Thứ Tư, 31 tháng 7, 2024

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng

 Những năm qua, cán bộ, chiến sĩ Bộ Tư lệnh 86 (Bộ Quốc phòng) nỗ lực vượt mọi khó khăn, tích cực, chủ động phối hợp với các lực lượng trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch trên không gian mạng.

ài 1: Trinh sát kịp thời, ngăn chặn hiệu quả

Thực hiện chủ trương, định hướng chiến lược của Đảng, Nhà nước về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng, nhất là Nghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22/10/2018 của Bộ Chính trị, các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới, Đảng ủy, Bộ Tư lệnh 86 đã lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị phát huy vai trò lực lượng tác chiến không gian mạng, chủ động phối hợp đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng.

Bối cảnh mới, thách thức mới

Theo Thượng tá Trần Quang Huy, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy Trung tâm 586 (Bộ Tư lệnh 86), trong bối cảnh mới, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ngày càng ráo riết chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta, trong đó nguy hiểm hơn cả là những âm mưu, hành động nhằm làm cho người dân suy giảm, mất niềm tin vào Đảng và Nhà nước.

Để gieo rắc sự hoài nghi, hòng hướng tới phủ nhận, xóa bỏ nền tảng tư tưởng của Đảng ta, các thế lực thù địch đã "dẫn dụ" bằng nhiều chiêu trò, luận điệu thâm độc như: đưa ra "lý luận" xuyên tạc rằng việc kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chẳng qua là ý muốn chủ quan duy ý chí, là một cách "chỉ để giữ độc quyền" và "không đem lại lợi ích cho toàn dân Việt Nam"; xuyên tạc rằng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là "vật cản" đối với sự phát triển đất nước.

Chúng ngụy tạo rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đang có sự "khủng hoảng lý luận", bởi "kiên định chủ nghĩa Mác-Lênin giúp cải cách thế nào trong bối cảnh kinh tế thị trường và những nội dung cốt lõi trong nền tảng tư tưởng của Đảng là chỉ để phục vụ cho Đảng và không đề cập đến các vấn đề trọng đại của quốc gia". Chúng cổ súy và bịa đặt rằng "khi lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, Việt Nam sớm muộn gì cũng sẽ sụp đổ như Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu"…

Đặc biệt là thời gian gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực "không có vùng cấm", "không có ngoại lệ" trong hệ thống chính trị ở nước ta đang lên cao và đạt kết quả thiết thực, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đánh giá cao. Tuy nhiên, các thế lực thù địch lại cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam có sự mâu thuẫn và đang thanh trừng nhau nhằm mục đích tranh giành quyền lực trong Đảng.

Cùng với đó, các thế lực thù địch đã và đang đẩy mạnh thực hiện âm mưu "phi chính trị hóa" quân đội, nhằm tách Quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, đối lập Quân đội với Đảng và nhân dân; làm cho Quân đội biến chất về chính trị, xa rời hệ tư tưởng cách mạng của giai cấp công nhân, tiến tới vô hiệu hóa và sử dụng Quân đội vào mục đích lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa... Những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch đã và đang âm thầm len lỏi, "bám rễ" vào đời sống xã hội gây ra hệ lụy nguy hiểm cho xã hội.

Do vậy, để phòng chống "diễn biến hòa bình" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa trên không gian mạng trong tình hình mới, Thượng tá Trần Quang Huy cho biết, thời gian qua, Trung tâm 586 triển khai đồng bộ các giải pháp; đẩy mạnh tuyên truyền giúp cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hiểu rõ mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng, hiểu, quán triệt và thực hiện tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, từ đó tham gia mạng xã hội một cách có ý thức trách nhiệm, tuyên truyền, lan tỏa cái hay, cái đẹp, đấu tranh phê phán, không khoan nhượng, tự miễn dịch trước những quan điểm sai trái, phản động, thù địch;

Xây dựng, duy trì phát triển các Fanpage, kênh thông tin trên mạng xã hội Facebook, YouTube, TikTok tuyên truyền thành tựu kinh tế xã hội, nét đẹp văn hóa, truyền thống dân tộc… thu hút hàng trăm nghìn lượt tiếp cận và theo dõi; đồng thời phát hiện, báo cáo, đề xuất với cơ quan chức năng ngăn chặn hàng nghìn tin, bài viết/video xuyên tạc.

Đề cập vấn đề nêu trên, Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn, Chủ nhiệm Chính trị Viện Nghiên cứu 486 (Bộ Tư lệnh 86) nhận định, thời gian qua, các thế lực thù địch thành lập nhiều tổ chức, các trang, nhóm trên mạng xã hội, mạo danh các phương tiện truyền thông của Nhà nước, địa phương, cơ quan, đơn vị và phương tiện truyền thông của lực lượng phản động người Việt lưu vong… tổ chức tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu, vu cáo để chống phá chế độ. Để góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cùng với triển khai đồng bộ các giải pháp, Viện Nghiên cứu 486 thường xuyên phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương trên địa bàn nắm chắc tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, các đối tượng, phần tử xấu, phần tử cơ hội chính trị để có biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn;

Hỗ trợ, duy trì, triển khai hệ thống tự động thu thập xử lý thông tin hỗ trợ công tác giám sát, cảnh báo tình hình trên không gian mạng tại Viện và các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Quân đội; kết hợp chặt chẽ giữa phân tích thông tin trên không gian mạng với tình hình thực tế để đưa ra nhận định đánh giá tình hình, tham mưu đề xuất với các cơ quan chức năng chủ động xử lý tình hình, không để bị động bất ngờ.

Phát huy vai trò lực lượng tác chiến

Viện Nghiên cứu 486 là đơn vị thực hiện chức năng nghiên cứu, phát triển, tích hợp các công nghệ nền tảng; giải pháp phát triển các loại công cụ hỗ trợ nhằm thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng. Thời gian qua, cán bộ, nhân viên của Viện đã ngày đêm chạy đua cùng sự phát triển của công nghệ nhằm đưa ra các giải pháp về công nghệ tốt nhất phục vụ nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, trong đó có nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thượng tá Nguyễn Anh Tuấn cho biết: Để hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, ngoài năng lực chuyên môn giỏi, yêu cầu đòi hỏi khắt khe đối với cán bộ, nhân viên của Viện nghiên cứu nói riêng và Bộ Tư lệnh 86 nói chung là phải tinh nhuệ, nhạy bén về chính trị, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc, nhân dân, Quân đội và đơn vị. Để tạo ra được vũ khí công cụ phục vụ tốt cho thực hiện nhiệm vụ, mỗi cán bộ, nhân viên đơn vị luôn phải tham gia các hoạt động thực tiễn tác chiến không gian mạng để hiểu thực tiễn, nắm bắt được nhu cầu, yêu cầu nhiệm vụ để đưa ra giải pháp tối ưu. Mỗi cán bộ, nhân viên của Viện không chỉ là nhà nghiên cứu, chế tạo mà còn là một "chiến binh" trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác với các quan điểm sai trái, thù địch và chia sẻ, lan tỏa thông tin tích cực trên các nền tảng mạng xã hội.

Những năm qua, Viện đã ứng dụng công nghệ AI, nghiên cứu thành công hệ thống công cụ phục vụ tác chiến cấp chiến thuật, chiến dịch đáp ứng tốt yêu cầu nắm bắt xu hướng thông tin trên các nền tảng mạng xã hội như: Facebook, YouTube và các trang thông tin điện tử; kịp thời đưa ra cảnh báo cho các lực lượng chức năng chủ động ngăn ngừa tiêu cực phát sinh từ mạng xã hội.

