Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

Kiên quyết đấu tranh với các phần tử cơ hội

Hiện nay, các phần tử cơ hội xuất hiện ngày càng nhiều dưới những màu sắc và mức độ khác nhau, khó nhận diện. Kiên quyết đấu tranh, chủ động phát hiện, ngăn chặn kịp thời với các phần tử cơ hội là yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng nhằm tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Ảnh: TTXVN

Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Ảnh: TTXVN

V.I.Lênin cho rằng, mặc dù chủ nghĩa cơ hội được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau với những tên gọi khác nhau trong mỗi thời kỳ lịch sử, nhưng bản chất của chúng chỉ là một. Đó là sự phản bội chủ nghĩa Mác, phản bội phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì những lợi ích cục bộ bảo thủ - mà thực chất là phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản (CNTB) - mà từ bỏ những lợi ích căn bản của giai cấp công nhân. Những kẻ cơ hội chủ nghĩa đã cắt xén chủ nghĩa Mác cho phù hợp với lợi ích giai cấp tư sản, núp dưới chiêu bài bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác để xét lại chủ nghĩa Mác, “ôm hôn chủ nghĩa Mác để bóp chết chủ nghĩa Mác”. Do vậy, phần tử cơ hội chính là kẻ thù bên trong của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những kẻ vốn bài xích chủ nghĩa Mác đã “khoác áo” chủ nghĩa Mác để lừa dối giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Chúng cản trở việc truyền bá chủ nghĩa xã hội khoa học, thực chất là giúp giai cấp tư sản truyền bá hệ tư tưởng vào trong công nhân, từ đó khiến cho việc thành lập các chính đảng của giai cấp công nhân gặp nhiều khó khăn, đẩy lùi phong trào công nhân ở các nước... Vì vậy, trong từng giai đoạn, nhiệm vụ cách mạng cụ thể, V.I.Lênin luôn kiên quyết phê phán, đấu tranh, vạch trần bản chất phản khoa học, phản động của các quan điểm, tư tưởng và hành động của những kẻ cơ hội chủ nghĩa.

Hồ Chí Minh gọi những phần tử cơ hội chủ nghĩa là bọn đầu cơ, cơ hội chủ nghĩa thực dụng với bản chất là mưu lợi cá nhân, ích kỷ, vụ lợi, chỉ tìm cách “thích nghi”, luồn lách và sẵn sàng thỏa hiệp vô nguyên tắc với mọi trào lưu. Người cho rằng bọn đầu cơ cũng giống như là bọn phản động, “là địch nhân lọt vào trong Đảng để phá hoại”.

Các phần tử cơ hội ngày nay khác với những kẻ cơ hội “cổ điển” ở chỗ, nó không còn đơn thuần là những kẻ “khoác áo” Mác-xít để đấu tranh giữa giữa hai luồng tư tưởng, mà đã “biến hóa muôn hình vạn trạng” với mức độ tinh vi hơn, ngụy trang kỹ lưỡng hơn; đội lốt “yêu nước”, “vì dân”, “đấu tranh vì dân chủ, “vì nhân quyền” để xuyên tạc, bài xích, hướng lái đòi Đảng từ bỏ nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối về chủ nghĩa xã hội (CNXH)... Biểu hiện cụ thể như sau:

Một là, những đối tượng có lập trường tư tưởng chính trị không vững vàng, không kiên quyết, “gió chiều nào, che chiều đó”, dễ dao động, thiếu niềm tin, luôn hoài nghi vào sự lãnh đạo của Đảng, vào công cuộc đổi mới đất nước; hoài nghi bản thân, lý tưởng mà mình tự nguyện suốt đời phấn đấu. Khi cách mạng thuận lợi thì tỏ ra cấp tiến, khi cách mạng gặp khó khăn thì thoái lui, thoả hiệp. Họ tìm mọi cách để xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Đảng bằng những luận điệu cũ rích của chủ nghĩa cơ hội quốc tế và những thế lực phản động như: Chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, chỉ phù hợp ở Châu Âu thế kỷ XIX và nửa đầu thế kỷ XX; giả bộ ca tụng, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênincắt rời, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; tuyệt đối hóa tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận gián tiếp tư tưởng của Người.... Cùng vối đó là những kiểu cách, thủ đoạn “ngụy lý luận” để phủ định lý tưởng dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; phủ nhận CNXH hiện thực, bác bỏ con đường đi lên CNXHrêu rao rằng không có cái gọi là kinh tế thị trường định hướng XHCN, thực chất Việt Nam đã đi theo con đường TBCN...

Hai là, có những đối tượng tự gắn mác “vì nước” “vì dân”, lợi dụng các đợt đóng góp ý kiến vào những dự thảo chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước để đưa ra những quan niệm “lập lờ đánh lận con đen”. Với cái mã tỏ ra học cao, hiểu rộng, khi viết bài, đóng góp ý kiến, những phần tử cơ hội này lại có những lời lẽ, ý tứ ngụy biện trong lớp vỏ “phản biện trên tinh thần khoa học”, “thư kiến nghị”, “góp ý kiến”, “thư ngỏ”... thực chất là trực tiếp hoặc gián tiếp phản bác, đả kích quan điểm, đường lối, Cương lĩnh, vai trò lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, phủ định những thành tựu cách mạng và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Trong số này có cả những cán bộ, đảng viên cấp cao, từng có công lao với Đảng và cách mạng, nhưng mắc vào chủ nghĩa cơ hội, công thần, bất mãn, không tôn trọng và đặt lợi ích của Đảng lên trên hết... dẫn đến phá hoại tổ chức.

Ba là, những kẻ “mượn gió bẻ măng”, lợi dụng những hiện tượng tiêu cực, hạn chế trong đời sống xã hội để thổi phồng, xuyên tạc vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, quy kết “sự lãnh đạo của Đảng” là nguyên nhân của “khủng hoảng toàn diện”, “đất nước lâm nguy”, “tình thế hiểm nghèo”. La lối bằng những giọng điệu “khẩn thiết” rằng: Chừng nào ở Việt Nam chỉ có độc đảng lãnh đạo thì chừng đó không thể nói tới một nền dân chủ chân chính; Việt Nam muốn phát triển, muốn có dân chủ thực sự thì phải hội nhập vào xu thế đa đảng...

