Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

Phát triển kinh tế tư nhân không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội

Phát triển kinh tế tư nhân (KTTN) là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với nước ta. Từ tư duy phải xóa bỏ KTTN, đến nay Đảng ta khẳng định KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế.

(Ảnh minh hoạ)

(Ảnh minh hoạ)

Đây là chủ trương khoa học, đúng đắn với thực tiễn vận động của các thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), mang lại thành tựu đột phá cho phát triển kinh tế đất nước, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân. Tuy nhiên, các thế lực thù địch vẫn luôn đưa ra những luận điệu chống phá, xuyên tạc, bóp méo chủ trương phát triển KTTN, trong đó có luận điệu rất thâm độc: Phát triển KTTN là từ bỏ mục tiêu CNXH. Bằng lý luận và thực tiễn, chúng ta khẳng định: Luận điệu trên là hoàn toàn sai trái.

MỘT ĐỘNG LỰC QUAN TRỌNG CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

Trước yêu cầu của thực tiễn phát triển lực lượng sản xuất (LLSX), xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH, Đảng ta chủ trương đột phá phát triển KTTN, coi đó là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Ngày 3/6/2017, Hội nghị Trung ương 5 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TW về phát triển KTTN trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN).

Nghị quyết đánh giá cao vai trò, sự đóng góp to lớn của KTTN về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, ứng dụng khoa học công nghệ, thúc đẩy tăng năng suất lao động, tỷ trọng đóng góp vào GDP, quy mô doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội... Đồng thời xác định rõ quan điểm, chủ trương, mục tiêu, giải pháp phát triển KTTN đến năm 2030.

Phát triển kinh tế tư nhân để rút ngắn thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội

Phát triển KTTN là sự phát triển tư duy lý luận về sử dụng các thành phần kinh tế cho mục đích xây dựng CNXH. Tuy nhiên, các thế lực thù địch thường cố tình chống phá, xuyên tạc gây hoang mang, hoài nghi về chủ trương đúng đắn này của Đảng ta.

Một luồng quan điểm chống phá khá phổ biến cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế là thừa nhận bóc lột, thừa nhận quan hệ sản xuất (QHSX) tư bản chủ nghĩa (TBCN), là từ bỏ mục tiêu CNXH. Cũng vì bị ảnh hưởng của những luận điệu chống phá đó, do chưa hiểu bản chất của vấn đề mà có một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân hoài nghi tính đúng đắn của chủ trương này, dẫn tới hoài nghi con đường đi lên CNXH.

Vậy thừa nhận và tạo điều kiện cho KTTN phát triển có phải là Đảng ta đã từ bỏ mục tiêu CNXH? Đây là vấn đề lớn cả về lý luận và thực tiễn cần được luận giải khoa học, thuyết phục.

Dựa trên lý luận kinh tế của Chủ nghĩa Mác-Lênin và thực tiễn xây dựng CNXH ở Việt Nam, chúng ta có đủ cơ sở khoa học để khẳng định rằng chủ trương phát triển KTTN không phải là từ bỏ mục tiêu CNXH, mà ngược lại là sử dụng chính nó để rút ngắn hơn chặng đường ở thời kỳ quá độ (TKQĐ) đi lên CNXH. Điều đó được luận giải trên các vấn đề sau đây:

Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ ra trong TKQĐ cần thiết phải sử dụng các thành phần kinh tế phi XHCN cho mục đích xây dựng CNXH. Về xây dựng QHSX trong TKQĐ lên CNXH, V.I.Lênin đã khẳng định: “Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp, không thể quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị”. V.I.Lênin chỉ rõ cần xây dựng QHSX mới thông qua con đường gián tiếp là CNTB nhà nước: “Việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì cần thiết phải có những bước quá độ như CNTB nhà nước”.

Bước quá độ thông qua CNTB nhà nước thể hiện trong chính sách kinh tế mới, trong đó, cần thiết phải có sự nhượng bộ tạm thời và cục bộ đối với CNTB nhằm phát triển LLSX, từng bước xã hội hóa sản xuất trên thực tế. V.I.Lênin chỉ ra một số hình thức CNTB nhà nước như: Tô nhượng, đại lý, cho thuê xí nghiệp, khu mỏ..... 

Như vậy, cả về lý luận và thực tiễn xây dựng CNXH ở nước Nga Xô viết, V.I.Lênin cũng đã chỉ dẫn rằng trong TKQĐ cần phải sử dụng cả thành phần kinh tế phi XHCN như tư bản nhà nước, tư bản tư nhân cho mục tiêu phát triển LLSX. V.I.Lênin coi đó là biện pháp tối ưu để khơi dậy động lực, giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động, nhờ đó giải quyết được khó khăn kinh tế sau chiến tranh, đồng thời từng bước xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.

Đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường nước ta được xác định là nền kinh tế có “nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế”. Các thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật, được xác định là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Quá độ lên CNXH là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp... Việt Nam đi lên CNXH từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ TBCN, LLSX rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề, các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều hình thức tổ chức kinh tế-xã hội đan xen nhau”.

Thực tiễn cũng cho thấy việc áp đặt QHSX vượt trước rất xa so với trình độ của LLSX còn lạc hậu đã trở thành lực cản. Động lực của sản xuất không được phát huy, sức sản xuất không được khơi dậy, điều đó dẫn tới sự trì trệ không chỉ đối với LLSX mà còn làm méo mó đi mục đích hoàn thiện QHSX. Khi KTTN còn dư địa phát triển trong TKQĐ mà nôn nóng xóa bỏ là một sai lầm cả về lý luận và thực tiễn. Điều cần làm là phải tạo cơ chế cho KTTN phát triển, hay nói cách khác là khơi dậy, phát huy, sử dụng nó cho mục đích hiện đại hóa LLSX, xây dựng cơ sở vật chất cho CNXH.

Không xác lập địa vị thống trị của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa

Việt Nam thừa nhận KTTN không đồng nghĩa với xác lập địa vị thống trị của QHSX TBCN. Thừa nhận KTTN không có nghĩa là chúng ta thừa nhận bóc lột và tạo điều kiện cho bóc lột được hiện diện trong các quan hệ kinh tế ở nước ta. Mục tiêu nhất quán của cách mạng nước ta là xóa bỏ áp bức, bóc lột, bất công, xây dựng một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thực tiễn đã chứng minh bản chất của chế độ TBCN dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư liệu sản xuất và bóc lột lao động làm thuê không thể là cái đích để chúng ta thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong TKQĐ chúng ta thừa nhận KTTN vẫn còn cơ sở để tồn tại.

Do vậy, chúng ta không thể không tạo điều kiện cho nó phát triển. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là chúng ta chủ trương xác lập vị trí thống trị của QHSX TBCN. Ngược lại, cần hướng nó đi theo mục đích CNXH, điều đó cũng có nghĩa không phải chúng ta để quan hệ bóc lột tự do phát triển.

KTTN được tự do cạnh tranh bình đẳng trong khuôn khổ thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Do vậy, QHSX hình thành trong thành phần KTTN sẽ chịu sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và quản lý, điều tiết của Nhà nước pháp quyền XHCN nhằm giữ vững định hướng XHCN.

Coi KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế không đồng nghĩa từ bỏ vai trò là công cụ, là lực lượng vật chất để định hướng, điều tiết, dẫn dắt của kinh tế nhà nước. Đại hội XIII của Đảng định hướng rõ sự phát triển của từng thành phần kinh tế ở nước ta, trong đó chỉ rõ: “Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; KTTN là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển”.

Vai trò của từng thành phần kinh tế theo đó cũng được xác lập theo đúng vị trí đã xác định. Thành phần kinh tế nhà nước nắm giữ nguồn lực vật chất quan trọng, then chốt được khẳng định là công cụ, lực lượng vật chất để nhà nước ổn định vĩ mô, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế thị trường.