Hiện nay, các cơ quan, đơn vị Bộ Tư lệnh 86 đã ứng dụng thành công công nghệ AI trong nắm bắt xu thế thông tin trên không gian mạng, kịp thời tham mưu cho cơ quan chức năng nội dung giải pháp xây dựng bảo vệ chủ quyền quốc gia trên không gian mạng.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng ảnh 1
Cán bộ Viện Nghiên cứu 486, Bộ Tư lệnh 86 (Bộ Quốc phòng) hướng dẫn cán bộ, nhân viên đơn vị khai thác phần mềm do Viện nghiên cứu, chế tạo.

Với phương châm "Trinh sát kịp thời, ngăn chặn hiệu quả, phòng thủ vững chắc", thời gian qua, Bộ Tư lệnh 86 đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị tổ chức tốt việc giám sát, kịp thời phát hiện, cảnh báo, xử lý ngăn chặn các thông tin xấu độc trên không gian mạng làm ảnh hưởng đến uy tín, lợi ích quốc gia, dân tộc; phát hiện ngăn chặn các hoạt động đưa thông tin giả mạo nhằm chống phá Đảng, Nhà nước, kêu gọi, kích động biểu tình, gây mất ổn định về chính trị, kinh tế, xã hội trên không gian mạng.

Các cơ quan, đơn vị Bộ Tư lệnh 86 chủ động phát hiện, cảnh báo, ngăn chặn các chiến dịch tấn công mạng nhằm vào mạng máy tính quân sự, quốc phòng để lấy cắp dữ liệu; phối hợp cơ quan chức năng triển khai các giải pháp bảo đảm an toàn thông tin, kịp thời phát hiện, ngăn chặn các chiến dịch tấn công mạng vào các hệ thống công nghệ thông tin quan trọng quốc gia; tham gia hỗ trợ, ứng cứu khắc phục các sự cố mất an toàn thông tin của các ban, bộ, ngành Trung ương, các đơn vị, địa phương, đóng góp tích cực vào việc xây dựng và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước.

Việt Nam chăm lo cho người lao động bằng chính thực lực

 

hời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện quan điểm xuyên tạc, chống phá cho rằng: Việt Nam không có thực lực khi thực hiện chi trả lương mới cho người lao động; nguồn tiền chủ yếu đi vay của nước ngoài, bởi nền kinh tế đang suy thoái nghiêm trọng...

Cả về lý luận và thực tiễn đều minh chứng việc cải cách tiền lương, lộ trình tăng lương mà Việt Nam đang triển khai là chủ trương hết sức đúng đắn và nhân văn của Đảng, Nhà nước ta; đồng thời, được triển khai theo đúng lộ trình và dựa trên thực lực của chính mình...

Chủ động tăng lương theo lộ trình  

Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 21-5-2018, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp đã xác định lộ trình triển khai cải cách tiền lương cụ thể từ năm 2021 đến năm 2025 và tầm nhìn đến năm 2030; nhấn mạnh yêu cầu cải cách chính sách tiền lương, xây dựng hệ thống chính sách tiền lương quốc gia một cách khoa học, minh bạch, phù hợp với tình hình thực tiễn đất nước...   

Sau thời gian chuẩn bị và bị trì hoãn cải cách tiền lương do dịch Covid-19, tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khóa XV, Quốc hội đã quyết nghị, thực hiện đầy đủ hai nội dung cải cách tiền lương khu vực doanh nghiệp theo đúng Nghị quyết 27.

Mức điều chỉnh tăng này đã được các cơ quan quản lý tính toán kỹ lưỡng trong bối cảnh chưa có đủ điều kiện bỏ mức lương cơ sở và hệ số lương hiện nay (chưa thực hiện các bảng lương và phụ cấp mới), tạo được sự thống nhất đồng thuận, hiệu ứng tâm lý tích cực và tác động kinh tế lan tỏa rất lớn trong xã hội do bảo đảm công bằng, hợp lý, hài hòa, có sự chia sẻ giữa người đang hưởng lương hưu và người đang đóng bảo hiểm xã hội, giữa khu vực nhà nước và khu vực ngoài nhà nước, giữa các thế hệ tham gia và thụ hưởng chính sách; đồng thời bảo đảm khả năng cân đối của ngân sách nhà nước và Quỹ Bảo hiểm xã hội trong dài hạn; tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả làm việc, góp phần ổn định xã hội.  

Việt Nam chăm lo cho người lao động bằng chính thực lực
Ảnh minh họa / tuyengiao.vn 

Bám sát sức khỏe nền kinh tế, hỗ trợ tổng cầu, tạo động lực phát triển

Nhìn chung, các mức tăng lương ở Việt Nam thời gian qua thấp hơn mức tăng năng suất lao động, quy mô và thu nhập bình quân đầu người của nền kinh tế, cũng như thấp hơn nhu cầu chi tiêu bảo đảm đời sống ngày càng tăng nhanh của người lao động.

Năng suất lao động của người Việt trong giai đoạn 2010-2020 tăng trưởng 64% theo giá hiện hành, cao hơn so với nhiều nước trong khu vực, chủ yếu nhờ sự cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lớn.

Từ năm 2007 đến giữa 2023, quy mô tổng sản phẩm trong nước (GDP) và thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam tăng khoảng 7,7 lần; trong khi tiền lương cơ sở chỉ tăng khoảng 4 lần, từ mức 540.000 đồng/tháng kể từ ngày 1-1-2008 lên 2,34 triệu đồng/tháng từ ngày 1-7-2024.

Trong thời gian diễn ra dịch Covid-19, Việt Nam đã trì hoãn một đợt tăng lương theo lộ trình và cũng mới triển khai gói hỗ trợ tài chính với quy mô khiêm tốn ước khoảng 0,5% GDP so với gói kích thích tài chính khổng lồ tới khoảng 20% GDP như của Mỹ và một số nước khác cùng thời gian này. Bởi vậy, đợt tăng lương tháng 7-2024 là sự tiếp nối lộ trình tăng lương theo kế hoạch nêu trên và sự tiếp tục các giải pháp hỗ trợ tăng cả tổng cung và tổng cầu của chính sách phục hồi kinh tế hậu Covid-19.

Trên thực tế, việc tăng lương lần này không chỉ góp phần cải thiện mức sống của người hưởng lương, bảo đảm nguyên tắc tiền lương phải đáp ứng nhu cầu sống tối thiểu của người lao động nhận lương và gia đình họ theo nguyên lý kinh tế thị trường; mà còn cho phép tăng tổng cầu có khả năng thanh toán của xã hội; từ đó, góp phần kích thích sản xuất và củng cố động lực tăng trưởng kinh tế trong bối cảnh tổng cầu xã hội còn thấp và thị trường thế giới chưa có sự đột phá mạnh mẽ gắn với chu kỳ kinh tế đang chậm lại của nền kinh tế thế giới....

Mặt khác, cơ sở vật chất-tài chính cho tăng lương đã được chuẩn bị khá chu đáo. Theo đó, Chính phủ đã tích lũy cân đối được 913.000 tỷ đồng ngân sách nhà nước làm nguồn chi trả đáp ứng tổng nhu cầu kinh phí điều chỉnh lương cơ sở tăng 30%, điều chỉnh lương hưu và trợ cấp lũy kế 3 năm 2024-2026 tăng thêm là hơn 900 nghìn tỷ đồng.

