en (Joseph Laniel) phải tuyên bố sẽ nghiên cứu về mọi đề nghị của Việt Nam, không từ chối thương lượng. Trong tình hình phức tạp đó, Chính phủ Pháp quyết định vừa tiến hành chiến tranh, vừa tìm kiếm thương lượng để cứu quân đội viễn chinh Pháp, không giữ toàn bộ Đông Dương như cũ, chỉ giữ một số quyền lợi. Ngày 10-3-1954, Quốc hội Pháp hoan nghênh việc bốn cường quốc, bao gồm Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, nhất trí triệu tập Hội nghị Giơ-ne-vơ.

Quan điểm của các nước lớn tham gia Hội nghị

Vào thời điểm đó, Liên Xô cần hòa bình để xây dựng đất nước và củng cố Đông Âu, thúc đẩy lợi ích chiến lược của mình. Trọng tâm chiến lược của Liên Xô là ngăn chặn sự phục hồi của chủ nghĩa phát-xít Đức ở khu vực châu Âu nên cần tranh thủ Pháp. Ở khu vực Đông Nam Á, Liên Xô có rất ít ảnh hưởng. Do đó, Liên Xô đã điều chỉnh chiến lược đối ngoại, đẩy mạnh hòa hoãn quốc tế nhằm củng cố lực lượng trong nước, tiến hành chạy đua với Mỹ để giành ưu thế trên các lĩnh vực.

Trong khi đó, chiến lược của Mỹ là ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, đặc biệt sau khi cách mạng Trung Quốc thành công vào năm 1949. Đông Dương là khu vực giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên và nằm trong phòng tuyến chiến lược thiết yếu cho lợi ích an ninh của Mỹ, đồng thời là “chìa khóa” của khu vực Đông Nam Á. Do vậy, Mỹ xem Đông Dương và Triều Tiên là hai sườn của một mặt trận chống chủ nghĩa cộng sản ở châu Á, mà trung tâm là Trung Quốc. Theo “học thuyết đô-mi-nô”, bảo vệ được miền Bắc Việt Nam là “chìa khóa” giữ khu vực Đông Nam Á khỏi rơi vào tay cộng sản. Ban đầu, chính sách của Mỹ là can thiệp vào Đông Dương, tiếp đến là quốc tế hóa chiến tranh thông qua khối quân sự Đông Nam Á. Do không được Anh, Pháp ủng hộ thành lập khối quân sự Đông Nam Á nên Mỹ buộc phải chấp nhận triệu tập Hội nghị về Đông Dương.

Là quốc gia nắm giữ nhiều lợi ích và ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á, tuy nhiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh ngày càng suy yếu, phải từ bỏ nhiều thuộc địa. Anh không tán thành học thuyết Đô-mi-nô của Mỹ. Anh muốn ngăn chặn cách mạng Đông Dương ảnh hưởng đến Khối thịnh vượng chung, nhưng quan ngại Mỹ tăng cường can thiệp và đẩy Anh khỏi khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, Anh cũng lo ngại Trung Quốc can thiệp vào khu vực Đông Nam Á và việc Trung Quốc, Liên Xô tăng cường hợp tác. Hơn nữa, nhận thấy Pháp sẽ sớm đầu hàng Việt Minh, vì vậy Anh muốn nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, chia cắt lâu dài Việt Nam và thiết lập phòng tuyến mới. 

Để triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế - xã hội, đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Trung Quốc mong muốn đạt được giải pháp hòa bình ở Đông Dương, tạo môi trường hòa bình ổn định ở khu vực châu Á, an ninh phía nam đất nước; thúc đẩy chính sách cùng tồn tại hòa bình. Do đó, tham dự hội nghị quốc tế lớn quan trọng đầu tiên sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, với sự hiện diện của các cường quốc là dịp để Trung Quốc xác lập vai trò trong giải quyết những vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Đồng thời, mở rộng tiếp xúc chính trị, thương mại quốc tế nhằm phá thế bao vây, cấm vận mà Mỹ áp đặt chống Trung Quốc kể từ năm 1951, sau khi Trung Quốc gửi quân tình nguyện giúp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Mặt khác, Trung Quốc là một trong những nước xã hội chủ nghĩa viện trợ tích cực cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, do đó Trung Quốc cần nhanh chóng chấm dứt chiến tranh để tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh từ phía nam đất nước.

Có thể thấy, thất bại chiến lược của Pháp trên chiến trường Đông Dương, nhất là tại cứ điểm Điện Biên Phủ và xu thế hòa hoãn giữa các nước lớn được xem là nhân tố quyết định dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954.

Diễn biến, kết quả và ý nghĩa của Hội nghị

Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954 trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: từ ngày 8-5 đến 19-6-1954; giai đoạn thứ hai: từ ngày 20-6 đến 10-7-1954; giai đoạn thứ ba: từ ngày 11-7 đến 21-7-1954; với 75 ngày thương lượng, đàm phán căng thẳng, bao gồm 7 phiên họp rộng và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập phía sau các hoạt động công khai. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô V. Mi-khai-lô-vích Mô-lô-tốp và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh An-thô-ni Ê-đen (Anthony Eden) đồng chủ tịch hội nghị. Các trưởng đoàn các nước tham dự hội nghị là bộ trưởng bộ ngoại giao hoặc thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu tham dự hội nghị.

Hội nghị đã ký kết ba hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia và thông qua Tuyên bố chung bao gồm 13 điểm, với sự nhất trí của bảy đoàn đại biểu, trừ Mỹ và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Pháp dựng lên. Nội dung cơ bản của Tuyên bố chung là các nước tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia; tuyệt đối không can thiệp vào nội trị các nước đó; ngừng bắn trên toàn bộ chiến trường Đông Dương; quân đội Liên hiệp Pháp rút khỏi Đông Dương trong thời hạn 300 ngày; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân đội; sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956 để thống nhất nước Việt Nam. Ủy ban Giám sát quốc tế, bao gồm Ba Lan, Ấn Độ và Ca-na-đa, sẽ được thành lập nhằm giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.

Từ những điều khoản trên, có thể khẳng định, Hiệp định Giơ-ne-vơ có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng và ý nghĩa của nó được thể hiện dưới nhiều góc độ. Một là, nếu trong Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp và luôn khẳng định quyền lợi của Pháp ở Nam Bộ thì đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được Pháp và các quốc gia khác thừa nhận. Pháp phải rút quân để lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hai là, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, trở thành căn cứ địa cách mạng, hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Đồng thời, Hiệp định đặt cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này.

Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ còn có ý nghĩa quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc; mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, làm thay đổi cục diện thế giới và khu vực, thúc đẩy phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đòi độc lập dân tộc. Nhấn mạnh về ý nghĩa quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Hội nghị Giơ-ne-vơ “ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”. Hội nghị là cơ sở chính trị - pháp lý quốc tế quan trọng để nhân dân Việt Nam đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập và dân chủ trong toàn quốc.