Bốn là, những phần tử cơ hội trong Đảng. Những người này thường nói rất hay, làm cho nhiều người ngộ nhận, song trên thực tế hành động, lối sống và nhân cách của họ lại xa lạ với những điều họ nói. Lời nói không đi đôi với việc làm là biểu hiện thường thấy ở những phần tử cơ hội. Bên cạnh đó, họ còn nhân danh Đảng, nhân danh CNXH, khoác áo “hăng hái”, “tích cực” để thực hiện ý đồ, tham vọng “chui sâu, leo cao” rồi sử dụng quyền lực phục vụ cho lợi ích của cá nhân, nhóm nhỏ, chứ không bao giờ vì lợi của tập thể, của quốc gia - dân tộc. Các phần tử cơ hội rất giỏi che giấu mặt thật, ít bày tỏ quan điểm - chính kiến rõ ràng, thái độ chính trị trung dung, thỏa hiệp, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh, chỉ làm việc có lợi cho bản thân; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng, hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ không trong sáng. Khi có đủ điều kiện về quyền lực và lực lượng thì khuynh đảo đường lối, chính sách, phản bội lại lý tưởng của Đảng.

Các phần tử cơ hội dù biểu hiện dưới hình thức nào cũng rất nguy hiểm. Đó là kẻ thù bên trong đã và đang gây ra những tổn hại tới cho sự vững mạnh chính trị, tư tưởng, tổ chức của Đảng, làm giảm sút năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, làm suy giảm uy tín của Đảng trong quần chúng nhân dân. Đồng thời, đây là đối tượng dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng, mua chuộc, móc ngoặc để thực hiện âm mưu chống phá cách mạng, nhất là phá hoại nền tảng tư tưởng, chính trị hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN ở Việt Nam.

Vì lẽ đó, việc thẳng thắn, kiên quyết đấu tranh với các phần tử cơ hội chủ nghĩa - những kẻ thường được gọi là “giặc nội xâm” luôn là vấn đề đặt ra hết sức cấp thiết, là tất yếu khách quan trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng để bảo vệ Cương lĩnh, mục tiêu, đường lối, những thành quả của cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị”(3)Để đấu tranh với các phần tử cơ hội có hiệu quả, cần quyết liệt hơn nữa, tiến hành toàn diện các giải pháp, từ chính trị, tư tưởng, tổ chức. cơ chế đến chính sách, pháp luật, trong đó có những nhiệm vụ trọng tâm sau:

Nhận diện đúng những biểu hiện, quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội và tính chất phức tạp, khó khăn của cuộc đấu tranh phòng, chống phần tử cơ hội hiện nay.

Trong tình hình hiện nay, biểu hiện của các phần tử cơ hội là một trong những biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Những kẻ cơ hội thường giấu mặt rất giỏi nhưng âm mưu thủ đoạn lại rất tinh vi, xảo quyệt, nếu chỉ bằng trực quan, quan sát tthì rất khó có thể “chỉ mặt đặt tên” họ là ai trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Nhận diện đúng những biểu hiện của các phần tử cơ hội trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhận thức đúng tính chất phức tạp, khó khăn, lâu dài, quyết liệt của cuộc đấu tranh phòng, chống tệ cơ hội chính trị hiện nay chính là để tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Từ đó, chủ động, kịp thời, kiên quyết thực hiện những biện pháp, bước đi thích hợp, kết hợp chặt chẽ giữa “phòng” và “chống”, có thái độ dứt khoát, kiên quyết, triệt để, không nhân nhượng; đấu tranh trên tất cả các mặt trận chính trị, tư tưởng, lý luận, kinh tế, văn hóa, xã hội, không để những hiện tượng, biểu hiện cơ hội trở thành một trào lưu, một lực lượng cản trở sự nghiệp cách mạng Đảng, của dân tộc. Quá trình đó cần gắn với đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng và cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Bảo đảm an toàn thông tin, quản lý tốt Internet, mạng xã hội để có biện pháp phân loại, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại mọi ý đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (Trong ảnh: Nhân viên của VNPT xử lý kỹ thuật, bảo đảm an toàn thông tin tại Trung tâm Viễn thông tỉnh Quảng Ninh­­. Ảnh: TTXVN)

Bảo đảm an toàn thông tin, quản lý tốt Internet, mạng xã hội để có biện pháp phân loại, đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại mọi ý đồ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” (Trong ảnh: Nhân viên của VNPT xử lý kỹ thuật, bảo đảm an toàn thông tin tại Trung tâm Viễn thông tỉnh Quảng Ninh­­. Ảnh: TTXVN)

Nâng cao hiệu quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, khóa XIII.

Đây là giải pháp cơ bản, toàn diện và then chốt, bởi nó góp phần trực tiếp thanh lọc, loại bỏ những phần tử cơ hội ra khỏi tổ chức Đảng, đồng thời tạo nên sức mạnh miễn dịch trước âm mưu, thủ đoạn chống phá. Theo đó, toàn Đảng phải nỗ lực rất cao, quyết tâm rất lớn, bền bỉ, kiên trì; tập trung đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt của các tổ chức đảng gắn với công tác giáo dục chính trị tư tưởng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, kiên quyết chống chủ nghĩa cơ hội, thực dụng cho mỗi cán bộ, đảng viên; đề cao và thực hiện nghiêm phê bình và tự phê bình; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sàng lọc cán bộ, đảng viên, kiên quyết đưa những kẻ cơ hội chính trị, thực dụng, tê liệt ý chí cách mạng, thoái hóa biến chất, tham ô, lãng phí, đặc quyền đặc lợi ra khỏi Đảng. Đề cao trách nhiệm nêu gương, ý thức tự tu dưỡng rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý và người đứng đầu các cấp. Mỗi người trong thực nhiệm vụ chính trị, thực thi công vụ phải thống nhất giữa nói và làm, giữa dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo, nhất là trong phòng, chống và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội như tư duy nhiệm kỳ, đầu cơ chính trị, chạy quy hoạch, luân chuyển, chạy chức, chạy quyền...

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội.

Nghị quyết số 37-NQ/TW ngày 9/10/2014 của Bộ Chính trị (khóa X) về “Công tác lý luận và định hướng nghiên cứu đến năm 2030” đã xác định: “Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa xét lại, chủ nghĩa cơ hội và các tư tưởng thù địch dưới mọi màu sắc”. Vì vậy, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để cung cấp các luận cứ khoa học, lý luận cho hoạch định, phát triển đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Theo đó, cần tập trung nghiên cứu làm sáng tỏ các vấn đề về CNXH và con đường đi lên CNXH, những vấn đề về đảng cầm quyền.... Đặc biệt, cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận một cách hiệu quả; đấu tranh sắc bén với những quan điểm phi mácxit, tư tưởng cơ hội chính trị cùng những quan điểm sai trái, phản động của các phần tử cơ hội, thế lực thù địch trong và ngoài nước. Tiếp tục nghiên cứu, vận dụng, phát triển kinh nghiệm, phương pháp đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội của C.Mác, Ph.Ănghen và V.I.Lênin; rút ra những bài học, nâng cao chất lượng hiệu quả đấu tranh chống các quan điểm sai trái của các phần tử cơ hội trong giai đoạn hiện nay.

Phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, tăng cường sự phối hợp và tổ chức chặt chẽ giữa các lực lượng để tạo thành thế trận vững.

Không ngừng nâng cao tính chủ động, thiết thực, hiệu quả của các ban chỉ đạo từ Trung ương đến địa phương trong công tác tham mưu, hướng dẫn, tổ chức thực hiện cuộc đấu tranh trên trận địa tư tưởng; tính chuyên sâu của các cơ quan nghiên cứu, của đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận, các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành; tính kịp thời, đa dạng, phong phú của các cơ quan thông tấn, báo chí... Linh hoạt, đa dạng các hình thức, phương pháp đấu tranh trực tiếp và gián tiếp; khơi dậy và phát huy cao độ khả năng, thế mạnh của mỗi tổ chức, mỗi lực lượng tham gia; khắc phục việc đấu tranh một chiều, khuôn sáo theo công thức định sẵn, thoát ly các vấn đề mới nảy sinh từ thực tiễn. Chú trọng xây dựng, tổ chức các lực lượng, nhất là lực lượng nòng cốt có trình độ chuyên sâu, có phương pháp khoa học, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ trong cuộc đấu tranh gay go, phức tạp này; phát triển các biện pháp kỹ thuật nghiệp vụ hữu hiệu để nâng cao hiệu quả giám sát, ngăn chặn liên lạc, vô hiệu hóa hoạt động tuyên truyền phá hoại của các đối tượng cơ hội trên Internet và mạng xã hội./. 

ST.

Nhân tố quan trọng góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một công cuộc lâu dài, phải được thực hiện thường xuyên, liên tục với nhiều biện pháp ở nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong đó, bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên phải được coi là một trong những giải pháp đặc biệt quan trọng và được đặt lên hàng đầu, nhất là trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương.

(Ảnh minh họa)

(Ảnh minh họa)

Những năm qua, đặc biệt từ nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, Đảng ủy Khối các cơ quan Trung ương và các cấp ủy đảng trong toàn Đảng bộ đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt một số nội dung về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị, đóng góp rất quan trọng vào công tác xây dựng Đảng của Đảng bộ Khối nói chung, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên, công chức trong các cơ quan Trung ương nói riêng.

Cấp ủy các cấp đã có nhận thức cao hơn về công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Nhiều cấp ủy đã chủ động phối hợp với ban cán sự đảng, đảng đoàn, lãnh đạo cơ quan, đơn vị lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thành nền nếp các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là bồi dưỡng lý luận chính trị cho đối tượng kết nạp đảng, đảng viên mới theo Quy định số 54-QĐ/TW. Bồi dưỡng công tác đảng cho bí thư chi bộ và cấp ủy viên cơ sở tiếp tục được chú trọng. Việc tổ chức các lớp cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý được tăng cường theo đúng Quy định số 164-QĐ/TW. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị trong hệ thống cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ quan Trung ương nói chung, Trung tâm Bồi dưỡng chính trị Đảng ủy Khối nói riêng được nâng lên rõ rệt. Nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng được bảo đảm theo đúng yêu cầu của Trung ương. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên trong các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng ngày càng được chuẩn hóa, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ; việc giảng dạy đã chú trọng vào chiều sâu, lấy học viên là trung tâm để đổi mới, tăng cường chất lượng đào tạo, bồi dưỡng; học tập lý luận đã gắn liền với thực tiễn thông qua các hoạt động ngoại khóa và làm việc thực tế ở các địa phương, đơn vị, doanh nghiệp…

Việc cử cán bộ, đảng viên đi đào tạo, bồi dưỡng đã từng bước gắn với yêu cầu nhiệm vụ, vị trí công tác, quy hoạch và bố trí cán bộ. Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên cũng đã nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn vai trò và tầm quan trọng của việc học tập lý luận chính trị, hiểu rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của bản thân, từ đó, đã chủ động, tích cực học tập, nghiên cứu, để nâng cao trình độ lý luận chính trị, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác. Học tập lý luận chính trị từng bước trở thành nhu cầu tự thân của cán bộ, đảng viên để đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới…

Bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối còn một số hạn chế, chưa tương xứng với vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ được giao và đóng góp thiết thực vào nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong tình hình hiện nay. Thể hiện trên một số mặt sau:

Một là, một số cấp ủy, lãnh đạo cơ quan, đơn vị chưa quan tâm đúng mức đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị. Việc cập nhật chủ trương, văn bản mới về công tác đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị còn chậm và chưa đầy đủ.

Hai là, việc xây dựng và tổ chức thực hiện quy định về phân cấp quản lý cán bộ còn khó khăn, lúng túng do chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể để áp dụng đối với cấp ủy có đặc thù như ở Đảng bộ Khối, dẫn đến sự lúng túng trong xác định đối tượng, phạm vi, thẩm quyền tổ chức bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên, nhất là tổ chức cập nhật kiến thức cho đối tượng cán bộ thuộc diện “ban thường vụ đảng ủy quản lý”. Trong một số cơ quan, đơn vị, công tác quy hoạch cấp ủy chưa gắn với quy hoạch cán bộ, lãnh đạo, quản lý và đào tạo bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên sau quy hoạch.

Ba là, công tác bồi dưỡng bí thư chi bộ, cấp ủy viên cơ sở và bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp ở một số đảng bộ chưa được thực hiện thường xuyên, bài bản, đúng quy định.

Bốn là, một bộ phận giảng viên, báo cáo viên chưa thực sự chú trọng vào việc quán triệt vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch trong các chuyên đề, bài giảng, chưa tăng tính tương tác, thảo luận về nội dung này đối với người học…

Để góp phần vào việc đấu tranh từ sớm, từ xa, công tác bồi dưỡng lí luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên ở các cơ quan Trung ương là nhiệm vụ có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Do đó, nhiệm vụ đặt ra đối với các cấp ủy Đảng trong Đảng bộ Khối là cần nghiên cứu và cụ thể hóa một số nội dung sau:

Thứ nhất, Đảng ủy Khối và các cấp ủy đảng trong toàn Đảng bộ cần ban hành chủ trương và chỉ đạo tổ chức thực hiện quyết liệt nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch. Trong đó, chú trọng chỉ đạo đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên. Đề cao vai trò, trách nhiệm của tập thể cấp ủy nhất là vai trò nêu gương của người đứng đầu.

