Thứ Hai, 2 tháng 9, 2024

ÂM MƯU, THỦ ĐOẠN LỢI DỤNG CHỐNG THAM NHŨNG ĐỂ “BẤT TUÂN DÂN SỰ”!

         Trong thời gian gần đây, các thế lực thù địch lợi dụng tư tưởng “bất tuân dân sự” để xúi giục, lôi kéo, kích động nhân dân tham gia hoạt động chống phá chính quyền, gây mất ổn định chính trị, trật tự xã hội ở nhiều nơi. Đây là hiện tượng phức tạp cần được nhận diện, đấu tranh quyết liệt để bảo vệ chế độ chính trị, bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo đảm sự ổn định chính trị, xã hội, bảo vệ hạnh phúc của nhân dân.

1. Nhận diện “bất tuân dân sự”.
“Bất tuân dân sự” là tư tưởng của Henry David Thoreau - nhà văn Mỹ, đề xuất năm 1849. Để biện minh cho việc trốn thuế và phải ngồi tù của mình, Thoreau cho rằng cá nhân trong xã hội không cần phải tuân thủ, phục tùng mệnh lệnh từ nhà nước, nếu thấy những điều luật đó không phù hợp.

Chủ thể thực hiện “bất tuân dân sự” là những cá nhân có tư tưởng cực đoan, bất mãn với chính quyền, phản kháng, bị pháp luật điều chỉnh. Đó có thể là cá nhân, tổ chức, hội nhóm, xuất hiện ở mọi thể chế chính trị.

Về bản chất, đây là tư tưởng cực đoan, vô chính phủ, là những tư tưởng sai trái, thù địch với hệ tư tưởng của giai cấp thống trị xã hội.

Về phương thức, “bất tuân dân sự” thể hiện qua các hoạt động ôn hòa, bất bạo động. Ngày nay, “bất tuân dân sự” được các thế lực thù địch, phản cách mạng sử dụng hòng tiến hành các âm mưu thâm độc nhằm chuyển hóa tư tưởng, nhận thức, hành vi của cá nhân, những lực lượng chống phá cách mạng. Từ đó, gây ra tình trạng mất ổn định chính trị, xã hội, thậm chí bạo loạn lật đổ, chống phá chính quyền thông qua bạo động. Các thế lực đen tối triệt để lợi dụng những hạn chế, yếu kém, sai lầm của chính quyền, nhà nước để tạo ra mâu thuẫn xã hội, qua đó thực hiện đan cài các hành vi chống phá. Những phương thức chủ yếu được sử dụng là lôi kéo, kích động nhân dân tụ tập, tuần hành, biểu tình, tạo dựng phong trào phản kháng trong quần chúng, cản trở quá trình thực thi chính sách, luật pháp của nhà nước, yêu cầu nhà nước phải thay đổi chính sách, luật pháp, thậm chí gây bạo loạn, lật đổ.

Từ khi chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực đế quốc xuất hiện, tư tưởng “bất tuân dân sự” đã trở thành một phương thức, thủ đoạn nhằm lật đổ các phong trào cách mạng, các lực lượng chính trị ở các chế độ xã hội khác nhau, dưới danh nghĩa “cách mạng màu”, “cách mạng đường phố”, “cách mạng dù”, “cách mạng nhung”, “cách mạng ca hát”, “cách mạng hoa nhài”… ở Ả Rập, Tiệp Khắc, một số nước Bắc Phi, Trung Đông, Vênêduêla, Hồng Kông (Trung Quốc)…

Ở Việt Nam, việc lan truyền, reo rắc tư tưởng “bất tuân dân sự” chính là âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng Việt Nam, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, hòng lật đổ chế độ XHCN ở Việt Nam. Những năm qua, một số nơi đã diễn ra nhiều hiện tượng thể hiện “bất tuân dân sự”, như: “bất tuân cưỡng chế” khi giải phóng mặt bằng, đòi lập các tổ chức xã hội dân sự, phản đối Luật An ninh mạng, phản đối trả phí BOT giao thông, vu khống vi phạm nhân quyền, đàn áp tôn giáo… Các đối tượng thường dùng thủ đoạn kêu gọi, gặp gỡ, xúi giục, lôi kéo, mua chuộc, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của nhân dân để kích động tâm lý đám đông vào những dịp có sự kiện chính trị quan trọng, ở phạm vi lớn.

2. Âm mưu lợi dụng đấu tranh chống tham nhũng để “bất tuân dân sự”.
Thời gian gần đây, trước việc nhiều vụ án tham nhũng liên quan đến số lượng lớn cán bộ từ trung ương đến địa phương được đưa ra xử lý, các thế lực thù địch lợi dụng để tuyên truyền, xúi giục với tư tưởng “bất tuân dân sự”, nhằm nói xấu cán bộ, chống đối chính quyền, bóp méo bản chất tốt đẹp của chế độ chính trị, hạ thấp vai trò lãnh đạo và uy tín của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước XHCN Việt Nam, gây ra những bất ổn về chính trị xã hội ở một số nơi, một số thời điểm.

Thực tế là, từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã có hàng nghìn cán bộ lãnh đạo, quản lý, trong đó có những cán bộ chủ chốt đã bị khởi tố điều tra vì các tội lợi dụng chức vụ, tham nhũng. Điều này đã ảnh hưởng nhất định đến niềm tin của nhân dân đối với đội ngũ cán bộ của Đảng, Nhà nước. Đại hội XIII nhấn mạnh: “Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”.

Tuy nhiên, cần phải nhận thức rằng, tham nhũng là “căn bệnh” của mọi nhà nước, mọi chế độ có giai cấp, không phải tham nhũng chỉ xuất hiện trong chế độ XHCN như các thế lực thù địch tuyên truyền, xuyên tạc. Trong tác phẩm Nguồn gốc gia đình của chế độ tư hữu và của nhà nước, Ph.Ăngghen viết: “Chính những lợi ích thấp hèn nhất - tính tham lam tầm thường, lòng khao khát hưởng lạc thô bạo, tính bủn xỉn bẩn thỉu, nguyện vọng ích kỷ muốn ăn cắp của công... đã làm suy yếu xã hội thị tộc không có giai cấp và đưa xã hội đó đến chỗ diệt vong”. V.I.Lênin cũng nhấn mạnh, tham nhũng do tư tưởng lạm dụng quyền lực của những người có chức có quyền, có đặc quyền đặc lợi gây ra. Hiện tượng này xuất hiện trong các chế độ chính trị đã có trong lịch sử, từ khi có nhà nước. Trải qua các giai đoạn lịch sử, từ chế độ chiếm hữu nô lệ, phong kiến, TBCN, hiện tượng tham nhũng luôn tồn tại ở những mức độ, tính chất khác nhau. Rất nhiều các thể chế chính trị, các hình thái nhà nước đã sụp đổ bởi hiện tượng tham nhũng trong bộ máy gây ra.

Ngay trong chế độ tư bản hiện đại, hiện tượng tham nhũng vẫn tồn tại và ngày càng phức tạp cả về mức độ, tính chất và hậu quả mà nó mang lại. Những vụ án tham nhũng lớn trên thế giới gần đây đã chứng minh rằng, tham nhũng luôn tồn tại ở các thể chế chính trị. Rất nhiều lãnh đạo của các nhà nước kể cả tổng thống đã bị luận tội, phế truất liên quan đến tham nhũng.

Nhìn vào bảng xếp hạng các quốc gia theo mức độ tham nhũng trong khu vực công của Tổ chức Minh bạch quốc tế tại 180 quốc gia/vùng lãnh thổ trên thế giới năm 2023 đã cho thấy tham nhũng có ở hầu hết các nước trên thế giới, với những mức độ khác nhau. Do vậy, không thể quy chụp, cho rằng chỉ có chế độ XHCN mới tồn tại tham nhũng.

Trong những năm qua, các thế lực thù địch lợi dụng sự thiếu thông tin của một bộ phận nhân dân để tuyên truyền, kích động, xúi giục những hành vi “bất tuân dân sự” đối với các cấp chính quyền, với lý do là chủ trương, kế hoạch, dự án đó có liên quan đến tham nhũng, tiêu cực. Những hành vi này gây nguy cơ mất ổn định chính trị, thậm chí là bạo loạn, làn sóng chống đối, lật đổ chính quyền. Cùng với đó, các thế lực thù địch lồng ghép, đan cài những thông tin không chính xác về những hiện tượng tiêu cực ở nhiều lĩnh vực, khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, liên quan đến công tác cán bộ để quy chụp, ngụy biện, làm sai bản chất của vấn đề, qua đó kêu gọi biểu tình, chống đối chính quyền bằng những hành vi vi phạm pháp luật.