Tuy nhiên, theo nhận định của một số chuyên gia, Hiệp định Giơ-ne-vơ chưa phản ánh đầy đủ thắng lợi của nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân dân ba nước Đông Dương nói chung trên chiến trường và xu thế của cuộc chiến tranh. Cả Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia đều có phần chịu ảnh hưởng bởi sự chi phối của xu thế hòa hoãn và sự thỏa hiệp. Đó là, việc xác định ranh giới quân sự tạm thời và phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam không phải vĩ tuyến 13 hay vĩ tuyến 16 theo phương án đấu tranh của Việt Nam, mà là vĩ tuyến 17. Hội nghị đã quyết định những vấn đề liên quan đến các lực lượng kháng chiến ở Lào và Cam-pu-chia mà không có sự tham gia của các chính phủ kháng chiến ở hai nước này. Thời hạn tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam không phải là 6 tháng như đề nghị của Việt Nam, mà là 2 năm. Về việc thi hành, trên thực tế Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ được thực hiện một phần, đó là: chấm dứt chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương; tập kết, chuyển quân theo khu vực và thời gian quy định. Sau này, việc tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam đã không thể thực hiện do chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ. Tóm lại, bối cảnh lịch sử và nhất là tương quan lực lượng lúc đó chưa cho phép Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng. Thế nhưng, với quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đến năm 1973 với Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử cách mạng.

Bài học kinh nghiệm từ đàm phán tại Hội nghị Giơ-ne-vơ

Hội nghị Giơ-ne-vơ là cuộc thương lượng đa phương lớn đầu tiên mà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia, đã để lại nhiều bài học vô giá cho nền ngoại giao Việt Nam.

Thứ nhất, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Mặc dù chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam, song khi Việt Nam tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Hội nghị chịu sự chi phối của năm nước lớn tham gia đàm phán và mỗi nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và lợi ích riêng. Ở đó, “các cường quốc đã tự thỏa thuận phần lớn các điều khoản trong hiệp định mà không cần tính đến phản ứng của các nước Đông Dương”. Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn và phức tạp đó, Đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở phát huy chiến thắng trên chiến trường, sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc, nhưng mềm dẻo về sách lược để giành được những kết quả quan trọng. Sau hội nghị, vị thế của Việt Nam được củng cố và nâng cao đáng kể. Trong giai đoạn từ sau Hội nghị Giơ-ne-vơ đến năm 1973, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 36 quốc gia, trong khi trước đó mới thiết lập quan hệ ngoại giao với 9 nước xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, chấp nhận tham gia cuộc thương lượng nhiều bên do các nước lớn triệu tập, chi phối. Ngày 26-11-1953, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Expressen (Thụy Điển) liên quan đến vấn đề thương lượng tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu bốn nội dung lớn, trong đó nội dung thứ tư nhấn mạnh: “Nếu có những nước trung lập nào muốn cố gắng để xúc tiến việc chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam bằng cách thương lượng, thì sẽ được hoan nghênh, nhưng việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp”. Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn được trước vấn đề. Tuy nhiên, bối cảnh lịch sử lúc đó chưa cho phép Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng, nên cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do trọn vẹn của dân tộc Việt Nam vẫn còn tiếp diễn. Bài học kinh nghiệm từ Hội nghị Giơ-ne-vơ giúp Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam vững vàng hơn, độc lập, tự chủ hơn, để đến Hội nghị Pa-ri năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành đàm phán trực diện với Mỹ. Tại Hội nghị Pa-ri, sự độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện rõ, từ thành phần, nội dung, thời gian đàm phán đến hình thức đàm phán...; không để bất kỳ nước nào can thiệp vào cuộc đàm phán.

Thứ ba, độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đây là tư tưởng lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”. Nói chuyện với các nhà ngoại giao (tháng 1-1964), Người nhấn mạnh: cái gốc, cái điểm mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh. Tuy nhiên, độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, cô lập, trái lại gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế.

Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, do lần đầu tham gia đàm phán đa phương, đoàn đại biểu Việt Nam chưa có chiến lược, sách lược đàm phán rõ ràng, mà chỉ tập trung vào mục tiêu đàm phán. Các bước cụ thể liên quan đến phương án đàm phán, thời điểm mở đầu và kết thúc đàm phán, phân công phối hợp các lực lượng trong đàm phán... luôn bị các nước lớn can thiệp và tác động. Trong khi đó, đoàn Việt Nam còn thiếu nhiều phương tiện vật chất cần thiết, nhất là thông tin. Khi đưa ra các quyết sách, nhiều khi phải dựa vào đánh giá tình hình của các nước bạn bè. Những điều đó ảnh hưởng rất lớn tới nỗ lực làm chủ tiến trình đàm phán, giữ vững thế chủ động tiến công trong quá trình hội nghị. Chính vì vậy, hoạt động ngoại giao phải nhất quán nguyên tắc độc lập, tự chủ, bởi mỗi quốc gia, kể cả quốc gia đồng minh thân cận cũng đều xử lý vấn đề quốc tế trên cơ sở lợi ích quốc gia của họ.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị - ngoại giao. Sức mạnh của ngoại giao phụ thuộc vào sức mạnh tổng hợp quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn” nên “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”. Về quan hệ biện chứng giữa ngoại giao và quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội: Thắng lợi quân sự ảnh hưởng quyết định đối với ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều. Không cứ gì ở ta mà ở nước nào cũng vậy. Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng nhưng cái chính là mình phải đánh thắng”. Ngược lại, thắng lợi ngoại giao tác động đến chiến trường. Qua mấy năm kháng chiến, Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chắc chắn cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này.

Thứ năm, coi trọng nghiên cứu chiến lược. Nghiên cứu chiến lược là nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện, sâu xa về lịch sử và dự báo triển vọng. Do nhiều nguyên nhân, nên việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ với những điều khoản được nhiều ý kiến đánh giá là không hoàn toàn thỏa đáng về phía Việt Nam, chưa ngang tầm với thắng lợi của Việt Nam trên chiến trường. Rút kinh nghiệm thương lượng tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, trong đàm phán với Mỹ tại Thủ đô Pa-ri (Pháp) về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặc biệt coi trọng nghiên cứu chiến lược và đã xây dựng được cơ quan nghiên cứu chiến lược hiệu quả phục vụ “đánh” và “đàm”.

Nhìn lại chặng đường lịch sử 70 năm qua kể từ khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, có thể thấy rõ, con đường đi đến độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam không phải là con đường thẳng tắp, mà phải trải qua những chặng đường, khúc quanh lịch sử. Tình hình thế giới, khu vực cũng như vị thế của Việt Nam hiện nay đã nhiều đổi thay. Chiến tranh lạnh đã chấm dứt hơn 30 năm, tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng cao; hòa bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế và khát vọng to lớn của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, những tác động phức tạp của tình hình thế giới luôn biến động, xoay vần, vẫn đặt ra những thách thức không nhỏ đến an ninh và phát triển của đất nước Việt Nam nói chung và mặt trận đối ngoại nói riêng. Trong bối cảnh mới hiện nay, để hoàn thành tốt trọng trách của mình, ngoại giao Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, phát huy và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm quý báu của Hội nghị Giơ-ne-vơ mà lịch sử đã khắc ghi./.