Cấp ủy đảng trong Đảng bộ Khối cần phải thường xuyên nâng cao nhận thức, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải “vừa hồng”, “vừa chuyên”. Muốn vậy, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên học tập lý luận chính trị; cập nhật kiến thức mới với nội dung phù hợp với vị trí đảm nhận để đáp ứng được tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ được giao. Đối tượng kết nạp đảng, đảng viên mới phải được học tập lý luận chính trị theo yêu cầu chung, đồng thời, phải được trau dồi thêm những yêu cầu cao hơn, nhất là về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của mình, của đảng bộ, cơ quan, đơn vị mình.

Thứ hai, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên. Đây là giải pháp đóng vai trò quyết định đến chất lượng và hiệu quả của công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên trong các cơ quan, đơn vị Trung ương. 

Cán bộ, đảng viên của Đảng bộ Khối có mặt bằng về trình độ chuyên môn, trình độ lý luận chính trị cao hơn so với mặt bằng chung của cán bộ, đảng viên trong toàn hệ thống chính trị, do vậy, nội dung, phương thức bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho đối tượng là cán bộ, đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương càng cần thiết phải được đổi mới sao cho phù hợp với đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng, hạn chế việc trùng lặp nội dung mà không có mở rộng, phát triển thêm gây nhàm chán cho người học, lãng phí thời gian của cán bộ, đảng viên dẫn đến việc học tập chống đối, hình thức.

Thứ ba, nâng cao chất lượng đội ngũ báo cáo viên, giảng viên giảng dạy lý luận chính trị.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được khái quát hoá và mang tính trừu tượng cao, do vậy đòi hỏi mỗi giảng viên giảng dạy lý luận chính trị phải là những người thực sự am hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, có hiểu biết rộng về các lĩnh vực của đời sống xã hội, có kỹ năng, phương pháp sư phạm để giảng dạy lý luận thực sự dễ hiểu, gần gũi, thuyết phục người nghe, tránh sự nhàm chán và một chiều trong giảng dạy lý luận chính.

Ngoài ra, giảng viên, báo cáo viên làm công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương phải là những người thực sự nhạy bén trong việc nhận định những quan điểm, lý luận có xu hướng xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để cung cấp cho người học những luận cứ thuyết phục phản bác lại các quan điểm sai lầm đó. Trong mỗi chương trình bồi dưỡng, báo cáo viên, giảng viên cần chú trọng đưa các chuyên đề phù hợp về “Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” vào chương trình bồi dưỡng để học viên thảo luận làm rõ vấn đề đặt ra trong thực tiễn hiện nay. Bên cạnh đó, giảng viên lý luận chính trị nhất là giảng viên các lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng, bồi dưỡng lý luận chính trị cho đảng viên mới trong Khối phải là những người có khả năng dẫn dắt, bồi đắp tình yêu, niềm tin với Đảng cho đội ngũ cán bộ trẻ.

Yêu cầu đặt ra để chuẩn hoá đội ngũ giảng viên là ngoài các chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ, kỹ năng, phương pháp sự phạm cho đội ngũ giảng viên, báo cáo viên, cần thường xuyên bồi dưỡngnâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất, năng lực cho đội ngũ giảng viên trong đấu tranh bảo vệchủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểmcủa Đảng.

Thứ tư, tăng cường ứng dụng khoa học, công nghệ vào bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới.

Việc tụt hậu về công nghệ cũng đồng nghĩa với việc một mặt trận đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng bị bỏ ngỏ. Do đó, đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất và ứng dụng khoa học, công nghệ vào công tác bồi dưỡng lý luận chính trị vừa nhằm mục đích nâng cao hiệu quả dạy và học, tạo hứng thú trong quá trình học tập của học viên, đó cũng chính là quá trình gắn lý luận với thực tiễn, gắn những lý luận của bài giảng với sự trực quan, sinh động của internet và mạng xã hội, qua đó góp phần nâng cao trình độ khai thác, sử dụng công nghệ thông tin của giảng viên, báo cáo viên và cán bộ, đảng viên trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ năm, phát huy dân chủ, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học. Công tác bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên chỉ thực hiện có hiệu quả nếu người học tự ý thức được tầm quan trọng của việc học tập, chủ động và sáng tạo trong quá trình tiếp thu tri thức. Khắc phục kiểu học “thầy đọc, trò chép” và bệnh “lười học, ngại học lý luận chính trị”. Cán bộ, đảng viên trong Khối các cơ quan Trung ương phải là người nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của việc học, xem đây vừa là trách nhiệm, nghĩa vụ, vừa là quyền lợi của bản thân; phải thực sự là tấm gương về việc tự học, tự nghiên cứu để nâng cao trình độ lý luận chính trị; chủ động, tự giác, tích cực trong học tập, nghiên cứu; học ở mọi nơi, mọi lúc, “học ở trường, ở sách vở, học lẫn nhau và học nhân dân”.

Thứ sáu, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát quá trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị ở các cấp để đảm bảo việc thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả các quy định của Trung ương về bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên, đảm bảo chất lượng, tránh lãng phí trong dạy và học lý luận chính trị. Có biện pháp kiểm tra, đánh giá chất lượng của người học để làm cơ sở cho việc quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ của cơ quan, đơn vị.

Để những nội dung nêu trên thực sự hiệu quả và đi vào thực tiễn, các cấp ủy đảng và mỗi cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Trung ương cần nêu cao hơn nữa ý thức trách nhiệm; nêu cao tinh thần chủ động, tự học tập, tự trang bị kiến thức để đủ năng lực sẵn sàng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Chỉ có như vậy thì việc bồi dưỡng lý luận chính trị, cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, đảng viên trong các cơ quan Trung ương mới có kết quả và mang lại giá trị trong thực tế./.

ST.

CÔNG TÁC BẢO VỆ CHÍNH TRỊ NỘI BỘ, CHÚ TRỌNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ HIỆN NAY, PHÒNG, CHỐNG SUY THOÁI, "TỰ DIỄN BIẾN", "TỰ CHUYỂN HOÁ" TRONG NỘI BỘ!