Đặc biệt, nền tảng tăng lương của Việt Nam ngày càng được củng cố. Suốt thời gian từ khi bắt đầu đại dịch Covid-19 đến nay, nền kinh tế vĩ mô luôn ổn định; lạm phát được kiểm soát dưới 4%, các cân đối lớn được bảo đảm; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm tốt. Việt Nam đang nhanh chóng thu hẹp khoảng cách với các nước trong khu vực, cải thiện vị thế quốc tế nhờ duy trì động lực tăng trưởng cân bằng cả trong và ngoài nước; sức mạnh nội lực và vị thế kinh tế quốc tế được thế giới ghi nhận và dự báo tiếp tục sự hồi phục và tăng trưởng tích cực...

 Cụ thể, theo Tổng cục Thống kê, kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2024 có nhiều khởi sắc về sự đồng đều và chất lượng tăng trưởng, với GDP tăng 6,42%, vượt kịch bản đề ra và là mức cao của khu vực và thế giới. Báo cáo Triển vọng kinh tế thế giới của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) tháng 4-2024 cũng chỉ ra, Việt Nam là đại diện Đông Nam Á duy nhất lọt vào top 10 với dự báo tăng trưởng 6,4% từ năm 2024 đến 2029 và sẽ trải qua một giai đoạn tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, đặt đất nước vào hàng ngũ các nền kinh tế mới nổi có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.

Theo ông Paulo Medas, Trưởng đoàn Tham vấn và giám sát kinh tế vĩ mô Việt Nam của IMF, Việt Nam tiếp tục hội nhập và nền kinh tế đã thực sự phục hồi nhanh chóng trong nửa đầu năm 2024, sau giai đoạn khó khăn cuối năm 2022 và đầu năm 2023. Nền kinh tế Việt Nam đang phục hồi nhanh hơn dự kiến, một phần nhờ vào xuất khẩu mạnh và đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như hiệu quả từ những hành động của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, như việc cắt giảm lãi suất, gia tăng đầu tư công, tăng lương...

Còn theo báo cáo công bố tháng 4-2024 của Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam được giữ nguyên dự báo mà WB đã công bố đầu năm là sẽ tăng trưởng 5,5% GDP trong năm 2024 và tiếp tục nằm trong nhóm đầu thế giới về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Việt Nam là quốc gia có tiềm năng lớn, nằm trong số các quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao với tiềm năng tăng trưởng khoảng 8%.

Đặc biệt, những năm gần đây, cùng với duy trì tốc độ và động lực tăng trưởng ổn định, cân đối ngân sách nhà nước và dự trữ ngoại hối có nhiều cải thiện, liên tục vượt dự toán kế hoạch thu ngân sách nhà nước hằng năm và duy trì mức dự trữ ngoại hối cao; kiểm soát tốt nợ công và thâm hụt ngân sách nhà nước dưới mức Quốc hội cho phép. Bởi vậy, các tổ chức xếp hạng tín nhiệm uy tín thế giới liên tục duy trì mức tín nhiệm quốc gia của Việt Nam ở mức Ba2 (Moody’s ) hoặc BB+ (Fitch Ratings) với triển vọng chung là “Ổn định”. Trong đó, tổ chức xếp hạng tín nhiệm S&P Global Ratings (Mỹ) xếp hạng tín nhiệm quốc gia đối với Việt Nam trong dài hạn ở mức BB+ và trong ngắn hạn ở mức B. Triển vọng về xếp hạng tín nhiệm trong dài hạn là “Ổn định”.  

Những kết quả và triển vọng tăng trưởng kinh tế tích cực như nêu trên là minh chứng thuyết phục khẳng định và tiếp tục tạo nền tảng vững chắc cải thiện nguồn thu ngân sách nhà nước và thu nhập xã hội bảo đảm cho cuộc cải cách tiền lương thời gian tới ở Việt Nam thực sự dựa vào nguồn lực của chính mình và góp phần làm tăng nguồn nội lực đó...

Tiếp tục các giải pháp tăng lương bền vững

Chính phủ đã, đang và sẽ tiếp tục chuẩn bị kỹ lưỡng, thận trọng, chắc chắn, bài bản, khoa học để thực hiện cải cách chính sách tiền lương. Năm 2024, Quốc hội giao Chính phủ triển khai thực hiện các nội dung đã rõ, đủ điều kiện để thực hiện, gồm: Hoàn thiện chế độ nâng lương; bổ sung chế độ tiền thưởng; quy định nguồn kinh phí thực hiện chế độ tiền lương; hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương và thu nhập. Mới đây, ngày 30-6, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 73/2024/NĐ-CP quy định mức lương cơ sở và chế độ tiền thưởng đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ trang, trong đó đã hướng dẫn cụ thể nguồn kinh phí thực hiện việc tăng lương cơ sở...

Về trung và dài hạn, Quốc hội giao Chính phủ tiếp tục hoàn thành các nhiệm vụ đề ra cải cách tiền lương theo Nghị quyết số 27-NQ/TW, tập trung vào việc xây dựng các bảng lương và chế độ phụ cấp mới, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về các chế độ, chính sách gắn với mức lương cơ sở, vị trí việc làm trong hệ thống chính trị và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, bảo đảm tính khả thi, công bằng, hợp lý, tổng thể, phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội và nguồn lực của đất nước.

Theo Bộ Nội vụ, tính đến nay, Bộ trưởng Bộ Nội vụ và lãnh đạo các bộ, ngành đã ban hành 39 thông tư hướng dẫn và 100% bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành phê duyệt Đề án vị trí việc làm. Thời gian tới, các cơ quan chức năng sẽ tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng danh mục vị trí việc làm xã hội; bản mô tả công việc và khung năng lực của vị trí việc làm; tiếp tục rà soát tổng thể tất cả bảng lương và nghiên cứu, tính toán hài hòa vấn đề phụ cấp, khen thưởng và một số chế độ đặc thù của lực lượng vũ trang và của cán bộ, công chức, viên chức một số chuyên ngành (đặc biệt là phụ cấp theo nghề) mà trong quá trình thực hiện có phát sinh bất hợp lý.... Trên cơ sở đó tính toán nguồn lực và có giải pháp thực thi hiệu quả công tác quản lý nhà nước về tiền lương xã hội.

Tóm lại, việc tăng lương cho người lao động đang được triển khai theo chủ trương và lộ trình trung và dài hạn của Đảng, Nhà nước, Chính phủ; đồng thời, bám sát sự phát triển chung của nền kinh tế, phù hợp với các nguồn lực tài chính hiện có của đất nước. Việc tăng lương hay cải cách tiền lương là một sự quan tâm đặc biệt đến đời sống nhân dân trong quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhận được sự đồng thuận của nhân dân, đáp ứng được mong mỏi của người lao động, thể hiện tính nhất quán, tính ưu việt, nhân văn của chế độ ta...

Nghiên cứu xây dựng các chiến lược ngành trong Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

 

Để toàn quân triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 8, khóa XIII của Đảng về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) trong tình hình mới, một nhiệm vụ hết sức quan trọng là cần đẩy mạnh nghiên cứu, tham mưu xây dựng, hoàn thiện các chiến lược ngành trong Quân đội.

Muốn xây dựng các chiến lược ngành trong Quân đội đúng hướng, đạt kết quả tốt, trước hết cần nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của chiến lược ngành. Đó là tổng thể các quan điểm, mục tiêu, phương châm, chính sách, mưu lược của ngành được hoạch định trên cơ sở dự báo môi trường chiến lược, quy tụ các lực lượng, thực hiện các giải pháp chiến lược nhằm tạo ra trạng thái phát triển mới cho ngành bằng con đường có lợi nhất.

