Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2024

Nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái về chính sách hòa hợp dân tộc của Việt Nam

Hòa hợp dân tộc ở Việt Nam là một trong những truyền thống nhân văn, thể hiện ý nghĩa về sự đoàn kết và không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội. Thời gian qua, tiếp tục giữ vững và phát huy truyền thống dân tộc, Đảng và Nhà nước đã triển khai, áp dụng một cách khoa học, hiệu quả giá trị này; xem đây là một trong những yếu tố cấu thành khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nên sức mạnh tổng hợp giúp đất nước ngày càng phát triển. Tuy nhiên, với cái nhìn hạn hẹp, định kiến cùng những âm mưu phá hoại, các thế lực chống đối và thù địch vẫn thường xuyên tạc, phủ nhận chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng và Nhà nước ta.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

NHẬN DIỆN CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC, PHỦ NHẬN VỀ HÒA HỢP DÂN TỘC

Hiện nay, các thế lực chống đối và thù địch thường xuyên đưa ra các quan điểm sai trái, xuyên tạc và phủ nhận về chính sách hòa hợp dân tộc của Đảng, Nhà nước ta. Bên cạnh các tài liệu, văn bản phát tán trái phép, họ đã tận dụng triệt để sự phát triển của công nghệ số mà điển hình là dùng Internet để chống phá. Thông qua một số website, các mạng xã hội, các ứng dụng (app) chạy trên nền tảng điện thoại thông minh…, các thế lực thù địch đã tăng cường xuyên tạc, bóp méo về chính sách hòa hợp dân tộc của Việt Nam.

Có thể nhận diện các quan điểm, luận điệu sai trái xuyên tạc và phủ nhận về hòa hợp dân tộc qua các nhóm vấn đề sau:

Thứ nhất, các thế lực chống đối và thù địch cho rằng ở Việt Nam không có hòa hợp dân tộc thực sự vì xã hội Việt Nam luôn có sự bất đồng và mâu thuẫn giữa các tộc người với nhau, đặc biệt là mâu thuẫn giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số, giữa người Công giáo và phần còn lại của dân tộc...

Đặc điểm chung của các bài viết này là đưa ra những những nhận định, những quan điểm hồ đồ và hết sức phiến diện, kiểu như “Chúng ta cần hòa giải giữa các sắc tộc thiểu số và người Kinh. Chúng ta cần hòa giải giữa người Nam và người Bắc. Chúng ta cần hòa giải giữa người Công giáo và phần còn lại của dân tộc, nhất là với Phật giáo. Chúng ta cần hòa giải giữa cộng đồng người Việt hải ngoại với đất nước...”“vấn đề hoà giải, hoà hợp vẫn còn nhức nhối”“có lẽ dân tộc Việt Nam sẽ cần đến 50 năm nữa mới có thể chữa lành”“hòa giải và hòa hợp dân tộc vẫn chưa thực hiện được tại Việt Nam” (!?)

Thứ hai, họ cho rằng các chính sách, luật pháp về hòa giải, hòa hợp dân tộc ở Việt Nam hiện nay là “đãi bôi”, “con đường nửa vời”; Đảng và Nhà nước Việt Nam không có thiện chí trong quá trình hòa hợp dân tộc.

Với quan điểm này, họ đưa ra những bài viết cực đoan để phủ nhận chính sách, pháp luật về hòa giải, hòa hợp dân tộc cũng như luôn nghi ngờ về thiện chí của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta. Ngụy biện hơn, họ rêu rao rằng: “đa số người dân cả trong và ngoài nước đều cho rằng không thể có hòa hợp, hòa giải với chính sách hiện nay của chính phủ dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản...”(!?).

Thứ ba, họ tự nhận mình là “người đại diện” cho “nguyện vọng của đa số” để tuyên truyền đề xuất cho cái gọi là “phương cách hòa hợp”.

