Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

KỊP THỜI BẮT HAI ĐỐI TƯỢNG TỔ CHỨC "KH.ỦNG B.Ố" HOẠT ĐỘNG CHỐNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM!

     Sáng nay (20/9), Công an TP.HCM cho biết, Cơ quan An ninh điều tra của đơn vị đã ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam đối với Nguyễn Thị Hường, Trần Văn Linh để điều tra về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”!

Trước đó, vào ngày 29/8, Công an TP.HCM phối hợp Cục An ninh nội địa - Bộ Công an bắt quả tang bị can Nguyễn Thị Hường (SN 1968; ngụ quận Gò Vấp, TP.HCM) đang thực hiện hành vi chuẩn bị truyền đơn có nội dung kích động tuần hành, gây rối an ninh trật tự trong dịp Lễ Quốc khánh 2/9.

Khám xét khẩn cấp nơi ở của đối tượng Hường, Công an thu giữ 1.000 tờ truyền đơn có nội dung nhằm mục đích lật đổ Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo sự chỉ đạo của số đối tượng cầm đầu tổ chức khủng bố “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời” (do đối tượng Đào Minh Quân, ở Mỹ, cầm đầu).

Ngoài ra, Cơ quan điều tra cũng phát hiện thu giữ nhiều tang chứng, vật chứng khác liên quan hoạt động vi phạm pháp luật của Nguyễn Thị Hường.

Mở rộng điều tra, Công an TP.HCM đã triệu tập để làm việc, đấu tranh với đối tượng Trần Văn Linh (SN 1957 cùng ngụ quận Gò Vấp) về hành vi tham gia tổ chức khủng bố “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời”.

Cơ quan Công an xác định Trần Văn Linh là đồng phạm của Nguyễn Thị Hường, có nhiệm vụ thực hiện khảo sát các địa điểm đông người trên địa bàn TP.HCM như công viên, trường học, bệnh viện… để chuẩn bị thực hiện việc dán, rải truyền đơn theo chỉ đạo của số đối tượng cầm đầu tổ chức khủng bố “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời”.

Các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can và lệnh bắt 2 bị can để tạm giam đã được Viện Kiểm sát nhân dân TP.HCM phê chuẩn.

Hiện Cơ quan An ninh điều tra Công an TP.HCM và các đơn vị nghiệp vụ Công an Thành phố tiếp tục củng cố chứng cứ, xử lý nghiêm hành vi vi phạm pháp luật của 2 bị can Hường và Linh. Đồng thời mở rộng điều tra để xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

Bộ Công an đã xác định “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời” là tổ chức khủng bố. Công an TP.HCM khuyến cáo và đề nghị người dân nâng cao cảnh giác, không tin, không nghe theo lời dụ dỗ, hứa hẹn, lôi kéo của số đối tượng trong tổ chức khủng bố “Chính phủ Quốc gia Việt Nam lâm thời”. Khi phát hiện thông tin cá nhân, tổ chức có liên quan đến tổ chức này, đề nghị báo ngay cho cơ quan Công an nơi gần nhất để ngăn chặn, xử lý./.



Yêu nước ST.

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

 Tại Đại hội lần thứ VI (năm 1986) Đảng ta quyết định tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện, đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội. Đảng ta xác định cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ; trong khi lấy kế hoạch làm trung tâm, phải đồng thời sử dụng đúng đắn các quan hệ hàng hóa tiền tệ, dứt khoát xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đại hội lần thứ IX (năm 2001) Đảng ta xác định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đến Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước”.

Sau gần 40 năm kiên trì thực hiện đường lối đổi mới, Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn về mọi mặt, trong đó lĩnh vực kinh tế được đánh giá là một điểm sáng ấn tượng. Xuất phát điểm là một nước nông nghiệp lạc hậu nghèo nàn, quy mô nền kinh tế nhỏ bé, GDP chỉ đạt mức 26,3 tỷ USD trong những năm đầu đổi mới, đến nay, quy mô nền kinh tế Việt Nam đã có bước tiến vượt bậc. Năm 2023, GDP đạt 430 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 4.300 USD, tăng gấp 58 lần so với những năm đầu đổi mới; tỷ lệ hộ theo chuẩn nghèo đa chiều còn 2,9%.

Từ năm 2008 Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp và đặt mục tiêu trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Việt Nam thật sự trở thành một nền kinh tế có mức độ hội nhập toàn cầu khi trở thành đối tác thương mại lớn thứ 22 thế giới, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu năm 2023 đạt gần 700 tỷ USD, thu hút lượng đầu tư lớn từ nước ngoài đạt 23 tỷ USD - mức cao nhất của Việt Nam từ trước đến nay. Cần nhấn mạnh rằng, kết quả này đạt được trong bối cảnh các thị trường lớn bị thu hẹp và chuỗi cung ứng toàn cầu xuất hiện nhiều đứt gãy do ảnh hưởng từ đại dịch Covid-19.

Đến nay, Việt Nam đã ký hơn 90 hiệp định thương mại song phương, khoảng 60 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư. Việt Nam cũng là thành viên của 16 hiệp định thương mại tự do với sự tham gia của khoảng 60 nền kinh tế và trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN, thứ 35 trong 40 nền kinh tế hàng đầu thế giới. Ngân hàng Thế giới (WB) ghi nhận hiện tại Việt Nam là một trong những quốc gia năng động nhất khu vực Đông Á-Thái Bình Dương.

Đánh giá thành tựu trong phát triển kinh tế thị trường ở nước ta thời gian qua, các chuyên gia chỉ ra những kết quả nổi bật, đó là: kinh tế vĩ mô ổn định vững chắc hơn, các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao; quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách tiếp tục được hoàn thiện phù hợp với yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Các thành tố cơ bản của thị trường tài chính như thị trường tín dụng ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm cùng nhiều loại công cụ tài chính, giấy tờ có giá đã được hình thành tương đối hoàn chỉnh và đang được đưa vào vận hành, góp phần tạo điều kiện thu hút, tạo nguồn vốn cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Hiệu lực quản lý nhà nước đối với phát triển các yếu tố thị trường, các loại thị trường ngày càng được nâng cao, thủ tục hành chính từng bước được hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phát triển các loại thị trường. Hội nhập kinh tế quốc tế phát triển sâu, rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức; kim ngạch xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tăng mạnh, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và sự phát triển của đất nước.

Đáng tiếc là ngày 2/8 vừa qua, Bộ Thương mại Hoa Kỳ mặc dù ghi nhận nhiều chuyển biến tích cực về nền kinh tế Việt Nam nhưng vẫn tiếp tục chưa công nhận Việt Nam là quốc gia có nền kinh tế thị trường. Đây là phán quyết gây thất vọng bởi như vậy, doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ sẽ còn tiếp tục bị phân biệt đối xử trong các vụ điều tra chống bán phá giá, chống trợ cấp của Hoa Kỳ, chi phí sản xuất thực tế của doanh nghiệp Việt Nam tiếp tục không được công nhận mà phải sử dụng giá trị thay thế của một nước thứ ba để tính toán biên độ bán phá giá.

Theo Bộ Công thương Việt Nam, nếu Bộ Thương mại Hoa Kỳ xem xét hồ sơ và thực tiễn tại Việt Nam một cách khách quan, công bằng thì đã có thể thừa nhận thực tế rằng, Việt Nam đã là một nền kinh tế thị trường như hơn 70 nền kinh tế khác đã công nhận. Ngày 3/8, người phát ngôn Bộ Ngoại giao Phạm Thu Hằng nêu rõ: “Trên tinh thần quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện, Việt Nam đề nghị Hoa Kỳ tiếp tục thực hiện cam kết về việc phối hợp rộng rãi, mạnh mẽ, mang tính xây dựng và tiến tới sớm công nhận quy chế kinh tế thị trường của Việt Nam. Các cơ quan hữu quan của Việt Nam sẽ tiếp tục phối hợp chặt chẽ với các đối tác Hoa Kỳ bảo đảm quan hệ kinh tế, thương mại song phương tiếp tục phát triển ổn định, hài hòa, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và người dân hai nước”.

Việt Nam thật sự đã thiết lập một nền kinh tế thị trường năng động, hiệu quả là đánh giá của nhiều chuyên gia. Ông Murray Hiebert, chuyên gia cao cấp về Đông Nam Á tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS - một tổ chức nghiên cứu hàng đầu của Hoa Kỳ) trong bài viết “High Time for the United States to Graduate Vietnam from Its Nonmarket Economy Status” (tạm dịch: Đã đến lúc Hoa Kỳ đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các nền kinh tế phi thị trường) đăng tải trên website của CSIS phân tích rõ: Việt Nam đã tiến hành cải cách kinh tế vào cuối những năm 1980 bằng cách mở cửa đất nước cho đầu tư trực tiếp nước ngoài, cắt giảm mạnh vai trò trợ cấp cho các doanh nghiệp nhà nước, từ bỏ nông nghiệp tập thể và kiểm soát giá cả.