     Công tác bảo vệ chính trị nội bộ là một bộ phận trọng yếu trong công tác xây dựng Đảng; là những hoạt động nhằm bảo vệ Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự trong sạch, vững mạnh của tổ chức, đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong những năm tiếp theo, đất nước ta đứng trước nhiều thuận lợi, thời cơ nhưng cũng còn những khó khăn, thách thức, công tác xây dựng Đảng nói chung, công tác bảo vệ chính trị nội bộ nói riêng đứng trước nhiều yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn, cần có những giải pháp trọng tâm để hoàn thành sứ mệnh vẻ vang của Đảng!
1. Yêu cầu, đòi hỏi từ thực tiễn
Hợp tác và hội nhập quốc tế vẫn luôn là xu thế lâu dài của các quốc gia, khu vực trên thế giới. Bên cạnh những mặt tích cực, tình hình thế giới tiếp tục có những biến động phức tạp và đa chiều. Các thế lực thù địch tiếp tục gia tăng các hoạt động chống phá cách mạng, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn là mục tiêu quan trọng mà chúng nhằm vào với mức độ ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn. Mặt khác, tình hình chính trị nội bộ Đảng hiện nay, bên cạnh những thuận lợi cơ bản còn tồn tại những vấn đề trực tiếp hoặc gián tiếp có nguy cơ suy giảm vai trò lãnh đạo của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ. Thực tiễn hiện nay đang đặt ra những yêu cầu đối với công tác bảo vệ chính trị nội bộ như sau:
Một là, công tác bảo vệ chính trị nội bộ phải luôn đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt của Đảng, bám sát nhiệm vụ chính trị trong từng thời kỳ, trong đó gắn nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ với tổ chức thực hiện Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của BCH Trung ương (khóa XIII); trực tiếp góp phần nâng cao hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, bảo đảm uy tín, vị thế, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Hai là, công tác phòng ngừa các vấn đề chính trị nội bộ, nhất là chính trị hiện nay phải được chú trọng, thực hiện thường xuyên, liên tục, đặt trong tổng thể các mặt của công tác bảo vệ chính trị nội bộ, lấy phòng ngừa, ngăn chặn, triệt tiêu các nguy cơ từ gốc là nhiệm vụ cơ bản.
Ba là, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên trong bảo vệ chính trị nội bộ. Chủ động nhận diện, phân loại đối tượng, hóa giải từ sớm, từ xa, xác định chiến lược, sách lược, nội dung, hình thức và phương pháp đấu tranh phù hợp với yêu cầu chính trị và tình hình thực tế.
Bốn là, thực hiện tốt công tác rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên với phương châm “không được để lọt vào cấp ủy, lãnh đạo, quản lý những người không đủ tiêu chuẩn chính trị; ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, vi phạm những điều đảng viên không được làm”.
Năm là, tăng cường quản lý hoạt động báo chí, truyền thông, mạng xã hội, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm. Đẩy mạnh sử dụng các phương thức tuyên truyền, đối thoại, cảm hóa, thuyết phục, làm tốt công tác định hướng dư luận, có trọng tâm, trọng điểm.