 

 

 

Quan điểm của Tổng Bí thư về xây dựng, phát triển nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường.

                  Với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần "Tiền hô hậu ủng; Nhất hô bá ứng; Trên dưới đồng lòng; Dọc ngang thông suốt", Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả, đất nước ta đã vững vàng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tiếp tục đạt được những kết quả to lớn, khá toàn diện và rất đáng mừng trên nhiều lĩnh vực.

Đó cũng là tiền để để thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, tập trung trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường.

Tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan

Tổng kết nhiệm kỳ khóa XII và nhìn lại 35 năm đổi mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng khẳng định toàn Đảng, toàn dân đã đạt được những thành tựu quan trọng. Theo Tổng Bí thư, 5 năm qua, nắm bắt thuận lợi, thời cơ, vượt qua khó khăn, thách thức, nhất là tác động của dịch bệnh và thiên tai liên tiếp xẩy ra, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã phát huy tinh thần yêu nước, đoàn kết, ý chí quyết tâm, bản lĩnh, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu đạt được nhiều thành tựu rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật; đất nước phát triển nhanh và bền vững; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm trước. Trong khi kinh tế thế giới suy thoái, tăng trưởng âm gần 4%, kinh tế nước ta vẫn đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị; sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài, chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch COVID-19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của năm 2020 và cả giai đoạn 2016 - 2020. Việt Nam được thế giới ghi nhận, coi là điểm sáng trong việc thực hiện thắng lợi "mục tiêu kép" vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch COVID-19 thành công; vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.

Bên cạnh đó, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ Đại hội XII có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, không chỉ tạo được dấu ấn nổi bật, mà còn góp phần củng cố niềm tin, tạo ra động lực mới, khí thế mới để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững vàng vượt qua khó khăn, thách thức, tận dụng thời cơ, thuận lợi, đưa đất nước bước vào một thời kỳ phát triển mới.

Theo đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đạt được những kết quả nêu trên có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan trọng nhất là ý chí, quyết tâm cao, sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn, thống nhất cao của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng trong việc cụ thể hoá, triển khai thực hiện toàn diện Nghị quyết Đại hội XII, giải quyết kịp thời, có hiệu quả nhiều vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn, nhất là trong những lĩnh vực quan trọng, then chốt; sự quản lý, điều hành nhạy bén, quyết liệt, có hiệu quả của Chính phủ và các cấp chính quyền; sự đổi mới phù hợp, đúng đắn về nội dung và phương thức hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp, các tổ chức trong hệ thống chính trị; sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên; tinh thần lao động tích cực, cần cù, sáng tạo, trách nhiệm của nhân dân; sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hoá. Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Những thành tựu đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh chính trị của Đảng tiếp tục là ngọn cờ tư tưởng, lý luận dẫn dắt dân tộc ta vững vàng tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; là nền tảng để Đảng ta hoàn thiện đường lối xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn mới. 

Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường

Nhân kỷ niệm 94 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 - 3/2/2024), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có bài viết “Tự hào và tin tưởng dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”. Thông điệp bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng định hướng, thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, tập trung trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường.

Dịp này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng yêu cầu cần khẩn trương, nghiêm túc tiến hành tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn qua 40 năm đổi mới, từ đó, hoàn thành thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra cho cả nhiệm kỳ khóa XIII, xây dựng đất nước ta ngày càng phát triển, cường thịnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, như Bác Hồ và toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hằng mong đợi.

Từ sau Đại hội XIII của Đảng đến nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường; thách thức mới xuất hiện nhiều hơn so với dự báo nhưng với ý chí, quyết tâm cao và tinh thần "Tiền hô hậu ủng; Nhất hô bá ứng; Trên dưới đồng lòng; Dọc ngang thông suốt", Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ và có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đất nước ta đã vững vàng vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, tiếp tục đạt được những kết quả to lớn, khá toàn diện và rất đáng mừng trên nhiều lĩnh vực.

Thúc đẩy toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đoàn kết, tập trung trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức để xây dựng, phát triển nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa hùng cường. Theo đó, kinh tế nước ta tiếp tục là điểm sáng, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát, nợ công, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát, các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm. Tăng trưởng kinh tế năm 2021 đạt 2,56%, trong khi nhiều nền kinh tế trên thế giới tăng trưởng âm; tăng trưởng kinh tế năm 2022 đạt 8,02%, cao hơn nhiều so với mục tiêu 6 - 6,5%. Năm 2023 đạt 5,05%, là mức cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới; lần đầu tiên GDP của nước ta đạt mức 430 tỉ USD, đứng thứ 3 trong ASEAN và thuộc nhóm 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới, 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài. Tuy gặp nhiều khó khăn, nhưng các lĩnh vực văn hóa - xã hội vẫn tiếp tục được quan tâm chăm lo, đầu tư phát triển, đạt được nhiều kết quả quan trọng, rõ rệt.

Đặc biệt, trong công tác phòng, chống đại dịch COVID-19, truyền thống anh hùng, yêu nước, "thương người như thể thương thân" của dân tộc ta và tính ưu việt của chế độ ta lại được phát huy lên một tầm cao mới. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, điểm mới trong nhiệm kỳ này là Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã rất tích cực chuẩn bị và sớm tổ chức các hội nghị cán bộ toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tại các cơ quan Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các khối: Nội chính, quốc phòng, an ninh, văn hóa, đối ngoại. Bộ Chính trị cũng đã ban hành và quán triệt, thực hiện 6 nghị quyết mới về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh ở toàn bộ 6 vùng kinh tế - xã hội của đất nước. Việc tổ chức rất đồng bộ, bài bản ngay từ đầu nhiệm kỳ, sớm định hướng rõ ràng, đúng đắn cho việc tiếp tục đổi mới, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đây có thể khẳng định là kết quả nổi bật, góp phần tạo nên những thành tựu đạt được từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay.

Tổng Bí thư nêu rõ, công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách về quản lý kinh tế - xã hội và phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cũng được đẩy mạnh để từng bước tiến tới: "không dám", "không thể", "không muốn", "không cần" tham nhũng. Việc kiện toàn bộ máy tổ chức cán bộ, cải cách hành chính bảo đảm tính công khai, minh bạch. Chất lượng, hiệu quả hoạt động và sự phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị chức năng phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được nâng cao. Thông tin tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có nhiều tiến bộ. Đặc biệt, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng tiếp tục được đổi mới, tăng cường trên cơ sở ban hành có chất lượng và tổ chức thực hiện nghiêm túc, đồng bộ nhiều quy định mới, góp phần kiềm chế, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; tình trạng tham nhũng, "lợi ích nhóm", "tư duy nhiệm kỳ", "chủ nghĩa cá nhân", "tha hóa quyền lực" trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Đồng thời, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân, giữ vững ổn định chính trị, kỷ cương, trật tự, an toàn xã hội, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Đánh giá về công tác đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta thời gian qua, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, quan điểm tiếp tục kế tục và phát huy sức mạnh của trường phái đối ngoại và ngoại giao thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam", "gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển", thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam: Mềm mại, khôn khéo, nhưng rất kiên cường. Nổi bật là  từ sau Đại hội XIII của Đảng, các hoạt động đối ngoại của nước ta diễn ra rất sôi động, liên tục và là điểm sáng ấn tượng, nổi bật. Thành công của các chuyến thăm cấp Nhà nước, thăm chính thức, các cuộc điện đàm, hội đàm trực tuyến của lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta, nhất là hơn 40 chuyến thăm của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt tới các nước láng giềng, nước lớn, các nước ASEAN, nhiều nước đối tác chiến lược quan trọng và bạn bè truyền thống.