Để cổ súy cho luận điệu này, trên một số website hải ngoại, với những bài viết công kích, xuyên tạc, các thế lực chống đối và thù địch cho rằng chỉ có họ mới có thể đưa ra cách hiểu đúng cho hòa giải, hòa hợp dân tộc: “Hòa giải và hòa hợp dân tộc cũng là một trong ba lập trường căn bản của tập hợp dân chủ đa nguyên”(!?) và vu khống: “có sự thiếu tin tưởng vào thực tâm và thiện chí muốn hòa giải của các bên”... Những người này cũng tự huyễn hoặc cho mình cái quyền “đại diện” để đề ra “phương cách song phương và đơn phương để tiến hành hòa giải hòa hợp. Theo đó, “phương cách song phương là “đại diện hai bên Việt Nam và Việt Quốc ngồi lại với nhau để cùng giải quyết mâu thuẫn căn bản (!?)”; còn “Phương cách đơn phương” là yêu cầu đảng và nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay phải “thực tâm, có thiện chí” (!?)...

Thứ tư, lợi dụng tính chất dễ dàng tìm kiếm, dễ truy cập của mạng Internet, các thế lực chống đối và thù địch đã thường xuyên dẫn lại, cố tình chỉnh sửa (edit) các thông tin một cách bừa bãi mà không có và không cần nguồn kiểm chứng nhằm phá hoại, xuyên tạc. Theo số liệu thống kê, các thế lực thù địch đã “sử dụng khoảng 50 đài phát thanh, truyền hình, gần 400 tờ báo, tạp chí tiếng Việt, trong đó có khoảng 10 tờ có nội dung rất phản động, 66 nhà xuất bản để tuyên truyền, chống phá cách mạng Việt Nam…”(1).

Thứ năm, họ cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn cấm đoán và hạn chế các nghiên cứu về văn hóa, văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975. Vì thế vẫn chưa có sự hòa giải, hòa hợp dân tộc (!?).

Để minh họa cho luận điệu trên, các thế lực chống đối và thù địch cố tình căn cứ vào một số quy định mà Đảng và Nhà nước ta ban hành trong giai đoạn 1975-1985 và chủ ý lờ đi những đổi mới trong lý luận và thực tiễn, cũng như những thành tựu từ 1986 đến nay, từ đó khẳng định: hiện nay Việt Nam vẫn cấm đoán và hạn chế các nghiên cứu về văn hóa, văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975...

SAI LẦM CỦA CÁC QUAN ĐIỂM, LUẬN ĐIỆU SAI TRÁI VỀ HÒA HỢP DÂN TỘC

Nhìn chung, dù được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau nhưng tựu trung, các quan điểm sai trái trên đều nhằm cùng mục đích: cố tình xuyên tạc, bôi nhọ chính sách hòa hợp của Đảng và Nhà nước ta, qua đó hòng kích động, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, thay đổi và phá hoại sự ổn định chính trị - xã hội và cuối cùng là đòi đa nguyên đa đảng.

Qua nhận diện các quan điểm, luận điệu sai trái, xuyên tạc về hòa hợp dân tộc, chúng tôi xin làm rõ các nội dung sau:

Thứ nhất, sai lầm khi cho rằng ở Việt Nam không có hòa hợp dân tộc thực sự

Thực tiễn cho thấy, trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, nhất là từ khi có Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, ở Việt Nam không có sự bất đồng và mâu thuẫn giữa các tộc người với nhau, đặc biệt là giữa người Kinh và các dân tộc thiểu số.