KTTN được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Trong đó cũng khuyến khích sự hợp tác liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ, ngoài ra còn khuyến khích phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của người lao động.

Như vậy, KTTN là một động lực quan trọng của nền kinh tế, song động lực đó được phát huy trong chế độ kinh tế-xã hội khác biệt về chất với chế độ TBCN. Trong chế độ kinh tế XHCN, thành phần KTTN cũng không còn thuần túy như trong chế độ TBCN mà có sự đan xen, giao thoa, liên kết, hợp tác với các thành phần kinh tế XHCN.

KTTN được quan tâm tạo điều kiện phát triển không đồng nghĩa với từ bỏ mục tiêu CNXH. Là người lãnh đạo xây dựng nền kinh tế XHCN ở Nga sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin đề xuất chính sách kinh tế mới (NEP). Về bản chất, đó chính là nhận thức rõ và đề xuất lý luận về nền kinh tế nhiều thành phần trong TKQĐ từ một nước tiểu nông.

Trong chính sách này, V.I.Lênin kỳ vọng vào khả năng thu hút đầu tư từ các nước tư bản phát triển và từ tư bản tư nhân trong nước cho lĩnh vực công nghiệp non yếu và kiệt quệ sau chiến tranh. Hơn ai hết, V.I.Lênin nhận thức rất rõ chính sách kinh tế mới về hình thức dường như có bước lùi về CNTB nhưng lại rất cần thiết để tiến bước lên CNXH. V.I.Lênin đã luận chứng rằng sự đồng thuận của nhân dân và sự kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ của nhà nước XHCN sẽ khiến tư bản tư nhân không thể lái nền kinh tế trở về quỹ đạo của CNTB.

KTTN ở Việt Nam thời gian qua đã phát triển cả về quy mô, trình độ, lĩnh vực ngành nghề trong khuôn khổ định hướng XHCN, vì mục tiêu CNXH mà không phải là phát triển tự do như trong thể chế kinh tế TBCN. Điều đó cũng có nghĩa tạo điều kiện cho KTTN phát triển nhưng phải tuân thủ và vận động theo quỹ đạo của CNXH mà không phải là buông bỏ mục tiêu CNXH.

(Ảnh minh họa: TTXVN)

KIỂM SOÁT, ĐỊNH HƯỚNG PHÁT HUY VAI TRÒ KINH TẾ TƯ NHÂN CHO MỤC TIÊU CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Tại Việt Nam, từng có ý kiến lo ngại rằng, KTTN lớn mạnh sẽ thao túng nền kinh tế, làm chệch hướng CNXH, trong đó nhiều ông chủ tư nhân có quyền lực vô biên, đứng trên cả pháp luật. Thế nhưng, thực tiễn thời gian qua đã cho thấy, dù doanh nghiệp tư nhân có phát triển thế nào vẫn phải hành động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật, phục vụ mục tiêu đi lên CNXH, mọi vi phạm đều bị xử lý nghiêm.

Đóng góp quan trọng cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội

Trong hơn 35 năm của thời kỳ đổi mới, KTTN ở nước ta đã dần phát triển, thực sự trở thành lực lượng vật chất quan trọng trong nền kinh tế, giải quyết các vấn đề an sinh xã hội, đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp đổi mới vì mục tiêu tiến bộ, công bằng xã hội. Sự phát triển của KTTN chính là góp phần để thực hiện các mục tiêu của thời kỳ quá độ đi lên CNXH.

Đảng, Nhà nước đã có chủ trương, chính sách khuyến khích KTTN phát triển không hạn chế quy mô, số lượng. Vai trò của KTTN trong xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH là rất to lớn. KTTN đã tạo ra sức hút mạnh mẽ đối với các nguồn lực trong nền kinh tế, tạo ra “sức bật” về trình độ công nghệ, đào tạo nghề cho người lao động, gia tăng khả năng hấp thu vốn, công nghệ hiện đại, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Điều quan trọng hơn là KTTN phát triển đã góp phần hoàn thiện hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại. Đây chính là những mảng kết cấu cơ sở vật chất mà CNXH đang cần.

Chúng ta thấy những tập đoàn KTTN lớn như Sun Group, Vingroup, Thaco, Masan, FPT... KTTN tham gia và làm tốt nhiều lĩnh vực mà trước đây chỉ có kinh tế nhà nước mới đủ khả năng thực hiện như xây dựng sân bay, cảng biển trị giá hàng nghìn tỷ đồng; sản xuất ô tô; lĩnh vực hàng không... Điển hình như Tập đoàn Sun Group đầu tư 3 công trình trọng điểm: Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn xây chưa đầy hai năm, được trao hai giải thưởng là “Sân bay mới hàng đầu châu Á 2019” và “Sân bay mới hàng đầu thế giới”; Cảng tàu khách quốc tế Hạ Long, cao tốc Hạ Long-Vân Đồn... Các doanh nghiệp Thaco, VinFast đang biến khát vọng ô tô “make in Vietnam” thành hiện thực. Những tập đoàn KTTN như Sun Group, Vingroup... đã kiến tạo nên các công trình, dịch vụ, sản phẩm du lịch độc đáo xứng tầm quốc tế như: Bà Nà Hill, cầu Vàng, Khu du lịch nghỉ dưỡng Vinpearl; Lễ hội pháo hoa quốc tế Đà Nẵng; chuỗi Carnival đường phố khắp các tỉnh, thành phố như: Hà Nội, Hạ Long (Quảng Ninh), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Đà Nẵng... tạo sức bật mạnh mẽ cho ngành du lịch Việt Nam.

KTTN còn khẳng định được vai trò to lớn trong giải quyết việc làm, đóng góp quan trọng trong tổng GDP đất nước. Tham gia các hoạt động an sinh xã hội không chỉ có các doanh nghiệp nhà nước mà doanh nghiệp tư nhân cũng đóng góp to lớn. Điển hình là khả năng thu hút, tham gia đào tạo người lao động, giải quyết việc làm; góp phần thu hẹp khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa các vùng, miền. Theo thống kê, hiện nay KTTN thu hút và giải quyết việc làm cho khoảng 85% lực lượng lao động của nền kinh tế, điều này cũng có nghĩa doanh nghiệp tư nhân bảo đảm cho phần lớn lực lượng lao động trong nền kinh tế có việc làm, thu nhập, được bảo đảm các điều kiện tối thiểu về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế. Điều đó giúp cho người lao động, các nhóm yếu thế trong xã hội bảo đảm được sinh kế ổn định, kể cả trong điều kiện có rủi ro về thiên tai, dịch bệnh cũng như tác động của đại dịch Covid-19.

Quản lý, kiểm soát, định hướng hoạt động của KTTN theo khuôn khổ pháp luật

Tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho sự phát triển của KTTN nhưng đồng thời Nhà nước cũng quản lý, điều tiết, kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các thành phần kinh tế trong đó có KTTN bằng pháp luật. Bất kể là doanh nghiệp tư nhân, tập đoàn KTTN trong hay ngoài nước, bất kể quy mô doanh nghiệp, trình độ công nghệ ra sao, khả năng chi phối, điều tiết thị trường thế nào đều phải chấp hành pháp luật Việt Nam. Trong chủ nghĩa tư bản, nhà nước tư sản tìm mọi cách ban hành các chính sách kinh tế có lợi cho các tập đoàn tư bản độc quyền chi phối thị trường, tối đa hóa lợi nhuận, kinh doanh trong cả những lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro (như kinh doanh súng đạn) bất chấp sự tổn hại lợi ích của người lao động, của xã hội và môi trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, sự phát triển của KTTN hoàn toàn khác biệt. Doanh nghiệp KTTN hoạt động đúng khuôn khổ pháp luật, bảo đảm hài hòa giữa lợi ích doanh nghiệp, lợi ích người lao động và lợi ích xã hội, lợi ích quốc gia. Doanh nghiệp tư nhân được tự do sản xuất, kinh doanh trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm, không gây tổn hại đến xã hội và môi trường, bảo đảm đóng góp cho sự phát triển bền vững của đất nước. Để bảo vệ quyền lợi của người lao động, Quốc hội, Chính phủ Việt Nam quy định rõ mức lương tối thiểu vùng, quy định các vấn đề về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho người lao động buộc chủ doanh nghiệp tư nhân muốn sử dụng lao động phải tuân thủ. Đây chính là định hướng nhằm bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước phát triển kinh tế ở Việt Nam.

