Trong suốt bề dày truyền thống lịch sử Việt Nam, vai trò của quần chúng nhân dân luôn được đề cao, thể hiện ở các tư tưởng “dĩ nông vi bản”, “dĩ dân vi bản”, “chở thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Sau này, trong toàn bộ di sản tư tưởng cũng như thực tiễn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn thể hiện rõ quan điểm “lấy dân làm gốc”. Đây là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam định ra đường lối chiến lược, lãnh đạo cách mạng giành chính quyền, bảo vệ chế độ, giữ vững độc lập, chủ quyền; là cơ sở lý luận để Đảng xây dựng, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong tiến trình lịch sử.
Tiếp nối tư tưởng “dân làm gốc” trong lịch sử dân tộc, toàn bộ di
sản tư tưởng cũng như thực tiễn hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn thể hiện rõ quan điểm này. Theo Người, biểu hiện của “dân làm gốc” là phải
biết tin ở dân, gần gũi với dân, kính trọng dân và biết dựa vào dân. Phải nhận
thức rõ dân chúng rất khôn khéo, rất hăng hái, rất anh hùng: “có lực lượng dân
chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm
cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không
ra”(1). Người cho rằng: “...cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải
việc một hai người”(2) và xác định: Lực lượng chính trong cuộc kháng chiến,
kiến quốc là nhân dân. Chính vì vậy, ngay sau khi ra đời, trong Cương lĩnh
chính trị đầu tiên, Đảng xác định lực lượng cách mạng là toàn thể quần chúng
nhân dân. Trong đó, giai cấp công - nông là nòng cốt của cách mạng, học trò,
nhà buôn, điền chủ nhỏ là bầu bạn của công - nông. Điều này khẳng định sức mạnh
của Đảng được xây dựng trên nền nhân dân, nhân dân là chỗ dựa của Đảng. Đường
lối đúng đắn này là ngọn cờ tập hợp đông đảo quần chúng tham gia và làm nên
thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Đến khi đất nước giành được độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(3) và do
vậy “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính
quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra... Nói tóm lại, quyền hành và
lực lượng đều ở nơi dân” (4). Bên cạnh việc đề cao vai trò, ý nghĩa của việc
thực hiện dân chủ thì trách nhiệm, nghĩa vụ làm chủ của mỗi người dân cũng được
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh. Người chỉ rõ: “Công việc đổi mới, xây dựng là
trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân”
(5). Điều này có nghĩa là, dân chủ không chỉ bao hàm mỗi quyền lợi, lợi ích
chính đáng của dân, mà đi liền với nó, còn là phương diện nghĩa vụ và trách
nhiệm của dân. Người lưu ý, “sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc” và “công việc
đổi mới, xây dựng” đều thuộc trách nhiệm, công việc của dân, tức là do dân làm
chủ. “Quyền làm chủ” và “trách nhiệm làm chủ” của nhân dân là hai nội dung quan
trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ. Nhân dân có quyền làm chủ, thì
phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân. Trong
nhiều bài nói, bài viết, Hồ Chí Minh luôn thể hiện, quán triệt cả hai phương
diện ấy khi bàn về dân chủ. Người viết: “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân
dân, chuyên chính là cái khóa, cái cửa đề phòng kẻ phá hoại, nếu hòm không có
khóa, nhà không có cửa thì sẽ mất cắp hết... Thế thì dân chủ cũng cần phải có
chuyên chính để giữ gìn lấy dân chủ” (6).
Quan điểm “lấy dân làm gốc” của Đảng
Trong tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đấu tranh giành độc
lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước phát triển và cụ thể hóa tư tưởng đó
vào trong các giai đoạn của cách mạng Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và
Bác Hồ, việc giữ dân, giành dân, an dân và đặc biệt là việc lấy “dân làm gốc”
có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự nghiệp cách mạng và sự bền vững của chế
độ.
Trong thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, đường lối phát động cuộc
chiến tranh nhân dân thể hiện tư tưởng đề cao vai trò của quần chúng nhân dân,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc
tạo nên sức mạnh to lớn để chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong công cuộc đổi mới theo
định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục quán triệt quan điểm lấy “dân làm
gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân. Xuyên suốt các nhiệm kỳ Đại
hội Đảng, Đảng ta luôn đề cao bài học này. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, một trong bốn bài học lớn được Đảng ta rút ra là, trong toàn bộ hoạt
động của mình “Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và
phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động"; "Bài học “cách
mạng là sự nghiệp của quần chúng”, trước đây rất quan trọng, bây giờ càng quan
trọng; đó là bài học vô giá của cách mạng nước ta”.