Ngày nay, Việt Nam là một thỏi nam châm lớn thu hút đầu tư nước ngoài. Ông thẳng thắn chỉ ra rằng: “Nhiều nền kinh tế toàn cầu, trong đó có Nhật Bản, Australia, Anh và Canada, đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Nên việc Hoa Kỳ xem Việt Nam là nền kinh tế phi thị trường có vẻ độc đoán và phản tác dụng đối với một quốc gia mà Hoa Kỳ có quan hệ kinh tế sâu sắc và hợp tác an ninh ngày càng mạnh mẽ”.

Ông Ted Osius, nguyên Đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN (USABC) bày tỏ: “Việt Nam đã là nền kinh tế thị trường! Nền kinh tế đó đã đáp ứng được những tiêu chí quan trọng như khả năng chuyển đổi tiền tệ và sẵn sàng để được chỉ định chính xác”. Trước phán quyết của phía Hoa Kỳ, Bộ Công thương cho biết sẽ nghiên cứu, phân tích các lập luận trong Báo cáo đánh giá nền kinh tế Việt Nam của Bộ Thương mại Hoa Kỳ để bổ sung, hoàn thiện lập luận, gửi hồ sơ yêu cầu Bộ Thương mại Hoa Kỳ xem xét lại quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam nhằm cụ thể hóa mối quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ, qua đó thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại, đầu tư song phương, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp và nhân dân hai nước.

Thời gian qua, lợi dụng sự việc nêu trên, các thế lực phản động, cơ hội chính trị đã ra sức công kích Việt Nam, đồng thời đưa ra những luận điệu sai trái phủ định thành tựu của nền kinh tế thị trường ở nước ta. Các đối tượng cố tình xuyên tạc, hướng lái nguyên nhân của thất bại này là do Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền, nền kinh tế không thể phát triển theo đúng tiêu chí thị trường, trong khi đó lại phớt lờ việc đã có hơn 70 quốc gia công nhận nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Từ đây, các đối tượng kêu gọi phải đa nguyên đa đảng, thay đổi thể chế thì đất nước mới có thể phát triển. Nhân cơ hội này, những hội nhóm phản động lưu vong tranh thủ “khoe thành tích” là những cuộc vận động hành lang kêu gọi các tổ chức, cá nhân có tiếng nói gây sức ép lên chính quyền Hoa Kỳ từ chối công nhận quy chế nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Tiếp tục “kịch bản” quen thuộc, tổ chức khủng bố Việt Tân lập tức tổ chức livestream dưới dạng hội luận với sự tham gia của những nhân vật cực đoan, thiếu thiện chí với Việt Nam nhằm mục đích bôi đen, xuyên tạc những thành tựu kinh tế mà đất nước ta đã đạt được trong nhiều năm qua, tiếp tục cổ xúy việc Hoa Kỳ chưa công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam.

Bên cạnh đó, các đối tượng chống phá ra sức rêu rao rằng không thể có nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa vì kinh tế thị trường vốn là của chủ nghĩa tư bản. Chỉ khi Việt Nam phát triển theo con đường tư bản thì mới có nền kinh tế thị trường đúng nghĩa. Tuy nhiên, thực tế chứng minh kinh tế thị trường là sản phẩm của văn minh nhân loại, không phải là sản phẩm độc quyền của chủ nghĩa tư bản. Mỗi quốc gia với những yếu tố đặc thù về văn hóa, lịch sử, thể chế chính trị sẽ hình thành những mô hình kinh tế thị trường khác nhau như kinh tế thị trường tự do ở Hoa Kỳ; kinh tế thị trường xã hội ở Đức, Áo; kinh tế thị trường nhà nước phúc lợi ở Thụy Điển và các nước Bắc Âu; kinh tế thị trường phối hợp ở Nhật Bản,...

Dù là những cách làm khác nhau nhưng mục tiêu mà các quốc gia đều hướng đến đó là thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, cải thiện và không ngừng nâng cao đời sống người dân. Do đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hoàn toàn phù hợp với tiêu chí mà các quốc gia trên thế giới đang thực hiện.

Những thành tựu của Việt Nam trong gần 40 năm đổi mới được các quốc gia, tổ chức, chuyên gia quốc tế ghi nhận, đánh giá cao là minh chứng thuyết phục cho sự đúng đắn của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng ta đã lựa chọn, trong đó có đường lối phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chúng ta hoàn toàn vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, tiếp tục cống hiến công sức cho sự phát triển của đất nước, đồng thời không ngừng đề cao cảnh giác, kiên quyết đấu tranh phản bác những luận điệu xuyên tạc, thù địch về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước hòng làm chệch hướng con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.

LHQ-ST

Phát huy vai trò của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở

 Đảng và Nhà nước ta luôn xác định bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội là sự nghiệp của toàn dân. Trong suốt quá trình cách mạng bảo vệ và xây dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm xây dựng, củng cố các lực lượng để huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội.

Do đó cùng với việc xây dựng, phát triển các lực lượng vũ trang nhân dân chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, việc xây dựng, phát triển, phát huy vai trò của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở cơ sở được hết sức chú trọng.

Nhận thấy tầm quan trọng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở, thời gian qua, các đối tượng cơ hội chính trị, các tổ chức phản động lưu vong thường xuyên đăng tải các bài viết xuyên tạc lực lượng này bằng nhiều luận điệu sai trái, bịa đặt. Các đối tượng xuyên tạc rằng: “Hợp nhất lực lượng tham gia bảo vệ an ninh cơ sở là cách để chính quyền gia tăng kiểm soát người dân”; “Nhà nước muốn tạo ra một mạng lưới chân rết quần chúng sát với từng người dân để nắm được chân tơ kẽ tóc mọi hoạt động của người dân”; “Thành lập lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở sẽ làm “phình to” bộ máy”; “Việc thành lập lực lượng bảo vệ an ninh trật tự cơ sở chỉ tăng thêm gánh nặng chi ngân sách của nhà nước mà người dân phải gánh chịu thông qua việc đóng thuế”...

Mục đích mà các đối tượng hướng đến là hòng bôi nhọ hình ảnh và phủ nhận vai trò của lực lượng tham gia bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở, bôi nhọ chính sách quốc phòng, an ninh và đối ngoại, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; kích động người dân chống đối, làm suy giảm niềm tin với Đảng, Nhà nước và hạ thấp vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thực tế cho thấy, những quan điểm xuyên tạc, sai trái về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở là sự suy diễn vô căn cứ, mang tính áp đặt và cực đoan. Hiện nay, tình hình tội phạm và vi phạm pháp luật trên cả nước diễn ra hết sức phức tạp.

Báo cáo quý I/2024 về tình hình tội phạm và kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm cho thấy, toàn quốc xảy ra 13.640 vụ phạm tội về trật tự xã hội, nhiều loại tội phạm tăng, trong đó nhóm tội phạm chống người thi hành công vụ và tội phạm liên quan tệ nạn xã hội tăng cao. Từ đây cho thấy sự cần thiết của việc ban hành các quy định nhằm phát huy tốt hơn nữa chức năng, vai trò của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.

Lực lượng này có chức năng, nhiệm vụ chính là tham gia bảo vệ an ninh, trật tự, tham gia cứu hộ, cứu nạn, phòng cháy, chữa cháy, tuyên truyền, vận động, giáo dục những người vi phạm pháp luật sống hoàn lương, cống hiến cho sự phát triển cộng đồng...

Với lợi thế sinh ra và lớn lên tại địa phương, được nhân dân tín nhiệm bầu ra, lực lượng bảo vệ an ninh, trật tự tại cơ sở có điều kiện gần gũi người dân, thông thuộc địa bàn, hiểu rõ thói quen, nếp sống, phong tục tập quán, tâm tư, nguyện vọng của người dân, nắm bắt nhanh chóng và giải quyết triệt để tình hình an ninh, trật tự tại cộng đồng dân cư, góp phần hạn chế sự phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội, không để xảy ra điểm “nóng”, phức tạp về an ninh, trật tự trên địa bàn.

Trải qua sự kiểm nghiệm của thời gian, lực lượng công an xã bán chuyên trách (thành lập từ ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945), lực lượng bảo vệ dân phố (thành lập từ năm 1955), lực lượng dân phòng (thành lập từ năm 1960) đã phát huy tốt vai trò và chức năng của mình.

Tuy nhiên, nếu không có quy định rõ ràng, thống nhất và hướng dẫn cụ thể trong xây dựng lực lượng sẽ dẫn đến tình trạng chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu đồng bộ, thậm chí lạm quyền, không làm hết trách nhiệm, không rõ ràng về chế độ, chính sách, điều kiện bảo đảm về nguồn lực, về cơ sở vật chất, trang thiết bị bảo đảm hoạt động giúp lực lượng trên có sự hiệu quả trong tổ chức hoạt động, trong chỉ đạo thực hiện. Từ thực tiễn này cho thấy, cần phải luật hóa các quy định đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.