Đồng thời, Nhà nước xử lý nghiêm các doanh nghiệp, tập đoàn KTTN trục lợi, vi phạm pháp luật, thao túng thị trường gây tổn hại cho các nhà đầu tư, xâm hại lợi ích của xã hội. Thực tế là trong thời gian qua, đã có không ít lãnh đạo doanh nghiệp tư nhân lớn bị điều tra, xử lý khi có những dấu hiệu vi phạm pháp luật...

Sự nghiêm minh của pháp luật vừa tạo điều kiện bình đẳng cho doanh nghiệp tư nhân phát triển, đồng thời cũng là ranh giới để các doanh nghiệp hoạt động. Ở Việt Nam, dưới chế độ XHCN, mọi thành phần kinh tế đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Không phải cứ doanh nghiệp lớn, có sức ảnh hưởng cao trên thị trường, thậm chí đóng góp nhiều cho các hoạt động xã hội thiện nguyện là muốn làm gì thì làm, muốn xúc phạm ai tùy ý. Những hành vi vi phạm pháp luật đều phải được xử lý, bất kể đó là lãnh đạo tập đoàn nào, khả năng chi phối thị trường, sức ảnh hưởng đến nền kinh tế ra sao. Những vụ việc đối với lãnh đạo một số doanh nghiệp lớn vừa qua là lời cảnh tỉnh cho lãnh đạo các doanh nghiệp tư nhân, để họ luôn làm ăn chân chính, có trách nhiệm xã hội cao, để bảo đảm rằng sự phát triển lành mạnh doanh nghiệp của họ mang lại lợi ích cho xã hội, vì mục tiêu XHCN.

Như vậy, sự phát triển và đóng góp của KTTN đã chứng minh rằng phát triển KTTN không những không từ bỏ mục tiêu CNXH mà ngược lại, chúng ta sử dụng nó như một phương tiện cần thiết trong thời kỳ quá độ nhằm phát triển lực lượng sản xuất, gia tăng các nguồn lực vật chất cho mục tiêu CNXH. KTTN được tự do phát triển nhưng theo sự điều tiết của Nhà nước XHCN, dựa trên nền tảng vật chất của CNXH. Vì vậy, KTTN không thể hướng lái nền kinh tế nước ta đi theo quỹ đạo tư bản chủ nghĩa. Sự phát triển có định hướng của KTTN luôn phải bảo đảm cả mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội, trở thành công cụ quan trọng để thực hiện tăng trưởng, phát triển kinh tế đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội.

Từ cơ sở lý luận và thực tiễn trên đây, có thể khẳng định đường lối, quan điểm của Đảng về phát triển KTTN thành một động lực quan trọng của nền kinh tế là đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH. Đường lối đó sẽ là mấu chốt để khơi dậy, phát huy động lực to lớn của khu vực KTTN, thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra lực lượng vật chất cần thiết hỗ trợ cho con đường đi lên CNXH ở nước ta. Thừa nhận KTTN không có nghĩa là từ bỏ mục tiêu CNXH, ngược lại sử dụng, phát huy thành phần kinh tế này như một công cụ cho quá trình hiện đại hóa lực lượng sản xuất, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại cho CNXH trong thời kỳ quá độ./.

ST.

Nhận thức đúng về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực

Tham nhũng là một thuộc tính trong xã hội có giai cấp. Chống tham nhũng, vì thế, là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go và vô cùng phức tạp. Thành bại của cuộc đấu tranh này phụ thuộc vào bản lĩnh của đảng cầm quyền, hiệu lực của hệ thống pháp luật và đặc biệt là sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân.

Tranh minh họa. Nguồn: Tuyengiao.vn

Tranh minh họa. Nguồn: Tuyengiao.vn

Ở nước ta, tham nhũng được xác định là một trong những nguy cơ hàng đầu đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của chế độ. Chính vì vậy, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh của toàn Đảng, toàn dân. Mục tiêu của cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp này là vì nhân dân...

Chấn chỉnh nhận thức lệch lạc, suy diễn tiêu cực

Sở dĩ phải nhắc lại, nhấn mạnh những vấn đề nguyên tắc có ý nghĩa căn bản trên đây là bởi, trong dư luận xã hội (trong đó có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên) đã và đang nảy sinh những nhận thức lệch lạc về nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng, tiêu cực hiện nay. Trong những ngày qua, sau khi cựu Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thanh Long; cựu Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ, cựu Chủ tịch UBND TP Hà Nội Chu Ngọc Anh và cựu Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Phạm Công Tạc bị khởi tố, bắt tạm giam, dư luận xã hội xuất hiện những thông tin mang tính võ đoán, suy diễn cực đoan, tiêu cực.

Trên không gian mạng, những đối tượng có tư tưởng thù địch, chống đối đã suy diễn rằng, cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay thực chất là “cuộc thanh trừng nội bộ”, là “các phe phái trong Đảng đấu đá lẫn nhau”... Những cụm từ như “bê bối”, “đụng đến đâu sai đến đó”, “tham nhũng cả hệ thống”, “càng chống, tham nhũng càng nhiều”... được họ sử dụng để chứng minh cho kiểu suy diễn sai lệch, tiêu cực nói trên.

Vấn đề này được nhiều phương tiện truyền thông phát tiếng Việt có tư tưởng thù địch ở hải ngoại tập trung khai thác, làm căn cứ để thực hiện các chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, chống phá đất nước với quy mô, cường độ ngày càng tăng. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức... nảy sinh tư tưởng làm việc cầm chừng, sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám đột phá, sáng tạo... Những biểu hiện tư tưởng, luồng thông tin tiêu cực ấy ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường văn hóa, trận địa tư tưởng chính trị trong Đảng, nhất là tổ chức đảng các cấp ở những bộ, ngành, địa phương... có cán bộ chủ chốt tham nhũng, tiêu cực vừa bị bắt tạm giam.

Cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị giống như là những “đầu tàu”. Khi “đầu tàu” gặp trục trặc, bị hỏng hóc phải thay thế, tất yếu sẽ có ảnh hưởng nhất định đến cả hệ thống. Những dao động, xáo trộn về tâm lý, tình cảm... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức của hệ thống ấy là trạng thái tâm lý bình thường. Tuy nhiên, nếu để nó diễn biến theo chiều hướng cực đoan, tiêu cực, làm nảy sinh tư tưởng chán nản, bi quan, thậm chí là bất mãn, có những phát ngôn thiếu tinh thần xây dựng, để các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc, chống phá Đảng và Nhà nước... thì đó là điều không thể chấp nhận. Trong cán bộ, đảng viên và hệ thống chính trị, những biểu hiện đó cũng chính là mầm mống của suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm những điều đảng viên không được làm, cần được chấn chỉnh, khắc phục kịp thời.

Tính nhân đạo, nhân văn của đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực

Có thể thấy, nguyên nhân của lối suy diễn tiêu cực nêu trên trước hết là do nhận thức của một số cá nhân chưa đúng, bị tác động bởi những luận điệu sai trái do các thế lực thù địch và phần tử phản động rêu rao, xuyên tạc. Những biểu hiện này không phải đến bây giờ mới diễn ra mà nó tồn tại âm ỉ, là một mặt trái của đời sống xã hội, khi có tình huống tác động lại bùng lên cục bộ. Chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp. Trong xã hội có giai cấp, không một quốc gia, dân tộc nào có thể triệt tiêu hoàn toàn tham nhũng. Vai trò của đảng cầm quyền và hiệu lực, hiệu quả của hệ thống pháp luật chỉ có thể ngăn chặn, xử lý, hạn chế đến mức thấp nhất các hành vi tham nhũng.