Bài học này tiếp tục được quán triệt sâu sắc trong các kỳ Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tiếp tục khẳng định: “Đổi mới phải dựa vào
nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, phù hợp với thực tiễn, luôn luôn sáng tạo”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đề cao bài học: “Đổi mới phải vì lợi ích
của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân
dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới”. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI nhấn mạnh bài học: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân”. “Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn
bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của
nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân”. Tiếp tục
phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong quá trình xây dựng đất nước, Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng (2016) khẳng định, đoàn kết toàn dân tộc là
đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là động lực và nguồn lực to lớn
trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với ý nghĩa như vậy, vai trò và vị trí của
nhân dân tiếp tục được coi trọng và thể hiện sự gắn bó mật thiết giữa Đảng và
Nhân dân.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng (2021), Báo
cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XII nêu rõ: Trong mọi công
việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân làm
gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên
trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân thụ
hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống,
nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của
nhân dân làm mục tiêu phấn đấu. Thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với
Nhân dân, dựa vào Nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của
Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là quan điểm nhất
quán, xuyên suốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Từ quan điểm nhất
quán này, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã thể hiện tầm nhìn
chiến lược, những quyết sách mạnh mẽ hướng đến việc phát huy sức mạnh của thế
trận lòng dân, nâng cao niềm tin son sắt của nhân dân, tạo sự đồng thuận trong
xã hội. Đây chính là động lực to lớn, mang tính quyết định của cách mạng.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà Đại hội XIII xác định để
thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển của nhiệm kỳ mới và cả những giai đoạn
tiếp theo, đó là: Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; phát huy giá trị
văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam nhằm hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước
phát triển phồn thịnh. Đó là việc tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực
hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), bảo đảm tất cả quyền lực đều thuộc
về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện,
đặc biệt là dân chủ cơ sở theo tinh thần “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Thực tế thì dân không chỉ được biết, được
bàn, được làm, được kiểm tra và giám sát. Cái đích cuối cùng và cũng là thước
đo hiệu quả của mọi chủ trương, quyết sách đó còn là những thành quả mà nhân
dân được thụ hưởng. Đây là bước tiến mới trong việc phát huy vai trò làm chủ
của nhân dân. Những chính sách về phát triển kinh tế, văn hóa, giáo dục - đào
tạo được hoàn thiện đồng bộ, bảo đảm để mọi người dân đều được thụ hưởng một
cách công bằng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, vấn đề xây dựng,
chỉnh đốn Đảng tiếp tục được đề cập và quán triệt một cách sâu sắc. Đây cũng
được coi là thước đo vì dân để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh
việc tiếp tục xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, Đại hội XIII chú
trọng các nội dung, giải pháp tập trung xây dựng Đảng về đạo đức. Cán bộ, đảng
viên phải có quan điểm, lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo
đức, vai trò tiên phong, gương mẫu trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ. Để xây
dựng mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, Đại hội XIII đã cụ thể
hóa, hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” bằng
việc phát huy vai trò giám sát, đánh giá của Nhân dân trong xây dựng Đảng, Nhà
nước. Đại hội chỉ rõ: Lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân
dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng
cán bộ, đảng viên.
Phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc đáp ứng yêu cầu thực tiễn
Để hiện thực hóa bài học “dân là gốc”, “dân là trung tâm” và phát
huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong tình hình mới, xin gợi mở, đề xuất một
số nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, phát
huy bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”, khi ban hành các chủ trương,
đường lối, nghị quyết của Đảng đều phải xuất phát từ lợi ích của nhân dân; tôn
trọng và lấy ý kiến đóng góp của nhân dân và đánh giá tác động của nghị quyết
đến đời sống của Nhân dân. Với cơ chế: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân
dân làm chủ”. Do đó, mọi chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, nhất là
những chủ trương, đường lối có liên quan mật thiết đến đời sống nhân dân không
những phải lấy ý kiến đóng góp của Nhân dân mà còn phải được Nhà nước thể chế
hóa, cụ thể hóa thành chiến lược, chương trình, chế độ, chính sách, thành văn
bản pháp luật. Những văn bản được Nhà nước thể chế hóa đó có thực sự phát huy
quyền làm chủ, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân…. Đó là
những thước đo quan trọng đánh giá sự quan tâm và mức độ chăm lo của Đảng, Nhà
nước đối với Nhân dân.
Hai là, tăng cường dân chủ trực tiếp
và dân chủ đại diện. Trong điều kiện một đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo xây dựng
Nhà nước trong sạch, vững mạnh là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của
Đảng. Điều 2 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 khẳng
định: “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân”. Chính Nhân dân là chủ
nhân của Nhà nước, mọi quyền lực của Nhà nước đều là quyền lực của Nhân dân,
thuộc về Nhân dân. Điều 3 Hiến pháp quy định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy
quyền làm chủ của Nhân dân, công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện
phát triển toàn diện”. Điều 6 Hiến pháp cũng chỉ rõ: “Nhân dân thực hiện quyền
lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội,
Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước”.