Có thể khẳng định, từ khi lịch sử xã hội loài người xuất hiện nhà nước đến nay, không một nhà nước hay một thể chế chính trị nào cho phép “bất tuân dân sự”. Bởi lẽ, về nguyên tắc, hiến pháp, pháp luật là ý chí, nguyện vọng của đông đảo nhân dân, là “khế ước” nhằm duy trì trật tự xã hội và thực hiện những lợi ích xã hội phổ biến của nhân dân. Vì vậy, khi pháp luật đã được xác lập thì không một cá nhân nào được quyền chống đối, không thực hiện. Chỉ khi nhà nước của giai cấp áp bức bóc lột, độc tài, giai cấp thống trị không thực hiện những lợi ích cơ bản đã được ghi trong pháp luật đối với đại bộ phận nhân dân, không còn đại diện cho lợi ích của nhân dân, quốc gia - dân tộc, nhân dân đấu tranh để lật đổ chế độ đó hoặc thay đổi hệ thống pháp luật.

Tuy nhiên, nhà nước XHCN là nhà nước kiểu mới, đó là nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân. Pháp luật của nhà nước đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Nhân dân là chủ thể trực tiếp tham gia xây dựng, bảo vệ nhà nước, bảo vệ xã hội, bảo vệ tính mạng và của cải của chính mình. Do vậy, không có sự đối kháng giữa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước với lợi ích của nhân dân.

Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”. Nhà nước Việt Nam với bản chất là nhà nước XHCN nên tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mọi lợi ích đều vì nhân dân. Chính vì vậy, Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”. Phương châm này thể hiện rất rõ bản chất của Đảng, mục đích của Nhà nước XHCN Việt Nam. Nói cách khác, “bất tuân dân sự” là đi ngược lại bản chất của chế độ dân chủ, ngược lại lợi ích chung của toàn thể nhân dân.

Sự nghiệp cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Điều đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, cũng như năng lực, phẩm chất của đội ngũ cán bộ.

Về kinh tế: “quy mô GDP của Việt Nam năm 2023 đạt khoảng 433,3 tỷ USD, xếp thứ 5 trong khu vực Đông Nam Á và là nền kinh tế lớn thứ 34 trên thế giới. Năm 2024, quy mô GDP của Việt Nam được dự báo đạt khoảng 469,67 tỷ USD”. “Thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt ngưỡng 4.000 USD/người/năm; tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt mức kỷ lục 732 tỷ USD, đưa Việt Nam vào nhóm 20 nước có quy mô thương mại lớn nhất thế giới và duy trì xuất siêu năm thứ bảy liên tiếp”. Đặc biệt, giai đoạn 1986 - 2022, Việt Nam vào top 5 nước có quy mô kinh tế tăng trưởng nhiều nhất thế giới. Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu năm 2023 được xếp hạng 46/132 quốc gia nền kinh tế và được đánh giá là một trong 7 quốc gia thu nhập trung bình đạt được nhiều tiến bộ nhất về đổi mới sáng tạo trong thập kỷ qua”.

Việt Nam tham gia các tổ chức quốc tế và ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với những đối tác rộng lớn, như: Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương, Hiệp định thương mại tự do Liên minh châu Âu - Việt Nam, Hiệp định đối tác toàn diện của ASEAN... đã khẳng định tiềm lực ngày càng mạnh mẽ của đất nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Về chính trị: sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ XHCN tiếp tục phát huy được quyền làm chủ của nhân dân. Đảng Cộng sản cầm quyền đã ngày càng khẳng định được vai trò lãnh đạo đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội; Nhà nước pháp quyền XHCN được xây dựng và ngày càng hoàn thiện, góp phần quan trọng trong bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể phát huy tốt quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng hệ thống chính trị và đời sống xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Về xã hội: tiến bộ và công bằng xã hội được thực hiện ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Con người đã trở thành mục tiêu, động lực của sự phát triển. Người dân được hưởng thụ những thành quả của sự nghiệp đổi mới, chất lượng cuộc sống được nâng cao rõ rệt. Tuổi thọ trung bình, giáo dục, y tế, chăm sóc sức khỏe… đạt mức độ tương xứng với trình độ phát triển của nhiều nước trên thế giới.

“Tuổi thọ trung bình của dân số cả nước năm 2023 là 73,7 tuổi (năm 2022 là 73,6 tuổi), trong đó nam là 71,1 tuổi và nữ là 76,5 tuổi”. Chỉ số Phát triển con người (HDI) của Việt Nam ngày càng tăng cao, “Từ năm 1990 đến năm 2022, giá trị HDI của Việt Nam thay đổi từ 0,492 lên 0,726, tăng gần 50%. Việt Nam liên tục đạt được tiến bộ trong 30 năm qua”.

Với những thành tựu to lớn đã đạt được, có thể khẳng định, những hành vi xúi giục nhân dân nói xấu cán bộ, chống đối chính quyền, “bất tuân dân sự” thực chất là những quan điểm sai trái, thù địch, phủ nhận thành tựu mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được trong sự nghiệp cách mạng.

3. Giải pháp đấu tranh, chống âm mưu “bất tuân dân sự”.
Để chống lại âm mưu của các thế lực thù địch lợi dụng “bất tuân dân sự” liên quan đến tham nhũng để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ đòi hỏi phải thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất, tuyên truyền để nhân dân hiểu đúng bản chất của chế độ chính trị, bản chất của Nhà nước XHCN Việt Nam, không để các thế lực lợi dụng sự thiếu thông tin, thiếu hiểu biết, tuyên truyền xúi giục, gây kích động, chống phá trong nhân dân.

Thứ hai, kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, mạnh mẽ và triệt để hơn. Chủ động phòng ngừa kết hợp với tích cực phát hiện, xử lý nghiêm những hành vi tham nhũng, nhất là tham nhũng chính sách ở mọi mức độ, tính chất. Cùng với đó, xây dựng chính phủ điện tử, minh bạch hóa thông tin, nhất là những thông tin liên quan đến tài sản quốc gia, thu nhập của cán bộ, công chức.

Thứ ba, chăm lo, bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhắc lại câu thành ngữ: “Dân dĩ thực vi thiên” (tức là dân coi ăn như trời, dân đói thì lòng dân không yên, chính phủ cũng có lỗi). Do vậy, phải đặc biệt quan tâm đến quyền và lợi ích chính đáng, thiết thực của nhân dân, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Phải thực hiện tốt phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Thứ tư, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định cho mọi thắng lợi của cách mạng, là cơ sở để củng cố sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Vì vậy, phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, cán bộ, mở rộng việc tập hợp, đoàn kết nhân dân. Đảng phải là biểu trưng cho trí tuệ, tình cảm cách mạng, nơi hội tụ mọi ước nguyện giải phóng của quần chúng nhân dân, “thắt chặt mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”. Trong giai đoạn hiện nay, công tác cán bộ của Đảng có vị trí đặc biệt quan trọng. Vì vậy, phải coi trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện, chỉnh huấn cán bộ, để cán bộ thực sự là “công bộc”, “đầy tớ” thật sự trung thành của nhân dân.

Thứ năm, cần nâng cao chất lượng hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội để vận động nhân dân xây dựng và tăng cường củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tập hợp rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, bảo đảm sự thống nhất cao về nhận thức, tư tưởng và hành động, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH.

4. Kết luận.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn nêu trên đã chứng tỏ rằng, “bất tuân dân sự” về thực chất là những tư tưởng sai trái, thù địch, cần phải được nhận diện, lên án. Việc lợi dụng “bất tuân dân sự” để vi phạm pháp luật và các hành vi sai trái cần được đấu tranh quyết liệt và xử lý nghiêm minh. Điều này không chỉ bảo vệ lợi ích của nhân dân mà còn giữ vững ổn định chính trị, xã hội, bảo đảm sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGÀY TẾT ĐỘC LẬP, CÙNG NGHE LẠI CÂU CHUYỆN RẤT HAY, SÂU SẮC VỀ TÀI ỨNG XỬ CỦA BÁC HỒ!

     Tổng thống Mỹ Johnson đã từng gửi cho Chủ tịch Hồ Chí Minh 4 bức thư và đề nghị giữ bí mật qua lại về câu chuyện gây dựng hòa bình cho Việt Nam!

Bức thư cuối cùng Johnson viết:
"Tôi sẵn sàng đi bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì, gặp gỡ bất cứ ai để mưu cầu hòa bình cho Việt Nam. Tôi mong mỏi ngài đáp ứng thiện chí đó của nước Mỹ."

Đọc qua thấy cảm động quá đi mất, có thể ai đó hay mủi lòng, ủy mị sẽ bật khóc khi đọc những dòng thư này. Nhưng Bác Hồ chúng ta lại rất thấu hiểu bản chất Johnson là gì. Bác nhã nhặn viết thư trả lời rằng:

"Ngài không cần đi bất cứ nơi đâu, ngài cũng chẳng phải cần gặp gỡ 1 ai cả. Và ngài cũng không phải làm bất cứ việc gì để mưu cầu hòa bình cho Việt Nam. Ngài chỉ cần rút quân viễn chinh Hoa Kỳ khỏi Việt Nam thôi, (thế là Việt Nam có hòa bình, độc lập, thống nhất rồi) thưa ngài..."!

Các bức thư bí mật đó lẽ ra còn tiếp tục được viết, nếu như không có cái việc Johnson tuyên bố là: "Cuộc đàm phán bí mật giữa Mỹ và Việt Nam" đã được tiến hành nhằm đánh lừa cộng đồng quốc tế về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bộ ngoại giao Việt Nam đánh giá việc làm của Johnson là nham hiểm và đã công bố toàn bộ nội dung của 4 bức thư. Đồng thời cũng tuyên bố lập trường 8 điểm của Việt Nam về đàm phán với Mỹ.