Ở nước ta, cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chính là để làm trong sạch bộ máy, để hệ thống chính trị phục vụ ngày một tốt hơn quyền và lợi ích của nhân dân. Chính vì vậy, việc điều tra, xử lý các tổ chức, cá nhân có hành vi tham nhũng, tiêu cực, không có mục đích nào khác ngoài việc để cán bộ, đảng viên và cả hệ thống chính trị xứng đáng hơn với niềm tin và sự phó thác của nhân dân.

Với bản chất nhân đạo, nhân văn xã hội chủ nghĩa, việc kiểm tra, điều tra, xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên tham nhũng, tiêu cực là để nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn, với tinh thần “chặt cành để cứu cây”, “kỷ luật một người để cứu muôn người”... Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhiều lần phát biểu, khẳng định, kỷ luật, xử lý đồng chí, đồng đội của mình là rất day dứt, đau xót, nhưng đó là việc phải làm, không thể khác được. Phải làm nghiêm, làm mạnh để ai cũng phải có ý thức giữ mình trong sạch, ai đã trót “nhúng chàm” thì phải tự gột rửa để xứng đáng hơn với niềm tin, sự gửi gắm của nhân dân.

Như vậy, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh thì việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong Đảng và hệ thống chính trị phải làm thường xuyên, kiên trì, kiên quyết. Việc nhiều cán bộ cấp cao, đứng đầu một số bộ, ngành, địa phương... suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham ô, tham nhũng bị điều tra, xử lý là một tổn thất, một nỗi đau của Đảng, nhưng để cơ thể khỏe mạnh, không thể không “phẫu thuật” cắt bỏ những “khối u”, những “tế bào” độc hại...

Thời kháng chiến chống thực dân Pháp, ở Thủ đô kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phải trắng đêm trăn trở, dằn vặt, day dứt trước khi quyết định xử tử Trần Dụ Châu vì tội biển thủ công quỹ, nhận hối lộ, phá hoại công cuộc kháng chiến. Dù rất đau đớn, nhưng Người đã bác đơn xin ân giảm án tử hình của Trần Dụ Châu. Người nói: “Nếu phải giết đi một con sâu mà cứu được cả rừng cây thì việc đó là cần thiết, hơn nữa còn là một việc làm nhân đạo”. Vụ án chống tham nhũng điển hình xảy ra cách đây hơn 70 năm, đến nay vẫn vẹn nguyên tính thời sự. Quan điểm nhân văn, nhân đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi xử lý cán bộ tham nhũng, tiêu cực là sự thể hiện vừa bao quát vừa cụ thể tính nhân văn xã hội chủ nghĩa, tất cả đều vì tiền đồ của đất nước, vì cuộc sống của nhân dân.

Với tinh thần “Chống dịch như chống giặc”, nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 vừa qua thực sự là một cuộc chiến của toàn Đảng, toàn dân. Lôi ra được những “con sâu” trong bộ máy công quyền, lợi dụng dịch bệnh và công tác phòng, chống dịch để trục lợi là sự cố gắng nỗ lực, vào cuộc quyết liệt của các cơ quan, lực lượng chức năng, thể hiện tinh thần, ý chí đấu tranh của Đảng, không có vùng cấm, không có ngoại lệ...

Là cán bộ, đảng viên, chúng ta không vui sướng, hả hê khi đồng chí, đồng đội mình suy thoái, biến chất, nhưng cũng không thể thờ ơ, bàng quan, vô cảm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; càng không thể chỉ thấy hiện tượng mà quên bản chất, dẫn đến nảy sinh tư tưởng sợ sai, sợ trách nhiệm... Để thúc đẩy phát triển, phải gắn chặt giữa đoàn kết và đấu tranh, giữa xây và chống với tinh thần lấy xây để chống. Trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, khi Đảng, Nhà nước ta ngày càng siết chặt kỷ luật, kỷ cương, những thành phần “sâu mọt” trong nội bộ tổ chức đảng và hệ thống chính trị sẽ tiếp tục được lôi ra ánh sáng công lý.

Với nhận thức, bản lĩnh của cán bộ, đảng viên, chúng ta phải đi sâu vào bản chất, đặt lợi ích của quốc gia, dân tộc, quyền lợi của nhân dân lên trên hết để thấy rõ tính nhân đạo, nhân văn của Đảng. Những luận điệu cho rằng, Đảng, Nhà nước “thanh trừng nội bộ”, “tranh giành quyền lực”, “đấu đá phe cánh”... thực chất là những luận điệu phản động, hại dân, hại nước. Cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức trong hệ thống chính trị cần nêu cao bản lĩnh, nhận thức thấu đáo bản chất vấn đề để củng cố trận địa tư tưởng chính trị, trau dồi phẩm chất đạo đức, xây dựng và tăng cường lòng tin trong nhân dân đối với công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.

Công tác kiểm tra phải đi trước một bước

Phát biểu kết luận cuộc họp Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tổ chức ngày 27-4-2022, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: Từ thực tế công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đã rút ra kinh nghiệm hoàn toàn đúng cả về lý luận, thực tiễn và đường lối. Đó là công tác kiểm tra của Đảng phải đi trước một bước, kiểm tra dấu hiệu vi phạm, cứ có dấu hiệu là Ủy ban kiểm tra có quyền vào kiểm tra. Đây là kinh nghiệm hay, đúng nguyên tắc, kỷ luật Đảng trước, rồi đến kỷ luật về hành chính, tiếp đến là xử lý hình sự... Các vụ án đã được xử lý nghiêm nhưng cũng rất nhân văn, tài sản thu hồi lớn, nhưng cái lớn nhất vẫn là củng cố, tăng thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị...

Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước đã thành lập Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cấp tỉnh. Tinh thần của Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và chỉ đạo của Tổng Bí thư cần được cụ thể hóa thành chủ trương, giải pháp, hành động thiết thực ở mỗi địa phương. Đặc biệt là vai trò của công tác kiểm tra. Công tác kiểm tra phải đi trước một bước để sớm phát hiện, ngăn chặn, xử lý tham nhũng, tiêu cực ngay trong mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Sự đi trước của tổ chức đảng trong kiểm tra, xử lý sai phạm vừa là tính tiên phong trong lãnh đạo, vừa thể hiện tính nhân đạo, nhân văn, mọi chủ trương, hành động của Đảng đều vì lợi ích quốc gia, dân tộc và quyền lợi của nhân dân./.

ST.

Vạch trần luận điệu lừa bịp “Quân đội phải trung lập về chính trị”

Đấu tranh vạch trần sự lừa bịp của luận điểm “Quân đội phải trung lập về chính trị” và tăng cường các biện pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Lễ chào cờ trên đảo Song Tử Tây.

Lễ chào cờ trên đảo Song Tử Tây.

LUẬN ĐIỆU CŨ RÍCH

“Quân đội phải trung lập về chính trị” là luận điểm đã có từ lâu, mà các đảng chính trị đối lập ở những nước đi theo chế độ đa đảng thường sử dụng để hạn chế quân đội “can dự” vào những tranh giành chính trị của các đảng phái. Ngay từ năm 1905, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “... những câu nói của bọn tôi tớ của nền chuyên chế về tính trung lập của quân đội, về sự cần thiết phải giữ cho quân đội đứng ngoài chính trị v.v. là giả dối, rằng những lời nói đó không thể mong được binh lính đồng tình một chút nào”.
 