Ngày 28/11/2023, Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được thông qua tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV và có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2024. Theo quy định của Luật, lực lượng này được hình thành nhờ kiện toàn ba lực lượng đã có sẵn, bao gồm công an xã bán chuyên trách, bảo vệ dân phố và dân phòng, trong đó Công an nhân dân là lực lượng nòng cốt. Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở được bố trí theo mô hình tổ bảo vệ an ninh, trật tự ở thôn, tổ dân phố, đơn vị dân cư tương đương (dự kiến có 3-5 thành viên/tổ).

Nhờ vậy, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở chuyên trách, chuyên nghiệp, tinh nhuệ, hoạt động hiệu quả hơn, phục vụ cho công tác bảo vệ an ninh, trật tự từ sớm, từ xa, từ cơ sở. Lực lượng này phối hợp với lực lượng công an trực tiếp quản lý địa bàn thường xuyên tổ chức tuần tra, kiểm soát để phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với tội phạm, tệ nạn xã hội và các vi phạm về an ninh, trật tự khác.

Khi có những vụ việc phức tạp về an ninh, trật tự có nguy cơ hoặc đã diễn ra trên địa bàn được phân công phụ trách, lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở phải có mặt nhanh chóng, kịp thời vận động người dân trên địa bàn hỗ trợ giải quyết, đồng thời báo cáo tình hình cho cơ quan công an trực tiếp quản lý địa bàn, phối hợp với lực lượng công an và lực lượng chức năng truy bắt tội phạm, người trốn thi hành án phạt tù, người bị truy nã đang ở trong địa bàn. Lực lượng này được bố trí phương tiện, cơ sở vật chất phù hợp, được bố trí chỗ làm việc, cấp phát trang phục, phù hiệu, huy hiệu, biển hiệu, thực hiện chế độ hỗ trợ, bồi dưỡng, được hỗ trợ tiền đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện, bảo hiểm y tế theo mức do Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định, nhờ đó tạo động lực và điều kiện để tham gia hoạt động đạt hiệu quả cao nhất.

Việc ban hành Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh trật tự ở cơ sở chính là sự thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước về mục tiêu “lấy dân làm gốc”, bảo vệ an ninh trật tự từ sớm, từ xa, từ cấp cơ sở. Luật điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, chế độ, chính sách đối với lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở gắn với tinh gọn bộ máy, kiện toàn lực lượng, không làm gia tăng biên chế, giúp giảm bớt chi tiêu ngân sách nhà nước, tăng cường công tác bảo đảm an ninh, trật tự ở cơ sở.

Đây là cánh tay nối dài của lực lượng Công an trong công tác bảo đảm an ninh trật tự, xây dựng phong trào Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, từng bước xây dựng nền an ninh nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, giải quyết kịp thời, nhanh chóng, từ cơ sở các vụ việc liên quan đến an ninh trật tự, hỗ trợ cấp ủy, chính quyền trong bảo đảm an ninh trật tự, vì cuộc sống bình yên, ấm no của nhân dân.

Luật Lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở đã tạo nên cơ sở pháp lý hết sức quan trọng phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong xây dựng, củng cố lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự đáp ứng yêu cầu của công tác phòng ngừa, đấu tranh phòng, chống tội phạm hiện nay. Cần khẳng định rằng, việc kiện toàn lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở không làm phình to bộ máy mà giúp lực lượng tập trung theo đầu mối, cải thiện điều kiện, cơ sở vật chất góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng quá trình công tác.

Tuy nhiên cũng thẳng thắn nhìn nhận, việc phát huy vai trò của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa thật sự cao, chưa phát huy được ý thức trách nhiệm và nguồn lực từ trong nhân dân. Xác định chức năng, nhiệm vụ một số tổ bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở chưa thật sự cụ thể, chưa tính sát thực tiễn địa bàn và tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Mặc dù không thể phủ nhận vai trò hết sức quan trọng của lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở nhưng để phát huy tối đa hiệu quả hoạt động cần cụ thể hóa nhiệm vụ của lực lượng này.

Trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển, hiện đại hóa, các đối tượng cơ hội chính trị, các thế lực thù địch vẫn sẽ tiếp tục triệt để lợi dụng mạng xã hội như Facebook, YouTube.... để tung nhiều thông tin xuyên tạc, thổi phồng, bóp méo sự thật về lực lượng tham gia bảo vệ an ninh, trật tự ở cơ sở.

Chính vì thế, mỗi người dân cần nâng cao cảnh giác, có nhận thức đúng đắn, tích cực, không tin, nghe theo và cung cấp, chia sẻ các thông tin sai sự thật, xuyên tạc trên không gian mạng; tích cực tham gia cùng các cơ quan chức năng trong đấu tranh, ngăn chặn kịp thời những luận điệu xuyên tạc, sai trái. Đồng thời, chúng ta cần tiếp tục phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị trong công tác bảo đảm an ninh trật tự, nhất là ở địa bàn cơ sở, góp phần phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng và giữ gìn sự bình yên cho nhân dân./.

LHQ-ST

Thứ Năm, 19 tháng 9, 2024

Họ đã bình dị bên nhau như thế!

 

Từ ngày Đại tướng về với thế giới người hiền, đặc biệt là 3 năm trở lại đây, sức khỏe của phu nhân Đặng Bích Hà ngày một suy giảm.

Dù được con cháu tận tình chăm sóc nhưng không thể tránh khỏi quy luật của tạo hóa, bà đã ra đi ở tuổi 96.

Tôi nhận được tin PGS, TS Đặng Bích Hà-phu nhân của Đại tướng qua đời lúc 0 giờ 50 phút ngày 17-9-2024 từ Đại tá Nguyễn Bội Giong, người từng làm Bí thư Quân sự, giúp việc cho Đại tướng trong những năm kháng chiến chống Pháp cho đến nhiều năm sau này. Mọi người trong gia đình đều quý mến gọi ông là “chú Giong” bởi sự thân thiết, gắn bó như ruột thịt. Chính bởi vậy, ông có nhiều kỷ niệm sâu sắc với gia đình Đại tướng.

Tôi nhớ có lần được cùng đoàn cựu chiến sĩ Điện Biên Phủ do Đại tá Nguyễn Bội Giong dẫn đầu đến thắp hương tưởng nhớ một năm ngày mất Đại tướng. Dù khá mệt, bà Bích Hà vẫn đồng ý dành thời gian tiếp đoàn. Đoàn đến sớm hơn dự kiến khoảng 30 phút, nhưng ông Võ Hồng Nam, con trai của Đại tướng đã sẵn sàng đưa đoàn vào thắp hương trước bàn thờ Đại tướng. Khi trở lại phòng khách của gia đình, bà Bích Hà đã chờ ở đó. Vẫn khuôn mặt đôn hậu, giọng nói nhỏ nhẹ, bà bắt tay và gọi chính xác tên từng người trong đoàn. Câu chuyện giữa những người lính già cùng bao kỷ niệm với anh Văn lại trở về sống động trong căn phòng nhỏ ấm cúng. Bà Bích Hà lắng nghe, mỉm cười và thỉnh thoảng gợi nhắc một vài câu Đại tướng từng nói với đồng đội.  

Do sức khỏe của bà Bích Hà không cho phép nên đoàn phải chào tạm biệt sớm. Trên đường trở về, chúng tôi còn được nghe nhiều câu chuyện thú vị về Đại tướng và phu nhân từ các cựu chiến binh. “Chị Bích Hà là một người rất tốt bụng, chân thành và luôn quan tâm đến người khác từ những cử chỉ rất nhỏ mà tinh tế”-Đại tá Nguyễn Bội Giong mở đầu câu chuyện.

Đám cưới của Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp và bà Đặng Bích Hà được tổ chức rất giản dị cuối năm 1946. Suốt hai phần ba thế kỷ nên duyên vợ chồng, bà Đặng Bích Hà lặng thầm làm hậu phương vững chắc để ông yên tâm đảm nhiệm các trọng trách mà Đảng, Quân đội và nhân dân giao phó. "Sinh ra trong gia đình danh giá, bản thân cũng là PGS, TS Sử học, lại là vợ của Đại tướng, Tổng Tư lệnh Quân đội nhân dân Việt Nam nhưng cả đời chị không màng lợi danh”-Đại tá Nguyễn Hữu Tài, nguyên Phó cục trưởng Cục Quân huấn, Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam nói và kể lại câu chuyện ông chứng kiến trong một lần đến gặp Tổng Tư lệnh báo cáo gấp tình huống mới phát sinh trong chiến đấu của đơn vị mình.