Mọi việc không vì thế mà chấm dứt, bởi vì nhu cầu rút quân khỏi Việt Nam là rất cấp bách đối với nước Mỹ giai đoạn này, và nếu không có 1 hiệp định hòa bình để rút quân, lúc đó rất có thể lính Mỹ sẽ nhảy xuống biển để bơi về nước...
Ảnh: Bác Hồ trịnh trọng đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh Nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.
Môi trường ST.

“SỢ GIÀU”!

     Đám 3/// cứ vác cái ảnh Hà Nội với hàng dài xe đạp thuở phải hi sinh sự giàu có để giải phóng đất nước, để vượt qua những ngày khó khăn của cấm vận ra để chê cười.

Nhưng chúng nó đâu có biết những ngày cong mông đạp xe đi học, đi làm, đi chở người yêu là những ngày chúng tôi hạnh phúc bởi ước nguyện của dân tộc về độc lập, thống nhất đã thành công. 

Thế hệ cha anh và chúng tôi đạp xe nhưng được cả thế giới ngưỡng mộ chứ không phải như những con người đi máy bay bằng càng mà bị thiên hạ cười chê, khinh bỉ.

Cứ mỗi dịp lễ tết, ở các thành phố lớn, nơi vẫn được cho là đói nghèo (trong suy nghĩ và tưởng tượng của 3///) thì chúng tôi lại đang sợ giàu đây. 

Sợ cái cảnh mỗi nhà 1 cái ô tô rồi thậm chí có nhà lại đôi ba cái khi đường sá không kịp mở rộng. Sợ cái cảnh nhà nhà đổ đi chơi chứ không chịu nằm nhà thở dưỡng sinh. Để rồi 1 vài ngày lễ, Hà Nội lại gây thương nhớ bởi cảnh yên bình bớt xô bồ tập nập.

Nói chung chúng tôi chưa giàu nhưng thi thoảng lại “sợ giàu”!




Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THẦY DẠY SỬ ĐÃ DẠY CHÍNH PHỦ MỸ NHƯ THẾ NÀO?

# McNamara:
- Đại tướng, tôi muốn chúng ta cùng nhìn lại những quan niệm của mình, cùng nhìn lại những cơ hội mà Hà Nội và Washington có thể đã hiểu sai về nhau.

* Đại tướng:
- Tôi không nghĩ rằng đã hiểu sai các ông. Các ông từng xâm lược chúng tôi, các ông từng muốn đánh bại, muốn tiêu diệt chúng tôi. Vì vậy chúng tôi buộc phải chiến đấu với các ông. Một cuộc chiến tranh nhân dân, để thu hồi non sông từ tay thực dân mới tại Miền Nam mà các ông gọi là đồng minh nhưng chúng tôi vẫn gọi là bù nhìn, tay sai của để thống nhất đất nước.

# McNamara:
- ...Chúng tôi, tôi, Kennedy, hay Johnson đâu có phải là thực dân mới theo cách ông nói? Hoàn toàn không phải. Nào, nếu giờ chúng ta tập trung vào những sự kiện như Vịnh Bắc Bộ, nơi chúng ta có thể đã hiểu sai về nhau thì... 

* Đại tướng:
- Xin lỗi, nhưng chúng tôi hoàn toàn hiểu đúng về các ông...

# McNamara:
- Chúng ta cần nhìn lại những sự hiểu lầm, vì hai lý do: 
Thứ nhất, là để xác định xem do đâu mà hiểu lầm. 
Thứ hai là để rút ra bài học nhằm tránh những thảm kịch như vậy trong tương lai.

* Đại tướng:
- Tôi đồng ý rằng bài học là cần thiết. Nhưng ông nhầm khi nói cuộc chiến tranh xâm lược của các ông là thảm kịch và cho rằng nó bắt nguồn từ những cơ hội bị bỏ lỡ. Có lẽ đó là thảm kịch về phía các ông, các ông tiến hành chiến tranh xâm lược, theo kiểu thực dân mới. Các ông muốn thay chân người Pháp, các ông thất bại, người của ông chết, vâng đúng vậy, đó là thảm kịch, vì họ đã chết cho những động cơ sai lầm.

Nhưng với chúng tôi, cuộc chiến chống lại các ông là sự hy sinh chính nghĩa. Chúng tôi không muốn đánh Mỹ. Chúng tôi không muốn. Nhưng các ông không cho chúng tôi lựa chọn. Với chúng tôi, chẳng có cơ hội nào bị bỏ lỡ cả. Chúng tôi đã làm cái phải làm để đánh đuổi (xâm lược) các ông và lũ bù nhìn, tay sai. Tôi xin lỗi ngài McNamara, là đã một lần nữa lại dùng từ bù nhìn, tay sai. 

Vì vậy tôi đồng ý rằng các ông đã bỏ lỡ các cơ hội và phải rút ra bài học. Còn chúng tôi ư? Tôi nghĩ, chúng tôi không thể làm gì khác trong hoàn cảnh đó...

# McNamara (bào chữa): 
- ... Dường như chúng tôi đã nhìn phong trào Cộng sản ở miền Nam có sự quan hệ gần gũi với các cuộc nổi dậy của du kích ở Miến Điện, Malaysia, và Philippines trong những năm 1950. Chúng tôi đã không nhìn nhận đó là những phong trào dân tộc chủ nghĩa, mà là dấu hiệu của một phong trào Cộng sản thống nhất tại châu Á...
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỔNG BÍ THƯ, CHỦ TỊCH NƯỚC TÔ LÂM THĂM GIA ĐÌNH CỐ NHẠC SĨ VĂN CAO VÀ CỐ HỌA SĨ BÙI TRANG CHƯỚC!

         🇻🇳 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tới thăm gia đình cố nhạc sĩ Văn Cao (tác giả của bài “Tiến quân ca” - Quốc ca của Việt Nam) và gia đình cố họa sĩ Bùi Trang Chước (tác giả của mẫu Quốc huy nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam)!🇻🇳

Nhạc sĩ Văn Cao, tên thật là Nguyễn Văn Cao, sinh ngày 15/11/1923, tại Hải Phòng trong một gia đình viên chức. 

Ông là tác giả của bài “Tiến quân ca” - Quốc ca của Việt Nam với những giai điệu thiêng liêng, hào hùng. Bài hát ra đời gắn với những ký ức Việt Nam thời kỳ tiền khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám cùng những kỷ niệm khó quên của tác giả.

Tên tuổi của ông quen thuộc với đông đảo với công chúng qua rất nhiều tác phẩm đi cùng năm tháng, trong đó đặc biệt nổi tiếng là “Bến xuân”, “Suối mơ”, “Thiên thai”, “Trương Chi”, “Trường ca sông Lô”, “Tiến về Hà Nội”… 

Nhạc sĩ Văn Cao là một trong những văn nghệ sĩ đầu tiên được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh. Những cống hiến của ông đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận bằng nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Kháng chiến hạng Nhất, Huân chương Độc lập hạng Ba, Huân chương Độc lập hạng Nhất, Huân chương Hồ Chí Minh…

Họa sĩ Bùi Trang Chước tên thật là Nguyễn Văn Chước, sinh ngày 21/5/1915 tại thôn Phú Xá, xã Phú Thượng, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội. 

Ông tốt nghiệp loại Xuất sắc Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương năm 1941. Ra trường, ông được mời về giảng dạy tại Trường Kiến trúc Đà Lạt. 

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, họa sĩ Bùi Trang Chước cùng gia đình chuyển ra Hà Nội và giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Hà Nội. Lúc toàn quốc kháng chiến, ông lên Việt Bắc theo cách mạng, giảng dạy ở Trường Mỹ thuật Liên khu Việt Bắc.

Ngoài việc giảng dạy, họa sĩ Bùi Trang Chước dành nhiều thời gian sáng tác nghệ thuật và là một trong những họa sĩ tài năng của nền hội họa Việt Nam. 

Ông đã sáng tác nhiều tác phẩm có giá trị nghệ thuật và ứng dụng, giàu ý nghĩa. Các phác thảo mẫu Quốc huy, mẫu tem thư, tiền giấy, tranh phong cảnh, ký họa nghệ thuật và rất nhiều các tác phẩm đồ họa khác giàu tính thẩm mỹ được ông vẽ công phu, tỉ mỉ. Các phác thảo mẫu Quốc huy của ông đã được công nhận Bảo vật quốc gia.

Đặc biệt, họa sĩ Bùi Trang Chước còn có nhiều tác phẩm giá trị về Chủ tịch Hồ Chí Minh đậm chất nhân văn và dấu ấn lịch sử, trong đó có các tác phẩm như: Mẫu Huy hiệu “Intercosmos” và chân dung “Hồ Chủ tịch”; mẫu Huy hiệu Hồ Chí Minh, áp phích 100 năm Ngày sinh nhật Bác Hồ; khung tranh vẽ bằng bột màu Chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh nhân dịp kỷ niệm sinh nhật của Người năm 1970; mẫu Huy hiệu kỷ niệm 81 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; mẫu tem kỷ niệm 100 năm Ngày sinh Hồ Chủ tịch; mẫu tiền có vẽ chân dung Chủ tịch Hồ Chí Minh; mẫu vẽ thiết kế trang trí mặt tiền Lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh...