Trong những thập niên cuối của thế kỷ XX, khi thấy rằng phương thức chống phá chủ nghĩa xã hội bằng biện pháp gây chiến tranh xâm lược không hiệu quả, chủ nghĩa đế quốc đã đẩy mạnh chống phá bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”. Một trong các thủ đoạn mà họ sử dụng là đưa khẩu hiệu “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị” vào các nước xã hội chủ nghĩa, nơi chỉ có một đảng (Đảng Cộng sản) lãnh đạo, nhằm thực hiện “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang cách mạng, mà thực chất là nhằm tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vô hiệu hóa vai trò của quân đội là công cụ bạo lực của Đảng, của Nhà nước trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thủ đoạn này đã được họ áp dụng thành công ở Liên Xô trước đây; khi những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội Liên Xô tự rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mắc những sai lầm rất nghiêm trọng, như: tự xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội, làm cho Quân đội Liên Xô bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. 
 
Đối với nước ta, từ nhận định rằng, hiện nay Đảng Cộng sản Việt Nam còn nắm chắc quân đội, chưa thể xóa bỏ được vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, chưa thể xóa bỏ được chế độ xã hội chủ nghĩa, nên các thế lực thù địch với cách mạng nước ta ráo riết thực hiện chiêu bài “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”. Họ hy vọng rằng, một khi quân đội đã bị mê hoặc bởi khẩu hiệu đó, đội ngũ cán bộ quân đội đã dao động, mất phương hướng chính trị, họ sẽ ra tay lật đổ Đảng Cộng sản Việt Nam và thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo đúng kịch bản “không đánh mà thắng”(!). 

Năm 2013, lợi dụng việc Ủy ban Thường vụ Quốc hội tổ chức xin ý kiến nhân dân vào bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp 1992, các thế lực chống phá con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội xem đây là thời cơ để công khai đòi “phi chính trị hóa” quân đội. Họ đưa ra nhiều luận điểm, như: “quân đội phải duy trì tính trung lập về chính trị”, “quân đội phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không cần trung thành với bất kỳ tổ chức nào”, mà áp dụng cụ thể vào Việt Nam là “không phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam”, v.v.. Đáng tiếc là, không ít người đã vào hùa với chúng, mà không tỉnh táo tự vấn mình rằng: tại sao những đề xuất về “quân đội phải trung lập về chính trị” lại được VOA, BBC, RFA, RFI... cùng những kẻ phản bội Tổ quốc, những người có thâm thù với cách mạng ở hải ngoại tung hô, cổ vũ nhiệt thành đến vậy (?). Khi bị chỉ trích những đề xuất đó là biểu hiện của sự “suy thoái về tư tưởng chính trị”, những người cổ xúy cho tư tưởng này vội “lấp liếm” rằng: “chúng tôi chỉ yêu cầu quân đội trung lập về chính trị, chứ đâu có đòi phi chính trị hóa quân đội”(?). 

Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên phát khẩu trang miễn phí và hướng dẫn cách thức sử dụng đúng cách cho đồng bào đi nương tại khu vực biên tiếp giáp Lào và Trung Quốc_Ảnh: TTXVN

Bộ đội Biên phòng tỉnh Điện Biên phát khẩu trang miễn phí và hướng dẫn cách thức sử dụng đúng cách cho đồng bào đi nương tại khu vực biên tiếp giáp Lào và Trung Quốc_Ảnh: TTXVN

Sự ngụy biện đó không đánh lừa được công luận; bởi xét về bản chất, yêu cầu “quân đội phải trung lập về chính trị” chỉ là một phiên bản của quan điểm đòi “phi chính trị hóa quân đội”. Nói đến “trung lập về chính trị”, nghĩa là “đứng giữa các lực lượng chính trị”, “đứng ngoài chính trị”, “không can dự vào chính trị”...; trong khi đó, Quân đội nhân dân Việt Nam đang được xây dựng theo phương hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị làm cơ sở, nền tảng để xây dựng vững mạnh toàn diện. Hơn nữa, bản thân Quân đội nhân dân Việt Nam đang là lực lượng chính trị, đặt dưới sự lãnh đạo “tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt” của Đảng Cộng sản Việt Nam, tức là đang “không đứng ngoài chính trị”; thì đòi hỏi “quân đội phải trung lập về chính trị” thực chất là đòi “phi chính trị hóa” Quân đội nhân dân Việt Nam.
 
Để thực hiện mưu đồ đòi “quân đội phải trung lập về chính trị”, các thế lực thù địch sử dụng mọi biện pháp, cả về lý luận, tư tưởng lẫn hành động thực tiễn.
 
Trên lĩnh vực lý luận, tư tưởng, họ thường lập luận rằng: quân đội là của nhà nước, nên chỉ phục tùng nhà nước, chứ không phục tùng và chịu sự lãnh đạo của bất cứ chính đảng nào; hoặc: hoạt động của quân đội chỉ để bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và phục vụ nhân dân, nên chỉ phải trung thành với Tổ quốc và nhân dân chứ không phải trung thành với bất kỳ tổ chức nào, v.v. Nghe thoáng qua, không ít người ngộ nhận sự có lý của lập luận này, mà không hiểu rằng: đây là thủ đoạn lừa bịp, nhằm chuyển lập trường chính trị của quân đội cách mạng sang lập trường của bọn cơ hội chính trị, của giai cấp tư sản. 
 
Trong hành động thực tiễn, những người cổ xúy cho tư tưởng “quân đội phải trung lập về chính trị” yêu cầu một khi có biến động chính trị, thì quân đội hãy án binh, bất động, không đứng về phe nào. Đối với những nước đi theo chế độ xã hội chủ nghĩa, chỉ có một Đảng Cộng sản lãnh đạo như nước ta, họ đòi xóa bỏ nguyên tắc “Đảng Cộng sản lãnh đạo quân đội”; hạ thấp, đi đến đòi xóa bỏ hoạt động công tác đảng, công tác chính trị cùng hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị  (nhất là chế độ chính ủy, chính trị viên) trong quân đội - một trong những yếu tố riêng có của quân đội các nước xã hội chủ nghĩa, nhằm đảm bảo cho Đảng Cộng sản giữ vững sự lãnh đạo đối với quân đội. Họ xuyên tạc các sự kiện chính trị trong lịch sử có quân đội tham gia; thổi phồng khuyết điểm của một vài đơn vị quân đội và một bộ phận quân nhân trong quá trình làm nhiệm vụ; bôi nhọ đời tư của các tướng lĩnh, anh hùng lực lượng vũ trang... hòng qua đây, làm cho quân đội mất uy tín trong nhân dân, hạ thấp vị thế của quân đội trong xã hội..., từ đó mà vô hiệu hóa vai trò của quân đội trong cuộc đấu tranh bảo vệ chính quyền cách mạng.
 
Đối với Việt Nam, để thực hiện mục tiêu nhất quán là xóa bỏ thành quả cách mạng và lái con đường phát triển của đất nước sang quỹ đạo tư bản chủ nghĩa, trong nhiều năm qua, các thế lực thù địch đẩy mạnh các chiến dịch vận động đòi thực hiện chế độ đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập và lôgic tất yếu của tiến trình đó, nếu được thực hiện, sẽ là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Họ công khai đòi bỏ quy định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội; bỏ quy định “lực lượng vũ trang nhân dân phải trung thành với Đảng Cộng sản Việt Nam” đã được ghi trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lợi dụng tình cảm của nhân dân ta với Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu, họ cố tình lờ đi hoàn cảnh lịch sử của sự kiện ngày 26/5/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng Trường Võ bị Lục quân Trần Quốc Tuấn (nay là Trường Sĩ quan Lục quân 1) lá cờ “Trung với nước, hiếu với dân”, để xuyên tạc tư tưởng nhất quán của Người về vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội nhân dân Việt Nam, bằng lý lẽ: “Cụ Hồ không yêu cầu quân đội phải trung thành với Đảng” (!). Đáng tiếc rằng, một bộ phận nhân dân, kể cả một số cán bộ, đảng viên ta đã dao động trước những lý lẽ này.

