Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024
ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG CHỐNG THAM NHŨNG ĐỂ “BẤT TUÂN DÂN SỰ”!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGÀY TẾT ĐỘC LẬP, CÙNG NGHE LẠI CÂU CHUYỆN RẤT HAY, SÂU SẮC VỀ TÀI ỨNG XỬ CỦA BÁC HỒ!
“SỢ GIÀU”!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THẦY DẠY SỬ ĐÃ DẠY CHÍNH PHỦ MỸ NHƯ THẾ NÀO?
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC TÔ LÂM THĂM GIA ĐÌNH CỐ NHẠC SĨ VĂN CAO VÀ CỐ HỌA SĨ BÙI TRANG CHƯỚC!
THỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC TRÊN MẠNG XÃ HỘI: DÙ LÀ AI, DÙ Ở BẤT CỨ NƠI NÀO, NGÀY 2/9 CÙNG NHAU HƯỚNG VỀ LÁ CỜ TỔ QUỐC, TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM, LAN TỎA TINH THẦN DÂN TỘC VÀ LÒNG YÊU NƯỚC.....
NAM SINH ĐƯỜNG LÊN ĐỈNH OLYMPIA GÂY PHẪN NỘ VÌ VÔ ƠN VỚI ĐẤT NƯỚC!
Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với khát vọng xây dựng một xã hội thực sự vì con người ở Việt Nam trong bối cảnh mới
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện quyết tâm mạnh mẽ, bền bỉ trong xây dựng một xã hội Việt Nam phát triển bền vững, vì con người; từ phương châm “Dân là gốc”, Đồng chí xác định lợi ích của nhân dân là tối thượng, đích đến của mọi chính sách và quyết sách. Trong bối cảnh mới, khát vọng xây dựng một xã hội thực sự vì con người của Tổng Bí thư là lý tưởng cao đẹp, động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển toàn diện đất nước, góp phần định hướng và định hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nơi mỗi cá nhân đều có điều kiện để sống, lao động, phát triển toàn diện, cống hiến một cuộc đời ý nghĩa, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.
Quan điểm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng một xã hội thực sự vì con người
Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, trải qua nhiều vị trí công tác, cương vị lãnh đạo khác nhau, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn trăn trở, quyết tâm xây dựng một xã hội phát triển vì con người, có nền văn hóa tiến bộ, nhân văn, nhân ái và lương tri, phẩm giá mỗi cá nhân không ngừng được nâng tầm, hoàn thiện. Đó chính là sự kế thừa và phát huy những giá trị tư tưởng tốt đẹp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại để lại, đặc biệt, chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa, những quyền lợi ấy của con người mới được bảo đảm, gìn giữ, là niềm mong ước của nhân dân trong mọi thời kỳ, hoàn cảnh đất nước.
Ngày nay, mặc dù chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển về nhiều mặt, nhưng bản chất bóc lột, hiếu chiến cố hữu của chủ nghĩa tư bản (CNTB) không thay đổi, bởi “chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra”. Theo đó, nền dân chủ tư sản mà lâu nay các nước phương Tây ra sức rao giảng, áp đặt lên toàn thế giới thực chất là một mô hình dân chủ giả hiệu, không bảo đảm, thực hiện đầy đủ nguyên tắc quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, khi quyền lực vẫn chủ yếu nằm trong tay giai cấp tư sản, những tập đoàn tư bản giàu có. Có thể thấy, chính “sự rêu rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó dẫn đến dân chủ chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át”. Những vấn đề nội tại của CNTB là vấn đề nan giải, dù chúng có được che đậy tinh vi đến đâu, đặc biệt là mâu thuẫn cung - cầu, sự phân cực giàu - nghèo trong xã hội, xung đột lợi ích trong nội tại hoặc giữa các nước tư bản, sự đối kháng giai cấp giữa công nhân và tư sản, giữa lao động và tư bản, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phân biệt tôn giáo,… Để có thể kiểm soát quyền lực, CNTB không ngừng gây chiến tranh và xem đây như giải pháp cứu cánh khi nền sản xuất tư bản gặp khủng hoảng, bị ế thừa, cố gắng tạo thị trường mới để đầu tư ra nước ngoài hay nhân danh bảo vệ dân chủ và tự do nhằm tìm kiếm sự đồng thuận từ người dân trong nước cũng như trên toàn thế giới,… Như vậy, chắc chắn đây không thể là kiểu mô hình tổ chức, chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam mong đợi, càng không phải là tương lai của nhân loại, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội”.