Ghi nhận tài năng và công lao của họa sĩ Bùi Trang Chước, Đảng và Nhà nước đã trao tặng họa sĩ nhiều phần thưởng cao quý, trong đó có Huân chương Lao động hạng Nhì, Huân chương Lao động hạng Ba, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ cứu nước hạng Nhất...


Yêu nước ST.

THỂ HIỆN LÒNG YÊU NƯỚC TRÊN MẠNG XÃ HỘI: DÙ LÀ AI, DÙ Ở BẤT CỨ NƠI NÀO, NGÀY 2/9 CÙNG NHAU HƯỚNG VỀ LÁ CỜ TỔ QUỐC, TỰ HÀO LÀ NGƯỜI VIỆT NAM, LAN TỎA TINH THẦN DÂN TỘC VÀ LÒNG YÊU NƯỚC.....

         Dịp kỷ niệm Ngày Quốc khánh (2-9) năm nay, Cục Thông tin đối ngoại (Bộ Thông tin và Truyền thông) phối hợp cùng các đối tác, phát động chiến dịch Ngày Quốc khánh trên một số nền tảng mạng xã hội!

Chiến dịch với ý tưởng lấy hình ảnh lá cờ Tổ quốc làm trung tâm, thông qua hoạt động truyền thông để “phủ đỏ” các trang mạng xã hội, lan tỏa thông điệp:

Dù là ai, dù ở bất cứ nơi nào, ngày 2-9 cùng nhau hướng về lá cờ Tổ quốc với sự tự hào của một người Việt Nam, lan tỏa tinh thần dân tộc và lòng yêu nước trên mạng xã hội.

Đúng như ý nghĩa từ thông điệp của chiến dịch, lòng yêu nước là tình cảm thiêng liêng, luôn hiện hữu trong mỗi người dân Việt Nam, không phân biệt vùng, miền hay khoảng cách địa lý; không phân biệt địa vị hay hoàn cảnh sống. Nó như ngọn lửa trong tim mỗi người, sẽ được nhen nhóm, thổi bùng lên và có sức hiệu triệu muôn người trước mỗi thời khắc lịch sử của dân tộc.

Với sự phát triển mạnh mẽ và sức ảnh hưởng lớn từ mạng xã hội như hiện nay, các hoạt động truyền thông mang thông điệp về tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc càng có sức lan tỏa nhanh chóng. Bằng nhiều cách thể hiện mới mẻ, ấn tượng, nhiều video mang tinh thần yêu nước của các bạn trẻ đã thu hút hàng triệu lượt xem, tạo ra hiệu ứng lan tỏa và truyền cảm hứng trên mạng xã hội.

Lòng yêu nước là truyền thống quý báu của dân tộc ta, được nuôi dưỡng, bồi đắp và trao truyền qua biết bao thế hệ. Bổn phận, trách nhiệm của mỗi người Việt Nam hôm nay là phải thể hiện lòng yêu nước sao cho đúng đắn và làm sáng đẹp thêm truyền thống ấy. Đó có thể là những hoạt động vì cộng đồng, có sức lan tỏa sâu rộng, có đóng góp to lớn cho đất nước, hoặc đó cũng có thể là những việc làm rất đỗi bình dị hằng ngày. 

Với những ý nghĩa đó, ngay bây giờ, mỗi người dân Việt Nam trên khắp mọi miền Tổ quốc và ở nước ngoài đang tham gia mạng xã hội, bằng những thao tác rất giản đơn, hãy cùng “phủ đỏ” mạng xã hội thông qua hình ảnh lá cờ Tổ quốc. Nhưng trên hết, cần nhận thức sâu sắc về ý nghĩa thiêng liêng của lá cờ Tổ quốc và giá trị của độc lập, hòa bình để thêm trân trọng, tự hào. Đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế như ngày nay, lá cờ Tổ quốc đã thấm máu đào của bao anh hùng liệt sĩ và lớp lớp thế hệ cha anh đi trước. 

Hơn nữa, thể hiện lòng yêu nước trên mạng xã hội phải bằng những hoạt động thường xuyên, thiết thực, không thể là một xu hướng hay trào lưu, sớm rộ lên rồi cũng vội vụt tắt./.
Yêu nước ST.

NAM SINH ĐƯỜNG LÊN ĐỈNH OLYMPIA GÂY PHẪN NỘ VÌ VÔ ƠN VỚI ĐẤT NƯỚC!

     Nam sinh quê Yên Bái từng giành vòng nguyệt quế Đường lên đỉnh Olympia gây phẫn nộ vì vô ơn với đất nước khi có dòng trạng thái hỗn xược.
Sáng ngày 2/9, mạng xã hội đăng tải thông tin Chu Ngọc Quang Vinh ở Yên Bái - người từng giành ngôi vô địch, mang về vòng nguyệt quế cuộc thi tháng 1, quý I, Đường lên đỉnh Olympia năm thứ 24 có dòng trạng thái vô ơn với đất nước khi xa rời thực tế, cuộc sống ở quê nhà mà chỉ mơ mộng hão huyền nơi "xứ người".

Trạng thái đăng trên Story của Quang Vinh với nội dung, nam sinh này chỉ quan tâm đến bản thân, đến lợi ích viển vông ở xứ “thiên đường” là các nước phương Tây xa xôi.

Chu Ngọc Quang Vinh, nam sinh từng thi Đường lên đỉnh Olympia gây phẫn nộ với trạng thái đăng tải trên trang cá nhân hỗn xược, vô ơn với đất nước.
Chu Ngọc Quang Vinh, nam sinh từng thi Đường lên đỉnh Olympia gây phẫn nộ với trạng thái đăng tải trên trang cá nhân hỗn xược, vô ơn với đất nước (Ảnh: Báo Yên Bái)
Nam sinh này viết: “Cuối cấp 2 là tôi tiếp cận với văn hóa phương Tây cao trào nhất. Dần dần, tôi phát hiện những gì mình được học ở trường bấy lâu nay không hoàn toàn là sự thật, chỉ biết lừa gạt dân nên tìm mọi cách để sau này được sống ở nước ngoài”.

Tiếp đó, thanh niên này khẳng định, bản thân ôn thi Đường lên đỉnh Olympia chỉ để sống ở nước ngoài với mưu cầu lợi ích cá nhân. Việc học lịch sử không phải theo ý muốn của bản thân và được ban tặng nhiều thứ vì thành tích. “Đến lúc giấc mộng chấm dứt, tôi không biết phải làm gì tiếp theo, nhưng nhìn lại, tôi kệ và chỉ tập trung vào tôi”.
Dòng trạng thái của nam sinh này còn nhiều nội dung hỗn xược, thể hiện sự vô ơn với đất nước, với Đảng và với chính quê hương nơi anh ta sinh ra.

Lập tức, nội dung đăng tải đã gây phẫn nộ đối với cư dân mạng. Nhiều người cho rằng, Quang Vinh là người vô ơn với đất nước, mới có được tí chữ đã vội bỏ làng, dám chê bai nơi mình sinh ra... dù sau đó nam sinh này đã viết lời xin lỗi.
Ca sĩ Đen Vâu đã có dòng nội dung đầy sâu sắc: "Vài người thường ăn hải sản, rồi lại chê bai mùi cá ao" để phản đối nội dung lệch lạc của nam sinh quê Yên Bái.
Anh viết: "Các cụ ta hồi trước đi Tây, đi Tàu, đi khắp nơi trên thế giới để học hỏi cái hay, cái đẹp, cái tốt lành, rồi mang về giúp nước, đánh đổ nô lệ và thực dân, mang lại độc lập và tự do cho dân tộc. Các cụ nhận được nhiều lời với mức lương trên trời, nhưng vẫn chấp nhận về giúp nước, không lời chê bai".

Đen Vâu còn cho rằng, có một bộ phận các bạn trẻ được học tập trong nước thành tài, có chút năng lực, đi sang nước ngoài học tập hoặc tiêm nhiễm tư tưởng nước ngoài, rồi về móc mỉa quê hương.

"Mình nhớ có ai đó từng bảo là đến đất nước của bạn mà bạn còn không tôn trọng, thì lấy lý do gì cho việc bạn sẽ tôn trọng đất nước của chúng tôi?", Đen Vâu để lại nội dung đầy ẩn ý.

Tài khoản Tô Đức Quỳnh để lại bình luận: “Thế mới thấy không phải đứa nào học được kiến thức cũng biết trân trọng. Thay vào đó, nó nghĩ mình giỏi rồi quay ra chê chính quyền. Thế này không sớm thì muộn cũng quay lại cắn đồng bào khi co cơ hội. Đây là điển hình của tư tưởng của phản động chê Tổ quốc, đâm đồng bào”.