Bộ đội chung tay giúp đưa người dân vùng lũ về nơi trú ẩn an toàn

Bộ đội chung tay giúp đưa người dân vùng lũ về nơi trú ẩn an toàn

KHÔNG CÓ QUÂN ĐỘI CỦA QUỐC GIA NÀO “TRUNG LẬP VỀ CHÍNH TRỊ” HAY “ĐỨNG NGOÀI CHÍNH TRỊ”

Cần khẳng định ngay rằng, mục tiêu hướng tới của những thủ đoạn nói trên là thúc đẩy sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Quân đội, làm cho Quân đội nhân dân Việt Nam xa rời mục tiêu, lý tưởng cách mạng và sự lãnh đạo của Đảng; biến chất về chính trị, tiến tới vô hiệu hóa vai trò của Quân đội là chỗ dựa vững chắc của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những thủ đoạn đó thật tinh vi và thâm hiểm, nhưng sai cả về lý luận và thực tiễn.
 
Từ góc độ lý luận, trước hết, cần bắt đầu từ luận điểm “Chiến tranh là sự kế tục của chính trị”, mà quân đội xuất hiện để đáp ứng nhu cầu của chiến tranh (tiến công hoặc phòng ngự). Đây là luận điểm được Clau-dơ-vit (1780-1831) - nhà lý luận quân sự tư sản nổi tiếng của nước Phổ đã khái quát. Luận điểm này được thừa nhận rộng rãi trong cả khoa học quân sự tư sản lẫn khoa học quân sự vô sản, nên không thể bác bỏ. Chính V.I.Lênin cũng đánh giá cao luận điểm này. Một khi đã thừa nhận “chiến tranh là sự kế tục của chính trị”, thì tất yếu phải thừa nhận: không bao giờ và không ở đâu có thứ quân đội “trung lập về chính trị”, hoặc “không dính đến chính trị”, bởi bất cứ cuộc chiến tranh nào cũng có mục tiêu chính trị, phản ảnh lập trường chính trị của các bên tham chiến; và quân đội của các bên tham chiến đều được lực lượng chính trị cầm quyền tổ chức, giáo dục để thực hiện mục tiêu chính trị đó của cuộc chiến tranh.

Thứ hai, quân đội bao giờ cũng mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức và nuôi dưỡng nó; bởi quân đội là một thành phần của nhà nước, là công cụ bạo lực vũ trang của nhà nước để bảo vệ thành quả mà lực lượng chính trị cầm quyền có được qua các cuộc đấu tranh giành quyền lực. 

Lịch sử xuất hiện quân đội gắn liền với sự ra đời của nhà nước; mà nhà nước là sản phẩm tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp, nên bất cứ nhà nước nào cũng có tính chất giai cấp. Ngày nay, ở các nước theo thể chế chính trị tư bản, với chế độ đa đảng, mặc dù có hiện tượng các đảng phái thay nhau cầm quyền, nhưng thực chất họ vẫn duy trì sự nhất nguyên về chính trị. Đó là thứ chính trị của giai cấp tư sản, bởi đảng chính trị nào cầm quyền cũng chỉ là sự đại diện cho các nhóm và tầng lớp khác nhau của giai cấp tư sản; nên chính phủ do các đảng chính trị cầm quyền chi phối vẫn đều phục tùng quyền lợi và bảo vệ lợi ích cơ bản của giai cấp tư sản là chủ yếu, mặc dù vẫn phải thực thi chức năng công quyền - một trong hai chức năng cơ bản (chức năng giai cấp và chức năng công quyền) của bất cứ nhà nước nào. Theo đó, với tư cách là các cơ quan chức năng của nhà nước, quân đội được lập ra để bảo vệ thể chế chính trị của giai cấp cầm quyền, không thể không mang bản chất giai cấp của nhà nước đã tổ chức, quản lý và nuôi dưỡng nó. Những người cổ súy cho quan điểm “quân đội phải trung lập về chính trị” đã không hiểu, hay cố tình không hiểu rằng: nói đến “chính trị” của một tổ chức, một lực lượng, là nói đến tính giai cấp mà tổ chức, lực lượng đó quán triệt và thực hiện trong thực tiễn xây dựng về mặt tư tưởng, tổ chức và thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. 

Với tư cách là một bộ phận của nhà nước, quân đội của bất cứ xã hội nào cũng đều phụ thuộc vào đường lối chính trị của giai cấp cầm quyền; đồng thời, các lực lượng chính trị cầm quyền bao giờ cũng tìm mọi cách để nắm chắc quân đội thông qua nhiều biện pháp về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chính sách. Do vậy, ngay từ khi xuất hiện, quân đội đã “thấm đẫm” thứ chính trị của nhà nước và giai cấp nắm giữ quyền lực trong xã hội; không có và không thể có thứ quân đội “trung lập về chính trị”, hay “đứng ngoài chính trị” như giai cấp tư sản thường tuyên truyền, nhằm che giấu bản chất giai cấp của quân đội các nước tư bản. 

Phê phán sự che giấu bản chất giai cấp của quân đội tư sản. V.I.Lênin đã thẳng thừng vạch rõ: “Không lôi kéo quân đội vào chính trị - đó là khẩu hiệu của bọn tôi tớ giả nhân giả nghĩa của giai cấp tư sản và của chế độ Nga hoàng, bọn này trong thực tế bao giờ cũng đã lôi kéo quân đội vào chính trị phản động”. Công khai bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang cách mạng, V.I.Lênin đề ra nguyên tắc xây dựng Hồng quân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. 

Vận dụng sáng tạo tư tưởng của V.I.Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, ngay từ năm 1930, trong Chánh cương vắn tắt của Đảng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - đã yêu cầu phải “Tổ chức ra quân đội công nông” và trong suốt quá trình tổ chức xây dựng, lãnh đạo, giáo dục Quân đội ta, Người luôn nhắc nhở: “Quân đội ta có sức mạnh vô địch, vì nó là một quân đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh đạo và giáo dục”; do đó, “Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội. Phải tăng cường giáo dục chính trị để nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho toàn quân”.
 
Từ góc độ thực tiễn của thế giới cũng cho thấy, từ trước đến nay không có quân đội của quốc gia nào “trung lập về chính trị” hay “đứng ngoài chính trị”; bởi đây là công cụ bạo lực vũ trang bảo vệ thể chế chính trị của lực lượng chính trị thắng thế cầm quyền duy trì. Không khó để nhận thấy sự tham chính của quân đội nhiều nước, khi người ta vẫn chứng kiến các vụ đảo chính quân sự ở nước này, nước khác, nhất là ở châu Á, châu Phi trong những năm gần đây. Ở các nước Mỹ, Anh, Pháp... quân đội không chỉ được dùng vào nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia, dân tộc, mà còn được dùng vào các hoạt động xâm lược, lật đổ, can thiệp quân sự vào các quốc gia có chủ quyền khác, nhằm mục tiêu chính trị là dựng lên ở đây các chính phủ thân phương Tây; thực chất là để phục vụ đường lối đối nội và đối ngoại của các đảng chính trị cầm quyền, mà suy cho cùng là phục vụ lợi ích của các thế lực tư bản độc quyền đứng đằng sau các chính phủ đương nhiệm. Chỉ tính từ năm 1990 đến nay, quân đội Mỹ đã liên tục can dự vào đời sống chính trị của các nước và các khu vực, kể cả tiến hành chiến tranh, như: ở vùng Vịnh Pec-xích năm 1991, Nam Tư năm 1999, Áp-ga-ni-xtan năm 2001, I-rắc năm 2003, Li Bi năm 2011, v.v. 

Nhìn vào thực tiễn lịch sử cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta chống lại ách nô dịch của thực dân Pháp, phát xít Nhật và đế quốc Mỹ cũng thấy rất rõ quân đội các nước này không bao giờ “trung lập về chính trị”, nhất là khi các quân nhân của họ được giáo dục “sứ mệnh” đến Việt Nam để “ngăn chặn làn sóng chủ nghĩa cộng sản lan ra toàn khu vực Đông Nam Á” (!).
 