Trong tổ chức Quân đội có nhiều ngành: Tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật, công nghiệp quốc phòng, hải quân, không quân, công binh... Mỗi ngành có vị trí chiến lược, tầm quan trọng khác nhau, nhưng có mối liên hệ mật thiết, tác động lẫn nhau. Bất cứ sự biến động của ngành nào cũng đều ảnh hưởng nhất định đến ngành kia và ảnh hưởng đến chiến lược quốc gia, sức mạnh tổng hợp, khả năng chiến đấu của Quân đội.

Nghiên cứu xây dựng các chiến lược ngành trong Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Diễn tập phòng thủ dân sự ứng phó với siêu bão và tìm kiếm cứu nạn tại TP Hải Phòng, tháng 7-2023. Ảnh: QUANG THIỆN 

Xây dựng chiến lược ngành là đòi hỏi tất yếu, bởi đây là lý luận dẫn đường, “bản thiết kế” quan trọng, căn cứ, cơ sở khoa học để tổ chức thi công “công trình chuyên ngành” thắng lợi, với yêu cầu tạo cho ngành bước phát triển mới, bảo đảm đáp ứng tốt với nhiệm vụ quân sự, quốc phòng (QS, QP) đòi hỏi ngày càng cao. Xây dựng chiến lược ngành về QS, QP phải trên cơ sở Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, phù hợp với yêu cầu của chiến lược quốc gia.

Chiến lược quốc gia và chiến lược ngành (chuyên ngành) về QS, QP có mối quan hệ biện chứng, gắn bó chặt chẽ, thống nhất với nhau, là mối quan hệ giữa cái tổng thể với cái bộ phận. Chiến lược quốc gia là nền tảng của chiến lược ngành, nó xác định quan điểm, phương châm, nội dung chủ yếu của chiến lược ngành; chắt lọc những yếu tố cốt lõi của chiến lược bộ phận để bổ sung, hoàn chỉnh chiến lược quốc gia. Chiến lược ngành quán triệt và cụ thể hóa mục tiêu chiến lược quốc gia, thực hiện sự chỉ đạo và hoạt động đúng quỹ đạo của chiến lược quốc gia. Thực hiện chiến lược ngành là từng bước thực hiện chiến lược quốc gia. Mặt khác, chiến lược ngành cung cấp dữ liệu, bổ sung, hoàn thiện chiến lược quốc gia ngày càng khoa học, hiệu quả, sát thực hơn, đáp ứng sự nghiệp xây dựng Quân đội, củng cố quốc phòng, BVTQ trong tình hình mới.

Nghiên cứu xây dựng các chiến lược ngành trong Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Chiến sĩ Trung đoàn 893 (Bộ CHQS tỉnh Kiên Giang) thực hành bắn kiểm tra kỹ thuật. Ảnh: PHƯƠNG VŨ 

Xây dựng các chiến lược ngành trong Quân đội cần quán triệt, thực hiện tốt các yêu cầu, nội dung cơ bản sau: 

Một là, nắm chắc nội dung chủ yếu, nhất là nội dung mới của Chiến lược BVTQ, nhận diện rõ môi trường chiến lược, thiết kế mục tiêu, định hình lực lượng, định dạng giải pháp chiến lược phù hợp với từng ngành trong Quân đội.

Quán triệt sâu sắc 5 quan điểm của Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, trong đó, cần chú trọng quan điểm mới là: Dựa vào dân, “dân là gốc”, là trung tâm, chủ thể, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, yên dân là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp xây dựng, BVTQ và quan điểm “3 kiên” (kiên định, kiên quyết, kiên trì). Trên cơ sở quán triệt mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể, cần nắm chắc nội dung mới, như: Bảo vệ uy tín, vị thế quốc tế của đất nước, bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng; triệt tiêu các nhân tố gây mất ổn định chính trị từ bên trong, dập tắt nguy cơ xung đột quân sự, chiến tranh; nâng cao chất lượng xây dựng Đảng, đội ngũ cán bộ và hệ thống chính trị, kết hợp sức mạnh dân tộc, sức mạnh thời đại, sức mạnh của nhân dân, dân chủ xã hội chủ nghĩa, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc; tăng cường chuyển đổi số, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển đất nước toàn diện, nhanh, bền vững; xây dựng nền công nghiệp quốc phòng, an ninh chủ động, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, phát huy giá trị tốt đẹp truyền thống của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội và hội nhập quốc tế; thực hiện định hướng mới về xây dựng thế trận đối ngoại BVTQ.

Bên cạnh đó, nắm vững và cụ thể hóa 6 nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm về quốc phòng, an ninh, như: Chủ động nghiên cứu, đánh giá, dự báo đúng tình hình, kịp thời đề ra các chủ trương, đối sách xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ; chú trọng nghiên cứu, đề xuất và tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, giải pháp tổng thể, cơ bản, lâu dài ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột, mất an ninh trật tự từ sớm, từ xa, ngay từ cơ sở; đẩy mạnh nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển hệ thống lý luận, nghệ thuật quân sự Việt Nam thời kỳ mới...

Cùng với quán triệt, cụ thể hóa nội dung của Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, cần nhận diện rõ môi trường chiến lược, dự báo những tác động thường xuyên, trực tiếp đến mọi hoạt động của mỗi ngành trong khoảng thời gian từ 10 đến 20 năm hoặc nhiều hơn, chứ không phải chỉ trước mắt, hay một nhiệm kỳ. Nắm chắc thành tựu và hạn chế trong xây dựng Quân đội và ngành để xác định mục tiêu, nhiệm vụ, từ đó mới tạo ra trạng thái phát triển mới cho ngành bằng con đường có lợi nhất.

Muốn vậy, trước hết phải xác định mục tiêu chiến lược ngành, như mục tiêu cơ bản, dài hạn và mục tiêu trung hạn, ngắn hạn thích ứng với từng giai đoạn. Mỗi ngành có chức năng, nhiệm vụ riêng, nhưng đều là một khâu, một mắt xích quan trọng trong xây dựng Quân đội, BVTQ. Mục tiêu của ngành phải thống nhất và nhằm thực hiện mục tiêu quốc gia, đồng bộ với các chiến lược ngành khác trong Quân đội.

Về tập hợp, bố trí lực lượng chiến lược, cần xác định rõ lực lượng chính thức và lực lượng dự bị, trong nước và quốc tế. Xác định lực lượng chiến lược gồm cả huy động, sắp xếp nhân lực và vật lực nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu chiến lược của ngành. Do đó, cần lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng kế hoạch khoa học, tổ chức điều hành kiên quyết, linh hoạt.

Tập trung nghiên cứu, đề xuất các giải pháp chiến lược ngành phù hợp, gồm giải pháp căn bản, giải pháp tình thế, đột phá và các chính sách liên quan. Đây là vấn đề then chốt, giải pháp phù hợp, hiệu quả sẽ tạo ra diện mạo mới, đột phá về chất cho mỗi ngành, làm cho từng ngành có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, gọn nhẹ; trang bị, vũ khí, phương tiện hiện đại, thông minh; cán bộ, chiến sĩ có đủ phẩm chất, năng lực thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của ngành.

Hai là, phát huy sức mạnh tổng hợp để tổ chức nghiên cứu, xây dựng chiến lược ngành khoa học, khả thi.