2. Một số kết quả
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp ủy, tổ chức đảng quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đạt được một số kết quả quan trọng, từng bước đi vào nền nếp, trở thành nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, đóng góp quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thúc đẩy việc tự giác nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu. Góp phần kiềm chế, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.
Hệ thống các văn bản quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ được bổ sung, sửa đổi phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới, đồng bộ với các văn bản về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, kiểm tra, giám sát nói riêng(1), công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung. Ngày 8-2-2022, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 58-QĐ/TW “Một số vấn đề về bảo vệ chính trị nội bộ Đảng”, trên cơ sở đó Ban Tổ chức Trung ương đã ban hành Hướng dẫn số 01-HD/BTCTW ngày 5-8-2022. Đây là cơ sở quan trọng để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao nhận thức, tự soi, thúc đẩy việc tự tu dưỡng, rèn luyện bản lĩnh chính trị, phẩm chất, đạo đức cách mạng, giúp các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, địa phương nâng cao trách nhiệm, ý thức cảnh giác, khả năng nhận diện những vấn đề chính trị hiện nay, góp phần hiệu quả trong công tác kiểm tra, giám sát, quản lý cán bộ, đảng viên. Đồng thời, sửa đổi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của Tiểu ban Bảo vệ chính trị nội bộ Trung ương đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Để kịp thời nâng cao nhận thức, cập nhật các nội dung chỉ đạo của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, Ban Tổ chức Trung ương thường xuyên phân công cán bộ lãnh đạo báo cáo các chuyên đề, trao đổi, tập huấn về công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho các địa phương, cơ quan, đơn vị và đăng tải nhiều bài viết, tham luận chuyên sâu trên các tạp chí, kỷ yếu hội thảo, tọa đàm khoa học, làm sâu sắc hơn nữa lý luận về công tác bảo vệ chính trị nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Trên cơ sở đó, cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán triệt nghiêm túc, triển khai đồng bộ nhiều chủ trương, giải pháp nhằm cụ thể hóa các văn bản chỉ đạo của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ, bảo đảm thực hiện chặt chẽ, thống nhất, đồng bộ trong hệ thống chính trị. Đẩy mạnh giáo dục chính trị tư tưởng, quản lý cán bộ, đảng viên gắn với việc thực hiện các chỉ thị, nghị quyết, kết luận của Trung ương về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Thực hiện tự phê bình và phê bình, “tự soi”, “tự sửa” nhằm kiểm điểm, nhận diện rõ hơn và đề ra các biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Công tác thẩm tra, xác minh, thẩm định và kết luận tiêu chuẩn chính trị của cán bộ, đảng viên được cấp ủy các cấp thực hiện nghiêm túc, thận trọng, kỹ lưỡng, đúng quy định để phục vụ công tác cán bộ. Năm 2022, Ban Tổ chức Trung ương đã thẩm định 1.036 trường hợp thuộc diện Trung ương quản lý, đề nghị cơ quan liên quan bổ sung hồ sơ, giải trình một số nội dung đối với 14 trường hợp. Qua thẩm định, nhiều trường hợp không được phê duyệt quy hoạch, nhiều nhân sự có vấn đề về tiêu chuẩn chính trị cần được xem xét kỹ, cân nhắc khi bố trí, sử dụng.
Ban Chỉ đạo 35 các cấp đã đấu tranh, ngăn chặn hàng trăm đối tượng có hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, hàng nghìn trang mạng có nội dung xấu độc; vô hiệu hóa, gỡ bỏ hàng trăm video, tin bài có nội dung xấu, độc; xử lý vi phạm đối với nhiều trang mạng xã hội, xây dựng môi trường thông tin lành mạnh, chính thống; bồi dưỡng, nâng cao nhận thức tư tưởng, bản lĩnh chính trị cũng như góp phần ngăn chặn hiệu quả những biểu hiện, tư tưởng lệch lạc, thoái hóa, biến chất tiềm tàng, manh nha trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí đạt nhiều kết quả quan trọng, kiên quyết xử lý nghiêm sai phạm của cán bộ, đảng viên theo quy định của Đảng, Nhà nước, khẳng định quyết tâm “không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”, là điều kiện, tiền đề quan trọng để làm tốt công tác bảo vệ chính trị nội bộ.
Công tác kiểm tra, giám sát cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền cơ sở được chú trọng, tăng cường, nhất là nơi có mâu thuẫn, mất đoàn kết kéo dài; những nơi còn tồn tại tranh chấp, khiếu kiện phức tạp, tiềm ẩn phát sinh “điểm nóng” về an ninh, trật tự. Giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp trong nội bộ, đơn thư khiếu nại, tố cáo, tranh chấp, đình công, lãn công. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Đẩy mạnh kiểm tra, giám sát công tác bảo vệ chính trị nội bộ ở một số cấp ủy, tổ chức đảng trực thuộc Trung ương.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác bảo vệ chính trị nội bộ còn những hạn chế, bất cập. Nhận thức, ý thức và trách nhiệm về yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ trong tình hình mới của một số cấp ủy, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu chưa đầy đủ, sâu sắc, toàn diện. Một số quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ chưa cụ thể, chưa bao quát hết những vấn đề thực tiễn nảy sinh. Công tác nắm tình hình, cập nhật thông tin về chính trị nội bộ, nhất là vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên ở một số cấp ủy cơ sở chưa được quan tâm đúng mức, hiệu quả chưa cao; công tác phối hợp thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chính trị nội bộ giữa các cơ quan chức năng còn chưa thường xuyên. Công tác thẩm tra, xác minh, thẩm định và kết luận tiêu chuẩn chính trị có nơi, có lúc còn thiếu chặt chẽ, phân cấp chưa rõ ràng. Công tác tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện các quy định về bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước của một số cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên chưa đầy đủ, kịp thời, còn sơ hở, mất cảnh giác.
3. Một số giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm:
1. Tiếp tục quán triệt và nâng cao trách nhiệm, nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu địa phương, cơ quan, đơn vị về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Cần nhận thức rõ: Bảo vệ chính trị nội bộ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, trong đó quan trọng và thường xuyên nhất là các cấp ủy, tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, đoàn thể.
2. Đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục quán triệt sâu sắc, thực hiện có hiệu quả các nghị quyết, kết luận của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các quy định về nêu gương của cán bộ, đảng viên. Bồi dưỡng, nâng cao tinh thần, đạo đức cách mạng, đề cao cảnh giác với âm mưu, thủ đoạn nguy hiểm, hoạt động phá hoại của các thế lực thù địch. Phát hiện, đấu tranh với các hoạt động phá hoại tư tưởng chính trị, các hành vi vi phạm nguyên tắc tổ chức của Đảng, các dấu hiệu suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết chống tư tưởng cục bộ địa phương, bè phái, “cánh hẩu”, “lợi ích nhóm”, cá nhân chủ nghĩa, tư bản thân hữu. Tôn trọng, nghiêm túc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng Đảng thật sự trọng sạch, vững mạnh, gắn bó mật thiết với Nhân dân. Giữ gìn đạo đức, lối sống, vai trò gương mẫu của cán bộ, đảng viên là những yếu tố quan trọng hàng đầu để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ, Tổ quốc.
3. Tăng cường các biện pháp đấu tranh phòng, chống âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các thế lực thù địch đến chính trị nội bộ. Duy trì thường xuyên các hoạt động đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, bảo vệ tư tưởng chính trị của Đảng. Ngăn chặn, bóc gỡ, áp đảo các thông tin không chính thống, tin xấu độc gây ảnh hưởng xấu tới tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, dư luận xã hội.
4. Thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ công tác rà soát, thẩm định, thẩm tra, xác minh và kết luận tiêu chuẩn chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đối với nhân sự tham gia cấp ủy, ứng cử, giới thiệu bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các cấp, làm việc ở các cơ quan, bộ phận, vị trí trọng yếu, cơ mật. Kiên quyết không để lọt vào cấp ủy những người không bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện, không xứng đáng nhưng không bỏ sót những cán bộ thật sự có đức, có tài, có uy tín trong Đảng và Nhân dân. Bổ sung, hoàn thiện quy định, cơ chế quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ra nước ngoài và có yếu tố nước ngoài. Thực hiện nghiêm kỷ luật phát ngôn và cung cấp trao đổi thông tin với tổ chức, cá nhân người nước ngoài. Kịp thời ngăn chặn các hoạt động móc nối, cài cắm của các thế lực thù địch vào nội bộ ta và các hành vi lộ, lọt bí mật của Đảng, Nhà nước.
5. Chú trọng công tác nắm tình hình tại cơ sở, kết hợp xây dựng cơ chế phối hợp công tác giữa các cơ quan chức năng, nghiệp vụ về bảo vệ chính trị nội bộ, trong đó phối hợp hiệu quả trong quản lý báo chí, truyền thông, an ninh mạng và cán bộ, đảng viên ra nước ngoài. Ngoài chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan đảng, chính quyền còn có cơ chế, quy định về vai trò, trách nhiệm của mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc tập hợp, vận động nhân dân, các tầng lớp xã hội tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, Nhà nước. Cảnh giác, phát hiện và phối hợp với các cơ quan chức năng đấu tranh, ngăn chặn các hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, kịp thời phát hiện, xử lý các vấn đề chính trị nội bộ, các cán bộ, đảng viên không bảo đảm đủ tiêu chuẩn chính trị.
6. Tổng kết việc triển khai các nghị quyết, chỉ thị, quy định, kết luận của Trung ương, từ đó bổ sung, hoàn thiện lý luận về công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Nội dung nghiên cứu tập trung vào 4 lĩnh vực trọng tâm của công tác bảo vệ chính trị nội bộ: Bảo vệ tư tưởng chính trị; bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; bảo vệ sự trong sạch của đội ngũ cán bộ, đảng viên và bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước.
7. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp về công tác bảo vệ chính trị nội bộ tại các địa phương, cơ quan, đơn vị trực thuộc. Thường xuyên rà soát, kiểm tra việc chấp hành các quy định về bảo vệ bí mật của Đảng, Nhà nước. Kịp thời phòng ngừa, ngăn chặn, không để lộ, lọt thông tin, tài liệu bí mật quốc gia.
8. Tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy và tăng cường, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, chuyên viên chuyên trách các cấp, trong đó, xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mỗi cá nhân, tổ chức trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn nghiệp vụ công tác đảng và bảo vệ chính trị nội bộ. Đồng thời, thường xuyên quán triệt các văn bản của Trung ương về công tác bảo vệ chính trị nội bộ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, như Chỉ thị số 39-CT/TW, Kết luận số 72-KL/TW… Thực hiện nghiêm các quy định về công tác cán bộ, nhất là công tác tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ. Có cơ chế khuyến khích, động viên cán bộ để họ có năng lực, trình độ nghiệp vụ cao hơn, tiếp tục phấn đấu, cống hiến; phát hiện, mở rộng các phương pháp, mô hình làm việc khoa học, hiệu quả.
Bước sang năm mới với nhiều mục tiêu, kế hoạch, các cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên cần tiếp tục chú trọng, quan tâm, triển khai đồng bộ nhiều kế hoạch, biện pháp trên cơ sở bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ của Đại hội XIII của Đảng và sự lãnh đạo, chỉ đạo của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, góp phần vào sứ mệnh vẻ vang bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ trong giai đoạn mới./.
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỐNG NHẤT PHƯƠNG ÁN NGHỈ TẾT NGUYÊN ĐÁN NĂM 2025 LIỀN 9 NGÀY!