Còn tài khoản Nguyễn Đức Tâm thì chỉ trích: “Chú có thể giỏi hơn anh về nhiều thứ nhưng chắc chắn tình yêu quê hương đất nước sẽ thua anh. Việt Nam là nơi đáng sống đó. Ghét từ năm cấp 2 mà vẫn cố đu bám học hết cấp 3 và mong ước nhờ đất nước để được đi du học. Thôi đi đu xứ người càng sớm càng tốt”.

Là một người dân Yên Bái, tài khoản Anan cho biết, bản thân chỉ học trường làng chứ không học trường chuyên như Vinh, nhưng “từ lúc có nhận thức tôi và thế hệ của tôi đã được dạy về lòng yêu nước. Cũng như các đồng bào dân tộc anh em ở Yên Bái luôn một lòng yêu Bác Hồ, yêu Đảng, yêu Tổ Quốc. Còn nảy nòi ra cháu này thì cũng không hiểu…”

Nhiều tài khoản khẳng định, Quang Vinh là người vô ơn, đu bám mới có tí học đã chê làng, mới ăn "tí hải sản đã chê cá ao"… để chỉ trích dòng trạng thái của anh này.

Quang Vinh nên nhớ, không có ông cha ta đã hy sinh biết bao xương máu, không có Đảng cộng sản Việt Nam mà Bác Hồ là người sáng lập, lãnh đạo thì làm gì chúng ta có được hòa bình, độc lập - tự do, đất nước được phát triển tươi đẹp như ngày hôm nay.

Với giấc mộng viển vông của mình, Vinh đừng mang so sánh đất nước, Tổ quốc với bất kỳ nơi nào. Bởi vì, bản thân cậu và người thân trong gia đình cậu sinh ra, lớn lên là ở chính mảnh đất, nơi mà cha ông ta đã đổ biết bao xương máu mới có được. Đừng vì những thứ viển vông mà vô ơn chê bai đất nước...
Yêu nước ST.

Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với khát vọng xây dựng một xã hội thực sự vì con người ở Việt Nam trong bối cảnh mới

Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thể hiện quyết tâm mạnh mẽ, bền bỉ trong xây dựng một xã hội Việt Nam phát triển bền vững, vì con người; từ phương châm “Dân là gốc”, Đồng chí xác định lợi ích của nhân dân là tối thượng, đích đến của mọi chính sách và quyết sách. Trong bối cảnh mới, khát vọng xây dựng một xã hội thực sự vì con người của Tổng Bí thư là lý tưởng cao đẹp, động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển toàn diện đất nước, góp phần định hướng và định hình xã hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, nơi mỗi cá nhân đều có điều kiện để sống, lao động, phát triển toàn diện, cống hiến một cuộc đời ý nghĩa, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gặp gỡ đoàn đại biểu cháu ngoan Bác Hồ_Ảnh: TTXVN

Quan điểm của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về xây dựng một xã hội thực sự vì con người

Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, trải qua nhiều vị trí công tác, cương vị lãnh đạo khác nhau, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn trăn trở, quyết tâm xây dựng một xã hội phát triển vì con người, có nền văn hóa tiến bộ, nhân văn, nhân ái và lương tri, phẩm giá mỗi cá nhân không ngừng được nâng tầm, hoàn thiện. Đó chính là sự kế thừa và phát huy những giá trị tư tưởng tốt đẹp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại để lại, đặc biệt, chỉ có trong chế độ xã hội chủ nghĩa, những quyền lợi ấy của con người mới được bảo đảm, gìn giữ, là niềm mong ước của nhân dân trong mọi thời kỳ, hoàn cảnh đất nước.

Ngày nay, mặc dù chế độ tư bản chủ nghĩa phát triển về nhiều mặt, nhưng bản chất bóc lột, hiếu chiến cố hữu của chủ nghĩa tư bản (CNTB) không thay đổi, bởi “chủ nghĩa tư bản vẫn không thể khắc phục được những mâu thuẫn cơ bản vốn có của nó. Các cuộc khủng hoảng vẫn tiếp tục diễn ra. Theo đó, nền dân chủ tư sản mà lâu nay các nước phương Tây ra sức rao giảng, áp đặt lên toàn thế giới thực chất là một mô hình dân chủ giả hiệu, không bảo đảm, thực hiện đầy đủ nguyên tắc quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, khi quyền lực vẫn chủ yếu nằm trong tay giai cấp tư sản, những tập đoàn tư bản giàu có. Có thể thấy, chính “sự rêu rao bình đẳng về quyền, nhưng không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó dẫn đến dân chủ chỉ là hình thức, trống rỗng mà không thực chất. Trong đời sống chính trị, một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át”. Những vấn đề nội tại của CNTB là vấn đề nan giải, dù chúng có được che đậy tinh vi đến đâu, đặc biệt là mâu thuẫn cung - cầu, sự phân cực giàu - nghèo trong xã hội, xung đột lợi ích trong nội tại hoặc giữa các nước tư bản, sự đối kháng giai cấp giữa công nhân và tư sản, giữa lao động và tư bản, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, phân biệt tôn giáo,… Để có thể kiểm soát quyền lực, CNTB không ngừng gây chiến tranh và xem đây như giải pháp cứu cánh khi nền sản xuất tư bản gặp khủng hoảng, bị ế thừa, cố gắng tạo thị trường mới để đầu tư ra nước ngoài hay nhân danh bảo vệ dân chủ và tự do nhằm tìm kiếm sự đồng thuận từ người dân trong nước cũng như trên toàn thế giới,… Như vậy, chắc chắn đây không thể là kiểu mô hình tổ chức, chế độ xã hội mà nhân dân Việt Nam mong đợi, càng không phải là tương lai của nhân loại, như cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã tổng kết: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội”.

Chính vì lẽ đó, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định, đất nước Việt Nam luôn kiên định lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), bởi đây “là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử”. Vì giá trị, bản chất ưu việt của CNXH luôn hướng đến mục tiêu cao cả là giải phóng giai cấp, con người, tạo điều kiện để con người được phát triển toàn diện về mọi mặt; là nơi người dân được tự do, sống trong hòa bình và tình hữu ái giữa các cộng đồng, không còn áp bức, bóc lột, bất công. Xã hội xã hội chủ nghĩa mà đất nước đang xây dựng là nơi giàu tình nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; có sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên, bảo đảm môi trường sống lành mạnh cho các thế hệ hiện tại và tương lai; có hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải cho một thiểu số giàu có. Mặt khác, chỉ xã hội chủ nghĩa mới “có thể giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc” và không có sự cạnh tranh chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, không vì lợi nhuận mà bóc lột, chà đạp lên phẩm giá con người, không có kiểu cạnh tranh bất công, cá lớn nuốt cá bé vì lợi ích vị kỷ của một số cá nhân và các phe nhóm. Đây chính là những khát vọng, mong ước tốt đẹp không chỉ của nhân dân Việt Nam mà của toàn nhân loại tiến bộ.

Diện mạo một xã hội tươi đẹp ngày càng hiện rõ ở Việt Nam dưới ánh sáng những di sản của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Quan điểm về CNXH của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ dừng lại ở mặt lý luận và khát vọng trên hệ thống lý thuyết, mà đang dần được hiện thực hóa trong đời sống xã hội Việt Nam. Theo đó, con người luôn được xem là chủ thể, giữ vị trí trung tâm mọi chiến lược phát triển; tất cả đều vì lợi ích của nhân dân, trong đó, nhiệm vụ phát triển văn hóa, xây dựng con người là mục tiêu, động lực của sự nghiệp đổi mới; giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ được xác định là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí của phát triển bền vững; chú trọng xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ, trở thành tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội; thực hiện bình đẳng giới là một tiêu chí của tiến bộ, văn minh,... Nhiều thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng CNXH, đặc biệt là qua gần 40 năm đổi mới đất nước đã minh chứng cho sự lựa chọn đúng đắn, sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trên chặng đường xây dựng xã hội mới, cụ thể:

Thứ nhất, đó là sự phát triển kinh tế nhanh và bền vững của đất nước. Từ vị trí xuất phát điểm thấp, rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trước giai đoạn đổi mới, tư duy bảo thủ, trì trệ, phương thức tổ chức sản xuất mang tính bao cấp, lạc hậu, nhân dân nhiều nơi còn thiếu ăn, thiếu mặc, thu nhập bình quân đầu người ở nhóm thấp nhất thế giới..., thì đến nay, nền kinh tế đất nước không những thoát khỏi khủng hoảng trong tình trạng nước kém phát triển, mà đã trở thành quốc gia có mức thu nhập trung bình, hướng tới thu nhập trung bình cao thời gian tới. Năm 2023, tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của cả nước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng (tương đương 430 tỷ USD); thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đạt mốc 100 triệu đồng/người/năm. Mặt khác, cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội có sự thay đổi lớn, kinh tế nhà nước hiện chiếm khoảng 27%, kinh tế tập thể là 4%, kinh tế hộ gia đình chiếm 30%, kinh tế tư nhân chiếm 10% trong nước và 20% từ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Việt Nam trở thành thành viên tích cực của nền kinh tế thế giới, có quy mô, trình độ khoa học - công nghệ đang phát triển, thậm chí, theo dự báo, đến năm 2038, nước ta có tiềm năng phát triển trở thành một trong những quốc gia thuộc tốp 25 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Thứ hai, công tác quản lý, phát triển xã hội gắn chặt với nhiệm vụ bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội; phát triển kinh tế gắn chặt với thực thi dân chủ và bảo đảm lợi ích toàn diện cho nhân dân, đồng thời kết quả tiến bộ và công bằng xã hội trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững. Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt thành tựu nổi bật, đưa Việt Nam là một trong những quốc gia thực hiện thành công, sớm hơn dự định nhiều Mục tiêu thiên niên kỷ do Liên hợp quốc phát động. Mặt khác, các chỉ số thụ hưởng dịch vụ cơ bản, như y tế, giáo dục, nước sạch, tỷ lệ sử dụng điện sinh hoạt, hộ gia đình có đồ dùng giá trị, chất lượng nhà ở,… ngày càng được nâng cao; hệ thống phương tiện thông tin liên lạc của người dân không ngừng được cải thiện theo hướng tích cực. Nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới đạt nhiều thành tựu đáng ghi nhận, tính đến hết năm 2023, cả nước có khoảng 6.370/8.167 (chiếm78%) xã đạt chuẩn NTM (trong đó 1.612 xã đạt chuẩn NTM nâng cao và 256 xã đạt chuẩn NTM kiểu mẫu; có 270 đơn vị cấp huyện được công nhận hoàn thành nhiệm vụ/đạt chuẩn NTM); kết cấu hạ tầng được cải thiện, hầu hết các xã đều có đường lớn đến trung tâm, mạng điện lưới quốc gia chất lượng, hệ thống trường học, trạm y tế, trụ sở hành chính, sân chơi,…

Thứ ba“sức mạnh mềm” của dân tộc Việt Nam luôn là nguồn lực nội sinh bền vững, biểu hiện trong hệ thống các giá trị về tinh thần, văn hóa, sức mạnh từ truyền thống, lịch sử, lòng yêu nước, ý chí, lòng tự tôn dân tộc và khát vọng vươn lên ngày càng được phát huy. Cộng đồng 54 dân tộc anh em trong ngôi nhà chung đất nước Việt Nam giàu bản sắc văn hóa, truyền thống; sự đoàn kết, tương thân, tương ái, trọng nghĩa tình,… được đúc kết và trao truyền qua các thế hệ. Thực tế chứng minh, “Nhiễu điều phủ lấy giá gương. Người trong một nước thì thương nhau cùng” đã trở thành sợi dây tinh thần vô giá để gắn kết chặt chẽ, truyền trao yêu thương, sẻ chia, đùm bọc trong các quan hệ xã hội và người dân mọi lúc, mọi nơi. Những năm, tháng phòng, chống đại dịch Covid-19, tinh thần tương thân, tương ái, nhân văn, đoàn kết, tương trợ được thể hiện rõ nét hơn bao giờ hết, xuất hiện những tấm gương thầy thuốc, người dân sẵn sàng dấn thân, nhường cơm, sẻ áo, chăm lo cho đồng bào,... Có thể thấy, tinh thần dân tộc, nhân ái luôn “cháy” trong huyết quản của mỗi người dân Việt Nam. Tất cả những biểu hiện sinh động và cao đẹp đó chính là sự tiến bộ và nhân văn, đã trở thành hiện thực và sẽ là giá trị trong suốt tiến trình phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa vì con người ở nước ta.

Những thành tựu đạt được là cơ sở hiện thực để cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

Nhân dân đón chào năm mới ở Thành phố Hồ Chí Minh _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Kiên định mục tiêu xây dựng đất nước ngày càng tươi đẹp

Tiếp nối thành tựu to lớn đạt được, đồng thời khắc ghi tư tưởng, mong muốn của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp tục nỗ lực, quyết tâm phấn đấu nhằm hiện thực hóa mục tiêu phát triển đất nước ngày càng “phồn vinh, hạnh phúc”; xây dựng một xã hội Việt Nam tốt đẹp, vì con người theo các nhiệm vụ cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục phát huy tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc. Sinh thời, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh đến vai trò, ý nghĩa của sự đoàn kết từ người đứng đầu đến cả hệ thống chính trị với tinh thần “Nhất hô bá ứng, tiền hô hậu ủng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”. Đại hội XIII của Đảng cũng xác định, phải “Phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa và lợi ích quốc gia - dân tộc”. Theo đó, cần không ngừng trau dồi, hun đúc tình cảm, khát vọng xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh của nhân dân; chú trọng phát huy yếu tố sức mạnh nội lực nhằm tạo động lực mạnh mẽ trong bảo vệ Tổ quốcmỗi cán bộ, đảng viên phải rèn luyện nghị lực, ý chí để vượt qua khó khăn, trở ngại, cám dỗ, dám nghĩ, dám làm, tất cả vì lợi ích của nhân dân; luôn có ý thức đấu tranh và cảnh giác với những luận điệu xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Thứ hai, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, hiện thực hóa các giá trị tốt đẹp của CNXH: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Để hiện thực hóa mô hình CNXH ở Việt Nam, theo cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, cần sự quyết tâm rất lớn của toàn hệ thống chính trị, sự vào cuộc và tham gia tích cực của các tầng lớp nhân dân theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ”. Muốn vậy, phải luôn chú trọng đến lợi ích của quốc gia - dân tộc và nhân dân; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, làm tốt công tác an sinh xã hội, an ninh con người, thực hiện thật tốt các chính sách xã hội, giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh; giữ vững độc lập, nâng cao vị thế đất nước trên trường quốc tế,... góp phần xây dựng một nước Việt Nam hùng cường, phồn thịnh.

Thứ ba, làm tốt hơn nữa công tác tư tưởng, hình thành nền nếp, ý thức “tự soi, tự sửa”, tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, lối sống giản dị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Cuộc đời và sự nghiệp của cố Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng là tấm gương mẫu mực của người chiến sĩ cộng sản kiên trung để các thế hệ cán bộ, đảng viên noi theo, nhất là trong thực hành nghiêm túc tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, đặc biệt là lời dạy của Người về “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, từ đó phấn đấu xây dựng “một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người; bảo đảm phát triển về kinh tế luôn đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, xây dựng một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn”. Bên cạnh đó, chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị về đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị thật sự “là đạo đức, là văn minh”, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam trên nguyên tắc “Chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai để “không dám” tham nhũng, tiêu cực” và trên tinh thần “Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí”.

Thứ tư, cần huy động nguồn lực toàn diện, tổng hợp trên mọi lĩnh vực để phục vụ hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ đất nước trên tinh thần “Kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với quốc phòng, an ninh và giữa quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại”, trong đó, lấy “phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”. Mặt khác, quan tâm hơn nữa đến việc hoàn thiện cơ chế, chính sách đãi ngộ phù hợp, kịp thời nhằm “Thật sự tôn trọng, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả hoạt động tư vấn, phản biện của chuyên gia, đội ngũ trí thức”. Tiếp tục quán triệt tinh thần của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, quá trình đổi mới “không phủ nhận thành tựu của quá khứ; không dao động trên những vấn đề nguyên tắc, không lẫn lộn những vấn đề chiến lược với sách lược; kiên định những vấn đề nguyên tắc nhưng đổi mới sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam”.

Hệ thống di sản quý báu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có giá trị bền vững, tiếp tục được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta kế thừa và phát huy để vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, xây dựng thành công nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, dân chủ, giàu mạnh, văn minh, hạnh phúc, tất cả vì con người như Đồng chí trọn đời ấp ủ, phấn đấu hy sinh./.

ST.

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh định hướng cho Cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau

Bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, sau hơn nửa thế kỷ, càng sáng tỏ giá trị lịch sử và tầm nhìn thời đại của một bậc thiên tài. Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và cho mai sau, là ngọn đuốc soi đường cho đất nước ta vững bước đi lên, phát triển bền vững.

Di chúc là tâm nguyện, là ý chí, niềm tin, là tình cảm và trách nhiệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh với Tổ quốc, với Nhân dân, với sự nghiệp cách mạng.

Là người cách mạng, là người mác-xit, thấu hiểu quy luật khách quan của tự nhiên, xã hội và con người, trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức và đón nhận quy luật của cuộc sống một cách chủ động, bằng phong thái ung dung tự tại, chuẩn bị cho việc ra đi bằng những lời tâm huyết dặn lại, Người viết: "Tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các Mác, cụ Lê-nin và các vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột".

Mở đầu Di chúc, với tinh thần lạc quan cách mạng, trách nhiệm với Tổ quốc, với Nhân dân, Người tin tưởng chắc chắn thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ và sự thống nhất đất nước. Người khẳng định: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của Nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Người cũng nêu những công việc dự định làm sau đó. Người viết: "Tôi có ý định đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc, để chúc mừng đồng bào, cán bộ và chiến sĩ anh hùng, thăm hỏi các cụ phụ lão, các cháu thiếu niên và nhi đồng yêu quý của chúng ta…".