Trong tổ chức bộ máy Quân đội có nhiều bộ phận, mỗi cơ quan đảm nhiệm chức năng tham mưu và giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ đối với một ngành, lĩnh vực. Sức mạnh của ngành là sức mạnh của cả hệ thống từ cấp chiến lược đến cấp cơ sở. Vì vậy, để xây dựng chiến lược ngành tối ưu, cần phát huy tốt sức mạnh tổng hợp, nòng cốt là cơ quan chiến lược đầu ngành. Căn cứ chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng; chức năng, nhiệm vụ, tiềm lực đất nước, Quân đội và yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ thời kỳ mới để tổ chức nghiên cứu, xây dựng chiến lược ngành phù hợp với định hướng của Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, đáp ứng yêu cầu cả hiện tại và tương lai.

Trong quá trình xây dựng chiến lược ngành, cần huy động tối đa trí tuệ của đội ngũ cán bộ, nhân viên trong toàn ngành và các cơ quan, đơn vị có liên quan để việc tham mưu hoạch định chiến lược đạt kết quả cao. Chú trọng sử dụng, phát huy vai trò của đội ngũ chuyên gia, những cán bộ có tầm tư duy chiến lược, tâm huyết, có kiến thức, kinh nghiệm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, đột phá, sáng tạo vì lợi ích chung. Cần có chính sách đãi ngộ thỏa đáng và cơ chế làm việc phù hợp để phát huy trí tuệ của đội ngũ này vào công tác tham mưu hoạch định chiến lược ngành một cách hiệu quả nhất.

Ba là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, quản lý chiến lược ngành về quân sự, quốc phòng.

Từ vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chiến lược về QS, QP; từ vai trò của chiến lược cấp quốc gia, cấp ngành; yêu cầu phát triển toàn diện và nâng cao sức mạnh tổng hợp, khả năng hoàn thành nhiệm vụ BVTQ của Quân đội, đặt ra sự cần thiết phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, quản lý chiến lược trong lĩnh vực QS, QP.

Để các ngành tham mưu xây dựng chiến lược đúng định hướng Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng thống nhất trong lãnh đạo, thực hiện công tác quản lý nhà nước đối với các chiến lược trong lĩnh vực QS, QP, có cơ sở bổ sung, hoàn thiện chiến lược cấp quốc gia; đồng thời giúp Bộ Quốc phòng tổ chức, điều hành tập trung, thống nhất, hiệu quả, khắc phục sự phân tán, biệt lập hoặc chệch hướng thì rất cần phải tổ chức quản lý chặt chẽ chiến lược ngành trong lĩnh vực QS, QP.

Theo đó, cần nghiên cứu các đề xuất về quan điểm lãnh đạo, quản lý chiến lược ngành trong Quân đội như sau: (1) Công tác quản lý chiến lược trong lĩnh vực QS, QP đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, mà thường xuyên, trực tiếp là Quân ủy Trung ương; sự quản lý, điều hành của Nhà nước, mà thường xuyên, trực tiếp là Bộ Quốc phòng. (2) Tổ chức quản lý chiến lược phải chặt chẽ, khoa học, đúng Hiến pháp, pháp luật và phù hợp với tính chất, đặc điểm QS, QP. (3) Hệ thống tổ chức quản lý chiến lược gọn nhẹ, thiết thực, hiệu quả; hình thành hệ thống tổ chức quản lý chiến lược nhưng không làm tăng biên chế mà vẫn bảo đảm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác và tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về QS, QP.

Trong thời kỳ mới, sự nghiệp BVTQ đứng trước cả thời cơ và nguy cơ. Từ sự thay đổi cục diện thế giới, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học-công nghệ, xuất hiện nhiều hình thái chiến tranh mới, không gian chiến lược mới... đòi hỏi các ngành trong Quân đội phải quán triệt sâu sắc Chiến lược BVTQ trong tình hình mới, đẩy mạnh nghiên cứu, tham mưu hoạch định các chiến lược ngành làm cơ sở lý luận, dẫn đường cho việc triển khai tổ chức thực hiện nhiệm vụ ngành và toàn quân, tạo bước phát triển mới cho mỗi ngành và sự phát triển đồng bộ, toàn diện của Quân đội, góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ BVTQ xã hội chủ nghĩa trong mọi tình huống.


Thúc đẩy hợp tác Việt-Nhật để phát huy hơn nữa đóng góp của Cộng đồng người Việt ở Nhật Bản

 

Trong khuôn khổ chuyến công tác tại Nhật Bản từ ngày 27 đến 31-7, đoàn công tác của Ban Dân vận Trung ương do ông Triệu Tài Vinh, Phó trưởng ban làm trưởng đoàn đã có các buổi làm việc với đại diện đảng Dân chủ Tự do (LDP) cầm quyền, Đảng Cộng sản Nhật Bản cũng như thăm và làm việc với cấp ủy Đảng Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản về công tác dân vận, qua đó phát huy hơn nữa đóng góp tích cực của Cộng đồng người Việt ở Nhật Bản.

Tại buổi làm việc với ông Suzuki Keisuke, Phó trưởng ban nghiên cứu chính sách của đảng LDP, Phó trưởng Ban Dân vận Trung ương Triệu Tài Vinh đã thông tin về các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cộng đồng người Việt Nam tại nước ngoài nói chung và Cộng đồng người Việt tại Nhật Bản nói riêng. Đồng thời có những trao đổi về kinh nghiệm của đảng LDP trong việc xây dựng giải pháp liên quan đến các vấn đề an sinh xã hội như ứng phó với tình trạng già hóa dân số, tỷ lệ sinh giảm tại Nhật Bản, bao gồm cách thức để nâng cao đóng góp của Cộng đồng người Việt tại Nhật Bản.

Thúc đẩy hợp tác Việt-Nhật để phát huy hơn nữa đóng góp của Cộng đồng người Việt ở Nhật Bản
 Đoàn công tác làm việc với đại diện Đảng Dân chủ Tự do Nhật Bản.

Về phần mình, ông Suzuki Keisuke đánh giá cao những đóng góp của Cộng đồng người Việt đối với sự phát triển kinh tế xã hội tại Nhật Bản, không chỉ những năm gần đây mà còn trong trung và dài hạn sắp tới, nhất là trong bối cảnh Nhật Bản đang thiếu nhiều lao động trên nhiều lĩnh vực.

Ông Suzuki Keisuke nhận định ngày càng nhiều doanh nghiệp Nhật Bản chọn Việt Nam là điểm đến đầu tư cũng như xu hướng phát triển mạnh mẽ của các doanh nghiệp Việt Nam tại Nhật Bản, do đó, hai Đảng, chính phủ hai nước cần tăng cường phối hợp cả về xây dựng chính sách và thúc đẩy giao lưu nhân dân.

Trước đó, Đoàn công tác cũng đã đến thăm trụ sở Đảng Cộng sản Nhật Bản và làm việc với Ban phong trào hòa bình quốc tế của Đảng Cộng sản Nhật Bản để trao đổi nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm về công tác nắm nhu cầu, nguyện vọng của người dân cũng như thúc đẩy hợp tác giữa hai đảng trong lĩnh vực văn hóa, dân tộc, tôn giáo.