     Bộ Nội vụ thống nhất với phương án nghỉ tết Nguyên đán Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề xuất. Thời gian nghỉ kéo dài 9 ngày, từ ngày 26 tháng Chạp đến hết mùng 5 tháng Giêng!

Sau khi nhận công văn của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về việc đề xuất phương án nghỉ lễ, Tết trong năm 2025, Bộ Nội vụ thống nhất chủ trương cán bộ, công chức, viên chức được nghỉ Tết Nguyên đán 9 ngày, từ ngày 25/1/2025 (tức 26 tháng Chạp năm Giáp Thìn) đến hết ngày 2/2/2025 (mùng 5 tháng Giêng năm Ất Tỵ).

Về nghỉ lễ ngày Chiến thắng 30/4 và ngày Quốc tế lao động 1/5 năm sau, Bộ Nội vụ thống nhất phương án cán bộ, công chức, viên chức được nghỉ 5 ngày, từ ngày 30/4/2025 đến hết ngày 4/5/2025. Theo phương án này, cả nước thực hiện hoán đổi ngày làm việc thứ sáu ngày 2/5/2025 sang thứ bảy ngày 26/4/2025.

Về đề xuất nghỉ lễ Quốc khánh, Bộ này cũng đồng tình phương án cán bộ, công chức, viên chức được nghỉ 4 ngày, từ ngày 30/8/2025 đến hết ngày 2/9/2025.

Bộ này cũng thống nhất dự thảo văn bản gửi Thủ tướng Chính phủ, dự thảo Thông báo về việc nghỉ tết Âm lịch, nghỉ lễ Quốc khánh, nghỉ lễ ngày Chiến thắng 30/4 và ngày Quốc tế lao động 1/5 năm 2025 đối với cán bộ, công chức, viên chức và người lao động do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội xây dựng.

Trước đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã gửi lấy ý kiến các bộ, ngành về phương án nghỉ Tết Nguyên đán Ất Tỵ, để trình Thủ tướng Chính phủ đối với người lao động khu vực Nhà nước.

Theo đề xuất của Bộ này, Tết Nguyên đán 2025, cán bộ, công chức, viên chức có thể được nghỉ 9 ngày liên tục.

Cụ thể, lịch nghỉ Tết chính thức là từ thứ hai, ngày 27/1/2025, tức 28 tháng Chạp năm Giáp Thìn, nối qua 29 tháng Chạp và 3 ngày mùng 1, 2, 3 Tết, tức hết ngày thứ sáu, 31/1/2025. 

Tuy nhiên, liền trước 5 ngày nghỉ chính thức là 2 ngày nghỉ cuối tuần, thứ bảy, chủ nhật ngày 25-26/1/2025. Sau những ngày nghỉ chính thức lại tới 2 ngày nghỉ cuối tuần tiếp theo, thứ bảy, chủ nhật ngày 1-2/2/2025.

Vậy nên thực tế, lịch nghỉ Tết Nguyên đán tới đây sẽ bắt đầu từ thứ bảy, 25/1/2025 đến hết chủ nhật ngày 2/2/2025 dương lịch (tức hết mùng 5 tháng Giêng năm Ất Tỵ)./.
Phương án nghỉ Tết nguyên đán Ất Tỵ được đề xuất kéo dài 9 ngày liên tục.
Môi trường ST.

Phản bác luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước”

Cho đến nay, công cuộc đổi mới của Việt Nam đã được tiến hành hơn 36 năm, tuy còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Một trong những nguyên nhân của những thành tựu đó là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Tuy nhiên, gần đây các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị lại đưa ra những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, rằng: “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước”. Cần thiết phải nhận diện đúng bản chất của luận điệu này để tiếp tục khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

BẢN CHẤT CỦA NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một trong những luận điệu thường thấy của các thế lực thù địch nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta. Đây là trọng tâm, là mũi nhọn trong chiến lược “diễn biến hòa bình” với âm mưu cơ bản và lâu dài là tạo ra “khoảng trống” về tư tưởng, chính trị nhằm chia rẽ mối quan hệ gắn bó giữa Đảng với nhân dân. Đây là một âm mưu nguy hiểm, thâm độc liên quan trực tiếp đến uy tín cũng như sự tồn vong của Đảng, của chế độ nên được các thế lực thù địch ráo riết thực hiện với nhiều thủ đoạn tinh vi.

Để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng với cách mạng Việt Nam, chúng tung ra luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam có nhiều sai lầm trong quá khứ, dù quá khứ có làm được một số việc thì bây giờ chuyển sang thời kỳ mới, Đảng đã hết vai trò lịch sử”(1) trên nhiều diễn đàn khác nhau bôi nhọ, hạ thấp uy tín của Đảng, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.