Chúng ta biết rằng, mâu thuẫn hoặc xung đột tộc người, tôn giáo thường bắt nguồn từ sự khác biệt về hệ tư tưởng, lợi ích (kinh tế) và cả những khác biệt văn hóa… giữa các tộc người, tôn giáo. Tuy nhiên điều này chỉ đúng ở tầm bao quát chung của nhân loại, hoặc đã và đang diễn ra ở một số nước, khu vực trên thế giới. còn ở Việt Nam lại hoàn toàn khác. Trải qua suốt chiều dài lịch sử, Việt Nam cũng đã có những xung đột hoặc cuộc chiến xảy ra (ví dụ như sự chuyển tiếp, thay thế quyền lực giữa các vương triều: Đinh, Lý, Trần, Hồ, Lê…; phân tranh Trịnh - Nguyễn; Đàng Trong - Đàng Ngoài…) nhưng các cuộc chiến, xung đột này (bao gồm những liên minh và đối địch, tạm thời hay lâu dài) không phải là xung đột hoặc chiến tranh mang màu sắc thanh trừng sắc tộc, tôn giáo mà chỉ là các cuộc chiến, xung đột dựa trên quyền lợi thiết thân với tính chất chuyển giao hoặc thôn tính quyền lực, lợi ích được thực hiện bởi các vua, chúa; ở mỗi bên “tham chiến”, đội quân thường là sự tập hợp lực lượng bao gồm những người cùng chung mục đích về lợi ích kinh tế, quyền lợi hay địa vị xã hội... được xuất thân từ nhiều thành phần dân tộc, tầng lớp xã hội khác nhau.

Hiện nay, Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng chung sống lâu đời, trong đó có 53 dân tộc thiểu số, với hơn 14 triệu người (chiếm khoảng 14,7% dân số cả nước)(2). Mặc dù người Kinh là dân tộc chiếm đa số, nhưng thực tế cho thấy dưới sự lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước, vai trò và tham gia vào bộ máy chính quyền cũng như những đóng góp vào đời sống xã hội của người dân tộc thiểu số ngày càng được đảm bảo. Đơn cử như trong Quốc hội, số lượng đại biểu Quốc hội người dân tộc thiểu số ở Việt Nam đã tăng dần theo các khóa: Khóa I: 10,2%, khóa XIII: 15,6%, khóa XIV: 17,3%, khóa XII: 17,7%, khóa XV: 17,84%.

Trong quan hệ tôn giáo, thực tiễn cũng đã chứng minh Việt Nam là một quốc gia đa tín ngưỡng, đa tôn giáo và không có sự mâu thuẫn hoặc xung đột giữa các tôn giáo, tín ngưỡng; các tôn giáo ở Việt Nam luôn được tôn trọng, bình đẳng, không bị phân biệt đối xử và được Nhà nước bảo hộ hoạt động bằng pháp luật; người dân được thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo… Điều này đã được kiểm chứng, thừa nhận bởi nhiều quốc gia, nhiều tổ chức tôn giáo lớn trên thế giới. Trong Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế - Việt Nam 2018 của Đại sứ quán và Tổng Lãnh sự quán Hoa Kỳ tại Việt Nam đã khẳng định: “Hiến pháp (của Việt Nam) quy định mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, bao gồm cả quyền tự do không theo một tôn giáo nào. (...) Hiến pháp quy định tất cả các tôn giáo đều bình đẳng trước pháp luật và nhà nước phải tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Hiến pháp cấm công dân vi phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật” và “Việt Nam là thành viên của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị”.

Trong sinh hoạt, vào những ngày lễ lớn của các tôn giáo ở Việt Nam (Phật giáo, Công giáo, Tin Lành, Cao Đài, Hòa Hảo, Hồi giáo...), lãnh đạo Đảng và Nhà nước đều tới thăm, chúc mừng và cùng các tôn giáo hướng tới lẽ sống “tốt đời đẹp đạo”. Đặc biệt, với đặc tính dung hòa sẵn có của đời sống văn hóa Việt Nam, trong hầu hết các lễ hội tôn giáo, ngoài sự hiện diện của tín đồ, còn có rất nhiều người dân, thậm chí là tín đồ của các tôn giáo khác cũng đến xem lễ, tham quan, du lịch, tìm hiểu văn hóa, tín ngưỡng…

Thứ hai, rất ấu trĩ khi cho rằng các chính sách, luật pháp về hòa giải, hòa hợp dân tộc ở Việt Nam hiện nay là “đãi bôi”, “con đường nửa vời”; Đảng và Nhà nước Việt Nam không có thiện chí trong quá trình hòa hợp dân tộc.