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là công trình bất hủ về xây dựng Đảng cầm quyền.

Là Người sáng lập, rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng Đảng. Người cho rằng, sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng là một trong những nguyên tắc cơ bản nhất, là sự vận động và phát triển theo đúng quy luật của Đảng. Đoàn kết thống nhất trong Đảng là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Đảng lãnh đạo, Đảng cầm quyền mà không đoàn kết thống nhất thì sự nghiệp cách mạng của dân tộc không thể thắng lợi. 

Xây dựng và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng luôn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là nền tảng cho mọi thành công. Đoàn kết thống nhất không chỉ là vấn đề sinh tử của từng tổ chức đảng các cấp, mà còn là sinh mệnh của toàn Đảng, là vấn đề sống còn của cách mạng.

Trong bản thảo Di chúc mà Người dành nhiều tâm huyết để hoàn thành, ngay từ năm 1965, Người đã viết: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, “Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo Nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và dân tộc ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình". Như vậy có thể thấy, đoàn kết thống nhất trong Đảng không chỉ là mối quan tâm lớn hàng đầu của Người mà còn là sự trăn trở khi Người nghĩ về mai sau.

Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại luôn nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa quan trọng của đoàn kết thống nhất. Người không chỉ nêu ra yêu cầu phải đoàn kết trong Đảng mà Người còn chỉ rõ sự đoàn kết ấy phải là đoàn kết nhất trí, đoàn kết thống nhất một cách thực chất và phải thể hiện cả trong tư tưởng và hành động. Tư tưởng và hành động phải thống nhất. Không thể bề ngoài là đoàn kết nhưng những khi cần ra một quyết định, một quyết sách thì không có được sự thống nhất hay khi cần thì liên minh nhau, khi không cần thì tìm cách cản trở công việc của nhau. Trong tư tưởng của Người, đoàn kết phải là đoàn kết thống nhất, trước sau như một, tức là phải dựa trên nền tảng đường lối, quan điểm của Đảng và vì lợi ích của cách mạng, Nhân dân và tập thể. Người luôn nhấn mạnh: Đảng tuy có nhiều đảng viên, song khi tiến hành nhiệm vụ cách mạng thì chỉ như một người, trong Đảng không cho phép có tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. 

Đảng là tổ chức chính trị cao nhất của Nhân dân, của dân tộc, các đảng viên đều tham gia tổ chức một cách tự giác, tự nguyện. Việc giữ vững và thực hiện nghiêm minh các nguyên tắc của Đảng là trách nhiệm của mỗi đảng viên. Người coi nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản và quan trọng, trong từng tổ chức đảng phải thực hành dân chủ, mở rộng dân chủ, “Phải thực sự mở rộng dân chủ để tất cả đảng viên bày tỏ hết ý kiến của mình”( ), mọi ý kiến, suy nghĩ của mỗi đảng viên đều phải được bày tỏ, lắng nghe; mọi quyết định quan trọng của tổ chức đều phải được bàn bạc, thảo luận một cách dân chủ. Đoàn kết thống nhất trong Đảng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thật thà tự phê bình và phê bình, đây chính là một hình thức rèn luyện đảng viên để xây dựng, chỉnh đốn Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh. Bởi theo Người: “Chỉ có đảng chân chính cách mạng và chính quyền thật dân chủ mới dám mạnh dạn tự phê bình, hoan nghênh phê bình và kiên quyết sửa chữa. Do tự phê bình và phê bình… mà chúng ta đoàn kết càng chặt chẽ”. Đây cũng là quy luật phát triển của Đảng Cộng sản nói chung, theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong Di chúc, Người căn dặn “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”. 

Để có sự đoàn kết thật sự, không chỉ cần thực hiện đúng nguyên tắc sinh hoạt Đảng mà còn rất cần tình thương yêu, sự đồng cảm và chia sẻ với nhau. Năm 1966, Người bổ sung vào bản thảo Di chúc cụm từ “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”. Để có sự đoàn kết thống nhất thực sự thì bên cạnh tinh thần, lý trí, trong mỗi cán bộ, đảng viên phải có tình thương yêu đồng chí, có lòng nhân ái, nhân hậu. Trong thực hành công việc không chỉ là đặt ra yêu cầu hoàn thành công việc mà còn phải có sự cảm thông, chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng hoàn thành công việc. Vì vậy, để duy trì và bồi đắp đoàn kết thống nhất thì từng tổ chức đảng bên cạnh việc phải chú trọng giáo dục ý thức trách nhiệm, còn phải thường xuyên bồi dưỡng tình thân ái, tình thương yêu cảm thông chia sẻ, tình đồng chí. 

Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng yếu tố đạo đức trong Đảng, chống lại các căn bệnh “quan liêu”, “tham nhũng, lãng phí”, “xa dân”. Theo Người, Đảng cầm quyền có nhiệm vụ to lớn là lãnh đạo Nhân dân xây dựng xã hội mới, tiến hành “một cuộc chiến đấu khổng lồ”, xóa đi những gì đã cũ kỹ, hư hỏng, xây dựng những cái mới mẻ, tốt tươi. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn với 4 chữ "thật": “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của Nhân dân”.

Mỗi đảng viên, nhất là đảng viên giữ trọng trách lãnh đạo phải cương quyết chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội trong chính bản thân mình. Bởi như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rút ra: chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội chính là căn nguyên của mất đoàn kết thống nhất trong Đảng.

Thấm nhuần tư tưởng và thực hiện Di chúc của Người, những năm qua, Đảng ta luôn coi trọng, giữ gìn và phát huy đoàn kết thống nhất. Nhờ đó, Đảng đã quy tụ và phát huy được sức mạnh toàn dân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đất nước mà Nhân dân tin tưởng giao phó. Trong nhiều kỳ Đại hội Đảng, vấn đề đoàn kết thống nhất đều được nghiêm túc đặt ra, được xem xét, đánh giá một cách toàn diện và sâu sắc. 

Trong Di chúc, ngay sau khi nói về Đảng, Hồ Chí Minh nói về đoàn viên và thanh niên. Người viết: "ĐOÀN VIÊN và THANH NIÊN ta nói chung là tốt, mọi việc đều hăng hái xung phong, không ngại khó khăn, có chí tiến thủ". Người căn dặn: "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa "hồng" vừa "chuyên".

Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết".

55 năm qua, Đảng ta đã quan tâm bồi dưỡng, đào tạo các thế hệ đoàn viên, thanh niên. Nhiều đoàn viên, thanh niên đã thực sự trở thành người kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng của lớp cha, anh đi trước. Nhiều người đã trở thành cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ chuyên môn giỏi; trở thành những trí thức tài năng, những công nhân, những nông dân sản xuất giỏi, những doanh nhân thành đạt… Đảng ta chủ trương xây dựng Đoàn vững mạnh là xây dựng Đảng trước một bước. Tầm nhìn xa của Hồ Chí Minh về xây dựng những lớp người kế tục sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng, của Nhân dân rất rõ ràng. Người luôn thể hiện sự tin tưởng vào thế hệ trẻ, thế hệ tương lai của đất nước. Suốt đời mình, Người luôn dành sự quan tâm, chăm lo đặc biệt cho thanh niên, thiếu niên và nhi đồng. Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc chăm lo đào tạo, bồi dưỡng thế hệ trẻ như tâm nguyện của Người trong Di chúc là một việc cực kỳ quan trọng của Đảng, của Nhân dân ta.

Nói về nhân dân lao động, trong Di chúc, Người viết: "NHÂN DÂN LAO ĐỘNG ta ở miền xuôi cũng như miền núi, đã bao đời chịu đựng gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh.

Tuy vậy, Nhân dân ta rất anh hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng, Nhân dân ta luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng".

Suốt cuộc đời của Người là chăm lo cho đời sống của Nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: "Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của Nhân dân".

Khi viết VỀ VIỆC RIÊNG, Người tâm niệm: "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa".

Ngay cả việc ra đi của Người, Người vẫn còn lo cho nhân dân, khi Người căn dặn: "Sau khi tôi đã qua đời, chớ nên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và tiền bạc của Nhân dân".

Nhân dân luôn trong trái tim của Người, tất cả vì Nhân dân, dành cho Nhân dân. Người viết: "Cuối cùng, tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng".

Đoạn cuối cùng của bản Di chúc thiêng liêng, Người viết: "Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới". Sau bao biến cố thăng trầm của một mô hình chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải coi đây chính là đặc trưng cơ bản nhất của một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Sau 55 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm nhìn chiến lược, tư tưởng thiên tài của Người từ cách đây trên nửa thế kỷ đã, đang và sẽ vẫn là ngọn đuốc soi đường, định hướng cho cách mạng Việt Nam. Sau 55 năm thực hiện Di chúc, chúng ta soi xét vào từng lời dặn của Người, tự hào đã làm được nhiều việc, trân trọng những thành quả đã đạt được, nhưng không khỏi đau lòng về những thiếu sót, hạn chế, những tiêu cực đang diễn ra trong xã hội. Trong Đảng vẫn còn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.