Ở góc độ khác, có thế lực còn khoét sâu vào những hạn chế, khuyết điểm của Việt Nam trong thời gian qua, nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên để công kích Đảng ta, đòi xóa bỏ điều 4 trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về quyền lãnh đạo trưc tiếp, toàn diện của Đảng. Gần đây, một số phần tử cơ hội chính trị còn rêu rao rằng, hiện nay, Việt Nam vẫn còn là một nước chậm phát triển. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do “Đảng đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”. Chúng còn vu cáo rằng Đảng Cộng sản Việt Nam tuy có đạt được một số kết quả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc nhưng hiện đường lối lãnh đạo của Đảng đã không còn phù hợp nữa nên không thể có thành công được!

Trong những dịp Đảng, Quốc hội xin ý kiến rộng rãi các tầng lớp nhân dân về dự thảo các văn kiện, nghị quyết, luật…, các hoạt động chống phá lại càng quyết liệt và tinh vi hơn. Dưới hình thức “Thư ngỏ”, nhiều thế lực thù địch bao gồm các lực lượng phản động ở nước ngoài, các phần tử cơ hội chính trị trong nước đã gửi “tâm thư” kêu gọi Đảng ta phải thay đổi để “cứu vớt” đất nước Những luận điệu này đã lộ rõ bản chất của những kẻ có mưu đồ chống phá - đó là cố tình lờ đi những thành quả không thể phủ nhận của công cuộc đổi mới của Việt Nam và vin vào những hạn chế, khuyết điểm để phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.

Có thể nhận thấy rõ mưu đồ của các thế lực thù địch khi đưa ra luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước” là nhằm xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với công cuộc đổi mới và phát triển của Việt Nam hiện nay. Căn nguyên của luận điệu này được chúng đưa ra là do Đảng Cộng sản Việt Nam cho đến nay vẫn lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và các thế lực thù địch luôn rêu rao rao rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã “lỗi thời”, “không còn phù hợp” với thực tiễn hiện nay. Do đó, có thể nhận thấy rõ cái trước mắt là phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng cội rễ sâu xa là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin với tính cách là nền tảng tư tưởng, là “kim chỉ nam” cho mọi chủ trương, đường lối và hoạt động của Đảng. Vì thế, đây là một thủ đoạn chống phá Đảng kiểu “rượu cũ bình mới” nên không thể xem thường!

LUẬN CỨ ĐẤU TRANH PHẢN BÁC VỚI NHỮNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG

Cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời và trực tiếp lãnh đạo đất nước 93 năm, cả trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội nhập quốc tế hiện nay. 93 năm - một chặng đường gần một thế kỷ và có đủ thời gian để nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam với sự phát triển của cả một dân tộc.

Năm 1930, khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nước ta là một nước thuộc địa nửa phong kiến, nhân dân mất tự do, chịu cảnh lầm than, nô lệ. Tuy nhiên, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, giải phóng mình khỏi thân phận nô lệ nhờ thành công của cuộc cách mạng tháng Tám (năm 1945) và giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1954) và chống Mỹ (năm 1975). Những thành tựu to lớn đó đã làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc, được cả thế giới ghi nhận và nhân dân Việt Nam trân trọng, khắc ghi.

Trong bối cảnh đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh, khủng hoảng toàn diện trên tất cả các mặt, đời sống nhân dân đói nghèo, thiếu thốn, lại thêm Mỹ và phương Tây áp đặt cấm vận kinh tế trong một thời gian dài, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo cả dân tộc bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Đúng như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Việc thực hiện đường lối đổi mới đã đem lại những chuyển biến rõ rệt, hết sức sâu sắc và tích cực ở Việt Nam: kinh tế phát triển, lực lượng sản xuất được tăng cường; nghèo đói giảm nhanh, liên tục; đời sống nhân dân được cải thiện, nhiều vấn đề xã hội được giải quyết; chính trị, xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được bảo đảm; đối ngoại và hội nhập quốc tế ngày càng được mở rộng; thế và lực của quốc gia được tăng cường; niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố”(3). Những thành tựu đó không phải tự nhiên mà có và cũng không phải dễ dàng có được. Đó chính là kết quả của quá trình nhận thức về tính tất yếu của đổi mới đất nước, đồng thời, xuất phát từ sự thôi thúc của bản thân Đảng ta với mong muốn ngày càng mang lại sự phát triển phồn vinh cho đất nước, mang lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Những thành tựu đó là bằng chứng thuyết phục để khẳng định năng lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - một đảng duy nhất cầm quyền và lãnh đạo cả dân tộc trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và phát triển đất nước; đồng thời cũng làm cho nhân dân ngày càng thêm tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, đồng thuận để Đảng trở thành một lực lượng xã hội duy nhất lãnh đạo toàn xã hội. Do đó, không thể cố tình lờ đi những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của Việt Nam qua hơn 36 đổi mới để cáo buộc rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lãnh đạo, chỉ khiến đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, kém phát triển. Vì vậy, những kẻ lấy danh nghĩa là “con dân đất Việt”, lấy hình thức viết “tâm thư”, “thư ngỏ” để kêu gọi Đảng phải từ bỏ Điều 4 của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cố tình chống phá Đảng, chống phá chế độ ta.

Từ việc tổng kết quá trình lãnh đạo của Đảng trong suốt hơn 93 năm nói chung và trong thời kỳ đổi mới nói riêng, Đảng ta đã rút ra bài học kinh nghiệm rất quan trọng. Đó là: “Đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt NamTại Đại hội XIII, khi tổng kết kết quả 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước, Đảng ta cũng khẳng định“Những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử là kết tinh sức sáng tạo của Đảng và nhân dân ta, khẳng định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại; khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam”(5). Đây là những nhận định khách quan, phản ánh đậm nét vai trò to lớn, không thể phủ nhận của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới và phát triển đất nước trong suốt thời gian qua. Do đó, luận điệu cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng lãnh đạo đất nước” hoặc là do nhận thức thiển cận (số này không nhiều), hoặc là cố tình lờ đi, phủ nhận (trường hợp này là đa số) vai trò lãnh đạo to lớn của Đảng Cộng sản Việt Nam với công cuộc đổi mới đất nước. Do đó, mỗi chúng ta cần phải cảnh giác trước những luận điệu đó, đồng thời kiên quyết, kiên trì đấu tranh phản bác trên tất cả mọi mặt trận.

Trong những năm tiếp theo, công cuộc đổi mới đất nước sẽ tiếp tục còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng nếu mỗi chúng ta luôn hiểu và vững tin vào sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ là góp phần củng cố, gia tăng thêm sức mạnh cho Đảng, để Đảng ta tiếp tục là người lãnh đạo, dẫn dắt cả dân tộc thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.

ST.