Chính vì lẽ đó, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, đất nước Việt Nam luôn kiên định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bởi đây “là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Vì giá trị, bản chất ưu việt của CNXH luôn hướng đến mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, con người, tạo điều kiện để con người được phát triển toàn diện về mọi mặt; là nơi người dân được tự do, sống trong hòa bình và tình hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà đất nước đang xây dựng là nơi giàu tình nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; có sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên, bảo đảm môi trường sống lành mạnh cho các thế hệ hiện tại và tương lai; có hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải cho một thiểu số giàu có. Mặt khác, chỉ xã hội chủ nghĩa mới “có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc” và không có sự cạnh tranh chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, không vì lợi nhuận mà bóc lột, chà đạp lên phẩm giá con người, không có kiểu cạnh tranh bất công, cá lớn nuốt cá bé vì lợi ích vị kỷ của một số cá nhân và các phe nhóm. Đây chính là những khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của toàn nhân loại tiến bộ.
Diện mạo một xã hội tươi đẹp ngày càng hiện rõ ở Việt Nam dưới ánh sáng những di sản của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Quan điểm về CNXH của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ dừng lại ở mặt lý luận và khát vọng trên hệ thống lý thuyết, mà đang dần được hiện thực hóa trong đời sống xã hội Việt Nam. Theo đó, con người luôn được xem là chủ thể, giữ vị trí trung tâm mọi chiến lược phát triển; tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, trong đó, nhiệm vụ phát triển văn hóa, xây dựng con người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới; giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí của phát triển bền vững; chú trọng xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, trở thành tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội; thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ, văn minh,... Nhiều thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng CNXH, đặc biệt là qua gần 40 năm đổi mới đất nước đã minh chứng cho sự lựa chọn đúng đắn, sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trên chặng đường xây dựng xã hội mới, cụ thể:
Thứ nhất, đó là sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững của đất nước. Từ vị trí xuất phát điểm thấp, rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trước giai đoạn đổi mới, tư duy bảo thủ, trì trệ, phương thức tổ chức sản xuất mang tính bao cấp, lạc hậu, nhân dân nhiều nơi còn thiếu ăn, thiếu mặc, thu nhập bình quân đầu người ở nhóm thấp nhất thế giới..., thì đến nay, nền kinh tế đất nước không những thoát khỏi khủng hoảng trong tình trạng nước kém phát triển, mà đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình, hướng tới thu nhập trung bình cao thời gian tới. Năm 2023, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của cả nước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng (tương đương 430 tỷ USD); thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt mốc 100 triệu đồng/người/năm. Mặt khác, cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội có sự thay đổi lớn, kinh tế nhà nước hiện chiếm khoảng 27%, kinh tế tập thể là 4%, kinh tế hộ gia đình chiếm 30%, kinh tế tư nhân chiếm 10% trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Việt Nam trở thành thành viên tích cực của nền kinh tế thế giới, có quy mô, trình độ khoa học - công nghệ đang phát triển, thậm chí, theo dự báo, đến năm 2038, nước ta có tiềm năng phát triển trở thành một trong những quốc gia thuộc tốp 25 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Thứ hai, công tác quản lý, phát triển xã hội gắn chặt với nhiệm vụ bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; phát triển kinh tế gắn chặt với thực thi dân chủ và bảo đảm lợi ích toàn diện cho nhân dân, đồng thời kết quả tiến bộ và công bằng xã hội trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt thành tựu nổi bật, đưa Việt Nam là một trong những quốc gia thực hiện thành công, sớm hơn dự định nhiều Mục tiêu thiên niên kỷ do Liên hợp quốc