Cũng cần thấy rằng, ở các nền chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, bất cứ đảng chính trị nào khi cầm quyền cũng tìm mọi cách để nắm quân đội; bởi khi nắm được quân đội, thì việc duy trì quyền lực của đảng đó sẽ thuận lợi hơn. Tuy vậy, khi mà sự tranh giành quyền lực giữa các đảng chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị, thì thường xuất hiện lời kêu gọi “quân đội trung lập về chính trị”, nhưng trong thực tế, các đảng đều tìm sự hậu thuẫn từ quân đội. 

Cán bộ, chiến sĩ Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 3 của Việt Nam trước giờ xuất quân làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.(Ảnh:vnpkc.gov.vn/)

Cán bộ, chiến sĩ Bệnh viện dã chiến cấp 2 số 3 của Việt Nam trước giờ xuất quân làm nhiệm vụ gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.(Ảnh:vnpkc.gov.vn/)

Thực tiễn lịch sử của cách mạng Việt Nam cũng chứng minh: Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời từ các phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng, được Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức, lãnh đạo và giáo dục để giành và giữ chính quyền cách mạng; nên bản thân nó đã là một lực lượng chính trị. 

80 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam đã chứng minh rõ một thực tiễn lịch sử: Quân đội ta luôn là lực lượng chính trị trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và nhân dân. Điều đó được thể hiện trước hết ở sự thống nhất về mục tiêu chiến đấu của Quân đội với mục tiêu chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Vì thế, trái với sự hô hào “quân đội phải trung lập về chính trị”, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, thực hiện chiến đấu thắng lợi. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã nhiều lần nhấn mạnh sự cần thiết phải chăm lo xây dựng Quân đội vững về chính trị. Người căn dặn: “Một quân đội văn hay võ giỏi, là một quân đội vô địch”(6) và “Muốn cho quân đội ta quyết chiến quyết thắng hơn nữa thì phải săn sóc đời sống vật chất của họ, nâng cao trình độ chiến thuật và kỹ thuật của họ, nhất là giáo dục chính trị, làm cho có lập trường vững chắc, lập trường quân đội của nhân dân do giai cấp công nhân lãnh đạo”. Trong lần về thăm Trường Chính trị trung cấp quân đội (nay là Học viện Chính trị) ngày 25/10/1951, Người nhắc nhở các học viên: “Phải cố gắng học tập về mọi mặt chính trị, quân sự. Phải học tập chính trị: Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”.
 
Xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, mà cốt lõi là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chăm lo xây dựng bản chất giai cấp công nhân gắn liền với xây dựng tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội ta là một bài học thành công của Đảng Cộng sản Việt Nam và của Lãnh tụ Hồ Chí Minh trong việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở một nước có nền kinh tế chậm phát triển. Lịch sử cách mạng Việt Nam đã kiểm nghiệm và khẳng định tính đúng đắn của bài học đó. Ngay từ ngày đầu thành lập, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã được tổ chức theo mô hình có chi bộ Đảng lãnh đạo; bên cạnh người đội trưởng, có một cán bộ chính trị chuyên làm công tác chính trị theo đường lối của Đảng.

Nhờ chăm lo xây dựng vững mạnh về chính trị, mà trước hết là giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình trong mọi giai đoạn cách mạng, xứng đáng với lời tuyên dương (năm 1964) của Bác: “Quân đội ta trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”.
 
Đấu tranh vạch trần sự lừa bịp của luận điểm “Quân đội phải trung lập về chính trị” và tăng cường các biện pháp xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ với nhau trong quá trình xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đó là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng, trước hết là sự nỗ lực của bản thân cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta./. 

ST.

Gốc rễ để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng

Để công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thực sự có hiệu quả, cần xuất phát từ lòng yêu nước chân chính, với niềm tin vào thắng lợi và góp phần tri ân những người đã cống hiến, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc; tuyệt đối tránh hiện tượng chiếu lệ, hình thức, nói không đi đôi với làm.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

LÒNG YÊU NƯỚC, NIỀM TIN THẮNG LỢI - GỐC RỄ LÂU BỀN TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, hồn cốt tạo nên những thắng lợi vĩ đại, có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam bắt nguồn từ ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi lẽ, từ nền tảng tư tưởng đó, Đảng ta phát triển, vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, đề ra đường lối phù hợp, đúng đắn; cụ thể hóa trong chính sách, pháp luật của Nhà nước; từng bước đi vào vào quần chúng nhân dân thông qcông tác tư tưởng, biến thành hành động cách mạng thiết thực, hiệu quả, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát: “...Trong mấy mươi năm khi chưa có Đảng, tình hình đen tối như không có đường ra. Từ ngày mới ra đời, Đảng ta liền giương cao ngọn cờ cách mạng, đoàn kết và lãnh đạo toàn dân ta tiến lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Màu cờ đỏ của Đảng chói lọi như mặt trời mới mọc, xé tan cái màn đêm đen tối, soi đường dẫn lối cho nhân dân ta vững bước tiến lên con đường thắng lợi”.

Vậy nên, để tiếp tục giành thắng lợi và bảo vệ vững chắc những thành quả cách mạng, tất yếu phải bảo vệ Đảng. Muốn bảo vệ Đảng, trước hết phải bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, gắn công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng với bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Suy cho cùng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ chính là bảo vệ cuộc sống, văn hóa, con người, cốt cách, trí tuệ Việt Nam. Trách nhiệm bảo vệ Đảng, Nhà nước, chế độ, bảo vệ thành quả cách mạng không chỉ là việc của cán bộ, đảng viên mà là của mọi tầng lớp nhân dân.

Sự thâm độc của các thế lực phản động, thù địch là dùng mọi thủ đoạn tấn công vào “cái gốc”, tức là chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng ta hòng thủ tiêu vai trò lãnh đạo, triệt tiêu con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Từ đó, chúng xuyên tạc Cương lĩnh chính trị, chủ trương, đường lối của Đảng; phủ nhận vai trò lãnh đạo, công lao, đóng góp của Đảng; đòi đổi tên Đảng, kêu gọi “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập”, “phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi thực hiện cạnh tranh chính trị, thiết lập chế độ đa đảng”Cùng với đó là sự xuyên tạc, phủ nhận thắng lợi, thành tựu cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng; khoét sâu sai lầm, khuyết điểm, hạn chế, thiếu sót của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng; xuyên tạc đoàn kết nội bộ và bôi nhọ thân thế, sự nghiệp, đời tư của lãnh đạo Đảng, Nhà nước. Do đó, Đảng ta đã xác định, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân mà tuyên giáo là lực lượng nòng cốt; đồng thời là công việc tự giác, thường xuyên của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội và của từng địa phương, cơ quan, đơn vị, cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu.

Nhiệm vụ cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay càng đòi hỏi phải bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, vì những lý do sau: 1) xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác nay đối với xây dựng Đảng và đối với quá trình xây dựng đất nước; 2) xuất phát từ sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch; 3) xuất phát từ bài học kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, đặc biệt là từ sự tan rã, sụp đổ của mô hình XHCN ở Liên Xô và Đông Âu; 4) xuất phát từ thực tế ở trong nước, một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo dức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Song, để công tác này có hiệu quả, cần xuất phát từ trái tim yêu nước, có niềm tin chiến thắng, với trách nhiệm bảo vệ giống nòi, giang sơn gấm vóc Việt Nam, chứ không phải bằng mệnh lệnh, gượng ép, đối phó. Một khi cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu được như vậy, tích cực hành động bằng trái tim tin tưởng, trách nhiệm, nhiệt huyết, chắc chắn nền tảng tư tưởng của Đảng luôn được bảo vệ vững chắc.

Rọi chiếu vào lịch sử cách mạng Việt Nam, toát lên chân lý: muốn có chiến thắng, tất yếu phải có niềm tin vào chiến thắng và khi đó mới có sự đồng tâm hợp lực hành động muôn người như một, cống hiến, hy sinh bằng chính sự “chỉ đường dẫn lối” của trái tim yêu nước chân chính. Chính niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào sự nghiệp chính nghĩa của dân tộc, vào sự lãnh đạo sáng suốt, tài trí của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh là cội nguồn sức mạnh bao trùm, kết nối không gian, vượt qua thời gian, tạo sự bền bỉ, kiên cường, khắc phục mọi khó khăn, thử thách, làm nên thắng lợi vĩ đại. Chính nhờ có niềm tin đã tạo nên những trái tim nhiệt huyết, thôi thúc bản lĩnh, bất chấp hy sinh, gian khổ để xông pha vào các cuộc trường chinh ròng rã gần 100 năm chống ách thống trị của thực dân Pháp, phát xít Nhật và can thiệp của Mỹ; 21 năm chống ách thống trị thực dân kiểu mới và chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ cùng bè lũ tay sai. Niềm tin ấy chính là cội nguồn sức mạnh bất diệt, nguồn cảm hứng, động viên lớp lớp thanh niên lên đường bảo vệ Tổ quốc với tinh thần “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là chiến thắng của trí tuệ, bản lĩnh, niềm tin sắt đá vào thắng lợi của sự nghiệp toàn dân kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Chính sức mạnh của niềm tin đã chiến thắng sức mạnh của vũ khí, đô la của kẻ thù. Nhà báo Duylơrannút từng viết: “Trong thế kỳ XX, chính vật chất là sức mạnh của thời đại. Thời đại có nhiều tên gọi: Thời đại năng lượng nguyên tử, thời đại phản lực, thời đại điều khiển học, thời đại chinh phục vũ trụ, thời đại thông tin hóa. Dù đặt tên cho thiết bị nào thì người Mỹ đều có và người Việt Nam đều không có. Sức mạnh duy nhất của người Việt Nam lúc đó là sức mạnh của con người, của niềm tin chiến thắng”. Niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước là tâm điểm tập hợp, gắn kết cả dân tộc thành một khối thống nhất. Niềm tin này cũng thức tỉnh nhân loại yêu chuộng hòa bình và công lý luôn sát cánh, ủng hộ chính nghĩa của dân tộc Việt Nam.

Trong công cuộc bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng hôm nay, luôn cần có và phải có niềm tin ở cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là những người trong bộ máy trực tiếp làm công tác này (Nhóm chuyên gia, Ban Chỉ đạo, Tổ Thư ký giúp việc, Cộng tác viên...). Mỗi khi chúng ta có niềm tin vào thắng lợi, ắt sẽ có cách thức tiến hành để đạt đích thắng lợi. Một khi có niềm tin và trái tim yêu nước chân chính thì lập trường sẽ không dao động, tâm không gợn sóng, hành động không gượng gạo, không chạy theo phong trào và thành tích, càng không vì đối phó, hình thức, mệnh lệnh. Đó chính là gốc rễ đem lại kết quả tích cực, lâu bền trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

TRI ÂN - MỘT TRÁCH NHIỆM TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Sự nghiệp cách mạng Việt Nam đã để lại nhiều tấm gương chiến đấu, hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân, trở thành bài học, nêu gương cho các thế hệ người Việt. Từ những ngày Đảng mới thành lập, các đảng viên nhiệt huyết cách mạng cùng với nhân dân vượt qua gian khó, luôn tin tưởng vào thắng lợi ở ngày mai; không chỉ tin vào chiến thắng ngoại xâm mà cái đích cao cả là niềm tin và chiến đấu cho lý tưởng cộng sản - thực hiện khát vọng công bằng, bình đẳng, nhân văn. Những tấm gương chiến đấu, hy sinh của Tổng Bí thư Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ; các đồng chí Lê Hồng Phong, Nguyễn Thị Minh Khai, Võ Văn Tần, Hoàng Văn Thụ, Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi... luôn soi sáng lý tưởng cách mạng cho hậu thế, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên giai đoạn hiện nay tự soi mình, rèn mìnhsửa mình, phấn đấu phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân.

Trong khi phần đông ra sức tu dưỡng, rèn luyện, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, góp sức xây dựng Đảng, đổi mới đất nước thì một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, tha hóa, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí có người quay lưng hại Đảng, phản bội nhân dân, phỉ báng quá khứ, làm nhục quốc thể. Lại có những cán bộ, đảng viên vun vén tư lợi, chạy chức, chạy quyền vì mục đích trục lợi cá nhân; có biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền với cấp dưới, với đồng nghiệp và nhân dân... Những hành động đó làm ảnh hưởng đến uy tín, thanh danh của Đảng; ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân với Đảng và chế độ; làm tổn hại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN mà nhiều thế hệ cán bộ, đảng viên, nhân dân dày công gây dựng, vun đắp.

Để có độc lập, tự do của Tổ quốc và cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân hôm nay, đã có bao lớp tiền bối xông pha, cống hiến, chiến đấu, hy sinh. Lịch sử cách mạng Việt Nam được bồi đắp, tô thắm bởi những chiến công và sự hy sinh của các bậc tiền nhân, trong đó có những cán bộ, đảng viên. Pho sử bằng vàng đó thể hiện phong phú, sinh động cuộc đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân ta. Những giá trị đó thẩm thấu trong tiến trình lịch sử Đảng, trở thành chân lý, niềm tin, tự hào, lòng biết ơn của nhân dân đối với Đảng, của hậu thế đối với tiền nhân.

Do vậy, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, không đơn thuần là bảo vệ cho hiện tại mà còn là bảo vệ thành quả của quá khứ và tạo sự vững bền ở tương lai. Bởi lẽ, “Ăn quả phải nhớ người trồng cây. Trong cuộc tưng bừng vui vẻ hôm nay, chúng ta phải nhớ đến những anh hùng, liệt sĩ của Đảng ta, của dân ta... Sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do. Nhân dân ta đời đời ghi nhớ công ơn các liệt sĩ và chúng ta phải luôn luôn học tập tinh thần dũng cảm của các liệt sĩ để vượt tất cả mọi khó khăn, gian khổ, hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà các liệt sĩ đã chuyển lại cho chúng ta”.

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Từ đó, những lúc bản thân phải gánh vác nhiều công việc, có thể chịu mệt nhọc hơn, hoặc thiệt thòi trong cất nhắc, đề bạt, bổ nhiệm; hoặc bị non kém hơn về quyền lợi, bổng lộc thì vẫn vui vẻ, với tâm niệm đóng góp của bản thân chưa xứng đáng với những đồng chí đã cống hiến, hy sinh. Nếu gặp nghịch cảnh nào đó của thực tế, bản thân có thể chạnh lòng, nhưng không được phép hụt hẫng, nhụt ý chí phấn đấu, mà cần có suy nghĩ tích cực, vượt qua để góp phần tri ân những người đã chiến đấu, hy sinh cho độc lập, tự do của Tổ quốc, vì ấm no, hạnh phúc của nhân dân; luôn xác định làm việc là vì trách nhiệm tri ân, chứ không phải vì để được tôn vinh thành tích cá nhân. Theo đó, tích cực bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cũng là một cách thức góp phần trả ơn người đã cống hiến, hy sinh vì sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Trái tim nhiệt huyết, niềm tin vững chắc và lòng tri ân chân thành, sâu sắc chính là gốc rễ quan trọng, góp phần quyết định, đem lại kết quả tích cực trong cuộc đấu tranh bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay. Đó cũng là tiền đề, điều kiện tiên quyết, cơ sở để thực hiện “khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”(7) theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng, để “xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”./.

ST.