Yêu cầu trên đòi hỏi các cơ quan quyền lực của Nhà nước phải do
dân bầu cử dân chủ để lập ra. Các đại biểu Quốc hội và đại biểu hội đồng nhân
dân phải thực sự là những người tiêu biểu, có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ
mọi mặt, xứng đáng đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Các cơ quan
nhà nước thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình chính là vì nhân dân phục
vụ, qua đó góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân với Đảng, Nhà nước.
Ba là, thật sự tôn trọng và phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của nhân dân. Đây
là một trong những tiêu chí quan trọng trong thực hiện và phát huy bài học “Dân
là gốc”, “Dân là trung tâm”... Quyền làm chủ của nhân dân được Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định, trong đó có quyền được ứng cử, bầu
cử các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước (quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp);
nhân dân (cử tri) có quyền bãi nhiệm đại biểu quốc hội và đại biểu HĐND các cấp
khi đại biểu đó không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân; quyền được
thông tin (được cụ thể trong Luật thực hiện dân chủ ở cơ sở) và quyền được nói
lên ý kiến của mình (dân được bàn). Quyền này đòi hỏi người dân được tham gia
thảo luận, bàn bạc và quyết định các công việc liên quan đến đời sống của nhân
dân. Người dân có quyền khiếu nại, tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về
những việc làm sai trái pháp luật.
Quyền được lao động, sản xuất, kinh doanh (dân được làm): Theo quy
định của pháp luật, Đảng và Nhà nước khuyến khích người dân được làm những gì
mà pháp luật không cấm như học tập, lao động, sản xuất, kinh doanh, phát minh,
sáng chế, sáng tác, phê bình văn học nghệ thuật, vv… Quyền được kiểm tra, giám
sát (dân được kiểm tra, giám sát): Với quan điểm dân là chủ, mọi quyền lực nhà
nước đều ở nơi dân. Dân có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của bộ máy nhà
nước, giám sát hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những hoạt động
liên quan trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Mức độ, phạm vi
lĩnh vực hoạt động, hình thức, phương pháp nhân dân thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát thể hiện mức độ phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân. Quyền
được hưởng (dân được hưởng): Chế độ ta là chế độ dân chủ, nhà nước ta là nhà
nước của dân, do dân và vì dân. Vì thế, dân có quyền được hưởng thụ thành quả
lao động của mình, thành quả của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo
quy định của pháp luật.
Bốn là, tập trung phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Mục tiêu, lý tưởng của
Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội. Do đó, việc thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người
dân là một trong những việc làm rất quan trọng để củng cố, tăng cường niềm tin
giữa Nhân dân với Đảng, Nhà nước, phát huy hiệu quả thiết thực trong
thực hiện bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung tâm”, phát huy sức mạnh đại đoàn
kết dân tộc trong tình hình mới.
Năm là, xây dựng lòng tin của Nhân
dân đối với Đảng và chế độ trong thực hiện bài học “Dân là gốc”, “Dân là trung
tâm” trong tình hình mới. Lòng tin của Nhân dân đối với Đảng với chính quyền là
điều kiện quan trọng quyết định sự tồn vong của một chế độ. Ngay từ khi mới ra
đời và trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giành chính quyền, kháng chiến,
kiến quốc, mặc dù đời sống của đại bộ phận nhân dân rất nhiều khó khăn, thiếu
thốn, kể cả hy sinh xương máu cho cách mạng, cho độc lập dân tộc nhưng Nhân dân
ta vẫn một lòng theo Đảng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. Niềm
tin đó được xây đắp bền chặt, gắn bó mật thiết giữa Dân với Đảng, Đảng hy sinh,
phấn đấu cho hạnh phúc của Nhân dân, cho độc lập, tự do của Tổ quốc.
Niềm tin của Nhân dân đối với Đảng hiện nay thể hiện trên nhiều
phương diện: trước hết là tích cực thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; quan tâm, thường xuyên tham gia góp ý
kiến xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền các cấp; hưởng ứng các cuộc bầu cử đại
biểu quốc hội, hội đồng nhân dân các cấp với tỷ lệ đi bầu rất cao; tham gia
giám sát việc tu dưỡng, rèn luyện, nêu gương của cán bộ, đảng viên, công chức,
nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp,vv…Niềm tin của nhân dân đối
với Đảng sẽ được tiếp tục củng cố, tăng cường khi cán bộ, đảng viên, công chức
trong cả hệ thống chính trị tiên phong, gương mẫu, hết mình cống hiến vì lợi
ích của Nhân dân; khi Đảng lãnh đạo có hiệu quả cuộc phòng, chống tham nhũng, lãng
phí, tiêu cực, khi những bức xúc, kiến nghị chính đáng của người dân được giải
quyết kịp thời.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét