Thứ Bảy, 3 tháng 8, 2024

Ý nghĩa và những bài học lịch sử của Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954

Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam không chỉ là mốc son quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, mà còn là sự kiện có ý nghĩa lịch sử, là thành quả của “trận đánh” lớn đầu tiên trên vũ đài quốc tế của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Bảy mươi năm đã trôi qua, tình hình quốc tế và khu vực có nhiều thay đổi, song ý nghĩa và những bài học từ Hội nghị lịch sử này vẫn vẹn nguyên giá trị.

Ngày 4-5-1954, Phái đoàn ngoại giao Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, do Phó Thủ tướng Chính phủ Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn, đến Geneva (Thụy Sĩ) tham dự Hội nghị Geneva về Đông Dương, sau những diễn biến tích cực về chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam tại Chiến dịch Điện Biên Phủ_Ảnh: Tư liệu TTXVN

Bối cảnh dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ và ý đồ của các bên

Bối cảnh quốc tế

Vào những năm 50 của thế kỷ XX, nhằm thực hiện chiến lược toàn cầu “ngăn  chặn chủ nghĩa cộng sản”, chủ nghĩa đế quốc - đứng đầu là đế quốc Mỹ - đã đẩy mạnh chiến lược quân sự “trả đũa ồ ạt” và chính sách ngoại giao “bên miệng hố chiến tranh”, để bao vây Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa, ngăn chặn sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, đàn áp phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới.

Sau thành công của cách mạng Trung Quốc năm 1949, so sánh tương quan lực lượng trên thế giới phần nào có lợi cho các lực lượng cách mạng. Phe xã hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu, với liên minh Liên Xô - Trung Quốc làm nòng cốt, được củng cố. Hai nước đẩy mạnh phát triển kinh tế theo kế hoạch dài hạn.

Phe xã hội chủ nghĩa đoàn kết, nhất trí giương cao ngọn cờ chống đế quốc, bảo vệ hòa bình thế giới và ủng hộ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc. Xu hướng trung lập tích cực không tham gia các liên minh quân sự của Mỹ và phương Tây được đẩy mạnh.

Chiến tranh lạnh do Mỹ phát động nhằm chống Liên Xô bước vào giai đoạn phát triển cao. Hai phe đều coi trọng tập hợp lực lượng và đấu tranh với nhau quyết liệt. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, hai phe lại đi vào hòa hoãn. Chiến tranh Triều Tiên (1950 - 1953) là một trong những cuộc chiến tranh lớn, khốc liệt, có nhiều nước tham gia nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đồng thời là kết quả của tình trạng căng thẳng giữa hai phe trong Chiến tranh lạnh. Ngày 27-11-1953, hiệp định ngừng bắn được ký kết ở Bàn Môn Điếm - ngôi làng nằm giữa biên giới Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên và Hàn Quốc - quy định trở lại nguyên trạng Khu phi quân sự liên Triều (DMZ) ngăn cách hai miền Triều Tiên và trao trả tù binh tại vĩ tuyến 38.

Chiến tranh Triều Tiên kết thúc cho thấy các cuộc xung đột quân sự ở Viễn Đông có thể giải quyết được bằng con đường chính trị, đó là xu thế hòa hoãn giữa các cường quốc. Ngày 25-1-1954, tại khu vực do Mỹ kiểm soát ở Thủ đô Béc-lin (Đức), diễn ra Hội nghị bốn bên giữa Anh, Pháp, Mỹ và Liên Xô, nhằm giải quyết việc thống nhất nước Đức, vấn đề nước Áo. Đây là cuộc gặp đầu tiên giữa các nước lớn kể từ năm 1949. Ngày 18-2-1954, hội nghị kết thúc mà không đạt được thỏa thuận nào về hai vấn đề trên. Tuy nhiên, bốn nước đã nhất trí triệu tập một hội nghị tại Thủ đô Giơ-ne-vơ (Thụy Sĩ) về vấn đề Triều Tiên và Đông Dương.

Tình hình trên chiến trường

Tại Đông Dương, sau Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông năm 1947, Chiến dịch Biên giới Thu - Đông năm 1950, Chiến dịch Tây Bắc năm 1952..., ta ngày càng khẳng định được thế chủ động chiến lược, nhất là trên chiến trường miền Bắc. Mặc dù được sự can thiệp, hỗ trợ của Mỹ, quân Pháp vẫn tiếp tục lún sâu vào thế bị động, sa lầy, đứng trước những thất bại to lớn. Để cải thiện tình hình, Pháp đề ra Kế hoạch Na-va (tháng 7-1953) với hy vọng giành lấy một thắng lợi quân sự quyết định trong vòng 18 tháng, buộc Việt Nam thương lượng theo điều kiện của Pháp. Tuy nhiên, quân và dân ta càng đánh càng mạnh, nắm vững quyền chủ động trên các chiến trường. Sau những thất bại về quân sự, cục diện chiến trường diễn biến theo chiều hướng bất lợi cho quân Pháp, buộc thực dân Pháp thay đổi kế hoạch, xây dựng tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ ở Tây Bắc Việt Nam. Điện Biên Phủ được coi là cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, “pháo đài quân sự bất khả xâm phạm”, sẵn sàng “nghiền nát” lực lượng bộ đội chủ lực của Việt Nam.

Trong bối cảnh lịch sử phức tạp lúc đó, trên cơ sở dự đoán chính xác âm mưu của thực dân Pháp, phân tích so sánh lực lượng giữa ta và địch và khả năng diễn biến của chiến tranh, Bộ Chính trị đã họp và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Trải qua 56 ngày đêm chiến đấu, hy sinh gian khổ, chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ kết thúc với thắng lợi hoàn toàn thuộc về nhân dân Việt Nam.

Quan điểm của Việt Nam

Ngay từ trước khi bước vào Chiến dịch Điện Biên Phủ, ngày 26-11-1953, trả lời phỏng vấn báo Expressen của Thụy Điển, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố: “Nếu Chính phủ Pháp đã rút được bài học trong cuộc chiến tranh mấy năm nay, muốn đi đến đình chiến ở Việt Nam bằng cách thương lượng và giải quyết vấn đề Việt Nam theo lối hòa bình thì nhân dân và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sẵn sàng tiếp ý muốn đó... Cơ sở của việc đình chiến ở Việt Nam là Chính phủ Pháp thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam”(1).

Quan điểm của Pháp

Chiến tranh kéo dài khiến tình hình kinh tế - xã hội Pháp ngày càng gặp khó khăn; phong trào nhân dân Pháp chống chiến tranh phát triển mạnh mẽ, lan rộng, làm rung chuyển dữ dội nội bộ xã hội và dân tình nước Pháp(2); cùng lúc đó, Đảng Cộng sản Pháp giành thắng lợi lớn trong cuộc bầu cử Quốc hội nước này. Giới cầm quyền Pháp cũng phân hóa thành hai phái: phái chủ hòa và phái chủ chiến. Ngày 20-10-1953, Quốc hội Pháp thảo luận về vấn đề Đông Dương. Nhiều nghị sĩ trong Quốc hội Pháp đã yêu cầu Chính phủ Pháp đàm phán ngay với Chính phủ Việt Nam, khiến Thủ tướng Pháp Giô-xép La-ni-en (Joseph Laniel) phải tuyên bố sẽ nghiên cứu về mọi đề nghị của Việt Nam, không từ chối thương lượng. Trong tình hình phức tạp đó, Chính phủ Pháp quyết định vừa tiến hành chiến tranh, vừa tìm kiếm thương lượng để cứu quân đội viễn chinh Pháp, không giữ toàn bộ Đông Dương như cũ, chỉ giữ một số quyền lợi. Ngày 10-3-1954, Quốc hội Pháp hoan nghênh việc bốn cường quốc, bao gồm Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, nhất trí triệu tập Hội nghị Giơ-ne-vơ.

Quan điểm của các nước lớn tham gia Hội nghị

Vào thời điểm đó, Liên Xô cần hòa bình để xây dựng đất nước và củng cố Đông Âu, thúc đẩy lợi ích chiến lược của mình. Trọng tâm chiến lược của Liên Xô là ngăn chặn sự phục hồi của chủ nghĩa phát-xít Đức ở khu vực châu Âu nên cần tranh thủ Pháp. Ở khu vực Đông Nam Á, Liên Xô có rất ít ảnh hưởng. Do đó, Liên Xô đã điều chỉnh chiến lược đối ngoại, đẩy mạnh hòa hoãn quốc tế nhằm củng cố lực lượng trong nước, tiến hành chạy đua với Mỹ để giành ưu thế trên các lĩnh vực.

Trong khi đó, chiến lược của Mỹ là ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản, đặc biệt sau khi cách mạng Trung Quốc thành công vào năm 1949. Đông Dương là khu vực giàu nguồn tài nguyên thiên nhiên và nằm trong phòng tuyến chiến lược thiết yếu cho lợi ích an ninh của Mỹ, đồng thời là “chìa khóa” của khu vực Đông Nam Á. Do vậy, Mỹ xem Đông Dương và Triều Tiên là hai sườn của một mặt trận chống chủ nghĩa cộng sản ở châu Á, mà trung tâm là Trung Quốc. Theo “học thuyết đô-mi-nô”(3), bảo vệ được miền Bắc Việt Nam là “chìa khóa” giữ khu vực Đông Nam Á khỏi rơi vào tay cộng sản. Ban đầu, chính sách của Mỹ là can thiệp vào Đông Dương, tiếp đến là quốc tế hóa chiến tranh thông qua khối quân sự Đông Nam Á. Do không được Anh, Pháp ủng hộ thành lập khối quân sự Đông Nam Á nên Mỹ buộc phải chấp nhận triệu tập Hội nghị về Đông Dương.

Là quốc gia nắm giữ nhiều lợi ích và ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á, tuy nhiên sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Anh ngày càng suy yếu, phải từ bỏ nhiều thuộc địa. Anh không tán thành học thuyết Đô-mi-nô của Mỹ. Anh muốn ngăn chặn cách mạng Đông Dương ảnh hưởng đến Khối thịnh vượng chung, nhưng quan ngại Mỹ tăng cường can thiệp và đẩy Anh khỏi khu vực Đông Nam Á. Ngoài ra, Anh cũng lo ngại Trung Quốc can thiệp vào khu vực Đông Nam Á và việc Trung Quốc, Liên Xô tăng cường hợp tác. Hơn nữa, nhận thấy Pháp sẽ sớm đầu hàng Việt Minh, vì vậy Anh muốn nhanh chóng chấm dứt chiến tranh, chia cắt lâu dài Việt Nam và thiết lập phòng tuyến mới. 

Để triển khai kế hoạch 5 năm lần thứ nhất phát triển kinh tế - xã hội, đặt nền móng xây dựng chủ nghĩa xã hội, Trung Quốc mong muốn đạt được giải pháp hòa bình ở Đông Dương, tạo môi trường hòa bình ổn định ở khu vực châu Á, an ninh phía nam đất nước; thúc đẩy chính sách cùng tồn tại hòa bình. Do đó, tham dự hội nghị quốc tế lớn quan trọng đầu tiên sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa ra đời, với sự hiện diện của các cường quốc là dịp để Trung Quốc xác lập vai trò trong giải quyết những vấn đề quốc tế, trước hết là ở châu Á. Đồng thời, mở rộng tiếp xúc chính trị, thương mại quốc tế nhằm phá thế bao vây, cấm vận mà Mỹ áp đặt chống Trung Quốc kể từ năm 1951, sau khi Trung Quốc gửi quân tình nguyện giúp Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Mặt khác, Trung Quốc là một trong những nước xã hội chủ nghĩa viện trợ tích cực cho nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, do đó Trung Quốc cần nhanh chóng chấm dứt chiến tranh để tập trung nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh từ phía nam đất nước(4).

Có thể thấy, thất bại chiến lược của Pháp trên chiến trường Đông Dương, nhất là tại cứ điểm Điện Biên Phủ và xu thế hòa hoãn giữa các nước lớn được xem là nhân tố quyết định dẫn đến Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954.

Ngày 21-7-1954 (giờ Hà Nội), Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Tạ Quang Bửu thay mặt Chính phủ và Bộ Tổng tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam ký Hiệp định đình chiến ở Việt Nam. Ngay sau đó, Hiệp định đình chiến ở Lào và Campuchia cũng được ký kết_Ảnh: Tư liệu TTXVN

Diễn biến, kết quả và ý nghĩa của Hội nghị

Hội nghị Giơ-ne-vơ về Đông Dương năm 1954 trải qua ba giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: từ ngày 8-5 đến 19-6-1954; giai đoạn thứ hai: từ ngày 20-6 đến 10-7-1954; giai đoạn thứ ba: từ ngày 11-7 đến 21-7-1954; với 75 ngày thương lượng, đàm phán căng thẳng, bao gồm 7 phiên họp rộng và 24 phiên họp cấp trưởng đoàn cùng các hoạt động tiếp xúc ngoại giao dồn dập phía sau các hoạt động công khai. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Liên Xô V. Mi-khai-lô-vích Mô-lô-tốp và Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Anh An-thô-ni Ê-đen (Anthony Eden) đồng chủ tịch hội nghị. Các trưởng đoàn các nước tham dự hội nghị là bộ trưởng bộ ngoại giao hoặc thủ tướng kiêm bộ trưởng bộ ngoại giao. Đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do Phó Thủ tướng Chính phủ kiêm quyền Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Phạm Văn Đồng dẫn đầu tham dự hội nghị.

Hội nghị đã ký kết ba hiệp định đình chỉ chiến sự tại Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia và thông qua Tuyên bố chung bao gồm 13 điểm, với sự nhất trí của bảy đoàn đại biểu, trừ Mỹ và Chính phủ Quốc gia Việt Nam do Pháp dựng lên. Nội dung cơ bản của Tuyên bố chung là các nước tham gia Hội nghị Giơ-ne-vơ tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia; tuyệt đối không can thiệp vào nội trị các nước đó; ngừng bắn trên toàn bộ chiến trường Đông Dương; quân đội Liên hiệp Pháp rút khỏi Đông Dương trong thời hạn 300 ngày; vĩ tuyến 17 là giới tuyến quân sự tạm thời chia Việt Nam làm hai vùng tập kết quân đội; sau 2 năm sẽ tiến hành tổng tuyển cử tự do trong cả nước vào tháng 7-1956 để thống nhất nước Việt Nam. Ủy ban Giám sát quốc tế, bao gồm Ba Lan, Ấn Độ và Ca-na-đa, sẽ được thành lập nhằm giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.

Từ những điều khoản trên, có thể khẳng định, Hiệp định Giơ-ne-vơ có ý nghĩa to lớn đối với cách mạng ba nước Đông Dương nói chung, cách mạng Việt Nam nói riêng và ý nghĩa của nó được thể hiện dưới nhiều góc độ. Một là, nếu trong Hiệp định Sơ bộ ngày 6-3-1946, Pháp chỉ công nhận Việt Nam là quốc gia tự do nằm trong khối Liên hiệp Pháp và luôn khẳng định quyền lợi của Pháp ở Nam Bộ thì đến Hiệp định Giơ-ne-vơ, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã được Pháp và các quốc gia khác thừa nhận. Pháp phải rút quân để lập lại hòa bình ở Đông Dương. Hai là, theo Hiệp định Giơ-ne-vơ, miền Bắc Việt Nam hoàn toàn được giải phóng, trở thành căn cứ địa cách mạng, hậu phương lớn của cách mạng miền Nam. Đồng thời, Hiệp định đặt cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho cuộc đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này.

Cùng với chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ còn có ý nghĩa quốc tế to lớn và mang tính thời đại sâu sắc; mở đầu cho quá trình sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thế giới, làm thay đổi cục diện thế giới và khu vực, thúc đẩy phong trào đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đòi độc lập dân tộc. Nhấn mạnh về ý nghĩa quốc tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, Hội nghị Giơ-ne-vơ “ghi rõ nơi chủ nghĩa thực dân lăn xuống dốc và tan rã, đồng thời phong trào giải phóng dân tộc khắp thế giới đang lên cao đến thắng lợi hoàn toàn”(5). Hội nghị là cơ sở chính trị - pháp lý quốc tế quan trọng để nhân dân Việt Nam đấu tranh trên mặt trận chính trị, ngoại giao, củng cố hòa bình, thực hiện thống nhất, độc lập và dân chủ trong toàn quốc.

Tuy nhiên, theo nhận định của một số chuyên gia, Hiệp định Giơ-ne-vơ chưa phản ánh đầy đủ thắng lợi của nhân dân Việt Nam nói riêng, nhân dân ba nước Đông Dương nói chung trên chiến trường và xu thế của cuộc chiến tranh. Cả Việt Nam, Lào và Cam-pu-chia đều có phần chịu ảnh hưởng bởi sự chi phối của xu thế hòa hoãn và sự thỏa hiệp. Đó là, việc xác định ranh giới quân sự tạm thời và phân chia khu vực tập kết chuyển quân ở Việt Nam không phải vĩ tuyến 13 hay vĩ tuyến 16 theo phương án đấu tranh của Việt Nam, mà là vĩ tuyến 17. Hội nghị đã quyết định những vấn đề liên quan đến các lực lượng kháng chiến ở Lào và Cam-pu-chia mà không có sự tham gia của các chính phủ kháng chiến ở hai nước này. Thời hạn tổng tuyển cử để thống nhất nước Việt Nam không phải là 6 tháng như đề nghị của Việt Nam, mà là 2 năm. Về việc thi hành, trên thực tế Hiệp định Giơ-ne-vơ chỉ được thực hiện một phần, đó là: chấm dứt chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Đông Dương; tập kết, chuyển quân theo khu vực và thời gian quy định. Sau này, việc tổng tuyển cử thống nhất nước Việt Nam đã không thể thực hiện do chính sách can thiệp và xâm lược của Mỹ. Tóm lại, bối cảnh lịch sử và nhất là tương quan lực lượng lúc đó chưa cho phép Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng. Thế nhưng, với quyết tâm giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước, đến năm 1973 với Hội nghị Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử cách mạng.

Các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước và các đại biểu tham quan trưng bày ảnh về Hiệp định Geneva tại Lễ kỷ niệm 70 năm Ngày ký Hiệp định Geneva về đình chỉ chiến sự ở Việt Nam_Ảnh: TTXVN

Bài học kinh nghiệm từ đàm phán tại Hội nghị Giơ-ne-vơ

Hội nghị Giơ-ne-vơ là cuộc thương lượng đa phương lớn đầu tiên mà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tham gia, đã để lại nhiều bài học vô giá cho nền ngoại giao Việt Nam.

Thứ nhất, kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc. Mặc dù chiến thắng Điện Biên Phủ đã giáng đòn quyết định, đập tan dã tâm xâm lược của các thế lực đế quốc, thực dân hiếu chiến, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ, chấm dứt chiến tranh ở Đông Dương, mở ra trang mới cho cách mạng Việt Nam, song khi Việt Nam tham dự Hội nghị Giơ-ne-vơ cũng phải đối mặt với nhiều thách thức. Hội nghị chịu sự chi phối của năm nước lớn tham gia đàm phán và mỗi nước lớn tham gia hội nghị đều có mục tiêu và lợi ích riêng. Ở đó, “các cường quốc đã tự thỏa thuận phần lớn các điều khoản trong hiệp định mà không cần tính đến phản ứng của các nước Đông Dương”(6). Trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn và phức tạp đó, Đoàn Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở phát huy chiến thắng trên chiến trường, sức mạnh chính nghĩa của dân tộc, kiên định về nguyên tắc, nhưng mềm dẻo về sách lược để giành được những kết quả quan trọng. Sau hội nghị, vị thế của Việt Nam được củng cố và nâng cao đáng kể. Trong giai đoạn từ sau Hội nghị Giơ-ne-vơ đến năm 1973, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 36 quốc gia, trong khi trước đó mới thiết lập quan hệ ngoại giao với 9 nước xã hội chủ nghĩa.

Thứ hai, chấp nhận tham gia cuộc thương lượng nhiều bên do các nước lớn triệu tập, chi phối. Ngày 26-11-1953, trong cuộc trả lời phỏng vấn báo Expressen (Thụy Điển) liên quan đến vấn đề thương lượng tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu bốn nội dung lớn, trong đó nội dung thứ tư nhấn mạnh: “Nếu có những nước trung lập nào muốn cố gắng để xúc tiến việc chấm dứt cuộc chiến tranh ở Việt Nam bằng cách thương lượng, thì sẽ được hoan nghênh, nhưng việc thương lượng đình chiến chủ yếu là một việc giữa Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa với Chính phủ Pháp”(7). Có thể thấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhìn được trước vấn đề. Tuy nhiên, bối cảnh lịch sử lúc đó chưa cho phép Việt Nam giành thắng lợi cuối cùng, nên cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do trọn vẹn của dân tộc Việt Nam vẫn còn tiếp diễn. Bài học kinh nghiệm từ Hội nghị Giơ-ne-vơ giúp Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam vững vàng hơn, độc lập, tự chủ hơn, để đến Hội nghị Pa-ri năm 1973, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tiến hành đàm phán trực diện với Mỹ. Tại Hội nghị Pa-ri, sự độc lập, tự chủ của Việt Nam thể hiện rõ, từ thành phần, nội dung, thời gian đàm phán đến hình thức đàm phán...; không để bất kỳ nước nào can thiệp vào cuộc đàm phán.

Thứ ba, độc lập, tự chủ và đoàn kết, hợp tác quốc tế. Đây là tư tưởng lớn, quan trọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “Độc lập nghĩa là chúng tôi điều khiển lấy mọi công việc của chúng tôi, không có sự can thiệp ở ngoài vào”(8). Nói chuyện với các nhà ngoại giao (tháng 1-1964), Người nhấn mạnh: cái gốc, cái điểm mấu chốt về chính trị, quân sự, kinh tế, nội chính, ngoại giao của ta là tự lực cánh sinh. Tuy nhiên, độc lập, tự chủ không có nghĩa là biệt lập, cô lập, trái lại gắn liền với đoàn kết và hợp tác quốc tế.

Tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, do lần đầu tham gia đàm phán đa phương, đoàn đại biểu Việt Nam chưa có chiến lược, sách lược đàm phán rõ ràng, mà chỉ tập trung vào mục tiêu đàm phán. Các bước cụ thể liên quan đến phương án đàm phán, thời điểm mở đầu và kết thúc đàm phán, phân công phối hợp các lực lượng trong đàm phán... luôn bị các nước lớn can thiệp và tác động. Trong khi đó, đoàn Việt Nam còn thiếu nhiều phương tiện vật chất cần thiết, nhất là thông tin. Khi đưa ra các quyết sách, nhiều khi phải dựa vào đánh giá tình hình của các nước bạn bè. Những điều đó ảnh hưởng rất lớn tới nỗ lực làm chủ tiến trình đàm phán, giữ vững thế chủ động tiến công trong quá trình hội nghị. Chính vì vậy, hoạt động ngoại giao phải nhất quán nguyên tắc độc lập, tự chủ, bởi mỗi quốc gia, kể cả quốc gia đồng minh thân cận cũng đều xử lý vấn đề quốc tế trên cơ sở lợi ích quốc gia của họ.

Thứ tư, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị - ngoại giao. Sức mạnh của ngoại giao phụ thuộc vào sức mạnh tổng hợp quốc gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Thực lực mạnh, ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(9) nên “muốn ngoại giao được thắng lợi là phải biểu dương thực lực”(10). Về quan hệ biện chứng giữa ngoại giao và quốc phòng - an ninh, kinh tế - xã hội: Thắng lợi quân sự ảnh hưởng quyết định đối với ngoại giao, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận xét: “đánh thắng lợi thì ngoại giao thắng nhiều. Không cứ gì ở ta mà ở nước nào cũng vậy. Cố nhiên ngoại giao là rất quan trọng nhưng cái chính là mình phải đánh thắng”(11). Ngược lại, thắng lợi ngoại giao tác động đến chiến trường. Qua mấy năm kháng chiến, Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ mới đã thừa nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Chắc chắn cuộc thắng lợi chính trị ấy sẽ là cái đà cho những thắng lợi quân sự sau này(12).

Thứ năm, coi trọng nghiên cứu chiến lược. Nghiên cứu chiến lược là nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện, sâu xa về lịch sử và dự báo triển vọng. Do nhiều nguyên nhân, nên việc ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ với những điều khoản được nhiều ý kiến đánh giá là không hoàn toàn thỏa đáng về phía Việt Nam, chưa ngang tầm với thắng lợi của Việt Nam trên chiến trường. Rút kinh nghiệm thương lượng tại Hội nghị Giơ-ne-vơ, trong đàm phán với Mỹ tại Thủ đô Pa-ri (Pháp) về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam, đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đặc biệt coi trọng nghiên cứu chiến lược và đã xây dựng được cơ quan nghiên cứu chiến lược hiệu quả phục vụ “đánh” và “đàm”.

Nhìn lại chặng đường lịch sử 70 năm qua kể từ khi Hiệp định Giơ-ne-vơ về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông Dương được ký kết, có thể thấy rõ, con đường đi đến độc lập, tự do, thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam không phải là con đường thẳng tắp, mà phải trải qua những chặng đường, khúc quanh lịch sử. Tình hình thế giới, khu vực cũng như vị thế của Việt Nam hiện nay đã nhiều đổi thay. Chiến tranh lạnh đã chấm dứt hơn 30 năm, tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng gia tăng, tính tùy thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày càng cao; hòa bình, hợp tác và phát triển đã trở thành xu thế và khát vọng to lớn của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, những tác động phức tạp của tình hình thế giới luôn biến động, xoay vần, vẫn đặt ra những thách thức không nhỏ đến an ninh và phát triển của đất nước Việt Nam nói chung và mặt trận đối ngoại nói riêng. Trong bối cảnh mới hiện nay, để hoàn thành tốt trọng trách của mình, ngoại giao Việt Nam cần tiếp tục nghiên cứu, phát huy và vận dụng sáng tạo những kinh nghiệm quý báu của Hội nghị Giơ-ne-vơ mà lịch sử đã khắc ghi./.

ST.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Với tư cách là đứng đầu Đảng Cộng sản Việt Nam từ năm 2011 đến nay, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã để lại một di sản đồ sộ, quý báu cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta về các vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng; xây dựng văn hóa, con người Việt Nam; phòng, chống tham ô, tham nhũng,… đặc biệt là những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Di sản của Tổng Bí thư không chỉ trực tiếp chỉ đạo giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra từ công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thời gian qua, mà còn có giá trị dẫn dắt, định hướng, soi đường cho cách mạng Việt Nam từ nay đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và những thập niên tiếp theo. Kế thừa và tiếp bước sự nghiệp mà Đồng chí đã vạch ra, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân cần học tập, noi theo phẩm chất đạo đức sáng ngời, tinh thần trách nhiệm, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội để sự nghiệp của chúng ta đi đến thành công.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Nhà máy đường của Công ty cổ phần đường Kon Tum _Ảnh: TTXVN

Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: kiên định và sáng tạo qua tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (gọi tắt là Tác phẩm) của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật xuất bản năm 2022. Tác phẩm gồm 29 bài viết, đề cập một cách cô đọng những vấn đề trọng yếu về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là chủ nghĩa xã hội là gì? Vì sao Việt Nam lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa? Làm thế nào và bằng cách nào để từng bước xây dựng được chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?... Tác phẩm cũng đề cập đến những vấn đề về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Nhà nước pháp quyền và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng giai cấp công nhân, nông dân Việt Nam lớn mạnh… Tác phẩm đã chỉ rõ những thành công cũng như những bài học kinh nghiệm trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.

Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, nhờ thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế Việt Nam bắt đầu phát triển và phát triển liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 35 năm qua với mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm. Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2020 đạt 342,7 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Thu nhập bình quân đầu người tăng khoảng 17 lần, lên mức 3.512 USD; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008. Từ một nước bị thiếu lương thực triền miên, đến nay Việt Nam không những đã bảo đảm được an ninh lương thực, mà còn trở thành một nước xuất khẩu gạo và nhiều nông sản khác đứng hàng đầu thế giới. Công nghiệp phát triển khá nhanh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ liên tục tăng và hiện chiếm khoảng 85% GDP. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng mạnh, năm 2020 đạt trên 540 tỷ USD, trong đó kim ngạch xuất khẩu đạt trên 280 tỷ USD. Dự trữ ngoại hối tăng mạnh, đạt 100 tỷ USD vào năm 2020. Đầu tư nước ngoài tăng nhanh, đăng ký đạt gần 395 tỷ USD vào cuối năm 2020.

Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, sự nhận thức về văn hóa ngày càng toàn diện và sâu sắc hơn trên các lĩnh vực, các loại hình; các sản phẩm văn hóa ngày càng đa dạng, phong phú, đáp ứng yêu cầu mới, nhiều mặt của xã hội. Nhiều giá trị văn hóa truyền thống và di sản văn hóa của dân tộc được kế thừa, bảo tồn và phát triển. Văn hóa trong chính trị và trong kinh tế bước đầu được coi trọng và phát huy hiệu quả tích cực. Công nghiệp văn hóa và thị trường văn hóa có bước khởi sắc. Hoạt động giao lưu, hợp tác và hội nhập quốc tế có bước phát triển mới. Xây dựng con người Việt Nam đang từng bước trở thành trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Việc đấu tranh, phê phán, đẩy lùi cái xấu, cái ác, cái lạc hậu, chống các quan điểm, hành vi sai trái gây tác hại đến văn hóa, lối sống được chú trọng.

Giáo dục và đào tạo, y tế có bước phát triển. Tỷ lệ trẻ em đến trường ngày càng cao. Tỷ lệ hộ nghèo trung bình mỗi năm giảm khoảng 1,5%; giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 5,8% năm 2016 theo chuẩn nghèo của Chính phủ và dưới 3% năm 2020 theo chuẩn nghèo đa chiều (tiêu chí cao hơn trước). Đến nay, hơn 60% số xã đạt chuẩn nông thôn mới; hầu hết các xã nông thôn đều có đường ôtô đến trung tâm, có điện lưới quốc gia, trường tiểu học và trung học cơ sở, trạm y tế và điện thoại. Việt Nam hoàn thành xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000 và phổ cập giáo dục trung học cơ sở năm 2010; số sinh viên đại học, cao đẳng tăng gần 17 lần trong 35 năm qua. Hiện nay, Việt Nam có 95% người lớn biết đọc, biết viết. Người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và người cao tuổi được cấp bảo hiểm y tế miễn phí. Tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em và tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh giảm gần 3 lần. Tuổi thọ trung bình của dân cư tăng từ 62 tuổi năm 1990 lên 73,7 tuổi năm 2020. Cũng nhờ kinh tế có bước phát triển nên chúng ta đã có điều kiện để chăm sóc tốt hơn những người có công, phụng dưỡng Mẹ Việt Nam Anh hùng, chăm lo phần mộ của các liệt sĩ đã hy sinh cho Tổ quốc. Đời sống văn hóa cũng được cải thiện đáng kể; sinh hoạt văn hóa phát triển phong phú, đa dạng. Hiện, Việt Nam có khoảng 70% dân số sử dụng internet, là một trong những nước có tốc độ phát triển công nghệ tin học cao nhất thế giới. Liên hợp quốc đã công nhận Việt Nam là một trong những nước đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Năm 2019, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,704, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có cùng trình độ phát triển.

Trong lĩnh vực xây dựng Đảng và hệ thống chính trị, Tác phẩm đã chỉ rõ, trong suốt hơn 90 năm qua, Đảng ta đã xác lập, củng cố và ngày càng nâng cao vai trò lãnh đạo, sức mạnh và uy tín của Đảng bằng chính bản lĩnh, nghị lực, trí tuệ, lý luận tiên phong; bằng đường lối đúng đắn mang lại lợi ích thiết thân cho nhân dân, cho đất nước; bằng sự nêu gương, hy sinh quên mình, phấn đấu không mệt mỏi của đội ngũ cán bộ, đảng viên; bằng một tổ chức đoàn kết, thống nhất chặt chẽ, vững chắc; bằng mối liên hệ máu thịt với nhân dân, được nhân dân hết lòng tin yêu, ủng hộ và bảo vệ. Thực tế từ ngày có Đảng, nhân dân ta đã có người lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và nhờ thế chúng ta đã giành được hết thắng lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích trong thế kỷ XX. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thách thức và đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa được xây dựng và từng bước hoàn thiện. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên ngày càng khẳng định vai trò, vị trí quan trọng trong sự phát triển đất nước.

Trong lĩnh vực đối ngoại, quốc phòng, an ninh, Việt Nam đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Chúng ta đã tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, thuận lợi cho công cuộc đổi mớiNước ta đã có quan hệ ngoại giao với 189 nước trong tổng số 193 quốc gia thành viên Liên hợp quốc, trong đó 3 nước có “quan hệ đặc biệt”, 17 nước “đối tác chiến lược” và 13 nước “đối tác toàn diện”. Trên bình diện đa phương, Việt Nam là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, như Liên hợp quốc, ASEAN, APEC, ASEM, WTO… Đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước, đối ngoại nhân dân và đối ngoại của các ngành, lĩnh vực, địa phương, doanh nghiệp ngày càng mở rộng, chủ động, tích cực và đi vào chiều sâu. Đảng ta đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia, bao gồm khoảng 90 đảng cộng sản và công nhân quốc tế, các đảng cầm quyền và tham chính có vai trò quan trọng. Quốc hội có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Đối ngoại đóng vai trò tiên phong trong việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, góp phần quan trọng vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Vị thế và uy tín quốc tế của nước ta trong khu vực và trên thế giới ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực và đầy tinh thần trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới.

Tác phẩm đã chỉ rõ, trong lĩnh vực quốc phòng, chúng ta dự báo đúng tình hình, xử lý tốt các tình huống, không để bị động, bất ngờ, nhất là trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và sự toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; thực hiện tốt công tác đối ngoại quốc phòng, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng, phát triển đất nước. Chủ động, nhạy bén, tích cực trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” Quân đội của các thế lực thù địch. Xây dựng cơ sở chính trị địa phương vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc. An ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm. Công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm, vi phạm pháp luật đạt hiệu quả cao. Chất lượng điều tra, phá án được nâng lên. Cuộc sống bình yên của nhân dân được bảo vệ.

Đồng chí Tổng Bí thư cho rằng, trong hơn 35 năm tiến hành đổi mới, Việt Nam đã ngày càng nhận thức sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Chúng ta từng bước khắc phục một số quan niệm đơn giản trước đây, như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế độ phân phối bình quân, không thấy đầy đủ yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ, không thừa nhận sự tồn tại của các thành phần kinh tế; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản; đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản... Đảng đã đưa ra một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo là quan niệm về phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là nền kinh tế kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, mà một đặc trưng căn bản, một thuộc tính căn bản là gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Đó là một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội. Đây không phải là nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa phải là nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa đầy đủ (vì nước ta còn đang trong thời kỳ quá độ). Tính chất định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thể hiện trên cả ba mặt: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối. Nền kinh tế đó bao gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể và kinh tế tư nhân, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nhà nước quản lý nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đặc điểm trong phân phối của mô hình kinh tế này, theo đồng chí Tổng Bí thư, là bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.

Cùng với việc đưa ra lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở thực tiễn, vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với tiếp thu có chọn lọc những thành tựu phát triển nền văn minh của nhân loại, Đảng ta đã xây dựng và hoàn thiện lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Bên cạnh đó, lý luận về nền văn hóa xã hội chủ nghĩa cũng được hoàn thiện. Từ việc coi văn hóa là một lĩnh vực của đời sống tinh thần, có giá trị tinh thần và yêu cầu thúc đẩy sự phát triển cân đối và kết hợp hài hòa kinh tế với văn hóa - xã hội (Đại hội VI và Đại hội VII) đến việc coi văn hóa vừa là nền tảng tinh thần, mục tiêu của sự phát triển, vừa là động lực, sức mạnh nội sinh cho sự phát triển; văn hóa không chỉ có giá trị tinh thần, mà còn đem lại cả giá trị vật chất, kinh tế; văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội (từ Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 cho đến nay); từ việc xác định mục tiêu xã hội mà chúng ta xây dựng là “dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh” (Đại hội VI năm 1986) đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” (Đại hội XI năm 2011 và cho đến nay); từ việc xác định 8 mối quan hệ cần giải quyết trong xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (trong Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011, Đại hội XI) đến Đại hội XIII (năm 2021) của Đảng, chúng ta đã xác định 10 mối quan hệ lớn; từ việc xác định 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng (Đại hội VII, trong Cương lĩnh năm 1991), đến nay là 8 đặc trưng…

Đánh giá về những thành tựu trên, đồng chí Tổng Bí thư khẳng định, đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của cả một quá trình nỗ lực phấn đấu bền bỉ, liên tục qua nhiều nhiệm kỳ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; tiếp tục khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của chúng ta là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách quan, với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam(6). Đồng thời, Tổng Bí thư cho rằng, đó là do chúng ta kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thăm Hợp tác xã chè Hảo Đạt, xã Tân Cương, thành phố Thái Nguyên,
 tỉnh Thái Nguyên _Nguồn: thainguyen.gov.vn

Tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Nghiên cứu Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn trong việc tiếp tục kiên định và sáng tạo để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Như chúng ta đều biết, trong nghiên cứu về sự vận động đi lên của xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin khẳng định sự phát triển tất yếu của xã hội loài người là sẽ đi đến chủ nghĩa cộng sản, mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội, là chế độ thay thế chủ nghĩa tư bản. Trong các nghiên cứu của mình, C.Mác và Ph.Ăng-ghen chỉ ra mô hình của xã hội cộng sản và xã hội xã hội chủ nghĩa trong tương lai cũng như con đường, biện pháp để đi đến các xã hội đó. Trải qua thời gian, quá trình nhận thức, hoạt động thực tiễn, lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như biện pháp để đi đến chủ nghĩa xã hội của các nhà kinh điển có những thay đổi nhất định, thể hiện quan điểm phát triển, không giáo điều của các ông khi nghiên cứu về sự phát triển xã hội. Chính bản thân các ông cũng khẳng định: “Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc”.

Kế thừa các quan điểm của C.Mác và Ph.Ăng-ghen, khi lãnh đạo nước Nga Xô viết thực hiện cách mạng, xây dựng đất nước, V.I.Lê-nin cũng đã bổ sung một số lý luận về mô hình chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, mà nhận định về  thời kỳ quá độ cũng như chính sách kinh tế nới (NEP) là một minh chứng cho sự kiên định, đồng thời là sự sáng tạo của V.I.Lê-nin. Trên cơ sở đó, V.I.Lê-nin đã từng nhắc nhở “Chính vì chủ nghĩa Mác không phải là một giáo điều chết cứng, một học thuyết nào đó đã hoàn thành hẳn, có sẵn đâu vào đấy, bất di bất dịch, mà là một kim chỉ nam sinh động cho hành động” và do đó, nếu quên điều này “thì chúng ta sẽ làm cho chủ nghĩa Mác trở thành phiến diện, quái dị, chết cứng, sẽ vứt bỏ linh hồn sống của nó, sẽ phá hủy cơ sở lý luận cơ bản của nó – tức là phép biện chứng, học thuyết về sự phát triển lịch sử toàn diện và đầy mâu thuẫn; như thế chúng ta sẽ phá hủy sự liên hệ giữa chủ nghĩa Mác với những nhiệm vụ thực tiễn nhất định của thời đại, những nhiệm vụ có thể biến đổi ở mỗi bước ngoặt mới của lịch sử”. Ông khẳng định: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống. Chúng tôi nghĩ rằng những người xã hội chủ nghĩa ở Nga đặc biệt cần phải tự mình phát triển hơn nữa lý luận của Mác, vì lý luận này chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”. Theo ông, điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia, dân tộc đòi hỏi phải áp dụng những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản trên cơ sở “sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm dân tộc và đặc điểm nhà nước ‐ dân tộc”. 

Tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào thực tiễn Việt Nam, đó là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước có xuất phát điểm là nước thuộc địa nửa phong kiến. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; là “cách mạng thuộc địa không chỉ trông chờ vào kết quả của cách mạng vô sản ở chính quốc, hơn nữa cần phải chủ động và có thể giành thắng lợi trước, và bằng thắng lợi của mình sẽ góp phần vào sự nghiệp cách mạng ở chính quốc”...

Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, trong Tác phẩm, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể”. Như vậy, có thế thấy, việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ cần phải đặt trong trình độ phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, trong đó bao hàm việc xem xét chủ nghĩa xã hội với tư cách một chế độ. Với tư cách một chế độ, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới. Thành công có, mà thất bại cũng đã gặp phải. Điều đó cho thấy, trong thời gian tới, quá trình hiện thực hóa lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, một mặt, cần kiên định, giữ vững các nguyên tắc nền tảng; mặt khác, phải căn cứ vào tình hình thực tiễn cụ thể để xây dựng chủ nghĩa xã hội với những bước đi, lộ trình phù hợp.

Trong giai đoạn hiện nay, tiếp tục kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội còn đòi hỏi chúng ta phải tránh căn bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Bởi bên cạnh những thành tựu đạt được, chúng ta cũng phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại. Đồng chí Tổng Bí thư đã chỉ rõ, về kinh tế, chất lượng tăng trưởng, sức cạnh tranh còn thấp, thiếu bền vững; công tác quản lý, điều tiết thị trường còn nhiều bất cập. Về văn hóa, xã hội, khoảng cách giàu nghèo gia tăng; chất lượng giáo dục, chăm sóc y tế và nhiều dịch vụ công ích khác còn không ít hạn chế; văn hóa, đạo đức xã hội có mặt xuống cấp; tội phạm và các tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp. Về chính trị, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống và tình trạng tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Trong khi đó, các thế lực xấu, thù địch luôn tìm mọi thủ đoạn để chống phá, gây mất ổn định, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đồng chí Tổng Bí thư cũng nhấn mạnh rằng, trong thời kỳ quá độ, các nhân tố xã hội chủ nghĩa được hình thành, xác lập và phát triển đan xen, cạnh tranh với các nhân tố phi xã hội chủ nghĩa. Cùng với đó là tình hình thế giới biến động khôn lường, cả về vấn đề sinh thái, vấn đề quan hệ giữa các nước và tác động của công nghệ thông tin tới đời sống chính trị, kinh tế, xã hội tới mỗi quốc gia, mỗi tổ chức, cá nhân. Điều đó cho thấy, chúng ta cần tiếp tục kiên định và sáng tạo để chủ nghĩa xã hội ngày càng được hiện thực hóa ở Việt Nam.

Tại sao phải “kiên định” và “sáng tạo”, “kiên định” và “sáng tạo” có mối quan hệ với nhau như thế nào? Về vấn đề này, Tổng Bí thư đã chỉ rõ: “Kiên định phải gắn liền với sáng tạo và sáng tạo phải trên cơ sở kiên định phù hợp với thực tiễn, với yêu cầu đổi mới, hội nhập và phát triển đất nước”. Bởi nếu chỉ “kiên định” một cách máy móc thì dễ dẫn đến giáo điều, cứng nhắc, bảo thủ, nhưng nếu không kiên định, mà “đổi mới”, “sáng tạo” một cách vô nguyên tắc thì cũng rất dễ rơi vào chủ nghĩa xét lại, chệch hướng, “đổi màu”. Chúng ta cần kiên định trong nguyên tắc và linh hoạt trong sách lược. Nguyên tắc của chúng ta là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sách lược của chúng ta là cơ động, linh hoạt điều chỉnh tuỳ theo từng vấn đề, từng thời điểm và tuỳ theo đối tượng hay đối tác, tuân thủ những tư tưởng lớn của Bác Hồ: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, như đồng chí Tổng Bí thư nhấn mạnh: “là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”Theo nghĩa đó, cần nắm vững những nguyên lý nền tảng, bản chất khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, rằng đi lên chủ nghĩa xã hội là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật vận động của lịch sử xã hội loài người. Con đường phát triển của nước Việt Nam là không chịu sự chi phối, sự hướng lái của bất cứ thế lực bên ngoài nào và chỉ có con đường của chủ nghĩa xã hội thì mới đem lại độc lập, tự do cho dân tộc, cho mỗi người dân. Trong Tác phẩm, đồng chí Tổng Bí thư dẫn lại lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc”. Đồng thời, cần phải kiên định đường lối đổi mới, bởi chính đường lối đổi mới được thể hiện qua hơn 35 năm đổi mới đã minh chứng cho sự đúng đắn của đường lối này. Cần kiên định với nguyên tắc xây dựng Đảng, bởi “sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”, đặc biệt là các nguyên tắc: tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, đoàn kết, gắn bó mật thiết với nhân dân, Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật… Các nguyên tắc này thống nhất và có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Coi nhẹ hoăc bỏ qua một nguyên tắc nào trong các nguyên tắc trên cũng làm cho Đảng suy yếu, mất vai trò lãnh đạo như sự sụp đổ vai trò lãnh đạo của một số Đảng Cộng sản ở Liên Xô và các nước Đông Âu thời kỳ những năm 90 của thế kỷ XX là một minh chứng.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cần tuân theo quy luật kế thừa và đổi mới trong phát triển. Chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam không phải bắt đầu từ hư vô, mà có sự kế thừa những thành quả của hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của cha ông, là tinh thần yêu nước, tinh thần đoàn kết, thương yêu, đùm bọc nhau, là ý chí vươn lên chống lại những hoàn cảnh khắc nghiệt. Đồng thời, chủ nghĩa xã hội được xây dựng ở Việt Nam còn kế thừa thành tựu phát triển của chủ nghĩa tư bản với tư cách là một nấc thang trong tiến trình phát triển của xã hội loài người. Song, đó không phải là sự kế thừa một cách nguyên xi, mà như đồng chí Tổng Bí thư nhắc nhở: “nói bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là bỏ qua chế độ áp bức, bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa; bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không phải bỏ qua cả những thành tựu, giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được trong thời kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản. Đương nhiên, việc kế thừa những thành tựu này phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học, phát triển”. Đó còn là kế thừa truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh; giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng; gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu; đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí; đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả.

Với tư cách là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc, kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng phải luôn nhận thức rõ “bản chất giai cấp của Đảng một cách sâu sắc, đầy đủ hơn”, chăm lo, phát triển giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh, bởi đây  “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Cùng với đó, cần chú trọng đến giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và đội ngũ thanh niên với tư cách là chủ nhân tương lai của đất nước.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi phải đấu tranh phòng, chống tham ô, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực. Bởi đây là những tệ nạn ảnh hưởng xấu đến mục tiêu phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Nó cũng yêu cầu đấu tranh chống lại mọi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái thù địch. Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam yêu cầu Đảng cần thường xuyên tự đổi mới, xây dựng và chỉnh đốn Đảng, xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức cán bộ. Tiếp tục nâng cao bản lĩnh, năng lực lãnh đạo, cầm quyền khoa học trong hoạch định và thực hiện đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế, cụ thể hóa, triển khai thực hiện đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, tính chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng và của mỗi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp, cán bộ cấp chiến lược. Chỉ có như vậy, Đảng mới nâng mình lên, đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển đất nước, của sự vận động không ngừng của những nhân tố khách quan và chủ quan.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đòi hỏi Đảng tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện lý luận về đổi mới. Đổi mới là một sự nghiệp chưa có tiền lệ, Đảng phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để không ngừng bổ sung, phát triển lý luận. Vì vậy, công tác tổng kết thực tiễn có tầm quan trọng đặc biệt trong hoạt động nghiên cứu lý luận của Đảng. Nhiệm vụ tổng kết thực tiễn xuất phát từ bài học lớn mà Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã đúc kết là Đảng phải hành động theo quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn mà xây dựng đường lối, phát triển lý luận. Các nhiệm kỳ đại hội của Đảng đều nhấn mạnh đến yêu cầu tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển đường lối, chủ trương, chính sách. Tầm quan trọng đặc biệt của thực tiễn trong công tác lý luận của Đảng xuất phát từ chính vai trò của thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích và tiêu chuẩn của lý luận; từ đặc điểm của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là xây dựng một chế độ xã hội hoàn toàn mới, chưa có tiền lệ, phải vừa làm, vừa tổng kết kinh nghiệm để phát triển lý luận. Thực tiễn là cơ sở của lý luận, bởi mọi tri thức được hình thành dù gián tiếp hay trực tiếp, đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn là động lực của lý luận, bởi hoạt động thực tiễn làm biến đổi thế giới, biến đổi bản thân con người, làm cho con người ngày càng hoàn thiện các năng lực của chính mình, trong đó có năng lực nhận thức. Thực tiễn luôn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ và phương hướng phát triển nhận thức, đòi hỏi phải có tri thức mới, nhất là những tri thức được khái quát thành lý luận để trở lại chỉ đạo thực tiễn. Thực tiễn là mục đích của lý luận, bởi lý luận không chỉ nhằm giải thích thế giới, mà quan trọng hơn - còn nhằm chỉ đạo thực tiễn, cải tạo thế giới.

Trong thời gian tới, nội dung hoàn thiện lý luận đổi mới rất rộng, bao gồm toàn bộ thể chế phát triển chế độ xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần chú ý đến một số nội dung cơ bản sau: trong lĩnh vực kinh tế, đó là tiếp tục hoàn thiện, phát triển lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế, về kinh tế tập thể, về các hình thức sở hữu, về quản lý vốn nhà nước, về kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, môi trường, đó là xây dựng nền văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu thời kỳ mới; xây dựng hệ giá trị văn hóa, hệ giá trị quốc gia và chuẩn mực con người Việt Nam; về biến đổi cơ cấu xã hội trong mối liên hệ với phân tầng xã hội, phân hóa giàu - nghèo gắn với sự phát triển, nâng cao năng lực của giai cấp công nhân, vị trí, vai trò của giai cấp nông dân; về ứng phó với biến đổi khí hậu. Trong lĩnh vực chính trị, đó là tiếp tục hoàn thiện lý luận, giải quyết mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ; bảo đảm tránh chồng chéo, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước và vai trò, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được củng cố và phát triển. Đó còn là tiếp tục hoàn thiện lý luận về Đảng Cộng sản cầm quyền và cầm quyền khoa học. Trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại, đó là vấn đề chiến lược trong điều kiện đối tượng, đối tác và phương thức chiến tranh thay đổi; xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới; bảo vệ chủ quyền an ninh biên giới, chủ quyền lãnh thổ, biển, đảo của đất nước; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh văn hóa, an ninh mạng, xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế trong bối cảnh mới.

Kiên định và sáng tạo trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là làm sao để chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng thấm sâu vào các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, đảng viên. Bởi, chỉ có hiểu biết, có nhận thức sâu sắc thì mới có thể thực hiện đúng, giữ vững nguyên tắc, không dao động, dân túy, “tả khuynh” hay “hữu khuynh”. Do đó, cần không ngừng tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị cho các tầng lớp nhân dân, trước hết là đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý, đảng viên; đẩy mạnh kiểm tra, giám sát việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng thành cơ chế, chính sách, nhằm tránh trục lợi, sai lệch quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng. Đồng thời, cần lấy tiến bộ xã hội, hiệu quả kinh tế - xã hội, sự ấm no, hạnh phúc của nhân dân, sự vững mạnh của đất nước, đoàn kết trong Đảng, đồng thuận trong xã hội làm mục tiêu để thực hiện./.

ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC TÔ LÂM: "TĂNG TỐC ĐỂ HOÀN THÀNH CHỈ TIÊU ĐẠI HỘI XIII"!

         Phát biểu tai cuộc họp báo, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh: “Tăng tốc để hoàn thành chỉ tiêu Đại hội XIII, bám sát định hướng, nhất là trọng tâm phát triển KT-XH để kịp thời về đích sớm với các mục tiêu này. Đây là ưu tiên rất quan trọng”!
Sáng 3/8, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tín nhiệm bầu Chủ tịch nước Tô Lâm, giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Như vậy, Chủ tịch nước Tô Lâm trở thành người kế nhiệm Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Sau khi Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII kết thúc, tân Tổng Bí thư chủ trì họp báo thông tin kết quả Hội nghị.
Thông tin tại cuộc họp báo, ông Lại Xuân Môn, Phó trưởng ban Thường trực Ban Tuyên giáo Trung ương, cho biết sáng 3/8, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã bầu Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Tô Lâm giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII với số phiếu bầu đạt tuyệt đối.

Trả lời báo chí về cảm nghĩ của ông khi nhận trọng trách mới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cho biết, ông xúc động khi nhận được sự chia sẻ, chúc mừng và chân thành cảm ơn tình cảm của đồng chí, đồng bào, bạn bè quốc tế. Trung ương tín nhiệm bầu giữ chức vụ Tổng Bí thư, ông nhận thức được việc gánh vác trọng trách rất lớn trước Đảng, Nhân dân và đất nước, trước những thành quả của Đảng để cùng toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đạt được sự phát triển mạnh mẽ của đất nước trong thời gian tới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh, chúng ta đã đi được 2/3 chặng đường trong thực hiện nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Trong bối cảnh nhiều diễn biến nhanh, phức tạp và nhiều khó khăn, thách thức, nhiệm vụ rất nhiều nên cần nỗ lực, cố gắng vượt bậc, đoàn kết thống nhất, sự chung tay, đồng lòng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta để thực hiện thắng lợi mục tiêu chung. “Không có gì bằng sự đoàn kết thống nhất, đây là sức mạnh của chúng ta. Tôi rất vui mừng vì sự đoàn kết từ trong Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị được lan toả, phát huy để vượt qua nhiều khó khăn, thử thách, để đạt thắng lợi mục tiêu mà Đảng ta đề ra” - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nhấn mạnh.

Đề cập những ưu tiên, trọng tâm triển khai sắp tới, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cho biết, trước mắt rà soát, đánh giá lại nhiệm vụ, chỉ tiêu mà Đại hội XIII đã đề ra, tập trung làm sao có sự bứt phá, có bước chuyển động nhanh, xác định tăng tốc thực hiện mục tiêu này trong hơn 1 năm nữa.

“Tăng tốc để hoàn thành chỉ tiêu, bám sát định hướng, nhất là trọng tâm phát triển KT-XH để kịp thời về đích sớm với các mục tiêu này. Đây là ưu tiên rất quan trọng” – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nói.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cũng nhấn mạnh, thời gian chuẩn bị cho Đại hội XIV của Đảng cũng không còn nhiều, trong khi nhiều công việc cần triển khai. Các tiểu ban của Đại hội từ văn kiện, nhân sự, KTXH, điều lệ Đảng đang rất tích cực hoàn chỉnh văn kiện, kịp thời phục vụ Đại hội Đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng. Cùng với đó là phương hướng công tác nhân sự để có bộ máy tốt, đội ngũ cán bộ tốt hoàn thành mục tiêu đề ra, đáp ứng kỳ vọng của nhân dân, phát triển trong thời gian tới.
Liên quan đến câu hỏi của báo chí về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước cho biết, dư luận cũng đang rất chờ đợi, đặc biệt khi công tác này được Đảng ta phát động và đạt kết quả như vừa qua.
“Tiếp tục công việc này thế nào, có điều chỉnh gì không? Tôi xin trả lời là tiếp tục kế thừa, thời gian tới xây dựng chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được triển khai mạnh mẽ với mục tiêu, phương châm, nhiệm vụ, giải pháp như thời gian qua. Trong đó đẩy mạnh phòng chống tham nhũng, tiêu cực “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, bất kể người đó là ai” - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cho biết và một lần nữa nhấn mạnh vừa qua cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận quốc tế đồng tình, ủng hộ.

“Công tác này triển khai quyết liệt triệt để chiến thắng giặc nội xâm” – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định. Cũng theo ông Tô Lâm, gắn liền với công tác PCTN, tiêu cực là tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, thúc đẩy tháo gỡ khó khăn, rào cản cả về thể chế, quy định để tạo khí thế mới, không gian để phát triển KTXH. Theo Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, cá nhân ông may mắn khi giữ cương vị Bộ trưởng Bộ Công an đồng thời là Phó trưởng Ban Chỉ đạo Trung về PCTN, tiêu cực và trực tiếp tham gia chỉ đạo công tác này. Bây giờ được sự tin tưởng của Đảng, tín nhiệm của nhân dân bầu ông làm Tổng Bí thư, đồng thời giao trọng trách Trưởng Ban chỉ đạo thì ông tin công việc này sẽ tiếp tục phát huy.

“Rất mong nhận được sự đồng tình, ủng hộ của cả hệ thống chính trị, đặc biệt là sự giám sát, đồng tình ủng hộ của nhân dân để công tác này thành công tốt đẹp” - Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm nói.

Về đường lối đối ngoại, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước khẳng định, không có gì thay đổi, sẽ tổ chức thật tốt đường lối và nghị quyết cũng như phát huy thành quả công tác đối ngoại đã đạt được thời gian qua. Ông Tô Lâm cho biết, trên cương vị Chủ tịch nước, khi tiếp một số đại biểu quốc tế ông cũng thẳng thắn chia sẻ rằng, sở dĩ Việt Nam có đường lối đối ngoại triển khai tốt đẹp và nâng cao vị thế, uy tín trên trường quốc tế thì qua thực tiễn điều hành có thể rút ra mấy điểm: Trước hết là giữ vững quan điểm độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường trong hoạt động đối ngoại. Lợi ích quốc gia dân tộc là trên hết, luôn bảo vệ, tôn trọng. Không phụ thuộc vào ai, không bị lôi kéo theo xu hướng quốc tế khác. Việt Nam là bạn với các nước trên thế giới.

“Truyền thống của Việt Nam là “giàu vì bạn”. Muốn phát triển thì phải đoàn kết, tăng thêm nhiều bạn thì tăng thêm sức mạnh, không kể nước lớn, nước nhỏ, xa hay gần. Qua đàm phán, ngoại giao, trao đổi để tiến tới lợi ích gần nhau hơn” – Tổng Bí thư, Chủ tịch nước nhấn mạnh.

Ông Tô Lâm cũng khẳng định, Việt Nam có trách nhiệm với nền chính trị thế giới, với nền kinh tế toàn cầu và tích cực với nền văn minh của nhân loại. Việt Nam tham gia tích cực vào vấn đề hoà bình quốc tế và khu vực, có trách nhiệm trong tháo gỡ xung đột với chính sách yêu chuộng hoà bình, hợp tác đoàn kết là xuyên suốt. “Định hướng về chính sách đối ngoại là không thay đổi”, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm khẳng định, đồng thời một lần nữa nhấn mạnh “dĩ bất biến ứng vạn biến”, hòa hiếu, “lấy chí nhân thay cường bạo” là truyền thống ngàn đời nay của dân tộc ta.

TÓM TẮT TIỂU SỬ ĐỒNG CHÍ TÔ LÂM
Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam,
Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Ngày sinh: 10/7/1957, Dân tộc: Kinh.
- Quê quán: Xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
- Nơi ở hiện nay: Số 64 Phan Đình Phùng, phường Quán Thánh, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội.
- Ngày vào Đảng: 22/8/1981.
- Trình độ: Giáo sư, Tiến sĩ Luật học.
- Uỷ viên Trung ương Đảng khoá XI, XII, XIII.
- Uỷ viên Bộ Chính trị khoá XII, XIII.
- Đại biểu Quốc hội khoá XIV, XV.
- Thứ trưởng Bộ Công an: 2010 - 2016.
- Bộ trưởng Bộ Công an: 2016 - 2024.
- Được thăng cấp bậc hàm Đại tướng Công an nhân dân tháng 01/2019.
- Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: 2024.
- Ngày 03/8/2024: Được Ban Chấp hành Trung ương Đảng bầu giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khoá XIII./.




Theo VOV.VN
Yêu nước ST.

Thứ Sáu, 2 tháng 8, 2024

Toàn văn Phát biểu nhận chức của Tổng Bí thư BCHTW Đảng

 Sáng 3/8/2024, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã họp để giới thiệu nhân sự và bầu đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ thay mặt Bộ Chính trị điều hành Hội nghị. Trước khi bước vào phiên họp, BCH Trung ương Đảng đã dành phút tưởng niệm đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Tại Hội nghị, căn cứ các quy định của Đảng, trên cơ sở định hướng giới thiệu nhân sự của Bộ Chính trị, Trung ương đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thảo luận dân chủ, suy tôn, thống nhất rất cao với số phiếu tuyệt đối 100% bầu đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII.

VTV trân trọng giới thiệu toàn văn Phát biểu nhậm chức của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng:

"Thưa các đồng chí Trung ương!

Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị!

Trước hết, Tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Chính trị đã tin tưởng giới thiệu, các đồng chí Trung ương đã tín nhiệm bầu, giao cho Tôi trọng trách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII. Đây là vinh dự lớn lao, đồng thời cũng là trách nhiệm to lớn trước Đảng, trước Nhân dân, trước lịch sử hào hùng nghìn năm văn hiến của dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới.

Tôi xin hứa trước Trung ương, trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, sẽ không ngừng nỗ lực phấn đấu, cùng các đồng chí Trung ương kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang, kinh nghiệm quý báu của Đảng ta và những thành quả mà các kỳ Đại hội, trong đó có Đại hội lần thứ XIII đã đạt được; phát huy cao nhất tinh thần "tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc"; không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; gắn kết tư tưởng và hành động, ý đảng và lòng dân; tận tâm, tận lực, tận hiến, phấn đấu hy sinh vì Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh; vì nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tập trung chỉ đạo tổ chức tốt việc tổng kết 40 năm đổi mới đất nước và các công việc để tổ chức thành công Đại hội XIV của Đảng, kế thừa những thành tựu lý luận quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết, đề ra đường lối đúng đắn, đưa đất nước tiếp tục phát triển toàn diện trong thời gian tới.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII sẽ là một tập thể vững mạnh, hạt nhân quy tụ sức mạnh, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, trước hết là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tạo nền tảng vững chắc hoàn thành mục tiêu của đất nước 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thay đổi vừa qua trong Đảng góp phần tăng cường sức mạnh của Đảng, củng cố đoàn kết, thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, niềm tin của nhân dân với Đảng.

Tôi mong tiếp tục nhận được sự phối hợp chặt chẽ của các đồng chí Trung ương để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chặng đường phía trước còn nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với sự đoàn kết, nhất trí, phát huy trí tuệ, bản lĩnh và những quyết sách mạnh mẽ, đúng đắn, sáng suốt của Đảng, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng đất nước ta sẽ ngày càng phát triển phồn vinh, nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, dân tộc ta ngày càng cường thịnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Một lần nữa, tôi xin cảm ơn chân thành và sâu sắc về việc Trung ương và toàn Đảng đã tin cậy giao cho tôi trọng trách lớn.

Chúc toàn thể các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Xin trân trọng cảm ơn!"

TOÀN VĂN: PHÁT BIỂU NHẬM CHỨC CỦA TỔNG BÍ THƯ BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG!

     Sáng 3/8, căn cứ các quy định của Đảng, trên cơ sở định hướng giới thiệu nhân sự của Bộ Chính trị, Trung ương đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thảo luận dân chủ, suy tôn, thống nhất rất cao với số phiếu tuyệt đối 100% bầu đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII.
Sáng 3/8/2024, tại Thủ đô Hà Nội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã họp để giới thiệu nhân sự và bầu đồng chí Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. 

Đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ thay mặt Bộ Chính trị điều hành Hội nghị.

Tại Hội nghị, căn cứ các quy định của Đảng, trên cơ sở định hướng giới thiệu nhân sự của Bộ Chính trị, Trung ương đã nêu cao tinh thần trách nhiệm, tập trung trí tuệ, thảo luận dân chủ, suy tôn, thống nhất rất cao với số phiếu tuyệt đối 100% bầu đồng chí Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam giữ chức Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII.

Xin trân trọng giới thiệu toàn văn Phát biểu nhậm chức của Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng:


“Thưa các đồng chí Trung ương!
Thưa các đồng chí tham dự Hội nghị!
Trước hết, Tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Chính trị đã tin tưởng giới thiệu, các đồng chí Trung ương đã tín nhiệm bầu, giao cho Tôi trọng trách Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XIII. Đây là vinh dự lớn lao, đồng thời cũng là trách nhiệm to lớn trước Đảng, trước Nhân dân, trước lịch sử hào hùng nghìn năm văn hiến của dân tộc và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời đại mới.

Tôi xin hứa trước Trung ương, trước toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, sẽ không ngừng nỗ lực phấn đấu, cùng các đồng chí Trung ương kế thừa, phát huy mạnh mẽ truyền thống vẻ vang, kinh nghiệm quý báu của Đảng ta và những thành quả mà các kỳ Đại hội, trong đó có Đại hội lần thứ XIII đã đạt được; phát huy cao nhất tinh thần “tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc”; không ngừng tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng chống tham nhũng, tiêu cực; gắn kết tư tưởng và hành động, ý đảng và lòng dân; tận tâm, tận lực, tận hiến, phấn đấu hy sinh vì Đảng Cộng sản Việt Nam vững mạnh; vì nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; Nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tập trung chỉ đạo tổ chức tốt việc tổng kết 40 năm đổi mới đất nước và các công việc để tổ chức thành công Đại hội XIV của Đảng, kế thừa những thành tựu lý luận quan trọng về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được các thế hệ lãnh đạo của Đảng, trong đó có đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúc kết, đề ra đường lối đúng đắn, đưa đất nước tiếp tục phát triển toàn diện trong thời gian tới.

Tôi tin tưởng chắc chắn rằng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII sẽ là một tập thể vững mạnh, hạt nhân quy tụ sức mạnh, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, trước hết là Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tạo nền tảng vững chắc hoàn thành mục tiêu của đất nước 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, nay là Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Những thay đổi vừa qua trong Đảng góp phần tăng cường sức mạnh của Đảng, củng cố đoàn kết, thống nhất, nâng cao hiệu lực, hiệu quả, niềm tin của nhân dân với Đảng.

Tôi mong tiếp tục nhận được sự phối hợp chặt chẽ của các đồng chí Trung ương để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Chặng đường phía trước còn nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với sự đoàn kết, nhất trí, phát huy trí tuệ, bản lĩnh và những quyết sách mạnh mẽ, đúng đắn, sáng suốt của Đảng, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng đất nước ta sẽ ngày càng phát triển phồn vinh, nhân dân ta ngày càng ấm no, hạnh phúc, dân tộc ta ngày càng cường thịnh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

Một lần nữa, tôi xin cảm ơn chân thành và sâu sắc về việc Trung ương và toàn Đảng đã tin cậy giao cho tôi trọng trách lớn.

Chúc toàn thể các đồng chí sức khỏe, hạnh phúc và thành công. Xin trân trọng cảm ơn!"./.


Yêu nước ST.

LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH TRONG “THƯ GỬI CÁN BỘ VÀ CHIẾN SĨ HẢI QUÂN”

 


Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư gửi cán bộ và chiến sĩ Hải quân”, Báo Nhân dân đăng số 4147, ngày 11 tháng 8 năm 1965. Bác viết: “Các chú hãy ra sức phát huy ưu điểm, sữa chữa nhược điểm, khó không nản, thắng không kiêu, cùng với đơn vị bạn và nhân dân quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp bảo vệ miền Bắc, ủng hộ cách mạng giải phóng miền Nam tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà”.

Nhân dịp Kỷ niệm 10 năm Ngày truyền thống của Quân chủng Hải quân, Bác Hồ đã gửi thư chúc mừng và biểu dương thành tích trong xây dựng, chiến đấu và chiến thắng của Hải quân; đồng thời, Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân cần tiếp tục phát huy truyền thống và thành tích đã đạt được, chủ động khắc phục khó khăn, gian khổ, phấn đấu hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân chủng Hải quân đã phát huy truyền thống “Quyết chiến, quyết thắng” của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng ra quân đánh thắng ngay từ trận đầu; bất chấp mưa bom, bão đạn và muôn vàn khó khăn, gian khổ trên những chuyến tàu không số trở đầy hàng hóa, ngày đêm vượt biển chi viện đắc lực cho tiền tuyến lớn miền Nam, dệt nên một huyền thoại đường Hồ Chí Minh trên biển, tham gia cuộc Tổng tiến công chiến lược mùa Xuân năm 1975, góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc Việt Nam như Bác hằng mong ước. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân chủng Hải quân luôn nắm vững tình hình, chủ động tham mưu cho Đảng, Nhà nước, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng có chủ trương, đối sách đúng đắn, phù hợp trong xử lý các vấn đề nhạy cảm xảy ra trên biển; tập trung xây dựng Quân chủng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, không ngừng nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng sẵn sàng chiến đấu, làm nòng cốt bảo vệ vững chắc chủ quyền, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định các vùng biển, đảo và thềm lục địa của Tổ quốc, tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng biển, quyết chiến, quyết thắng” của Hải quân nhân dân Việt Nam anh hùng./.


“ĐIỆN GỬI ĐỒNG BÀO XÃ ĐOÀI” CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

 


Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Điện gửi đồng bào xã Đoài”, Báo Nhân dân đăng số 5233, ngày 10 tháng 8 năm 1968.

Đây là giai đoạn đế quốc Mỹ dùng không quân, hải quân bắn phá miền Bắc để cắt đường tiếp tế của hậu phương cho chiến trường miền Nam, chúng đã tàn phá nhiều thành phố, làng quê; ngày 21 tháng 7 năm 1968 máy bay Mỹ bắn phá xã Đoài, tỉnh Nghệ An làm 02 giám mục, 03 linh mục bị thương; một số tu sĩ, đồng bào giáo và lương bị thương và tử vong, nhà thờ bị hư hỏng, hàng trăm nhà dân bị tàn phá. Biết tin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Điện thăm hỏi, động viên nhân dân xã Đoài, tỉnh Nghệ An; trong Điện Bác kêu gọi: “Đồng bào lương và giáo hãy đoàn kết chặt chẽ, giúp đỡ lẫn nhau”.

Việt Nam là đất nước đa dân tộc, tôn giáo, trong quá trình lãnh đạo đất nước Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc xây dựng khối đoàn kết chặt chẽ giữa các tôn giáo, các dân tộc trong khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân với chính sách tôn giáo nhất quán: “Tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo và quyền tự do không tín ngưỡng, tôn giáo của công dân”; công dân có tín ngưỡng, tôn giáo hay không có tín ngưỡng, tôn giáo đều là công dân Việt Nam, có quyền và nghĩa vụ như nhau. Đoàn kết lương - giáo là đoàn kết giữa đồng bào theo tôn giáo và đồng bào không theo tôn giáo; đoàn kết giữa đồng bào theo các tôn giáo khác nhau trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Thực hiện chức năng đội quân công tác, cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn quán triệt và thực hiện nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, Nhà nước về công tác dân vận, nhất là trên các địa bàn có đồng bào theo đạo, tham gia xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường quốc phòng - an ninh, phát triển kinh tế - xã hội; giúp dân xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn nhất là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, nhất là những luận điệu xuyên tạc, mua chuộc, lôi kéo, xúi giục các chức sắc tôn giáo có quan điểm tiêu cực để kích động quần chúng nhân dân tụ tập đông người, biểu tình bất hợp pháp, bạo động… gây mất đoàn kết giữa đồng bào lương - giáo trên địa bàn, củng cố đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo và tình hữu nghị với các nước láng giềng, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết các dân tộc Việt Nam, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.


LỜI BÁC DẠY: “LỬA THỬ VÀNG, GIAN NAN THỬ BẠN”

 


Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bài: “Thực dân Pháp xâm lăng Bidéctơ”, đăng trên Báo Nhân dân, số 2697, ngày 09 tháng 8 năm 1961.

Bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch trần âm mưu, thủ đoạn thâm độc, tâm địa đen tối của chủ nghĩa đế quốc, thực dân thông qua việc thực dân Pháp xây dựng căn cứ quân sự kiên cố ở Bidéctơ - một cửa biển của nước Tuynidi, sau đó được Mỹ bật đèn xanh (cũng có căn cứ quân sự tại đây) dùng vũ lực tiếp tục chiếm đóng nốt phần còn lại của thành phố Bidéctơ (Tuynidi). Nhân vấn đề ở Bidéctơ, Người muốn cảnh tỉnh quân và dân ta nhận rõ đâu là bạn, đâu là thù để không mắc mưu kẻ thù.

Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh về bạn, thù đối với cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã xác định đúng đắn đường lối đối ngoại để tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè quốc tế đối với sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Trong sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội nhập quốc tế hiện nay, thấu triệt tư tưởng của Bác, Đảng ta đã đổi mới tư duy “bạn và thù” sang “đối tác và đối tượng” - đây là bước đột phá mở đầu cho những thành tựu của cách mạng nước ta, góp phần xây dựng, củng cố đoàn kết trong Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế, đã được phát triển, bổ sung và cụ thể hóa trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới: “Những ai tôn trọng độc lập, chủ quyền, thiết lập và mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác; bất kỳ thế lực nào có âm mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng. Mặt khác, trong tình hình diễn biến nhanh chóng và phức tạp như hiện nay, cần có cách nhìn biện chứng: Trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ hợp tác; trong mối đối tác có thể có mặt mâu thuẫn với lợi ích của ta cần phải đấu tranh”.

Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện đã cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, giải phóng đất nước, hoàn thành nhiệm vụ quốc tế cao cả và bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc. Sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta là sức mạnh tổng hợp của nhiều nhân tố; trong đó, có sự giúp đỡ, ủng hộ của bạn bè quốc tế, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa anh em trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng đất nước. Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng chính quy… công tác đối ngoại quốc phòng được triển khai đồng bộ, toàn diện trên các mặt công tác; xử lý linh hoạt, kiên quyết, có hiệu quả các tình huống phức tạp nảy sinh trên biển, đảo, thềm lục địa, biên giới, là kênh quan trọng, hiệu quả, góp phần bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền lãnh thổ từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình, không để xảy ra xung đột, đối đầu, không để bị động bất ngờ trước mọi tình huống… góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh…

LỜI BÁC DẠY NGÀY NÀY NĂM XƯA

 


“Nước Việt Nam là một khối thống nhất về mặt dân tộc, lịch sử và kinh tế, và không một lực lượng nào trên thế giới có thể chia cắt được Việt Nam”. Là sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Diễn từ tiệc chiêu đãi ở Bêôgrát (Nam Tư)”, Báo Nhân dân đăng trên số 1248, ngày 08 tháng 8 năm 1957.

Trong chuyến thăm và làm việc của Đoàn cao cấp Chính phủ Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh dẫn đầu đến Nam Tư, phát biểu tại tiệc chiêu đãi của nước chủ nhà dành cho Đoàn ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thông báo cho bạn biết về việc đế quốc Mỹ đã nhảy vào thế chân thực dân Pháp, cấu kết với bọn bù nhìn ở miền Nam Việt Nam bội ước, phá hủy các điều ước đã ký tại Hiệp nghị Giơnevơ, biến đường giới tuyến tạm thời ở vĩ tuyến 17 thành một đường biên giới, cố tình chia cắt đất nước Việt Nam lâu dài.

Với tinh thần “Dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải giành lấy độc lập”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã bày tỏ quyết tâm chiến đấu giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước của toàn thể dân tộc Việt Nam. Lời của Bác là ý chí sắt đá của Đảng, quyết tâm của cả dân tộc, động viên quân và dân cả nước giữ vững ý chí, quyết tâm, nêu cao tinh thần tự lực, tự cường, ra sức tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc tế, nhất là các nước xã hội chủ nghĩa anh em để chiến đấu, chiến thắng quân xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Quân đội nhân dân Việt nam do Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện, lực lượng chính trị, đội quân chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, nhân dân, khắc ghi lời Bác Hồ dạy luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu; nêu cao tinh thần chịu đựng gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao đã cùng với toàn Đảng, toàn dân đánh bại mọi kẻ thù xâm lược, thống nhất đất nước. Trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cán bộ, chiến sĩ toàn quân cũng kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa... hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; có thái độ phân biệt đúng, sai, không dao động trước các tác động tiêu cực, khó khăn, hiểm nguy, xứng đáng với danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ”./.


LỜI DẠY CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH ĐƯỢC TRÍCH TRONG BÀI NÓI TẠI ĐẠI HỘI THI ĐUA “QUYẾT TÂM ĐÁNH THẮNG GIẶC MỸ XÂM LƯỢC CỦA CÁC LỰC LƯỢNG VŨ TRANG NHÂN DÂN

 


Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại Đại hội Thi đua “Quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của các lực lượng vũ trang nhân dân” tổ chức ngày 07 tháng 8 năm 1965 tại Thủ đô Hà Nội, đó là: “Quản lý bộ đội tốt, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần tốt trong mọi hoàn cảnh”.

Đây là Đại hội đầu tiên của các đơn vị anh hùng, chống Mỹ, cứu nước. Tại Đại hội này có 367 đơn vị quân đội, công an vũ trang và dân quân tự vệ toàn miền Bắc được tặng danh hiệu đơn vị Quyết thắng.

Là người sáng lập và rèn luyện Quân đội ta trưởng thành, lớn mạnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đến sự nghiệp xây dựng, phát triển quân đội một cách toàn diện, chính qui, hiện đại; Người đã dành cả tấm lòng thương yêu vô bờ như tình cảm cha con, bác cháu, đồng chí cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam với sự quan tâm ân cần đặc biệt về mọi mặt.

Học tập và làm theo lời Bác Hồ dạy “Quản lý bộ đội tốt, bảo đảm đời sống vật chất và tinh thần tốt trong mọi hoàn cảnh”, cấp ủy, chính ủy, chính trị viên, người chỉ huy các cấp trong toàn quân luôn quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, làm tốt công tác giáo dục, quản lý, rèn luyện và chăm lo bảo đảm tốt đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội. Các đơn vị đã làm tốt công tác quản lý bộ đội từ khâu tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ và trong suốt quá trình tại ngũ của người quân nhân với quy trình chặt chẽ, thống nhất; các đơn vị đóng quân và làm nhiệm vụ ở vùng biên giới, hải đảo, nhà giàn DK1… cấp ủy, chỉ huy đơn vị đã có nhiều chủ trương, giải pháp, mô hình, cách làm sáng tạo để bảo đảm tốt nhất đời sống vật chất, tinh thần cho bộ đội bảo đảm cho mọi cán bộ, chiến sĩ yên tâm công tác, gắn bó với đơn vị, nhiều phong trào, mô hình đã được triển khai đạt hiệu quả thiết thực trên thực tế, tiêu biểu: “Đơn vị là nhà, đồng đội là người thân”, “Đồn là nhà, biên giới là quê hương, bà con các dân tộc là anh em ruột thịt”, “Đảo là nhà, tàu là nhà, biển cả là quê hương”…; cán bộ, chiến sĩ toàn quân luôn tin tưởng và chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, kỷ luật của quân đội; có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có ý chí, nghị lực phấn đấu đúng đắn, thường xuyên, liên tục, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao./.


“BỘ ĐỘI ĐƯỢC DÂN YÊU, DÂN TIN, DÂN PHỤC THÌ NHẤT ĐỊNH THẮNG LỢI”

 


Đó là lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong buổi nói chuyện tại Hội nghị quân sự lần thứ 5, họp đầu tháng 8 năm 1948.

Quân đội nhân dân Việt Nam, quân đội của dân, do dân và vì dân, được sinh ra và lớn lên từ phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân. Trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã không ngừng lớn mạnh, lập nhiều chiến công hiển hách, xứng đáng là lực lượng nòng cốt của nền quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân trong sự nghiệp giải phóng dân tộc trước đây, cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay. Sức mạnh chiến đấu, chiến thắng của Quân đội ta được bắt nguồn từ nhiều yếu tố; trong đó, sự giúp đỡ, đùm bọc của nhân dân có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng, không chỉ là nguồn cung cấp sức người, sức của cho quân đội, mà chính nhân dân còn là lực lượng luôn giúp đỡ, nuôi dưỡng, đùm bọc bộ đội trong mọi điều kiện, hoàn cảnh.

Thấu triệt lời Bác Hồ dạy, thực hiện chức năng, nhiệm vụ đội quân chiến đấu, công tác và lao động sản xuất, cán bộ, chiến sĩ quân đội không chỉ chiến đấu bảo vệ nhân dân, mà luôn giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, quan tâm giúp đỡ nhân dân trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, tham gia phòng chống thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả chiến tranh… Đặc biệt, các binh đoàn, đoàn kinh tế - quốc phòng đã gắn kết chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng - an ninh, thực hiện công tác dân vận, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, tạo công ăn việc làm cho người dân, giúp dân chuyển đổi vật nuôi, cây trồng, bao tiêu sản phẩm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng đời sống văn hóa mới, làm thay đổi bộ mặt nông thôn trên địa bàn chiến lược trọng yếu. Đồng thời, chủ động tuyên truyền, nâng cao ý thức cảnh giác cho các tầng lớp nhân dân, đấu tranh có hiệu quả với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch trên địa bàn, bảo vệ cấp ủy, chính quyền địa phương, củng cố đoàn kết các dân tộc và tình hữu nghị với các nước láng giềng. Cán bộ, chiến sĩ toàn quân phải luôn tự hào, giữ gìn và phát huy phẩm chất cao đẹp “Bộ đội Cụ Hồ” trong tình hình mới, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong toàn quân và xã hội, góp phần bồi dưỡng nhận thức, tư tưởng, tình cảm, khơi dậy ý chí quyết tâm của quần chúng nhân dân trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc, xứng đáng với sự tin yêu của Đảng, Nhà nước, nhân dân./.