phát động. Mặt khác, các chỉ số thụ hưởng dịch vụ cơ bản, như y tế, giáo dục, nước sạch, tỷ lệ sử dụng điện sinh hoạt, hộ gia đình có đồ dùng giá trị, chất lượng nhà ở,… ngày càng được nâng cao; hệ thống phương tiện thông tin liên lạc của người dân không ngừng được cải thiện theo hướng tích cực. Nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận, tính đến hết năm 2023, cả nước có khoảng 6.370/8.167 (chiếm78%) xã đạt chuẩn NTM (trong đó 1.612 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 256 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; có 270 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM); kết cấu hạ tầng được cải thiện, hầu hết các xã đều có đường lớn đến trung tâm, mạng điện lưới quốc gia chất lượng, hệ thống trường học, trạm y tế, trụ sở hành chính, sân chơi,…
Thứ ba, “sức mạnh mềm” của dân tộc Việt Nam luôn là nguồn lực nội sinh bền vững, biểu hiện trong hệ thống các giá trị về tinh thần, văn hóa, sức mạnh từ truyền thống, lịch sử, lòng yêu nước, ý chí, lòng tự tôn dân tộc và khát vọng vươn lên ngày càng được phát huy. Cộng đồng 54 dân tộc anh em trong ngôi nhà chung đất nước Việt Nam giàu bản sắc văn hóa, truyền thống; sự đoàn kết, tương thân, tương ái, trọng nghĩa tình,… được đúc kết và trao truyền qua các thế hệ. Thực tế chứng minh, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước thì thương nhau cùng” đã trở thành sợi dây tinh thần vô giá để gắn kết chặt chẽ, truyền trao yêu thương, sẻ chia, đùm bọc trong các quan hệ xã hội và người dân mọi lúc, mọi nơi. Những năm, tháng phòng, chống đại dịch Covid-19, tinh thần tương thân, tương ái, nhân văn, đoàn kết, tương trợ được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết, xuất hiện những tấm gương thầy thuốc, người dân sẵn sàng dấn thân, nhường cơm, sẻ áo, chăm lo cho đồng bào,... Có thể thấy, tinh thần dân tộc, nhân ái luôn “cháy” trong huyết quản của mỗi người dân Việt Nam. Tất cả những biểu hiện sinh động và cao đẹp đó chính là sự tiến bộ và nhân văn, đã trở thành hiện thực và sẽ là giá trị trong suốt tiến trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì con người ở nước ta.
Những thành tựu đạt được là cơ sở hiện thực để cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.
Kiên định mục tiêu xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp
Tiếp nối thành tựu to lớn đạt được, đồng thời khắc ghi tư tưởng, mong muốn của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục nỗ lực, quyết tâm phấn đấu nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước ngày càng “phồn vinh, hạnh phúc”; xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp, vì con người theo các nhiệm vụ cơ bản sau:
Thứ nhất, tiếp tục phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Sinh thời, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh đến vai trò, ý nghĩa của sự đoàn kết từ người đứng đầu đến cả hệ thống chính trị với tinh thần “Nhất hô bá ứng, tiền hô hậu ủng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Đại hội XIII của Đảng cũng xác định, phải “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc”. Theo đó, cần không ngừng trau dồi, hun đúc tình cảm, khát vọng xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh của nhân dân; chú trọng phát huy yếu tố sức mạnh nội lực nhằm tạo động lực mạnh mẽ trong bảo vệ Tổ quốc; mỗi cán bộ, đảng viên phải rèn luyện nghị lực, ý chí để vượt qua khó khăn, trở ngại, cám dỗ, dám nghĩ, dám làm, tất cả vì lợi ích của nhân dân; luôn có ý thức đấu tranh và cảnh giác với những luận điệu xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, hiện thực hóa các giá trị tốt đẹp của CNXH: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Để hiện thực hóa mô hình CNXH ở Việt Nam, theo cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cần sự quyết tâm rất lớn của toàn hệ thống chính trị, sự vào cuộc và tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Muốn vậy, phải luôn chú trọng đến lợi ích của quốc gia - dân tộc và nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, làm tốt công tác an sinh xã hội, an ninh con người, thực hiện thật tốt các chính sách xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh; giữ vững độc lập, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế,... góp phần xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn thịnh.