Cũng trong khuôn khổ chuyến công tác, đoàn đã đến thăm, làm việc với cấp ủy Đảng và Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản, gặp gỡ trao đổi với đại diện của các hội đoàn người Việt Nam tại Nhật Bản để nắm tình hình cộng đồng, công tác tập hợp, đoàn kết, xây dựng và tổ chức hoạt động của các tổ chức hội đoàn quần chúng…


Anh Nguyễn Chánh, một con người, một cuộc đời mãi mãi sáng trong

 

LTS: Đồng chí Nguyễn Chánh sinh ngày 1-8-1914 tại thôn Thọ Lộc, xã Tịnh Hà, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi. Đồng chí là nhà lãnh đạo xuất sắc, một tướng quân mưu lược của Quân đội ta. Tuy quãng đời ngắn ngủi 43 năm nhưng đồng chí có gần 30 năm hoạt động cách mạng, đã cống hiến cho Đảng, cho Quân đội nhiều kinh nghiệm thực tiễn và lý luận quý báu, góp phần xứng đáng vào thắng lợi của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, đặc biệt là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở chiến trường Liên khu 5.

Nhân kỷ niệm 110 năm Ngày sinh đồng chí Nguyễn Chánh, Báo Quân đội nhân dân (QĐND) trích đăng bài viết của Đại tướng Nguyễn Quyết, nguyên Bí thư Trung ương Đảng, nguyên Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, nguyên Ủy viên Thường vụ Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương), nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam về đồng chí Nguyễn Chánh.

Vào cuối năm 1946, sau khi Ủy ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam giải thể, anh Chánh làm Ủy viên Chính trị kiêm Bí thư Quân khu ủy 5, tôi tham gia Quân khu ủy, được cử làm phái viên ở mặt trận Quảng Nam - Đà Nẵng.

Anh Nguyễn Chánh, một con người, một cuộc đời mãi mãi sáng trong

Đồng chí Nguyễn Chánh (thứ tư, từ trái sang) cùng các đồng chí Đảng ủy, Bộ chỉ huy Chiến dịch Trần Hưng Đạo (tháng 12-1950).

Trước khi lên đường, anh Chánh đã trao đổi với tôi về âm mưu địch, tình hình và nhiệm vụ của ta, về vị trí, nhiệm vụ của mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, những công việc cụ thể của phái viên và những vấn đề cần chú ý. Anh nhấn mạnh: Quảng Nam-Đà Nẵng là mặt trận chính của Quân khu 5. Trong trường hợp kháng chiến nổ ra, đây là bàn đạp chủ yếu của Pháp để tiến công vùng Nam Trung Bộ từ phía Bắc. Quân Pháp ở đây được trang bị hiện đại, là một lực lượng chiến lược quan trọng của đội quân xâm lược nhà nghề đang rất hung hăng, chủ quan, hết sức coi thường ta.

Vì vậy, nhiệm vụ cơ bản của quân và dân Quảng Nam-Đà Nẵng ngay từ đầu cuộc kháng chiến là phải tiêu hao, tiêu diệt một bộ phận quan trọng quân địch, phá hủy phương tiện chiến tranh, ghìm chân địch, bao vây không cho chúng phối hợp với các hướng từ Tây Nguyên xuống, từ Khánh Hòa ra, tiến công lấn chiếm vùng đất còn lại, hậu phương của cuộc kháng chiến ở Nam Trung Bộ. Để hoàn thành được nhiệm vụ nặng nề này, ta phải khẩn trương củng cố các Trung đoàn 96 và 93, đồng thời phải gấp rút xây dựng dân quân tự vệ rộng khắp.

Cần chú ý xây dựng cho được lực lượng chính trị và LLVT địa phương có đủ khả năng bám trụ trong khi bị địch đánh chiếm, đặc biệt là ở nội thành Đà Nẵng. Có lực lượng chặn đánh địch ở phía trước, lại có lực lượng đánh địch ở sau lưng chúng, buộc chúng phải ở vào thế luôn luôn bị uy hiếp. Anh đã có kinh nghiệm tổ chức lực lượng chính trị, LLVT trong nội thành Hà Nội, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa Tháng Tám. Đó là một kinh nghiệm quý, cần vận dụng và phát huy ở đây.

Một vấn đề quan trọng bậc nhất là phải dựa vào dân, phát động toàn quân, đứng lên kháng chiến. Muốn vậy, phải tổ chức cho được cơ sở chính trị, tổ chức lực lượng tự vệ. Đội du kích Ba Tơ sở dĩ phát triển vững mạnh và chiến thắng trong khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, một phần chủ yếu là do đã biết dựa vào dân, xây dựng căn cứ trong nhân dân và nhờ có đưa Đội du kích xuống đồng bằng, dựa vào dân nên mới nhanh chóng xây dựng được hàng vạn dân quân, du kích ở các thôn, xóm. Đó cũng là những kinh nghiệm có giá trị.

Cuộc kháng chiến sẽ còn dài. Vì vậy cần phải xây dựng căn cứ của tỉnh và cả cho từng huyện.

Việc trang bị cho dân và quân ta đánh giặc hiện nay là vấn đề khó khăn, nhưng ta phải hết sức chú trọng giải quyết, phải coi trọng cả vũ khí thô sơ. Một mặt, cần chuẩn bị máy móc, phương tiện để xây dựng các xưởng sản xuất vũ khí, chuẩn bị đưa máy móc từ nội thành ra căn cứ của tỉnh để làm việc này. Mặt khác, phải phát động phong trào "lấy súng địch để đánh địch". Có thế mới khắc phục được khó khăn hiện nay của ta để có thể tiến hành kháng chiến trong nhiều năm.

Anh Nguyễn Chánh, một con người, một cuộc đời mãi mãi sáng trong
Đồng chí Nguyễn Chánh (thứ hai, từ trái sang) cùng Đảng ủy Chiến dịch Thu-Đông 1949 họp bàn lãnh đạo tác chiến. Ảnh tư liệu 

Về cách đánh, cần phải ngăn chặn địch từng bước bằng việc xây dựng công sự, chiến hào, hình thành các tuyến chiến đấu. Không nên dàn "mành mành" như những ngày đầu kháng chiến ở một số nơi mà nên rút kinh nghiệm tác chiến ở Nha Trang; đồng thời đặc biệt coi trọng cách đánh phía sau lưng địch, vận dụng kết hợp chiến thuật phục kích, tập kích, đánh phá giao thông, bắn tỉa... kết hợp đánh địch ở phía sau với ngăn chặn địch ở chính diện. Phải linh hoạt không cứng nhắc...

Tiếng súng toàn quốc kháng chiến đã vang dậy. Mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, ngày đầu nổ súng chậm, Ủy ban Quân sự mặt trận đề nghị với Quân khu ủy cách chức đồng chí Trung đoàn trưởng và đề nghị đồng chí Nguyễn Bá Phát, Phó chỉ huy Ủy ban Quân sự thay. Anh Chánh hoan nghênh và đồng ý. Anh Chánh thương cán bộ nhưng rất nghiêm khắc trong khi thi hành nhiệm vụ. Nhờ đó mà kỷ luật chiến trường được giữ nghiêm, tinh thần chấp hành mệnh lệnh được triệt để hơn... Qua 6 tháng chiến đấu, Quảng Nam-Đà Nẵng đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Cuối tháng 6-1947, tôi về báo cáo tình hình mặt trận. Anh Chánh đã theo dõi sát tình hình nên buổi làm việc diễn ra nhẹ nhàng nhưng sâu sắc. Anh biểu dương và phấn khởi trước những thắng lợi của mặt trận chủ yếu, đồng thời anh cho tôi biết hướng Bình Định và Phú Yên đã hoàn thành tốt nhiệm vụ, chặn được cuộc tiến công của địch ra vùng tự do. Như vậy, qua 6 tháng chiến đấu, ta đã phá được kế hoạch của địch hòng mở rộng phạm vi chiếm đóng ra các tỉnh. Kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của địch đã bị phá sản một bước cơ bản ở miền Nam Trung Bộ...