Đặc biệt, năm 2023, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Trung Quốc Tập Cận Bình và Phu nhân thăm cấp Nhà nước Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử, Tổng thống Hoa Kỳ Joe Biden nhận lời mời của Tổng Bí thư Đảng ta thăm cấp Nhà nước tới Việt Nam. Cuộc gặp cấp cao của người đứng đầu 3 Đảng Việt Nam - Lào - Campuchia do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Nhân dân cách mạng Lào Thongloun Sisoulith và Chủ tịch Đảng Nhân dân Campuchia Hun Sen tại Hà Nội đã thành công tốt đẹp;… và nhiều nguyên thủ các nước quan trọng khác đến thăm Việt Nam. Đây là những sự kiện chính trị đối ngoại, ngoại giao đặc biệt quan trọng, không chỉ trong hợp tác song phương mà cả trong các vấn đề khu vực và quốc tế, có ý nghĩa lịch sử, được dư luận trong và ngoài nước rất hoan nghênh, đánh giá cao, đúng như Tổng Bí thư vẫn thường nói: "Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, uy tín và vị thế quốc tế như ngày nay".

Kết quả đến nay, Đảng ta đã có quan hệ với 253 đảng ở 115 quốc gia trên thế giới, trong đó có 92 đảng cộng sản, 63 đảng cầm quyền, 38 đảng tham gia liên minh cầm quyền, tham chính... Về quan hệ ngoại giao nhà nước, Việt Nam đã mở rộng, làm sâu sắc quan hệ với 193 quốc gia, trong đó có 3 nước quan hệ đặc biệt, 6 nước đối tác chiến lược toàn diện, 12 nước đối tác chiến lược và 12 nước đối tác toàn diện; trở thành thành viên tích cực, có trách nhiệm của hầu hết các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế. Bên cạnh đó, các đoàn thể, tổ chức nhân dân của Việt Nam đã có quan hệ hợp tác, hữu nghị với hơn 1.200 tổ chức, đối tác nước ngoài.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhận định, tình hình từ nay đến hết nhiệm kỳ khóa XIII, bên cạnh những thuận lợi cũng sẽ còn nhiều khó khăn. Do đó toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần tiếp tục quán triệt thật sâu sắc, tổ chức thực hiện thật nghiêm, thật tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển nhanh, bền vững. Chú trọng củng cố, tăng cường nền tảng kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, nâng cao năng lực nội tại và tính tự chủ của nền kinh tế. Tập trung ưu tiên cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn... gắn với tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỦ TƯỚNG PHẠM MINH CHÍNH TỚI NEW DELHI, BẮT ĐẦU THĂM CẤP NHÀ NƯỚC ẤN ĐỘ!

         Vào lúc 22 giờ 40 phút, ngày 30-7, giờ địa phương (tức 0 giờ 10 phút, ngày 31-7, giờ Hà Nội), chuyên cơ chở Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam đã tới sân bay quân sự Palam ở thủ đô New Delhi, bắt đầu thăm cấp Nhà nước Ấn Độ theo lời mời của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi!
Đón Thủ tướng Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam tại sân bay Palam, về phía Ấn Độ có Quốc vụ khanh Ngoại giao Ấn Độ Pabitra Margerita, Đại sứ Ấn Độ tại Việt Nam Sandeep Arya, Vụ trưởng Vụ Lễ tân Bộ Ngoại giao Ấn Độ; về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Ấn Độ Nguyễn Thanh Hải, Tổng Lãnh sự Việt Nam tại Mumbai Lê Quang Biên và cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Ấn Độ.

Mặc dù trời đã khuya, song với những cái bắt tay nồng ấm, vẫy chào nồng nhiệt và điệu múa truyền thống của những vũ công Ấn Độ dưới ánh đèn điện chào đón Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Đoàn đại biểu Việt Nam, không khí chân tình, trọng thị thêm phần lung linh, huyền ảo.

Chuyến thăm của Thủ tướng Phạm Minh Chính tới Ấn Độ nhằm khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam coi trọng quan hệ hữu nghị truyền thống và Đối tác Chiến lược Toàn diện với Ấn Độ.

Dự kiến trong chuyến thăm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính sẽ có các cuộc hội đàm, hội kiến với lãnh đạo cấp cao Ấn Độ như Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi, Tổng thống Ấn Độ Droupadi Murmu, Chủ tịch Thượng viện Ấn Độ Jagdeep Dhankhar, Chủ tịch Hạ viện Ấn Độ Om Birla.

Thủ tướng cũng sẽ gặp gỡ lãnh đạo một số chính Đảng của Ấn Độ; dự các diễn đàn, tọa đàm với doanh nghiệp hai nước; tiếp các tập đoàn kinh tế hàng đầu Ấn Độ; phát biểu tại Hội đồng các vấn đề thế giới Ấn Độ; thăm Đại sứ quán và gặp gỡ đại diện cộng đồng người Việt Nam tại Ấn Độ…

Trong chuyến thăm, một mặt hai bên củng cố các lĩnh vực hợp tác truyền thống, mặt khác mở rộng ra những lĩnh vực mà hai bên có tiềm năng, thế mạnh như điện tử, viễn thông, công nghệ sinh học, dược phẩm, năng lượng tái tạo, kinh tế xanh, kinh tế số, trí tuệ nhân tạo, bán dẫn, vật liệu mới, khoáng sản thiết yếu...

Chuyến thăm góp phần củng cố sự tin cậy chính trị, làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác nhiều mặt, đưa quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Ấn Độ đi vào thực chất, hiệu quả hơn cả về chính trị, ngoại giao, an ninh, quốc phòng, kinh tế, thương mại, đầu tư. Đây cũng là cơ hội để hai nước tăng cường chia sẻ về các vấn đề an ninh, chiến lược trong khu vực, trên thế giới và khẳng định sự ủng hộ lẫn nhau trong các diễn đàn đa phương cùng quan tâm./.


Theo TTXVN.
Yêu nước ST.

Trong đau thương có sự khâm phục, niềm tự hào!.

 Bài viết này như một nén tâm nhang đưa tiễn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với lòng kính trọng một người Cộng sản cả cuộc đời vẻ vang mãi mãi thuộc về Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Trong đau thương có sự khâm phục, niềm tự hào! Xin vĩnh biệt và cầu mong Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yên giấc ngàn thu cõi vĩnh hằng!