Thứ ba, làm tốt hơn nữa công tác tư tưởng, hình thành nền nếp, ý thức “tự soi, tự sửa”, tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, lối sống giản dị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cuộc đời và sự nghiệp của cố Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng là tấm gương mẫu mực của người chiến sĩ cộng sản kiên trung để các thế hệ cán bộ, đảng viên noi theo, nhất là trong thực hành nghiêm túc tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đặc biệt là lời dạy của Người về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, từ đó phấn đấu xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; bảo đảm phát triển về kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”. Bên cạnh đó, chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị thật sự “là đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam trên nguyên tắc “Chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai để “không dám” tham nhũng, tiêu cực” và trên tinh thần “Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí”.
Thứ tư, cần huy động nguồn lực toàn diện, tổng hợp trên mọi lĩnh vực để phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước trên tinh thần “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”, trong đó, lấy “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Mặt khác, quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp, kịp thời nhằm “Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”. Tiếp tục quán triệt tinh thần của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, quá trình đổi mới “không phủ nhận thành tựu của quá khứ; không dao động trên những vấn đề nguyên tắc, không lẫn lộn những vấn đề chiến lược với sách lược; kiên định những vấn đề nguyên tắc nhưng đổi mới sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam”.
Hệ thống di sản quý báu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có giá trị bền vững, tiếp tục được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta kế thừa và phát huy để vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, tất cả vì con người như Đồng chí trọn đời ấp ủ, phấn đấu hy sinh./.
ST.
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho Cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau
Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau hơn nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của một bậc thiên tài. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững.
Di chúc là tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, với Nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.
Là người cách mạng, là người mác-xit, thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và đón nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại, chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Người viết: "Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".
Mở đầu Di chúc, với tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Tổ quốc, với Nhân dân, Người tin tưởng chắc chắn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự thống nhất đất nước. Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Người cũng nêu những công việc dự định làm sau đó. Người viết: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta…".
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.
Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi.
Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.
Trong bản thảo Di chúc mà Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau.
Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, Nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”.
Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”( ), mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ”. Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản thảo Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ "thật": “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.
Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.
Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà Nhân dân tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc.
Trong Di chúc, ngay sau khi nói về Đảng, Hồ Chí Minh nói về đoàn viên và thanh niên. Người viết: "ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ". Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".
Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".
55 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng, những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt… Đảng ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh về xây dựng những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Nhân dân rất rõ ràng. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc cực kỳ quan trọng của Đảng, của Nhân dân ta.
Nói về nhân dân lao động, trong Di chúc, Người viết: "NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.
Tuy vậy, Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng".
Suốt cuộc đời của Người là chăm lo cho đời sống của Nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân".
Khi viết VỀ VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".
Ngay cả việc ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của Nhân dân".
Nhân dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì Nhân dân, dành cho Nhân dân. Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".
Đoạn cuối cùng của bản Di chúc thiêng liêng, Người viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Sau bao biến cố thăng trầm của một mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải coi đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sau 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Người, tự hào đã làm được nhiều việc, trân trọng những thành quả đã đạt được, nhưng không khỏi đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội. Trong Đảng vẫn còn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.
Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, những người nắm trọng trách lãnh đạo, không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng.
Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng, toàn Dân đạt được qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.
Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết trong Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.
Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, trước thời điểm phải lựa chọn những người thật sự xứng đáng, thật sự có tài, thật sự có đức, thật sự có tâm, thật sự có tầm để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”./.
ST.
Quốc khánh rạng ngời thiên niên sử
Cách đây 79 năm, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là mốc son chói lọi in đậm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ đây, lịch sử đã bước sang một trang mới: Người dân Việt Nam lần đầu tiên được ngẩng cao đầu, tự hào với thế giới vì mình đã trở thành công dân của một nước độc lập và tự do. 79 năm qua là quá trình phấn đấu, hi sinh của cả dân tộc để bảo vệ, xây dựng Tổ quốc Việt Nam hôm nay.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh: Tư liệu. |
Ngày Quốc khánh bao giờ cũng đem lại cho mỗi người chúng ta những cảm xúc thật đặc biệt. Những người con đất Việt vẫn không khỏi bồi hồi nhắc nhớ cho nhau về nguồn cội, về giá trị của hòa bình, về lịch sử hào hùng của dân tộc. Có thể là những người suốt 79 năm qua lưu giữ nguyên vẹn những kỷ niệm về ngày Tết Độc lập đầu tiên, cũng có thể là những người trẻ sinh ra trong hòa bình chưa từng biết đến chiến tranh nhưng tất cả đều chung một niềm tự hào, xúc động mỗi khi mùa thu cách mạng về.