Tại căn lán ở và làm việc của Đại tướng, ông thấy bên bếp lửa nhà sàn, bà Bích Hà đang đọc sách “Bàn về chiến tranh” (Di cảo của Clausewitz-nhà lý luận quân sự người Đức, bản dịch tiếng Pháp) cho Đại tướng nghe. “Chị Hà hôm nay đọc hơi nhanh rồi!-nghe Đại tướng nói với vợ như vậy, tôi hơi giật mình vì cách xưng hô lạ đó. Còn phu nhân Bích Hà thì tủm tỉm cười không giải thích. Xong việc ra về tôi mới nhận ra, có lẽ biết tôi đang chờ được báo cáo nên bà khéo léo làm vậy!”-Đại tá Nguyễn Hữu Tài kể.

Theo các CCB, bà Đặng Bích Hà là một người phụ nữ cư xử rất khéo léo và đúng mực. Với người con riêng của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và người vợ đầu Nguyễn Thị Quang Thái là Võ Hồng Anh, bà cũng chăm sóc rất chu đáo. Những người cận vệ của Đại tướng từ hồi ở Chiến khu Việt Bắc đến bây giờ vẫn truyền tai nhau câu chuyện ngày Đại tướng cùng mẹ đẻ và con gái Võ Hồng Anh đoàn tụ sau nhiều năm xa cách. Năm ấy, ông và phu nhân Bích Hà mới cưới chưa lâu. Bằng con đường bí mật, tổ chức đã bố trí đưa thân mẫu của Đại tướng là bà Nguyễn Thị Kiên và Võ Hồng Anh rời Quảng Bình lên Chiến khu Việt Bắc. Phải mất gần 6 tháng chờ đợi, gia đình Đại tướng Võ Nguyên Giáp mới đoàn tụ tại Định Hóa, Thái Nguyên và được bố trí sinh hoạt tại vị trí cách Sở chỉ huy Bộ Tổng Tư lệnh một mỏm đồi.

Hằng ngày, Đại tướng cùng các đồng chí trong cơ quan dù đi đâu cũng đều phải qua khu vực này rồi mới rẽ về các hướng. Hồng Anh lúc này mới hơn 10 tuổi, thường ngồi trên mỏm đồi hướng về phía trước chờ vó ngựa của cha về. Có hôm không thấy cha về, cô nhất định ngồi đó không đi. Phu nhân Bích Hà sốt ruột cũng ra ngồi bên cạnh hàng giờ đồng hồ rồi hai mẹ con mới cùng trở về. Hồng Anh là người rất cá tính, nếu không nói là khó gần. Nhưng bằng trái tim nhân hậu của mình, phu nhân Bích Hà đã khiến cô cảm động và yêu quý rất tự nhiên. Bà Hà đối xử với Hồng Anh công bằng như với 4 người con do chính mình sinh ra.

Là vợ của vị Đại tướng nổi tiếng và luôn bận rộn, bà Hà đã thay chồng chăm sóc các con và luôn sánh bước cùng ông trong nhiều chuyến công tác và cả cuộc sống thường nhật. Ngược lại, dù việc quân cơ bộn bề, Đại tướng vẫn dành thời gian bên gia đình, định hướng, nhắc nhở các con khi cần thiết. Đại tá Lê Quyên (hiện trú tại Việt Hưng, Long Biên, Hà Nội) cho biết: “Chưa bao giờ tôi thấy Đại tướng lớn tiếng với vợ con. Bữa cơm của ông bà chẳng mấy khi có sơn hào hải vị mà thường là những món ăn đạm bạc tự tay phu nhân chế biến. Tôi nhớ mãi một hôm đi công tác về muộn, Đại tướng cho phép tôi ở lại dùng bữa tối. Trong bữa cơm, hai người không nói quá nhiều nhưng qua mỗi hành động, cử chỉ, tôi lại thấy một sự ăn ý đến kỳ lạ”.

Tiếp lời đồng đội, Đại tá Nguyễn Bội Giong nhớ lại: “Tháng 2-1948, tôi về công tác tại Văn phòng Tổng Chính ủy và được phân công làm Bí thư cho Đại tướng, có điều kiện để gần gũi anh chị. Anh Văn và chị Hà có cách quan tâm đến cấp dưới rất riêng. Khi ấy, biết tôi và nhiều cán bộ trẻ của Văn phòng chưa lập gia đình nên hầu như năm nào cũng được anh chị mời sang ăn Tết cùng gia đình. Thường khoảng chiều 28 Tết, chị Hà trực tiếp cùng vài người tổ chức gói bánh chưng. Sáng mồng Một Tết, anh em cơ quan và bạn bè thân cận đến chúc Tết, trên tay người thì hộp bánh, hộp mứt, gói ô mai gọi là “góp Tết”. Chị Hà đã đặt sẵn chiếc bàn, ai mang gì tới thì để lên đó và mọi người cùng thưởng thức. Anh chị cũng quây quần bên các chiến sĩ của mình, chuyện trò vui vẻ không phân biệt tướng sĩ”.

Căn nhà số 30 Hoàng Diệu luôn giữ một không khí đầm ấm, thân thiện. Đại tướng phải vào Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 chăm sóc, hầu như ngày nào bà Bích Hà cũng vào thăm chồng, cùng ông chuyện trò, đọc sách cho ông nghe. Khi nào mệt, bà không vào được, qua các con ông dặn: "Bảo chị Hà giữ gìn sức khỏe!”. Đại tướng và phu nhân đã bình dị bên nhau như thế!

Hà Nội - 70 năm Thủ đô anh hùng: Sáng ngời tinh thần “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”

 

Trải qua 78 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, LLVT Thủ đô Hà Nội luôn phát huy tốt tinh thần: “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”; đoàn kết, hiệp đồng chặt chẽ, dũng cảm, kiên cường hoàn thành tốt và xuất sắc mọi nhiệm vụ... góp phần xây dựng, bảo vệ và kiến thiết Thủ đô Hà Nội phát triển vững mạnh, hướng tới trở thành thành phố kết nối toàn cầu.

LLVT Thủ đô Hà Nội thành lập ngày 19-10-1946 (tiền thân là Chiến khu XI). Ngay sau khi ra đời, hưởng ứng Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh (ngày 19-12-1946), LLVT Thủ đô Hà Nội đã giữ vững tấm lòng sắt son, trung hiếu với Tổ quốc, với nhân dân; chống thù trong, giặc ngoài; bảo vệ chính quyền cách mạng, chuẩn bị kháng chiến.

Trong 60 ngày đêm chiến đấu giam chân địch trong thành phố, cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô Hà Nội hiên ngang vững bước trên ranh giới sinh-tử “quyết tử” với kẻ thù xâm lược, để Tổ quốc quyết sinh, điển hình như tấm gương: Đồng chí Nguyễn Văn Thiềng dũng cảm hy sinh sau khi hai lần dùng bom ba càng đánh xe tăng địch ở ngã tư đường Bà Triệu-Trần Quốc Toản; hay đồng chí Nguyễn Phúc Lai cảm tử ôm bom ba càng lao vào đánh chặn xe tăng địch và hy sinh trên đê La Thành, cạnh làng Giảng Võ... góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.

Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, LLVT Thủ đô Hà Nội nêu gương sáng kiên cường trụ vững, giữ đất, bám dân, “vừa sản xuất, vừa chiến đấu”, vừa chi viện đắc lực sức người, sức của cho các chiến trường... cùng toàn quân, toàn dân làm nên chiến thắng “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu”; “Hà Nội-Điện Biên Phủ trên không” và  Đại thắng mùa Xuân 1975-Non sông thu về một mối; tô thắm truyền thống “Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu; Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh; đoàn kết, sáng tạo, đề cao cảnh giác; quyết đánh, biết thắng, đã đánh là thắng; nếp sống văn hóa, tự giác, nghiêm minh”.

Bước vào giai đoạn cách mạng mới, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, trực tiếp là Thành ủy, UBND TP Hà Nội, LLVT Thủ đô Hà Nội không ngừng trưởng thành, lớn mạnh, theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; hoàn thành tốt các nhiệm vụ (có nhiều nhiệm vụ hoàn thành xuất sắc).

Nổi bật là: Đảng ủy, Bộ tư lệnh (BTL) Thủ đô Hà Nội quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương, chính sách mới trong chiến lược, đề án, pháp luật về quân sự, quốc phòng; thực hiện tốt chức năng tham mưu cho Thành ủy, UBND thành phố, lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, kết hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, khu vực phòng thủ TP Hà Nội, “thế trận lòng dân” ngày càng vững chắc; nâng cao hiệu quả động viên công nghiệp quốc phòng, thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về quốc phòng; hoàn thành 100% chỉ tiêu tuyển quân đạt chất lượng tốt. Thực hiện tốt công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, chức sắc, chức việc tôn giáo, học sinh, sinh viên trên địa bàn (từ năm 2019 đến nay, mở hơn 2.700 lớp cho hơn 280.000 lượt đối tượng 2, 3, 4 và 4 mở rộng; mở 16 lớp cho hơn 1.500 chức sắc, chức việc tôn giáo).

Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ TP Hà Nội lần thứ XVII nhiệm kỳ 2020-2025, Đảng ủy, BTL Thủ đô Hà Nội đã chủ động tham mưu xây dựng và triển khai có hiệu quả Chương trình số 09-CTr/TU ngày 17-3-2021 của Thành ủy Hà Nội về “Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn thành phố giai đoạn 2021-2025”. Đến nay, toàn thành phố đã xây dựng 144 trụ sở làm việc của ban CHQS cấp xã; thành lập 5 trung đội, 111 tiểu đội dân quân thường trực, 579 chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn; tỷ lệ đảng viên trong lực lượng dân quân tự vệ đạt 23,1%, trong lực lượng dự bị động viên là 11,03%.

Cùng với đó, Đảng ủy, BTL Thủ đô Hà Nội tập trung lãnh đạo, chỉ đạo nâng cao sức chiến đấu của cấp ủy, tổ chức đảng; thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình, trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên. Làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ, xây dựng đơn vị an toàn gắn với địa bàn an toàn; tăng cường kiểm tra, giám sát, phòng ngừa, ngăn chặn kịp thời các biểu hiện vi phạm pháp luật, kỷ luật, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tỷ lệ đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ năm 2024 tăng 2,67% so với năm 2019. Năm 2024, tỷ lệ vi phạm kỷ luật khoảng 0,064% (giảm 0,136% so với năm 2019).

Công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu của LLVT Thủ đô Hà Nội đạt nhiều kết quả quan trọng. Từng cơ quan, đơn vị chủ động xây dựng văn kiện, tích cực luyện tập các phương án tác chiến; phối hợp với các lực lượng nắm chắc tình hình, bảo vệ an toàn tuyệt đối các ngày lễ, kỷ niệm và các sự kiện chính trị quan trọng. Những năm qua, bám sát yêu cầu bảo vệ Thủ đô Hà Nội, BTL Thủ đô Hà Nội chỉ đạo tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ với nhiều nét mới, nội dung mới sát tình huống, nghệ thuật quân sự và yêu cầu thực tiễn đặt ra; diễn tập phòng, chống lụt bão, cháy nổ, cứu hộ, cứu nạn và diễn tập phòng thủ dân sự luôn bảo đảm chất lượng, an toàn tuyệt đối.

Thông qua các cuộc diễn tập, khẳng định chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và vận hành cơ chế của cấp ủy, chính quyền địa phương; sự quan tâm sâu sắc của thành phố trong xây dựng khu vực phòng thủ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, nâng cao nhận thức, năng lực lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền; vai trò tham mưu của các sở, ban, ngành, đoàn thể; trình độ chỉ huy, hiệp đồng sẵn sàng chiến đấu của LLVT.

Thực hiện nhiệm vụ đội quân công tác, Đảng ủy, BTL Thủ đô Hà Nội đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo cấp ủy, chỉ huy các cấp chủ động xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện tốt các nội dung tham gia xây dựng cơ sở chính trị ở địa phương, giúp nhân dân phát triển kinh tế, văn hóa-xã hội, xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững, củng cố quốc phòng, an ninh, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, hưởng ứng các phong trào, cuộc vận động cách mạng của Trung ương và địa phương phát động. Trong gian khó và thiên tai, hỏa hoạn, hình ảnh người chiến sĩ LLVT Thủ đô Hà Nội càng tỏa sáng khi không quản hiểm nguy, cùng chung sức, đồng lòng giúp đỡ nhân dân vượt qua cơn hoạn nạn để sớm ổn định cuộc sống (từ năm 2019 đến nay, huy động hơn 15.000 lượt cán bộ, chiến sĩ và hơn 1.000 lượt phương tiện tham gia phòng, chống thiên tai, cháy nổ).

Nhiều phong trào thiết thực, hiệu quả như: “Bộ đội và dân quân tự vệ Thủ đô Hà Nội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì người nghèo, không để ai bị bỏ lại phía sau”, “Cán bộ, chiến sĩ LLVT Thủ đô Hà Nội thi đua thực hiện văn hóa công sở, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ”; “Quân đội tham gia phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí”... được triển khai chặt chẽ, toàn diện, đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm. Từ năm 2019 đến nay, BTL Thủ đô Hà Nội đã tổ chức cho bộ đội hành quân dã ngoại kết hợp làm công tác dân vận với hơn 35.000 ngày công, xây dựng, tu sửa các công trình phúc lợi xã hội, làm đường nông thôn, công trình thủy lợi; xây dựng 12 nhà đồng đội, 38 nhà tình nghĩa, 9 nhà đại đoàn kết, với số tiền hơn 4,7 tỷ đồng; khám bệnh, tư vấn sức khỏe, cấp thuốc cho gần 45.000 đối tượng chính sách, hỗ trợ hộ nghèo, các cháu học sinh nghèo vượt khó, học giỏi hơn 10 tỷ đồng...

Phát huy truyền thống, LLVT Thủ đô Hà Nội luôn giữ vững niềm tin và tuyệt đối trung thành với Đảng; kiên định, vững vàng, đoàn kết, sáng tạo vượt mọi khó khăn, xây dựng LLVT ngày càng vững mạnh toàn diện; duy trì nghiêm các chế độ sẵn sàng chiến đấu, nắm chắc tình hình; phối hợp với Công an TP Hà Nội và các lực lượng giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, tạo thuận lợi cho sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Thủ đô văn minh, giàu đẹp.

 

Bác bỏ thông tin xuyên tạc "cán bộ bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai"

 

Những ngày qua, khi toàn xã hội chung tay góp sức giúp người dân các tỉnh phía Bắc khắc phục hậu quả do bão số 3 và hoàn lưu bão gây ra thì trên không gian mạng xuất hiện một số tài khoản có phát ngôn phiến diện, lạc lõng, xuyên tạc sự thật.

Các ý kiến này cố tỏ ra có nghĩa khí, trách nhiệm, lớn tiếng hoài nghi rằng Đảng, Nhà nước, nhất là đội ngũ cán bộ cấp cao vẫn “chăn ấm, đệm êm”, không quan tâm đến công tác phòng, chống bão lũ, bỏ mặc nhân dân tự chống chọi với thiên tai.

Một số ý kiến mỉa mai rằng: Chỉ có dân cứu dân khi hoạn nạn, dân không thể kêu cứu chính quyền mà chỉ có thể nhờ ai đó giúp mình; rằng sự xuất hiện của cán bộ trong bão lũ cũng chỉ là “phông bạt” để “mị dân”... Thực tế, những cách nghĩ, nhận thức, hoặc suy diễn nêu trên là hoàn toàn sai lầm, gây nguy hại, ảnh hưởng không nhỏ đến công tác lãnh đạo, chỉ đạo phòng, chống thiên tai và làm giảm uy tín, danh dự của đội ngũ cán bộ trong Đảng. 

Có thể khẳng định: Những thông tin xuyên tạc, mang tính quy kết “gắp lửa bỏ tay người” của các thành phần thoái hóa biến chất, rơi vào “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã gây nên sự hoài nghi, hoang mang trong dư luận. Đây là "cái cớ" để các thành phần phản động, chống phá tập trung hướng lái dư luận hiểu sai lệch, cho rằng Đảng, Nhà nước không quan tâm đến đời sống dân sinh, bỏ mặc người dân trong tình cảnh khốn khó; cố tình gây chia rẽ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền, chia rẽ giữa LLVT và nhân dân, bôi nhọ cán bộ của Đảng, chê bai Đảng và chế độ ta, từ đó kích động chống đối từ bên trong.

Thực tế cho thấy, thiên tai và các hiện tượng thời tiết cực đoan đang diễn ra ngày càng phức tạp, khó lường, hậu quả gây ra là không thể tránh khỏi. Đảng ta và các đồng chí cán bộ lãnh đạo không chỉ sớm nắm bắt tình hình, dự báo đúng, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả xảy ra và nỗ lực khắc phục thiệt hại. Cùng với đó, khi bão lũ diễn biến phức tạp, các đồng chí cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và các cấp đều có mặt ở những nơi khó khăn, nguy hiểm để trực tiếp chỉ đạo ứng phó và hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân.

Hình ảnh Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cùng nhiều đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các ban, bộ, ngành trực tiếp đến kiểm tra, thăm hỏi, động viên nhân dân vùng lũ và hàng vạn cán bộ, LLVT ngày đêm dầm mình trong mưa lũ, hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân... là minh chứng rõ nét nhất về tác phong công tác và đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ của Đảng luôn sát dân, vì dân trong bất luận hoàn cảnh nào. Đồng thời, thực tế này cũng giúp đập tan những nhận thức lệch lạc, phiến diện xuất hiện trên không gian mạng trong thời gian gần đây, khi cho rằng: Bệnh quan liêu, xa dân đã “ăn sâu bám rễ”, trở thành “căn bệnh” phổ biến trong đội ngũ cán bộ của Đảng, khiến những luận điệu ấy trở nên “lạc điệu” trong lũ dữ.