Nhiệm vụ với Đảng, với nước, với dân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xuất sắc hoàn thành. 

Hôm nay, 26/7/2024, là ngày quốc tang thứ 2 và là ngày đưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về nơi an nghỉ cuối cùng. Quốc tang diễn ra chỉ 2 ngày nhưng Quốc tang trong lòng dân thật sự đã bắt đầu từ lúc 13h38 phút ngày 19/7/2024 - thời khắc nhận tin buồn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về với thế giới người hiền.

Như chúng ta biết, mạng xã hội, các nền tảng trực tuyến bên cạnh việc mang lại nhiều thông tin có ích cho người dân thì cũng có rất nhiều những ồn ào, câu like, câu view, tranh cãi, thị phi… Thế nhưng chiều tối 19/7, ngay sau khi thông tin Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từ trần được công bố, không gian mạng bỗng trầm xuống và dường như trở nên đồng nhất trong không khí thành kính và đau buồn, nỗi thương tiếc vô bờ đối với Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trở thành thông điệp chủ đạo trên các nền tảng trực tuyến.

Nhiều người dân ở mọi lứa tuổi, nghề nghiệp, thành phần đã bày tỏ sự kính trọng và niềm tiếc thương vô hạn trước sự ra đi của người lãnh đạo mà họ gửi gắm không chỉ niềm tin, kỳ vọng, lòng biết ơn mà còn có rất nhiều yêu thương bằng việc đồng loạt thay ảnh đại diện trên trang mạng xã hội thành màu đen hoặc cờ rủ….

Sự hiện diện đồng loạt của các avatar màu đen, những lá cờ rủ buồn bã kèm theo những dòng trạng thái (status) thật sự xúc động: "Một trái tim lớn đã ngừng đập", "Người cộng sản kiên trung", "Xin kính cẩn nghiêng mình vĩnh biệt người cộng sản chân chính", “Người đã xa nhưng đời còn nhớ mãi”, "Vĩnh biệt Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - người cộng sản kiên trung, học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Muôn người dân Việt Nam nhớ thương ông" hay "Tuổi trẻ Việt Nam mãi mãi khắc ghi lời căn dặn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng"…

Tất cả những con phố mà linh xa của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi qua, nhiều người dân đã đứng kín hai bên các con đường để tiễn đưa Tổng Bí thư.

Chưa hết, những hình ảnh, những phát ngôn ấn tượng đã đi vào lòng dân của Tổng Bí thư, những bài thơ, bài hát ca ngợi công lao to lớn của người đứng đầu Đảng ta trên khắp các trang mạng là cách người dân nhắn gửi rằng sự ra đi của Tổng Bí thư là mất mát lớn với họ và cũng cho thấy sự đồng cảm sâu rộng giữa những người đồng bào đang cùng chia sẻ mất mát. Nhưng nỗi đau này không bi lụy mà có “bệ đỡ” là niềm tin từ cộng đồng về tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc.

Đặc biệt, rất nhiều người dân Việt Nam đã trích đăng lại câu nói mà Tổng Bí thư rất tâm đắc và phát biểu nhiều lần trước các cán bộ, đảng viên: "Đời người chỉ sống có một lần phải sống sao cho có ý nghĩa; để không phải xót xa ân hận về những việc làm ti tiện, đớn hèn, vô liêm sỉ; tiền bạc lắm để làm gì, chết có mang theo được đâu. Danh dự mới là điều thiêng liêng nhất!"…

Còn nữa, cộng đồng mạng còn chia sẻ cho nhau hình ảnh vị lãnh đạo tối cao của Đảng với phong cách giản dị, hình ảnh cùng vợ và các cháu ngồi trên chiếu gói bánh chưng Tết trong căn nhà có những mảng tường đã cũ... Đó còn là nụ cười hồn hậu của ông khi bế em bé thôn quê, khi ngồi trò chuyện với những người thương binh ở vùng núi xa xôi… Đó còn là những câu chuyện về sự gần dân, sâu sát dân, đồng cảm với dân trong vô vàn các hình ảnh…

Có thể nói, những thông điệp tích cực và sự đồng lòng tuyệt đối của cộng đồng mạng Việt Nam có tới hơn 70 triệu thành viên gợi cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Trong đó phải khẳng định là nhân cách, uy tín của Tổng Bí thư đã tạo nên một sức mạnh đoàn kết không chỉ trong Đảng mà cả trong lòng dân. Bên cạnh đó, những dấu hiệu tích cực từ cộng đồng mạng đã cho thấy những giá trị chân - thiện - mỹ luôn trường tồn và được đông đảo quần chúng ghi nhận…

Trong lòng dân, Người vừa từ biệt cõi trần ấy là hình mẫu cao quý của người Cộng sản chân chính, một trí tuệ lớn, tài năng lớn của cách mạng Việt Nam. Đó còn là nhà tư tưởng, nhà văn hóa, ngọn cờ lý luận của Đảng, người học trò xuất sắc không ngừng học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại; người đã cống hiến trọn đời mình vì nước, vì dân, tận hiến đến phút cuối cùng...

Không chỉ người dân Việt Nam, bạn bè quốc tế khi đến viếng Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng bày tỏ sự xúc động sâu sắc trước sự ra đi của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam. 

Đối với nhiều người dân, Lễ Quốc tang đã bắt đầu ngay từ khi nhận tin Tổng Bí thư qua đời ngày 19/7, bắt đầu theo cách giản dị, đầy xúc động, chất phác và chân thành nhất như chính tấm gương ngời sáng tận trung với Nước, tận hiếu với Dân của Tổng Bí thư!

Quốc tang trong lòng dân còn thể hiện ở việc rất nhiều đền, chùa, nhiều gia đình đã tự lập bàn thờ Tổng Bí thư ngay từ tối 19/7 và tổ chức những buổi cầu siêu với số lượng người tham dự rất lớn. Việc làm này cho thấy ngoài sự tôn kính, biết ơn còn có cả tình cảm yêu mến, gần gũi, là lòng nhớ thương, giống như tình cảm mà người ta dành cho người thân đã khuất của mình.

Và còn rất nhiều, rất nhiều những cá nhân với tấm lòng tôn kính đã hướng về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng theo cách riêng của mình. Đó là tại nhà tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thanh Tông, ngay trong ngày đầu tiên của nghi lễ Quốc tang, người dân được vào viếng bác từ 18h ngày 25/7. Nhưng theo quan sát của chúng tôi và trên các diễn đàn xã hội cập nhật, từ 16h chiều, người dân đã xếp hàng dài ở những con phố đi vào Nhà tang lễ. Mặc dù rất đông nhưng chúng tôi cảm nhận rõ sự kiên trì, trật tự, nghiêm trang với tấm lòng thành kính. Những đôi mắt đỏ hoe, những hành động quan tâm, chăm sóc, chia sẻ cùng nhau trong tang lễ Tổng Bí thư khiến những người bản lĩnh tới đâu cũng không khỏi xúc động, trào nước mắt.