Từ buổi đầu lập nước, lời tuyên ngôn độc lập khẳng định rằng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía đồng minh chống phát xít, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập! …. Nước Việt Nam có quyền đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Để có những lời tuyên bố đanh thép được cô đọng trong Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao máu xương đã đổ và bao người đã hy sinh. Lịch sử đã chứng kiến biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “sống bám đá chiến đấu, chết thành tượng đá bất tử”, những thanh niên xung phong “sống bám đất, giữ đường, làm cọc tiêu cho xe vượt qua trọng điểm”; những người mẹ, người vợ lần lượt tiễn chồng con ra trận không hẹn ngày về. Không có nỗi đau nào có thể đong đếm được khi 9 người con trai, 2 cháu ngoại và 1 con rể của mẹ Nguyễn Thị Thứ (huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) tiếp chân nhau ra trận rồi lần lượt hy sinh trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc; những em nhỏ xung phong làm liên lạc cho tiền tuyến, những thiếu phụ chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là hậu phương vững chắc để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” … Tất cả đều tái hiện lại như những thước phim tư liệu quay chậm, sống mãi trong ký ức của mỗi người như một bản anh hùng ca bất diệt, trường tồn cùng với hồn thiêng sông núi, con người Việt Nam.
Tuyên ngôn độc lập là lời thề quyết tâm, là bản lĩnh, trí tuệ, hy vọng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam sẵn sàng xả thân để bảo vệ nền độc lập vừa giành được.
Trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, tinh thần của ngày Quốc khánh 2-9 sẽ đời đời bất diệt. Khát vọng hòa bình và tinh thần của Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi con người Việt Nam, là điểm tựa để khơi dậy lòng nhiệt huyết của các thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau quyết giữ vững nền độc lập tự do mà cha ông ta đã chiến đấu, hy sinh mới giành được.
Gần tám thập kỷ trôi qua, trong đó gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân giành được nhiều thắng lợi trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nước Việt nam đã có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa bao giờ có được như hôm nay. Lực ta đã mạnh, thế ta đã cao, bạn bè quốc tế ghi nhận, ngưỡng mộ, Việt Nam đã muốn làm bạn với tất cả các nước, và thực sự Việt Nam đã là đối tác chiến lược, toàn diện với nhiều nước trên thế giới.
Trong thời điểm mà sự cạnh tranh của các nước lớn đang bùng phát, xung đột vũ trang đang có chiều hướng lan rộng, nhanh chóng, rất khó lường; sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật với cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 tác động sâu rộng không những trong lĩnh vực kinh tế - xã hội mà đang được áp dụng mạnh mẽ vào chiến tranh công nghệ cao, đặt ra vấn đề đoàn kết và chung tay bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình trên toàn thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang đoàn kết phấn đấu, quyết tâm xây dựng nước Việt Nam thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, cường thịnh, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong ngày Tết Độc lập, mỗi người Việt Nam dù đang ở bất kỳ nơi đâu, ngay trong lòng đất mẹ hoặc ở xa Tổ quốc, cũng không khỏi xúc động bồi hồi khi nhìn về Tổ quốc đang phát triển từng ngày. Khát vọng hòa bình, độc lập, xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam như được tiếp thêm sức mạnh trong khí thế hào hùng, sôi sục và náo nức của những ngày mùa thu cách mạng.
79 năm qua, ý Đảng, lòng Dân với sự đoàn kết một lòng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, đủ sức đưa con tàu cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, bão táp. Bài học về sức mạnh của khối đại đoàn kết ấy vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hùng cường, dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn./.
ST.