Bước vào thời kỳ hội nhập quốc tế, trước những tác động của kinh tế thị trường, một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ cấp cao có xu hướng chạy theo chủ nghĩa cá nhân; một số tổ chức Đảng có biểu hiện mất đoàn kết nội bộ, chưa tôn trọng và thực hiện chưa đúng nguyên tắc tập trung dân chủ. Việc tự phê bình và phê bình có nơi trở nên hình thức, có nơi bị lợi dụng để đấu đá, hạ bệ lẫn nhau. Bên cạnh đó, những biểu hiện cơ hội chủ nghĩa, “lợi ích nhóm”, tính cục bộ địa phương có nơi đã xuất hiện và phá hoại sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Ở nhiều nơi, chính người đứng đầu chịu trách nhiệm trước cấp ủy cấp trên và cấp mình về sự đoàn kết thống nhất nội bộ lại chưa thực sự gương mẫu, chưa thấm nhuần ý thức xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ. Chính vì vậy, việc lựa chọn người đứng đầu có đủ phẩm chất, năng lực, có vai trò tiền phong, gương mẫu là rất quan trọng. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền phải thực sự công bằng, công tâm trong xử lý công việc, phải thực sự là trung tâm quy tụ, đoàn kết của tổ chức đảng, của tập thể cơ quan, đơn vị.

Thực tế cho thấy, đoàn kết thống nhất trong cán bộ lãnh đạo ở cấp càng cao thì tác động, ảnh hưởng đối với Đảng càng mạnh, sức lan tỏa ra xã hội càng lớn. Ngược lại, những người nắm trọng trách lãnh đạo, không có ý thức đoàn kết thống nhất thì không những gây nguy hại mà còn tạo ra những nguy cơ lớn, khó lường cho toàn Đảng. 

Trong thời điểm đất nước đang đứng trước những thời cơ, vận hội mới nhưng cũng đầy những thử thách lớn lao, những thành tựu mà toàn Đảng, toàn Dân đạt được qua gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước chính là kết quả của sự đoàn kết thống nhất của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, là minh chứng khẳng định sự trưởng thành và vững mạnh của Đảng. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh những thành tựu đạt được, nước ta vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn, phức tạp. Các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách, bằng nhiều âm mưu thâm độc, xảo quyệt, kích động chia rẽ nội bộ, gây mất đoàn kết trong Đảng. Chính vì vậy, tăng cường đoàn kết và thống nhất trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở là điều tất yếu và cấp thiết trong giai đoạn hiện nay.

Giờ đây, đoàn kết thống nhất trong Đảng càng phải được xem là một chiến lược lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng. Là Đảng duy nhất cầm quyền, Đảng ta càng phải xây dựng, củng cố sự đoàn kết thống nhất, có như vậy thì hệ thống chính trị, các tầng lớp nhân dân, các dân tộc mới đoàn kết xung quanh Đảng. Đoàn kết trong Đảng chính là tấm gương cho cả hệ thống chính trị và là nhân tố quyết định bảo đảm đoàn kết dân tộc.

Trước thềm Đại hội XIV của Đảng, trước thời điểm phải lựa chọn những người thật sự xứng đáng, thật sự có tài, thật sự có đức, thật sự có tâm, thật sự có tầm để đảm nhận những trọng trách lãnh đạo đất nước, thì hơn bao giờ hết, chúng ta càng phải phát huy truyền thống đoàn kết thống nhất. Đây là trách nhiệm lớn, mà trước hết là của tập thể, cá nhân lãnh đạo từ Trung ương đến từng cơ sở. Mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ giữ trọng trách lãnh đạo từ cấp cao đến cấp cơ sở phải thực sự thực hiện nghiêm lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”./.

ST.

Quốc khánh rạng ngời thiên niên sử

Cách đây 79 năm, ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Đây là mốc son chói lọi in đậm trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Từ đây, lịch sử đã bước sang một trang mới: Người dân Việt Nam lần đầu tiên được ngẩng cao đầu, tự hào với thế giới vì mình đã trở thành công dân của một nước độc lập và tự do. 79 năm qua là quá trình phấn đấu, hi sinh của cả dân tộc để bảo vệ, xây dựng Tổ quốc Việt Nam hôm nay. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh: Tư liệu.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình. Ảnh: Tư liệu.

Ngày Quốc khánh bao giờ cũng đem lại cho mỗi người chúng ta những cảm xúc thật đặc biệt. Những người con đất Việt vẫn không khỏi bồi hồi nhắc nhớ cho nhau về nguồn cội, về giá trị của hòa bình, về lịch sử hào hùng của dân tộc. Có thể là những người suốt 79 năm qua lưu giữ nguyên vẹn những kỷ niệm về ngày Tết Độc lập đầu tiên, cũng có thể là những người trẻ sinh ra trong hòa bình chưa từng biết đến chiến tranh nhưng tất cả đều chung một niềm tự hào, xúc động mỗi khi mùa thu cách mạng về.

Từ buổi đầu lập nước, lời tuyên ngôn độc lập khẳng định rằng: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng. Dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do… Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phía đồng minh chống phát xít, dân tộc đó phải được tự do, dân tộc đó phải được độc lập! …. Nước Việt Nam có quyền đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”. Để có những lời tuyên bố đanh thép được cô đọng trong Tuyên ngôn độc lập là kết quả của bao máu xương đã đổ và bao người đã hy sinh. Lịch sử đã chứng kiến biết bao chiến sĩ anh hùng đã ngã xuống “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, “sống bám đá chiến đấu, chết thành tượng đá bất tử”, những thanh niên xung phong “sống bám đất, giữ đường, làm cọc tiêu cho xe vượt qua trọng điểm”; những người mẹ, người vợ lần lượt tiễn chồng con ra trận không hẹn ngày về. Không có nỗi đau nào có thể đong đếm được khi 9 người con trai, 2 cháu ngoại và 1 con rể của mẹ Nguyễn Thị Thứ (huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) tiếp chân nhau ra trận rồi lần lượt hy sinh trong hai cuộc kháng chiến giành độc lập của dân tộc; những em nhỏ xung phong làm liên lạc cho tiền tuyến, những thiếu phụ chân lấm tay bùn, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, là hậu phương vững chắc để “thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” … Tất cả đều tái hiện lại như những thước phim tư liệu quay chậm, sống mãi trong ký ức của mỗi người như một bản anh hùng ca bất diệt, trường tồn cùng với hồn thiêng sông núi, con người Việt Nam.

Tuyên ngôn độc lập là lời thề quyết tâm, là bản lĩnh, trí tuệ, hy vọng của hơn 20 triệu nhân dân Việt Nam sẵn sàng xả thân để bảo vệ nền độc lập vừa giành được.

Trong tâm khảm mỗi người dân Việt Nam, tinh thần của ngày Quốc khánh 2-9 sẽ đời đời bất diệt. Khát vọng hòa bình và tinh thần của Tuyên ngôn độc lập sẽ mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi con người Việt Nam, là điểm tựa để khơi dậy lòng nhiệt huyết của các thế hệ người Việt Nam nối tiếp nhau quyết giữ vững nền độc lập tự do mà cha ông ta đã chiến đấu, hy sinh mới giành được.

Gần tám thập kỷ trôi qua, trong đó gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo Nhân dân giành được nhiều thắng lợi trong công cuộc bảo vệ và xây dựng Tổ quốc. Nước Việt nam đã có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế chưa bao giờ có được như hôm nay. Lực ta đã mạnh, thế ta đã cao, bạn bè quốc tế ghi nhận, ngưỡng mộ, Việt Nam đã muốn làm bạn với tất cả các nước, và thực sự Việt Nam đã là đối tác chiến lược, toàn diện với nhiều nước trên thế giới.  

Trong thời điểm mà sự cạnh tranh của các nước lớn đang bùng phát, xung đột vũ trang đang có chiều hướng lan rộng, nhanh chóng, rất khó lường; sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật với cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0 tác động sâu rộng không những trong lĩnh vực kinh tế - xã hội mà đang được áp dụng mạnh mẽ vào chiến tranh công nghệ cao, đặt ra vấn đề đoàn kết và chung tay bảo vệ quê hương, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ hòa bình trên toàn thế giới. Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang đoàn kết phấn đấu, quyết tâm xây dựng nước Việt Nam thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, cường thịnh, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Trong ngày Tết Độc lập, mỗi người Việt Nam dù đang ở bất kỳ nơi đâu, ngay trong lòng đất mẹ hoặc ở xa Tổ quốc, cũng không khỏi xúc động bồi hồi khi nhìn về Tổ quốc đang phát triển từng ngày. Khát vọng hòa bình, độc lập, xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam như được tiếp thêm sức mạnh trong khí thế hào hùng, sôi sục và náo nức của những ngày mùa thu cách mạng. 

79 năm qua, ý Đảng, lòng Dân với sự đoàn kết một lòng đã tạo nên sức mạnh tổng hợp, đủ sức đưa con tàu cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, bão táp. Bài học về sức mạnh của khối đại đoàn kết ấy vẫn còn nguyên giá trị đối với sự nghiệp xây dựng đất nước hùng cường, dân tộc Việt Nam “bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu” như Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn./.

ST.