Trong dòng người nối dài nhau nhiều km để được vào viếng, chúng tôi thật sự ấn tượng bởi chia sẻ của một số người đã vượt hàng nghìn km trở về để tiễn biệt người đứng đầu Đảng ta. Đó là bà Trương Thị Kim Oanh, cán bộ hưu trí bay từ Kon Tum ra Hà Nội với tâm sự: “Nghe tin Tổng Bí thư ốm, tôi bồn chồn và hi vọng ông sẽ nhanh chóng khỏe trở lại. Nhưng sau đó truyền hình phát tin ông từ trần, tôi hụt hẫng lắm. Tổng Bí thư luôn là tấm gương sáng để chúng tôi noi theo. Vì thế khi có thông tin tang lễ, tôi đặt vé máy bay ra viếng ông”.

Nhiều người dân mang theo ảnh, đứng tiễn đưa Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đoạn đường cuối.

Đó còn là ông Đoàn Tấn Phụng, 82 tuổi. Mặc dù bị thương khi tham gia kháng chiến chống Mỹ, đôi chân không còn lành lặn, đi lại khó khăn nhưng ông vượt chặng đường gần 900km từ Quãng Ngãi ra Hà Nội để thực hiện mong muốn được tiễn biệt Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng – một nhà lãnh đạo, một người con ưu tú của dân tộc.

Cũng giống như bà Oanh, ông Phụng nhưng bà Vũ Thị Hòa phải di chuyển cả chặng bay xa, từ Belarus về Hà Nội để viếng Tổng Bí thư. Và để được vào viếng, bà Hòa đi từ 4h sáng 25/7, chấp nhận ngồi đợi ở đường Nguyễn Cao hơn 13 giờ đồng hồ, đến 17h30 chiều, bà cùng một vài người họ hàng bắt đầu được vào viếng. Thời gian chờ đợi dài là vậy nhưng lòng bà thấy nhẹ nhõm và mãn nguyện khi được tiễn đưa người mà bà rất tôn trọng, kính yêu.

Và còn cả hàng nghìn người dân có mặt xếp hàng, nhiều người thậm chí đã thức trắng đêm, nhiều người kiên nhẫn chờ xếp hàng từ rạng sáng, với chung một mong muốn sớm được vào tiễn biệt Tổng Bí thư lần cuối.

Đặc biệt, trong chặng đường cuối đưa Tổng Bí thư vào lòng đất mẹ, dưới cái nắng nóng oi ả của Thủ đô Hà Nội, tất cả những con phố mà linh xa của Tổng Bí thư đi qua, nhiều người dân Thủ đô và các địa phương từ trẻ tới già trong cả nước với gương mặt tiếc thương đã đứng kín hai bên các con đường với những tấm ảnh phóng to, những giọt nước mắt lăn dài, những chiếc cờ rủ… đã nói lên tất cả lòng dân.

Điều đặc biệt nhất, ngay tại nghĩa trang Mai Dịch, hàng nghìn người đã vừa khóc vừa hát vang bài hát “Quốc ca” khi tiễn người đứng đầu Đảng ta một đoạn đường cuối cùng đã thể hiện rõ nhất sự kính trọng, lòng tiếc thương mà hàng triệu người Việt Nam dành cho Tổng Bí thư. Đây cũng trở thành sợi dây gắn kết mỗi người dân đoàn kết, đồng lòng hướng đến nhiều điều lớn lao, ý nghĩa.

 Linh xa chở thi hài của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi qua đường Kim Mã.
 Vẫn biết cuộc đời này là vô thường. Vạn vật đều phải theo quy luật của tự nhiên. Lá bao giờ cũng rụng về cội, con người rồi cũng trở về với cát bụi, với cội nguồn mình đã sinh ra. Âu cũng là quy luật ở cõi nhân gian này… Nhiệm vụ với Đảng, với nước, với dân, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã xuất sắc hoàn thành và giờ đây, bác thanh thản ra đi...

Bài viết này như một nén tâm nhang đưa tiễn Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với lòng kính trọng một người Cộng sản cả cuộc đời vẻ vang mãi mãi thuộc về Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Trong đau thương có sự khâm phục, niềm tự hào!

Xin vĩnh biệt và cầu mong Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng yên giấc ngàn thu cõi vĩnh hằng!

KHÔNG CHÙN BƯỚC TRƯỚC TỘI PHẠM MA TÚY NGUY HIỂM!

         Trực tiếp tham gia 291 chuyên án, vụ án; cùng đồng đội bắt giữ 380 tên tội phạm, thu giữ hơn 600kg ma túy các loại... là những chiến công xuất sắc của Đại úy Vũ Văn Cường, Phó đồn trưởng nghiệp vụ, Đồn Biên phòng Si Pha Phìn, Bộ đội Biên phòng (BĐBP) tỉnh Điện Biên-một trong 10 Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu năm 2023!
Không giống như những gì tôi liên tưởng về một chàng sĩ quan biên phòng cao to, vạm vỡ, nước da sạm màu biên ải sau nhiều năm trèo đèo lội suối, “mưa dầm, cơm vắt” mật phục, truy bắt nghi phạm ma túy nơi rừng thiêng nước độc, Đại úy Vũ Văn Cường gây sự chú ý đặc biệt với chúng tôi bởi giọng nói nhẹ nhàng, gương mặt điển trai, thư sinh...

Anh và đồng đội vừa trải qua hai đêm trắng nằm vùng ở khu vực biên giới, theo dõi hành tung của các nghi phạm vận chuyển, buôn bán "cái chết trắng" trong một chuyên án mới xác lập. Mỗi chuyến công tác như vậy, hành trang mang theo của các anh, ngoài vũ khí, trang bị, chỉ có lương khô, cơm nắm, thịt xay, mì ăn liền; nước uống thì từ ngày thứ hai trở đi chủ yếu lấy từ khe suối, lõi chuối rừng... Do đặc thù nhiệm vụ, có những tháng, thời gian ngủ túi, nằm rừng của các chiến sĩ biên phòng làm nhiệm vụ "đánh án" trên tuyến biên giới còn nhiều hơn cả thời gian công tác tại đơn vị. Vậy mà trông ai cũng khỏe khoắn, rắn rỏi, tràn đầy tinh thần lạc quan. Phải chăng chính môi trường khắc nghiệt, nhiệm vụ nặng nề, nguy hiểm đã tôi luyện cho họ bản lĩnh phi thường ấy. 

- Trông cậu thư sinh thế này mà đánh án ma túy giỏi thế!-Tôi vui vẻ mở lời sau cái bắt tay thân mật với Đại úy Vũ Văn Cường.

- Tôi không dám nhận mình giỏi đâu. Đây là chiến công chung của anh em trong đơn vị, tôi chỉ đóng góp một phần công sức trong đó thôi-Đại úy Vũ Văn Cường khiêm nhường trả lời, đôi mắt tươi vui như biết nói.