Nhiều người dân cứ tự đặt câu hỏi: Không biết những ngày trong tâm điểm mưa lũ, với bộn bề những công việc như chuẩn bị các nội dung cho Hội nghị Trung ương 10 (khóa XIII); đón tiếp nguyên thủ các nước đến thăm Việt Nam; lãnh đạo, chỉ đạo công tác ứng phó, khắc phục bão số 3 và hoàn lưu do bão gây ra và mọi mặt đời sống-xã hội... các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước được mấy phút chợp mắt nghỉ ngơi hay thức trắng đêm vì dân, vì nước?

Không cảm động sao được khi vừa dự xong Lễ khai giảng năm học 2024-2025 của Học viện Quốc phòng, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm cùng đoàn công tác lên đường hướng về vùng lũ Tuyên Quang, Phú Thọ trực tiếp kiểm tra, động viên nhân dân và các lực lượng làm nhiệm vụ khắc phục hậu quả mưa lũ. Hình ảnh Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính lội bùn đến các hộ dân ở Yên Bái động viên bà con và không thể kìm được xúc động khi trực tiếp đến nơi đau thương nhất tại Làng Nủ (Phúc Khánh, Bảo Yên, Lào Cai) nắm tình hình, động viên nhân dân vượt lên đau thương mất mát và chỉ đạo trực tiếp các lực lượng khẩn trương cứu dân, tìm kiếm những người mất tích do lũ quét gây ra. Đồng chí Trần Thanh Mẫn, Chủ tịch Quốc hội quần xắn cao, lội nước ngập đến thăm hỏi, động viên bà con vùng lũ Thái Nguyên.

Theo dõi nhiều diễn đàn mạng xã hội, chúng ta dễ dàng nhận thấy: Có đến hàng chục triệu lượt chia sẻ, bình luận tích cực, bày tỏ sự ghi nhận, tán dương, thể hiện lòng biết ơn trước những việc làm, hoạt động mà các đồng chí lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, các tướng lĩnh trong Quân đội, Công an và cán bộ, chiến sĩ LLVT đã và đang thực hiện trong bão lũ. Điểm chung những chia sẻ, bình luận của các tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước đều biểu thị sự ủng hộ, khen ngợi đội ngũ cán bộ các cấp, cán bộ, chiến sĩ LLVT vì dân; không quản ngại hiểm nguy, khó khăn, gian khổ, trực tiếp xuống kiểm tra, nắm bắt tình hình thực tế tại những địa bàn chịu thiệt hại nặng nhất; lắng nghe ý kiến, tâm tư, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân để có những chỉ đạo kịp thời trong bão lũ với quyết tâm lo cho dân là trên hết, trước hết. Những bình luận như: “Tuyệt vời Việt Nam”, “Các bác thật gần dân, sát dân”, “Đoàn kết, chúng ta sẽ vượt qua lũ dữ”, “Việt Nam kiên cường”... trở thành thông điệp để “nghĩa Đảng, lòng dân” thêm bền chặt; gắn kết cộng đồng người Việt Nam trong và ngoài nước cùng chung tay với Đảng, Nhà nước hướng về đồng bào vùng bão lũ.

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhiều lần nhấn mạnh: Có dân là có tất cả! Và người đặc biệt coi trọng, giáo dục đội ngũ cán bộ các cấp phải trọng dân, gần dân, vì dân mới làm được cách mạng và đó mới là mục đích của cách mạng. Thực tiễn, trong sự nghiệp cách mạng của dân tộc, có biết bao thế hệ cán bộ từ nhân dân mà ra, được nhân dân đùm bọc, che chở, nuôi dưỡng, trưởng thành. Đi qua một cơn bão dữ để thấy rằng: Tuyệt đại đa số cán bộ các cấp của Đảng, Nhà nước luôn vì nhân dân mà cống hiến, hy sinh; đau cùng nỗi đau của dân, thương cảm, sẻ chia để nỗ lực hơn nữa, quyết tâm hơn nữa, chăm lo cho người dân có cuộc sống tốt đẹp, nhất là lo cho người dân trong thiên tai, dịch bệnh; trong xóa đói, giảm nghèo, thực hiện an sinh xã hội.

Thực tiễn là thước đo công bằng nhất, tấm gương phản chiếu sinh động nhất nói lên phẩm chất đạo đức cách mạng của đội ngũ cán bộ các cấp. Chính từ những việc làm vì dân, vì nước làm ngời sáng thêm đạo đức cách mạng của người cán bộ, củng cố thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Từ đó mà “ý Đảng, lòng dân” quyện chặt, cùng nhau vượt qua hoạn nạn, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”; dù có thiên tai, địch họa, dù đất nước phải “sáng chắn bão dông, chiều ngăn nắng lửa” nhưng chỉ cần “Đảng vì dân, dân tin Đảng”, cùng nhau đoàn kết một lòng thì khó khăn nào chúng ta cũng vượt qua, đỉnh cao nào chúng ta sẽ vươn tới. Đó cũng là những minh chứng rõ nét nhất để chúng ta phê phán, phủ định những luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc cho rằng: Cán bộ bỏ mặc dân trong lũ dữ.

Một Đảng vì dân, đội ngũ cán bộ các cấp vì dân thì được nhân dân tin tưởng và từ đó Đảng ta vững mạnh, chế độ ta trường tồn. Ngược lại, nếu xa dân, để mất niềm tin của nhân dân là mất tất cả. Điều đó, đòi hỏi đội ngũ cán bộ các cấp của Đảng phải luôn biết “tự soi, tự sửa” mình hằng ngày, để sống, làm việc sao cho xứng đáng với niềm tin, sự kỳ vọng của nhân dân.

Bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không thể là “Đảng toàn dân”

 

Chống phá Đảng, Nhà nước ta nói chung, xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng nói riêng là mục tiêu không thay đổi của các thế lực thù địch. Đặc biệt gần đây, trên không gian mạng xuất hiện không ít luận điệu xuyên tạc cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là “Đảng toàn dân”, từ đó phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng. Vấn đề này cần được nhận diện và kiên quyết đấu tranh bác bỏ.

Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Ðảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”1. Đây là cách diễn đạt hoàn toàn đúng đắn, phù hợp về bản chất giai cấp công nhân của Đảng trong điều kiện mới.

Tuy nhiên, với mưu đồ thâm độc, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng vấn đề này, thường xuyên tung ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc về bản chất của Đảng. Họ cho rằng, nếu “ôm đồm” như vậy, Đảng không còn là Đảng của giai cấp công nhân nữa, mà là “Đảng toàn dân”. Để minh chứng cho luận điệu này, chúng còn lấy số liệu thực tế về tỷ lệ đảng viên xuất thân từ công nhân không cao, trong khi số lượng đảng viên của Đảng xuất thân từ nông dân, trí thức cao hơn để phụ họa. Thâm hiểm hơn, lợi dụng việc Đảng ta chủ trương kết nạp những quần chúng ưu tú là chủ doanh nghiệp tư nhân vào Đảng, để suy diễn, xuyên tạc cho rằng: bản chất giai cấp công nhân của Đảng sẽ bị phai nhạt, Đảng Cộng sản đang dần thành “Đảng toàn dân”. Đồng thời, hô hào “Đảng toàn dân” thì mới “chính danh” cầm quyền, “đại diện cho toàn dân tộc”(!).

Có thể khẳng định, những luận điệu trên là hoàn toàn sai trái, phản động, không ngoài dụng ý xấu là nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó đi đến xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì vậy, làm rõ bản chất giai cấp công nhân của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động là vấn đề cấp thiết hiện nay.

Lý luận Mác - Lênin đã chỉ rõ, bản chất giai cấp công nhân của Đảng Cộng sản là tổng hòa các mặt, các yếu tố thuộc tính, mối liên hệ tất yếu bên trong quy định sự vận động, phát triển của đảng, được biểu hiện thông qua các tính chất, cách tổ chức và hoạt động của đảng. Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân - giai cấp mà bản chất và lợi ích của nó gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Bản chất giai cấp công nhân của đảng thể hiện ở mục tiêu, lý tưởng; ở cương lĩnh, đường lối, nền tảng tư tưởng, các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng; ở phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên; mối quan hệ gắn bó giữa đảng với nhân dân và giải quyết vấn đề dân tộc với đoàn kết quốc tế; do đó, về mặt nhận thức, không thể lẫn lộn đảng với toàn bộ giai cấp, với toàn thể nhân dân và dân tộc. Điều đó cũng được V.I.Lênin khẳng định “... không được lẫn lộn đảng, tức là đội tiền phong của giai cấp công nhân, với toàn bộ giai cấp”2. Trên thực tế, Đảng Cộng sản được tổ chức chặt chẽ, khác với các tổ chức khác của giai cấp công nhân, là tổ chức của những người cách mạng, lấy hoạt động cách mạng làm nghề nghiệp. Vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đại hội II của Đảng khẳng định: “Đảng Lao động Việt Nam là đội tiền phong và bộ tham mưu của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Nhưng về thực chất, nó vẫn là một chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân Việt Nam”3.

Ở Việt Nam, xuất phát từ đặc điểm đất nước và điều kiện của cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc nên Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Điều này làm cho bản chất giai cấp công nhân của Đảng thống nhất biện chứng với tính nhân dân và tính dân tộc. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục “Khẳng định bản chất giai cấp công nhân của Đảng, chúng ta không tách rời Đảng và giai cấp với các tầng lớp nhân dân lao động khác, với toàn thể dân tộc. Ngay từ khi mới thành lập, Đảng đã mang trong mình tính thống nhất giữa yếu tố giai cấp và yếu tố dân tộc. Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc. Đảng tìm thấy nguồn sức mạnh không chỉ ở giai cấp công nhân mà còn ở các tầng lớp nhân dân lao động, ở cả dân tộc. Cũng từ đó nhân dân lao động và cả dân tộc đã thừa nhận Đảng ta là người lãnh đạo, người đại biểu chân chính cho quyền lợi cơ bản và thiết thân của mình”4. Đến nay, cách diễn đạt bản chất của Đảng đã được bổ sung đầy đủ, sâu sắc hơn như ở đầu bài viết đã nêu. Diễn đạt như vậy không hạ thấp bản chất giai cấp công nhân của Đảng, cũng không trượt sang quan điểm “đảng toàn dân”, “đảng phi giai cấp”, mà diễn giải bản chất giai cấp công nhân của Đảng sâu sắc, biện chứng hơn; phản ánh sự thống nhất về lợi ích, mục tiêu, lý tưởng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân và toàn dân tộc trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, diễn đạt này không trái với học thuyết Mác - Lênin về Đảng Cộng sản, bởi: “... giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc”5. Khi đã có chính quyền, giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính là đại diện của dân tộc, là chủ nhân của đất nước, thì Đảng Cộng sản - đội tiên phong của giai cấp công nhân đương nhiên là đội tiên phong của nhân dân lao động và của toàn dân tộc.

Bên cạnh đó, Ðảng Cộng sản Việt Nam vốn dĩ ra đời, phát triển ở nước thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu nên ban đầu, giai cấp công nhân còn nhỏ bé, số lượng còn ít so với các thành phần xã hội khác như giai cấp nông dân,... song luôn chứng tỏ tinh thần cách mạng triệt để, tính tổ chức kỷ luật cao, đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đủ khả năng lãnh đạo cách mạng. Vì vậy, tuy số lượng đảng viên xuất thân từ giai cấp công nhân chiếm tỷ lệ không cao trong Đảng, song có vai trò rất quan trọng. Đại hội IV của Đảng đã khẳng định: “Thành phần xã hội xuất thân của đội ngũ cán bộ, đảng viên tuy không phải là yếu tố duy nhất hoặc là yếu tố chủ yếu, nhưng rất quan trọng, vì nó góp phần bảo đảm tính chất giai cấp công nhân của Đảng, có ảnh hưởng không nhỏ đến sức chiến đấu, đến sự trong sạch về tư tưởng và tổ chức của Đảng,...”6. Đây là sự vận dụng, phát triển sáng tạo vấn đề thành phần giai cấp trong Đảng ở nước ta. Đồng thời, phù hợp với chỉ dẫn của V.I.Lênin về các tiêu chí đặc biệt quan trọng để xem xét, đánh giá một đảng có thực sự là đảng của giai cấp công nhân, mang bản chất giai cấp công nhân, một đảng Mác xít chân chính hay không: “Dĩ nhiên, đại bộ phận Công đảng là công nhân. Nhưng nó có thực sự là một chính đảng của công nhân hay không, điều đó không phải chỉ phụ thuộc vào chỗ đảng đó có bao gồm công nhân hay không, mà cũng còn phụ thuộc vào chỗ ai lãnh đạo nó, và ở tính chất của hành động và của sách lược chính trị của đảng đó ra sao nữa”7. Như vậy, số lượng đảng viên là công nhân tuy có vai trò quan trọng song không quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà được quyết định bởi: Ai là người lãnh đạo của Đảng; chất lượng của đội ngũ cán bộ chiến lược của Đảng ra sao; đường lối lãnh đạo và hành động của Đảng có đúng đắn hay không. Từ những phân tích trên cho thấy, luận điệu về cái gọi là “Đảng toàn dân” mà các thế lực thù địch rêu rao, gán ghép cho Đảng Cộng sản Việt Nam đều xuất phát từ những ý kiến chủ quan và không có cơ sở khoa học. Điều đó càng lộ rõ mưu đồ của họ nhằm phủ nhận bản chất giai cấp công nhân và hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng; từ đó, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, làm phai nhạt vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, cũng như mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng.

Thực tiễn đã cho thấy, cùng với lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, Đảng ta luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, coi đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Dù trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, Đảng không hoài nghi, dao động, xa rời mục tiêu, lý tưởng, luôn kiên định lãnh đạo đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng đã được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”8.

Và để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta thường xuyên nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, năng lực hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách và tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo, hiệu quả. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới, thường xuyên bổ sung, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước phù hợp với yêu cầu, thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của nhân dân; kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và toàn xã hội. Đồng thời, Đảng không ngừng củng cố, tăng cường bản chất giai cấp công nhân; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; giữ vững, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động theo quan điểm, lập trường, ý thức tổ chức của giai cấp công nhân. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược có phẩm chất, năng lực, uy tín; dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung, thực sự là tấm gương về phẩm chất, đạo đức, lối sống, hết lòng vì nhân dân, vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Đẩy mạnh công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những sâu mọt, làm trong sạch bộ máy lãnh đạo.

Mặt khác, Đảng, Nhà nước ta luôn củng cố quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộcchăm lo đời sống, đại diện và bảo vệ lợi ích của toàn dân tộc; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chú trọng hoàn thiện thiết chế dân chủ hóa đời sống xã hội, thực hiện hiệu quả Quy chế dân chủ ở cơ sở; thường xuyên đổi mới, hoàn thiện chế độ dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện mà Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hoá, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”9. Xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức liêm chính, thực sự là công bộc của nhân dân.

Cùng với đó, Đảng, Nhà nước ta luôn kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Đẩy mạnh công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế thông qua đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân; mở rộng hợp tác với các nước, tổ chức quốc tế, là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới.

Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên đã khẳng định, Ðảng Cộng sản Việt Nam mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam, mãi xứng đáng là đội tiên phong, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của toàn dân tộc; lãnh đạo đất nước ngày càng phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Thực tế đó là minh chứng rõ ràng nhất bác bỏ luận điểm xuyên tạc bản chất giai cấp công nhân của Đảng mà các thế lực phản động, thù địch vẫn rêu rao, xuyên tạc./.

                                                                                                                  ST

Không thể xuyên tạc, phủ nhận chính sách an sinh xã hội của Việt Nam

 

Những năm qua, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực. Trong đó, chính sách an sinh xã hội luôn được Đảng, Nhà nước quan tâm đặc biệt; trực tiếp góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Đó là những minh chứng sinh động, bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phản động.

Trong các giai đoạn phát triển của đất nước kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay, an sinh xã hội luôn là một trong những chủ trương, chính sách quan trọng của Ðảng và Nhà nước Việt Nam. Bảo đảm an sinh xã hội được xác định vừa là mục tiêu, vừa là động lực, nền tảng cơ bản để phát triển kinh tế - xã hội bền vững, nâng cao vị thế đất nước; là cơ sở để giữ vững ổn định chính trị - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống và hạnh phúc của nhân dân, thể hiện tính nhân văn, nhân đạo và bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội nước ta.

Thế nhưng, các thế lực thù địch, phản động luôn tìm mọi cách xuyên tạc, phủ nhận thành quả mà Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được. Họ triệt để lợi dụng những khó khăn về đời sống của một bộ phận nhân dân, các vấn đề xã hội bức xúc; kết quả của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ,… để thực hiện các thủ đoạn chống phá. Thứ nhất, trực tiếp công kích, xuyên tạc hệ thống chính sách an sinh xã hội của Đảng, Nhà nước ta trong gần 80 năm qua, nhất là trong thời gian gần đây. Thứ hai, cố tình bôi đen, phủ nhận những kết quả thực tế trong bảo đảm an sinh xã hội mà chúng ta đã đạt được cùng những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cả hai phương diện này được các thế lực thù địch, phản động kết hợp chặt chẽ với nhau và luôn gắn với các vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, coi đó là “điểm tựa” và “chất liệu” để chống phá. Họ thường rêu rao các luận điệu, như: chính sách an sinh xã hội của Việt Nam “thiếu tiến bộ, thiếu công bằng xã hội”; “Nhà nước rũ bỏ trách nhiệm lo an sinh cho dân”, rằng “chế độ an sinh xã hội ở Việt Nam có chiều hướng thụt lùi”, chính quyền “bỏ mặc dân nghèo tự lo”, “tự bơi”, v.v. Qua đó, hình thành mũi nhọn trực tiếp tiến công, hướng đến mục tiêu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý, điều hành của Nhà nước; bôi đen, phủ định bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nhưng sự thật luôn rõ ràng! Những luận điệu xuyên tạc không thể phủ nhận được thực tế rằng: việc bảo đảm an sinh xã hội luôn là chủ trương nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam; là chính sách cơ bản để xóa đói, giảm nghèo, giảm nhẹ tác động bất lợi, rủi ro, thực hiện công bằng xã hội, bảo đảm đời sống của nhân dân, tạo đồng thuận xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tăng cường quốc phòng, an ninh. Mục đích mà Đảng và Nhân dân ta phấn đấu là làm cho mọi người đều có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Mục đích đó vừa đặt ra yêu cầu, vừa quy định phương hướng, mục tiêu chính sách an sinh xã hội mà Đảng, Nhà nước Việt Nam thực hiện trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhìn lại lịch sử, ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành côngtrong bối cảnh chính quyền non trẻ phải đương đầu với “giặc đói”, “giặc dốt” và giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng hàng đầu là phải xây dựng chính quyền mới, củng cố và sử dụng chính quyền ấy để kiến tạo, xây dựng chế độ xã hội mới, không ngừng nâng cao, mở rộng quyền làm chủ của nhân dân, trong đó có đảm bảo an sinh xã hội, đem lại cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Trước thực tế có tới 95% dân số không biết đọc, biết viết, khoảng 10% dân số bị chết đói, việc đảm bảo an sinh xã hội, chăm lo cuộc sống cho nhân dân là vấn đề vô cùng hệ trọng và là nhiệm vụ bức thiết được Đảng, Chính phủ thực hiện ráo riết. Chỉ trong thời gian ngắn, khoảng hơn một năm sau Cách mạng Tháng Tám thành công, “giặc đói”, “giặc dốt” cơ bản đã bị đẩy lùi, nền tài chính quốc gia được gây dựng lại; nền văn hóa, nếp sống mới bước đầu được xây dựng; y tế, vệ sinh phòng bệnh được quan tâm, v.v. Đó là những vấn đề rất cơ bản thể hiện sinh động thành tựu an sinh xã hội mà Đảng, Nhà nước đã sớm thực hiện trong chăm lo đời sống nhân dân; phản ánh sâu sắc bản chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ xã hội nước ta, dù mới chỉ bắt đầu xây dựng.

Trên phương diện chính sách. Đảng, Nhà nước ta luôn chủ trương xây dựng và không ngừng hoàn thiện chính sách an sinh xã hội, hướng đến mục tiêu bao phủ toàn dân và toàn diện, theo phương châm “không để ai bị bỏ lại phía sau”, gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên (năm 1946) đã ghi nhận những điều khoản quan trọng, tạo cơ sở pháp lý cho việc hình thành hệ thống chính sách an sinh xã hội: “Quyền lợi các giới cần lao, trí thức và chân tay được bảo đảm” (Điều 13); “Những người công dân già cả hoặc tàn tật, không làm được việc thì được giúp đỡ. Trẻ con được săn sóc về mặt giáo dưỡng” (Điều 14). Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Công dân có quyền được đảm bảo an sinh xã hội” (Điều 34). Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là: “con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”1. Thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta xác định: hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội đa dạng, linh hoạt “có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong cuộc sống”2. Đồng thời, đề ra các giải pháp chủ yếu: hoàn thiện hệ thống bảo hiểm, trợ giúp, cứu trợ xã hội; triển khai các chương trình xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt khó khăn; huy động mọi nguồn lực chăm lo đời sống vật chất, tinh thần đối với thương binh, bệnh binh, thân nhân liệt sĩ, người có công với cách mạng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “bảo đảm an sinh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”3.

Cùng với đó, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết, chương trình, đề án, kế hoạch,… mang tính toàn diện và bao trùm đến mọi tầng lớp xã hội, trên tất cả các “trụ cột” của chính sách và tổ chức thực hiện trên thực tế. Cụ thể là: (1). Hệ thống bảo hiểm xã hội đồng bộ, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; (2). Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm góp phần tạo việc làm đa dạng, đáp ứng phần lớn nhu cầu lực lượng lao động, đào tạo nghề, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực; (3). Hệ thống trợ giúp xã hội, thông qua trợ cấp trực tiếp bằng tiền, hiện vật kinh phí từ ngân sách nhà nước, giúp người dân khắc phục rủi ro, biến cố; (4). Hệ thống chính sách ưu đãi người có công, các nhóm xã hội dễ bị tổn thương, chịu nhiều thiệt thòi; (5). Hệ thống bảo đảm tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin,...) ngày càng cải thiện về chất lượng và quy mô, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt tối thiểu đại bộ phận người dân, đặc biệt là nhóm dân cư vùng sâu, vùng xa, địa bàn đặc biệt khó khăn, v.v.

Với chính sách ngày càng hoàn thiện, đồng bộ và đi vào cuộc sống, bảo đảm an sinh xã hội của Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, quan trọng trên các lĩnh vựcVề giảm nghèo, Đảng, Nhà nước ta thực hiện linh hoạt các giải pháp hỗ trợ người dân thoát nghèo, đạt thành tựu nổi bật. Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều mới giảm từ 9,88% năm 2015 còn 2,75% năm 2020, về đích trước 10 năm so với Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ và là một trong 30 nước áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, được quốc tế ghi nhận. Về bảo trợ xã hội, cả nước hiện có 425 cơ sở trợ giúp xã hội (trong đó: 191 công lập và 234 ngoài công lập) nuôi dưỡng, chăm sóc hơn 41 nghìn người. Đến cuối năm 2023, đã có 100% đối tượng được hưởng trợ cấp hằng tháng, 100% số người bị thiệt hại do thiên tai, thiếu đói được trợ giúp kịp thời, không để ai bị đói, hơn 90% số người khuyết tật khó khăn được trợ giúp, chăm sóc, phục hồi chức năng, hơn 90% số người cao tuổi khó khăn được trợ giúp, phụng dưỡng, chăm sóc. Đối với bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế - hai trụ cột chính của hệ thống an sinh xã hội quốc gia, có diện bao phủ ngày càng mở rộng. Theo thống kê, đến hết tháng 6/2024, cả nước có khoảng 18,305 triệu người tham gia bảo hiểm xã hội, đạt 39,05% lực lượng lao động trong độ tuổi, tăng 1,164 triệu người so với cùng kỳ năm 2023 (tăng gần 02 lần so với năm 2010). Đặc biệt, số người tham gia bảo hiểm y tế liên tục tăng qua các năm (2021: 91,01%; 2022: 92,04%; 2023: 93,35%), tiệm cận mục tiêu bảo hiểm y tế toàn dân. Trong đó, hầu hết các nhóm người có thu nhập thấp, người nghèo, người yếu thế trong xã hội đều đã được tham gia bảo hiểm y tế từ nguồn hỗ trợ của ngân sách nhà nước, địa phương hoặc huy động từ các nguồn lực khác. Quyền tiếp cận thông tin, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa ngày càng được thực hiện tốt hơn. Hiện nay, đường truyền dẫn cáp quang, dịch vụ thông tin di động đã đến 100% xã trong toàn quốc. Mạng điện thoại di động đã phủ sóng cả nước, riêng tỷ lệ phủ sóng điện thoại di động băng rộng 4G của Việt Nam đã lên đến 99,8% xét trên dân số. Hệ thống cơ sở giáo dục phát triển nhanh, phổ cập giáo dục từ cấp mầm non đến trung học cơ sở hoàn thành trước thời hạn; trẻ em đi học đúng tuổi cấp tiểu học đạt 99% từ năm 2015, cấp trung học cơ sở đạt trên 95% từ năm 2020, tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên biết chữ đạt 97,85%. Những kết quả từ chính sách an sinh xã hội đã góp phần khiến chỉ số hạnh phúc của Việt Nam liên tục tăng qua các năm. Ngày 20/3/2024, Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố Báo cáo hạnh phúc thế giới thường niên lần thứ 10; trong đó, Việt Nam tăng 11 bậc, từ vị trí 65 (năm 2023) lên vị trí 54/143 quốc gia khảo sát.

Với những số liệu “biết nói” trên, hướng đến mục tiêu: “Hoàn thiện chính sách an sinh xã hội đa dạng, đa tầng, toàn diện, hiện đại, bao trùm, bền vững,… gắn với bảo đảm quyền con người, quyền công dân”4, Việt Nam đã có hệ thống an sinh xã hội phát triển thành mạng lưới bao trùm, toàn diện, vì con người, diện bao phủ không ngừng được mở rộng, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu tất cả các đối tượng. Đây chính là minh chứng khẳng định thành tựu bảo đảm an sinh xã hội ở Việt Nam là rất đáng tự hào, người dân được thụ hưởng thực sự, thực tế và ngày càng được cải thiện, nâng cao. Thực tế đó là không thể phủ nhận dưới mọi hình thức.

                                                                                                           ST