Dừng lại một lát, với thái độ cởi mở, thông cảm, anh hỏi: Đồng chí có đề nghị gì không?

Tôi trình bày kiến nghị mà tập thể đã thống nhất trước khi tôi về gặp anh. Tôi nói: Trong tình hình thế này, chắc cuộc kháng chiến của ta không thể kết thúc nhanh được. Vấn đề đặt ra là muốn tiến hành kháng chiến thắng lợi phải duy trì và phát triển lực lượng. Muốn vậy, cần phải có lực lượng để thay phiên nhau chiến đấu và xây dựng. Các đơn vị ở mặt trận đã qua nửa năm chiến đấu gian khổ đầy ác liệt, hy sinh, cần được củng cố...

Đến đây hình như đã có giải pháp từ trước, anh nói ngay: Sẽ tăng cường cho Quảng Nam-Đà Nẵng, Trung đoàn 68 hiện đang làm nhiệm vụ phòng thủ Quảng Ngãi. Tôi nghe, vừa mừng, vừa cảm động muốn ứa nước mắt.

Việc đưa Trung đoàn 68 chủ lực của Quân khu ra tăng cường cho mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng, không chỉ là tăng số lượng, mà điều quan trọng hơn là tăng cường và củng cố ý chí quyết chiến, quyết thắng của quân và dân ta ở chiến trường, tăng thêm niềm tin vững chắc vào sự lãnh đạo và chỉ huy của cấp trên. Nhờ đó, mặt trận ngày càng được giữ vững, cuộc chiến đấu càng giành được thắng lợi hơn. Chính vì vậy, sau đó Trung đoàn 96 rút đi, mặt trận Quảng Nam-Đà Nẵng vẫn duy trì và phát triển vững chắc.

Từ tháng 4-1948, hai Trung đoàn 93 và 68 sáp nhập thành Trung đoàn 108, tôi làm Chính ủy, anh Nguyễn Bá Phát làm Trung đoàn trưởng. Anh Chánh thường trao đổi, cần hết sức quan tâm đến việc xây dựng các trung đoàn chủ lực cơ động mạnh thành quả đấm thép, có thế mới có thể làm thay đổi cục diện chiến trường, mới giành được thắng lợi quyết định trong chiến tranh. Muốn làm được việc đó, trung đoàn phải hết sức giúp đỡ địa phương xây dựng lực lượng đủ sức đảm đương nhiệm vụ tác chiến để trung đoàn có thể rút về làm lực lượng chủ lực cơ động của Liên khu.

Thực hiện ý định của anh, Quảng Nam-Đà Nẵng đã xây dựng được tiểu đoàn ở tỉnh, đại đội ở các huyện và đến tháng 5-1950, Trung đoàn chủ lực 108 đã rút về Liên khu. Như thế là ý định của anh đã được thực hiện, phong trào chiến tranh nhân dân ở Quảng Nam-Đà Nẵng ngày càng phát triển, và Trung đoàn chủ lực 108 và các đơn vị chủ lực khác của Liên khu cũng được phát triển lên một bước mới.

Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ Liên khu 5 cuối năm 1951, anh Chánh được bầu làm Bí thư Liên khu ủy và anh được bổ nhiệm làm Chính ủy kiêm Tư lệnh Liên khu 5. Trọng trách của anh thật to lớn và nặng nề. Là người vốn có lòng tin sâu sắc ở nhân dân, tin Đảng, tin tập thể đội ngũ cán bộ và tin ở bản thân, anh bình tĩnh tháo gỡ các khó khăn. Anh đặt vấn đề phải tìm nguyên nhân chủ yếu của những tồn tại và thiếu sót, trước hết là ở chủ quan, ở cấp lãnh đạo, ở người lãnh đạo. Người lãnh đạo phải tự kiểm điểm và tự nhận trách nhiệm trước nhất.

Trong chiến cục Đông-Xuân 1953-1954 ở Nam Trung Bộ, anh đã nắm vững và chỉ đạo thực hiện ý định chiến lược của Trung ương Đảng, của Bộ Tổng tư lệnh vào điều kiện chiến trường Liên khu một cách kiên định, sáng tạo, linh hoạt và quyết đoán.

Tôi nhớ, vào giữa năm 1953, trong cán bộ lãnh đạo và chỉ huy Liên khu 5, vấn đề đưa khối chủ lực tiến công lên Tây Nguyên đã được đặt ra trao đổi. Có nhiều ý kiến khác nhau. Từ khi có chỉ thị của Bộ thì vấn đề này đã trở thành thắc mắc chủ yếu trong Đảng, trong Quân đội, nhất là trong cán bộ, kể cả cán bộ lãnh đạo. Điều này không phải không có căn cứ, vì lúc đó, thực dân Pháp đang tập trung một lực lượng lớn hòng đánh chiếm vùng tự do theo kế hoạch Atlante của tướng Navarre, Tổng chỉ huy quân Pháp ở Đông Dương.

Anh Chánh quán triệt ý định của trên, thấy rõ tầm chiến lược đặc biệt quan trọng của Tây Nguyên nên trước sau hết sức kiên định quyết tâm tiến công lên Tây Nguyên, làm chuyển biến cục diện chiến tranh, giành chủ động chiến lược trên toàn bộ chiến trường. Đồng thời với việc đưa khối chủ lực tiến công lên Tây Nguyên, Liên khu ủy và Bộ tư lệnh Liên khu 5 đã động viên quân và dân vùng tự do kiên quyết chặn đứng cuộc tiến công lấn chiếm của địch, bảo vệ vùng tự do. Nếu địch đánh ra vùng tự do, ta ghìm lại rồi sẽ tiêu diệt.

Thực hiện phương châm "tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu" về mặt chiến lược, ta tập trung khối chủ lực tiến công lên Tây Nguyên là chiến trường đã được chuẩn bị, quân địch có nhiều sơ hở, là nơi yếu của địch. Đồng thời ta sử dụng lực lượng địa phương chặn đánh tập đoàn tiến công ra vùng tự do là lực lượng chiến lược mạnh của địch. Khi đã chiếm được Tây Nguyên, giành chủ động, thế ta đã vững, thì chỗ nào và quân địch nào ta cũng sẽ đánh được. Nhưng khi cần, ta cũng kiên quyết tập trung lực lượng tiêu diệt một số cứ điểm mạnh để phá thế địch, phát triển thế ta... Trong cuộc quyết đấu đó, ta đã toàn thắng rực rỡ.

Đây rõ ràng không chỉ là đấu lực mà chủ yếu là đấu trí giữa hai bộ óc của ta và địch. Là Tư lệnh kiêm Chính ủy chiến dịch Tây Nguyên, anh đã cùng tập thể Đảng ủy và Bộ Tư lệnh chiến dịch hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ trên hướng chiến lược quan trọng này, và đã góp phần quyết định vào thắng lợi đó...

Ngày 24-9-1957, ngày anh Chánh (bấy giờ là Chủ nhiệm Tổng cục Cán bộ) hẹn xuống làm việc với tôi (lúc ấy tôi làm Chính ủy Quân khu Tả Ngạn) lại chính là ngày anh ra đi, đi mãi!

Anh ra đi, giữa tuổi 43, đang sung sức và đầy hứa hẹn, giữa lòng tiếc thương vô hạn của nhân dân, của đồng chí, đồng đội và cả của bạn bè quốc tế.

Anh Chánh, một con người, một cuộc đời mãi mãi sáng trong, người anh hùng đã một thời oanh liệt của khúc ruột miền Trung kiên cường và bất khuất.