Câu chuyện của chúng tôi thân mật, cởi mở ngay từ phút đầu. Chàng sĩ quan biên phòng trẻ tuổi kể rằng, anh sinh ra trong một gia đình thuần nông ở xã Định Thành, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa. Những câu chuyện khi đi dân công hỏa tuyến, tải gạo phục vụ Chiến dịch Điện Biên Phủ được ông bà kể lại là chất liệu nuôi lớn tâm hồn cậu bé Cường từ thuở ấu thơ. Cũng từ đó, ước mơ trở thành người chiến sĩ ngày một lớn và là nguồn động lực giúp cậu học sinh trường huyện Vũ Văn Cường nỗ lực học tập, thi đỗ với số điểm cao vào Học viện Biên phòng năm 2011.

Ra trường năm 2015, Trung úy Vũ Văn Cường nhận nhiệm vụ tại BĐBP tỉnh Điện Biên, trải qua nhiều vị trí công tác: Đội trưởng Đội Phòng, chống ma túy và tội phạm (PCMT-TP), Đồn Biên phòng Si Pha Phìn; sĩ quan điều tra, Đội Đặc nhiệm PCMT-TP, Phòng PCMT-TP, BĐBP tỉnh Điện Biên; Đội trưởng Đội PCMT-TP, Đồn Biên phòng Pa Thơm, BĐBP tỉnh Điện Biên; Phó đồn trưởng nghiệp vụ, Đồn Biên phòng Si Pha Phìn.

Được cấp trên tin tưởng giao đảm nhiệm điều tra, đấu tranh với tội phạm ma túy, Vũ Văn Cường luôn đau đáu phải làm sao sớm tiếp cận với công việc, nhanh chóng làm chủ nghiệp vụ, kịp thời cùng đồng đội ngăn chặn, bắt giữ những kẻ buôn bán, gieo rắc "cái chết trắng", góp phần bảo vệ cuộc sống bình yên cho nhân dân. Từ đó, anh tranh thủ mọi lúc, mọi nơi chủ động tự học, tự nghiên cứu, trau dồi chuyên môn, tích cực học hỏi kinh nghiệm từ những người đi trước, nhất là rèn cho mình tác phong công tác mẫu mực, cẩn trọng.

Từ tháng 10-2022 đến nay, với những kinh nghiệm đúc kết, tích lũy được trong quá trình công tác, Đại úy Vũ Văn Cường chủ động tham mưu cho cấp ủy, chỉ huy đơn vị triển khai nhiều biện pháp đấu tranh với tội phạm ma túy, phù hợp thực tế địa bàn, mang lại hiệu quả rõ rệt. Riêng năm 2022, anh trực tiếp điều tra, phát hiện, tham gia bắt giữ, xử lý 17 chuyên án, vụ án với 25 đối tượng, trong đó có 6 chuyên án, 8 vụ án cấp tỉnh, 3 vụ án cấp huyện. Điển hình là các chuyên án ĐB1221P.2, ĐB122B, ĐB622, A222, thu giữ hơn 264.600 viên ma túy tổng hợp, 190 bánh heroin, hơn 390 gram heroin, 6kg thuốc phiện... Với tinh thần chủ động tiến công cùng sự sắc sảo, nhạy bén trong chuyên môn, nghiệp vụ, Đại úy Vũ Văn Cường trực tiếp tham gia nhiều chuyên án, vụ án ma túy lớn, góp phần xác lập, đấu tranh, triệt phá thành công nhiều đường dây tội phạm, vận chuyển, buôn bán ma túy xuyên quốc gia.

Anh nhớ mãi lần đấu tranh chuyên án ĐB1221P.2, đợt cao điểm tấn công trấn áp tội phạm dịp trước, trong và sau Tết Nguyên đán Nhâm Dần 2022. Theo đó, qua công tác nắm tình hình, cuối năm 2021, anh Cường phát hiện đường dây mua bán, vận chuyển ma túy số lượng lớn từ các tỉnh Bắc Lào qua địa bàn tỉnh Điện Biên, vận chuyển đi Lai Châu tiêu thụ. Sau 7 ngày đêm mật phục tại ngã ba bản Nậm He, xã Mường Tùng (Mường Chà, Điện Biên), lúc 4 giờ 45 phút ngày 3-2-2022 (mồng 3 Tết Nguyên đán Nhâm Dần), anh Cường và các đồng đội đã bắt quả tang đối tượng Chang A Má, sinh năm 1992, trú tại xã Chung Chải (Mường Nhé, Điện Biên) dùng xe máy vận chuyển 72 bánh heroin cất giấu trong thùng carton buộc trên giá đèo hàng.

Qua hàng trăm chuyên án, vụ án ma túy, mỗi lần đi "đánh án" đều để lại trong lòng Đại úy Vũ Văn Cường nhiều cảm xúc đặc biệt. Ví như đợt tham gia đấu tranh chuyên án ĐB223, anh được giao nhiệm vụ chỉ huy tổ đánh bắt chính và trực tiếp cùng đồng đội mật phục, bắt giữ 3 đối tượng vận chuyển trái phép chất ma túy qua biên giới từ Lào vào Việt Nam.

- Triển khai chuyên án, tôi và đồng đội mật phục nhiều ngày ở địa hình rừng núi hiểm trở, trong điều kiện mưa rét, muỗi, vắt nhiều vô kể, nhưng anh em động viên nhau cố gắng, quyết không rời vị trí. Rạng sáng 25-2-2023, tại khu vực cột mốc 106 xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên, thấy 3 đối tượng nghi vận chuyển ma túy lọt vào đội hình mật phục, chúng tôi nhanh chóng áp sát. Ngay lập tức, đối tượng đi đầu liều lĩnh chống trả, giương khẩu súng kíp nhắm thẳng vào tôi và đồng đội. Trong khoảnh khắc, tôi đá văng khẩu súng trên tay hắn khi chưa kịp bóp cò, đồng thời quật ngã đối tượng. Hai tên còn lại rút dao nhọn đâm chém điên cuồng hòng thoát thân nhưng đã bị khống chế. Qua kiểm tra, 3 tên này mang theo 7 bánh heroin, 1kg ma túy tổng hợp. Khi ấy, chỉ cần chậm một tích tắc, có lẽ tôi đã không còn ở đây để tiếp chuyện anh rồi-Đại úy Vũ Văn Cường cười hiền sau khi kể xong kỷ niệm đầy ấn tượng. 

Mới đây, vào khoảng 19 giờ 15 phút ngày 5-4, ngay sau khi nhận danh hiệu Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu năm 2023, trở về đơn vị, tại bản Đề Bua, xã Phìn Hồ, huyện Nậm Pồ, tỉnh Điện Biên, lực lượng PCMT-TP Đồn Biên phòng Si Pha Phìn do Đại úy Vũ Văn Cường phụ trách đã cùng Phòng PCMT-TP, BĐBP tỉnh Điện Biên, phối hợp với Đồn Biên phòng Nậm Kè bắt giữ đối tượng Thào A Già, trú tại bản Trạm Púng, xã Quảng Lâm, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên khi đang vận chuyển 120.000 viên ma túy tổng hợp. Mở rộng điều tra và truy xét, đến 20 giờ cùng ngày, lực lượng chức năng đã bắt giữ đối tượng liên quan là Liều A Súa khi đang lẩn trốn ở khu vực biên giới Việt Nam-Lào.

Để đấu tranh hiệu quả với tội phạm ma túy, Đại úy Vũ Văn Cường chia sẻ, anh và đồng đội luôn tích cực gây dựng cơ sở, bám nắm địa bàn, chủ động nghiên cứu hồ sơ, văn bản quy phạm pháp luật về công tác PCMT-TP trên tuyến biên giới. Anh cũng thực hiện tốt các mặt công tác nghiệp vụ cơ bản, điều tra hình sự ở các địa bàn được phân công; thu thập tin tức, điều tra, xác minh, đấu tranh với các đường dây, ổ nhóm mua bán, vận chuyển trái phép chất ma túy và đấu tranh với các loại tội phạm khác ở khu vực biên giới, hành lang biên giới... Theo Đại úy Vũ Văn Cường, điều quan trọng nhất là phải thường xuyên trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, rèn luyện kỹ năng truy bắt, khống chế các nghi phạm buôn bán ma túy. Bởi vì các đối tượng đều hết sức manh động, liều lĩnh, sẵn sàng sử dụng vũ khí "nóng" để chống trả lực lượng chức năng hòng thoát thân; nếu không có lòng dũng cảm, kỹ năng xử lý nhạy bén, công tác hiệp đồng chặt chẽ thì sẽ vừa nguy hiểm đến tính mạng của bản thân và đồng đội, vừa không bắt giữ được đối tượng, ảnh hưởng đến các chuyên án, vụ án đang điều tra...

Đại tá Nhâm Văn Mạnh, Chính ủy BĐBP tỉnh Điện Biên, khẳng định: “Đại úy Vũ Văn Cường là cán bộ trẻ nhiệt huyết, tinh thông nghiệp vụ, năng nổ trên các mặt công tác, lập nhiều chiến công xuất sắc trong công tác điều tra, đấu tranh triệt phá nhiều vụ án phức tạp về ma túy, góp phần quan trọng ngăn chặn hoạt động của tội phạm và tệ nạn ma túy trên địa bàn tỉnh Điện Biên”.

Trò chuyện với cán bộ, chiến sĩ Đồn Biên phòng Si Pha Phìn, tôi cũng được nghe nhiều lời khen về Đại úy Vũ Văn Cường là một cán bộ mẫu mực, khiêm tốn, gần gũi, hòa đồng. Đặc biệt, trên mặt trận đấu tranh PCMT-TP, anh Cường rắn rỏi, nghiêm nghị bao nhiêu thì những lần thực hiện “3 bám, 4 cùng” (bám đơn vị, bám địa bàn, bám chủ trương, chính sách; cùng ăn, cùng ở, cùng làm, cùng nói tiếng đồng bào) với bà con nhân dân, anh lại nhẹ nhàng, ân cần, tận tụy bấy nhiêu. Thấu hiểu đời sống của đồng bào trên địa bàn còn nhiều khó khăn, tranh thủ lúc rảnh rỗi, anh thường nghiên cứu, tìm hiểu thêm kiến thức về nông nghiệp để tư vấn, giúp đỡ bà con lựa chọn cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm khí hậu, điều kiện thổ nhưỡng của địa phương. Từ sự tư vấn, hỗ trợ, giúp đỡ của anh Cường, nhiều hộ đã thoát nghèo, có sinh kế ổn định.

BOX: Với những thành tích tiêu biểu trong công tác, Đại úy Vũ Văn Cường được trao tặng nhiều phần thưởng cao quý. Năm 2022, anh được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng Ba. Năm 2023, anh là một trong 67 tấm gương điển hình tiêu biểu toàn quốc trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được trao tặng Huy hiệu Bác Hồ; là một trong 10 Gương mặt trẻ tiêu biểu BĐBP, Gương mặt trẻ tiêu biểu toàn quân và Gương mặt trẻ Việt Nam tiêu biểu năm 2023./.


Yêu nước ST.

Ra mắt bộ sách “Ngàn năm sử Việt”

 Hướng tới năm học mới, Nhà xuất bản Kim Đồng ra mắt bộ sách văn học “Ngàn năm sử Việt”, chọn lọc các tác phẩm nổi tiếng nhất viết về lịch sử của nhiều tác giả.

Bộ sách hiện đã ra mắt 9 cuốn: Cờ lau dựng nước (Ngô Văn Phú); Thập đạo tướng quân Lê Hoàn (Nguyễn Anh); Sừng rượu thề (Nghiêm Đa Văn), Ỷ Lan phu nhân (Hoài Anh);  Hưng Đạo vương (Phan Kế Bính, Lê Văn Phúc); Khói mây Yên Tử (Vũ Ngọc Tiến); Ông Trạng thả diều (Hà Ân); Ngựa ông đã về (Hoài Anh); Hoàng đế anh minh (Ngô Văn Phú).

Mỗi tác phẩm là sự kết hợp nhuần nhị giữa kiến thức lịch sử sâu rộng, cảm xúc dồi dào, tưởng tượng phong phú của nhà văn, khơi gợi trí tò mò và tình yêu lịch sử dân tộc. Là một tác phẩm văn học độc lập, nhưng khi được tập hợp trong bộ “Ngàn năm sử Việt”, người đọc sẽ có một cái nhìn khá bao quát và tổng thể về lịch sử Việt Nam.

Bộ sách “Ngàn năm sử Việt”.

9 cuốn sách trong bộ sách “Ngàn năm sử Việt” là những câu chuyện kể về danh nhân lịch sử có thật đã có ảnh hưởng lớn trong lịch sử dân tộc. Từ câu chuyện của các anh hùng, người đọc hiểu hơn câu chuyện lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Những con người kiệt xuất đó, có người là bậc minh quân, có người là vị chỉ huy quân sự tài ba, có người là dũng tướng, có người là “người thầy của muôn đời”, có người là trạng nguyên nhỏ tuổi nhất…

Với cảm hứng ngợi ca mãnh liệt, bộ sách thắp lên trong mỗi người đọc niềm tự hào về truyền thống lịch sử, tình yêu đất nước. Bên cạnh phần tác phẩm văn học, để các em có thể hiểu hơn về mỗi câu chuyện, các em sẽ được tìm hiểu thêm về hoàn cảnh lịch sử, dòng chảy lịch sử mà nhân vật và câu chuyện diễn ra.

Bộ sách “Ngàn năm sử Việt” thể hiện tư duy và cách làm mới tác phẩm của Nhà xuất bản Kim Đồng mang lại diện mạo mới mẻ, hiện đại cho từng cuốn sách và sự tin cậy cho bộ sách, với những thông tin ngắn gọn về bối cảnh thời đại, hoàn cảnh lịch sử câu chuyện diễn ra. Bộ sách có chung một diện mạo với phần tranh bìa công phu của họa sĩ Nguyễn Công Hoan.

Bộ sách này phù hợp với nhiều lứa tuổi, phù hợp giới thiệu đến hệ thống thư viện trường học và thư viện gia đình, quà tặng.... Bộ sách sẽ tiếp tục bổ sung các cuốn mới trong thời gian tới, dự kiến khoảng 30 cuốn./.