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống ngành tuyên giáo của Đảng (1-8-1930 / 1-8-2024): Cần thêm nguồn lực cho công tác tuyên giáo

 

Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nêu rõ:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”. Đây là quan điểm xuyên suốt trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với công tác tuyên giáo (CTTG); cũng là đòi hỏi cấp bách, cần kíp từ thực tiễn.

Trong suốt 94 năm qua, CTTG của Đảng không ngừng đổi mới, sáng tạo, thực hiện tốt vai trò quan trọng trong tham mưu cho cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức; tuyên truyền, bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; tập trung tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung, phát triển lý luận, nhất là các vấn đề lý luận mới nảy sinh để góp phần tổng kết những vấn đề lý luận và thực tiễn trong gần 40 năm đổi mới đất nước, từng bước hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng; đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch; định hướng và ổn định tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống ngành tuyên giáo của Đảng (1-8-1930 / 1-8-2024): Cần thêm nguồn lực cho công tác tuyên giáo
Ảnh minh họa: daklak.gov.vn 

Tuy nhiên, CTTG cũng gặp không ít khó khăn, vướng mắc, hạn chế, đòi hỏi các cấp, ngành cần quan tâm đầu tư thêm nguồn lực cho CTTG của Đảng trong tình hình mới, trong đó nổi lên là các nguồn lực về ngân sách, con người và trang bị kỹ thuật. Qua khảo sát ở một số địa phương như: Hà Nội, Yên Bái, Nghệ An, Quảng Bình... đội ngũ cán bộ các cấp bày tỏ trăn trở đối với nguồn ngân sách bảo đảm để ngành tuyên giáo hoạt động thuận tiện, hiệu quả trong tình hình mới. Thực tiễn, trước tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình thế giới và khu vực đặt ra yêu cầu cấp thiết phải nâng cao hiệu quả CTTG, đặc biệt là công tác định hướng dư luận, ổn định tình hình tư tưởng trong cán bộ, đảng viên và nhân dân; đấu tranh đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực, nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Đảng, Nhà nước.

Thế nhưng, thời gian qua, cấp ủy ở nhiều địa phương mặc định dành ngân sách ưu tiên cho phát triển cơ sở hạ tầng; các đề án kinh tế... còn các vấn đề nắm bắt dư luận xã hội, định hướng tư tưởng, giải quyết tư tưởng, tâm lý xã hội và nhiều nội dung của CTTG khi đề xuất phân bổ ngân sách thường ít được cấp ủy các cấp quan tâm một cách thấu đáo, triệt để và nhất là chưa có sự ưu tiên. Cho nên, ngân sách cho CTTG chưa tương xứng với đòi hỏi thực tiễn, đặc biệt là ở cấp cơ sở gặp rất nhiều khó khăn. Cán bộ, đảng viên ở nhiều địa phương cho rằng, từng cấp ủy, nhất là người đứng đầu các cấp cần nghiêm túc nhìn nhận lại vấn đề, quyết liệt lãnh đạo, chỉ đạo dành nhiều sự quan tâm hơn nữa, ưu tiên các nguồn lực, phân bổ ngân sách cho các nhiệm vụ, các lĩnh vực hoạt động của CTTG.

Trước hết, cần ưu tiên nguồn ngân sách để “số hóa” CTTG nói chung, công tác tư tưởng nói riêng. Khi khảo sát ở các địa phương, chúng tôi ghi nhận sự tích cực trong ứng dụng công nghệ thông tin, các nền tảng mạng xã hội của đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp như ở các tỉnh Nghệ An, Thanh Hóa, Quảng Bình... có các mô hình: Lập nhóm Zalo trao đổi thông tin giữa tỉnh với huyện; huyện với cơ sở; ban tuyên giáo các huyện ủy, thị ủy cơ bản đều có các trang fanpage để tuyên truyền chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cập nhật những thông tin mới ở địa phương.

Vì dựa trên các nền tảng mạng xã hội nên những thông tin chia sẻ, trao đổi, định hướng có các hạn chế nhất định, nhiều thông tin nhạy cảm không thể chia sẻ; các trang fanpage nội dung đơn điệu, ít lượt tương tác vì không có nguồn kinh phí bảo đảm để trả cho các nền tảng mạng xã hội nên thông tin không được hiển thị ưu tiên, do đó, hiệu quả tuyên truyền, định hướng rất hạn chế. Mặt khác, phần lớn cán bộ tuyên giáo dùng các thiết bị cá nhân, chưa được trang bị phương tiện đồng bộ theo hướng hiện đại; đa phần cán bộ yếu về kiến thức công nghệ thông tin, khả năng phân tích, xử lý tư tưởng, tâm lý, dư luận xã hội trên không gian mạng còn hạn chế... ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả tuyên truyền, định hướng dư luận trong nhân dân.

Lãnh đạo ở nhiều địa phương cho rằng: Ngành tuyên giáo mới chỉ bước đầu thực hiện chuyển đổi số trong CTTG, chưa xây dựng và áp dụng được nhiều các quy trình, phần mềm chuyên dùng trong ngành. Mặt khác, việc chuyển đổi số, áp dụng công nghệ thông tin trong ngành tuyên giáo đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ Trung ương đến địa phương, việc này khó nhưng không thể không làm và cần một nguồn ngân sách bảo đảm đầy đủ, kịp thời. Ngành tuyên giáo cần sớm hiện đại hóa hoạt động trong tất cả lĩnh vực để đổi mới, nâng cao chất lượng và hiệu quả, góp phần phát triển kinh tế-xã hội và giải quyết những vấn đề bức xúc của nhân dân, tạo sự thống nhất cao trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.

Một vấn đề căn cốt đối với ngành tuyên giáo hiện nay cần được cấp ủy, người đứng đầu các cấp quan tâm là xây dựng đội ngũ cán bộ làm CTTG vững vàng về trình độ chuyên môn, chuyên nghiệp, năng động, sáng tạo; có phẩm chất đạo đức trong sáng; có khả năng tham mưu tổng hợp, thẩm định, tổ chức, chủ trì hoạt động nghiên cứu khoa học; có kỹ năng ứng dụng thành tựu cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; có năng lực làm việc trong môi trường quốc tế; từng bước hình thành đội ngũ chuyên gia giỏi trong lĩnh vực tuyên giáo. 

Điều này đòi hỏi các cơ quan chức năng cần nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các quy định về chức năng, nhiệm vụ, chế độ thông tin, chế độ phát ngôn, chế độ đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ... của lĩnh vực tuyên giáo. Hoàn thiện chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ CTTG; chú trọng cập nhật các ứng dụng của công nghệ thông tin áp dụng vào ngành tuyên giáo; trang bị kỹ năng nắm bắt, xử lý những vấn đề dư luận xã hội quan tâm trên không gian mạng cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp, đặc biệt là ở cơ sở. Cùng với đó, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm nghiên cứu, bổ sung các chế độ, chính sách thụ hưởng thỏa đáng cho cán bộ tuyên giáo, đặc biệt là cấp cơ sở, giúp họ yêu nghề, toàn tâm toàn ý với cương vị, chức trách được giao.  

Với tầm quan trọng như vậy, đòi hỏi các cấp ủy, hệ thống chính trị phải nâng cao nhận thức, đổi mới tư duy về việc quan tâm, đầu tư các nguồn lực, nhất là ngân sách và con người cho hoạt động CTTG ở các cấp, đặc biệt là ở cơ sở, để tương xứng với vai trò, vị trí, yêu cầu nhiệm vụ của CTTG và ngành tuyên giáo trong tình hình mới.