Phát huy truyền thống văn hóa dân tộc kết hợp thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh về đoàn kết dân tộc: “Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường, ta phải lấy tình thân ái mà cảm hóa họ. Có như thế mới thành đại đoàn kết, có đại đoàn kết thì tương lai chắc sẽ vẻ vang”(4), Đảng và Nhà nước ta đã ban hành các chính sách, luật pháp cùng những hành động thiết thực về hòa giải, hòa hợp dân tộc, có thể kể đến Nghị quyết số 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, Quy chế miễn thị thực cho người Việt Nam ở nước ngoài, Chỉ thị 45-CT/TW về việc tiếp tục đẩy mạnh thực hiện nghị quyết số 36-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa IX về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới... Đặc biệt, chính sách đối với người Việt Nam ở nước ngoài đã được Đảng cụ thể hóa vào các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, như: “đề cao tinh thần dân tộc, truyền thống yêu nước, nhân nghĩa, khoan dung để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước”(5)Hỗ trợ để người Việt Nam ở nước ngoài có địa vị pháp lý vững chắc, phát triển kinh tế và đời sống, hòa nhập xã hội nước sở tại”(6)“Làm tốt công tác bảo hộ công dân Việt Nam ở nước ngoài và tranh thủ tối đa nguồn lực người Việt Nam ở nước ngoài tham gia đóng góp phục vụ phát triển đất nước”(7)Các cơ quan chuyên trách về công tác người Việt ở nước ngoài (Ủy ban người Việt ở nước ngoài, Bộ Ngoại giao) cũng đã làm tốt công tác hòa hợp, hòa giải dân tộc thông qua giúp người Việt Nam ở nước ngoài ổn định cuộc sống, hội nhập vào xã hội sở tại, hướng về Tổ quốc…

Những lý lẽ nêu trên cho thấy: không hề có cái gọi là đãi bôi” hay con đường nửa vời” trong việc ban hành các chính sách, luật pháp về hòa giải, hòa hợp dân tộc của Việt Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn tỏ rõ thiện chí trong quá trình hòa hợp dân tộc. Trong đó, việc chủ động chào đón sự trở về của những kiều bào từng làm việc cho chế độ cũ, từng rời bỏ đất nước... là minh chứng tiêu biểu nhất. Trường hợp của nguyên Phó Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Cao Kỳ là một ví dụ điển hình. Trở về quê hương sau gần 30 năm xa xứ, ông đã khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc là chính sách đúng đắn của chính phủ Việt Nam, trong đó xem kiều bào ở nước ngoài là một bộ phận của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Hoặc như trường hợp của nguyên chuẩn tướng, quyền Tổng tham mưu trưởng Quân lực Việt Nam Cộng hoà Nguyễn Hữu Hạnh: Từ khi còn nắm giữ quyền lực trong chế độ cũ cho đến lúc qua đời (2019) tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhân sĩ Nguyễn Hữu Hạnh đã có những việc làm thiết thực, trở thành “một tấm gương tiêu biểu của những người Việt Nam chân chính, có tinh thần dân tộc và yêu nước, cho dù chỗ đứng ở đâu, cương vị thế nào vẫn luôn hướng về đất nước và dân tộc.

Không chỉ dang tay đón nhận những người con Việt Nam thiết tha thực tâm trở về với đất mẹ, Đảng và Nhà nước còn có những việc làm thiết thực, nhân văn để giúp đỡ, bảo hộ công dân đang sinh sống và làm việc ở nước ngoài. Việc hỗ trợ người bị nạn (bao gồm cộng đồng người Việt) trong cơn bão Katrina năm 2005 ở Mỹ; việc khuyến cáo và có những hành động kịp thời để bảo hộ công dân tránh khỏi những tổn thất về người và của trước những xung đột, biểu tình, đảo chính ở một số nước, khu vực; việc tiến hành đưa người Việt ở nước ngoài trở về Tổ quốc trước đại dịch COVID-19... đã chứng minh cho thiện chí hòa hợp và tinh thần “không ai bị bỏ lại phía sau”.

Thứ ba, hoàn toàn ngộ nhận và sai lầm khi các thế lực thù địch tự nhận mình là “người đại diện” cho “nguyện vọng của đa số” để tuyên truyền, đề xuất về cái gọi là “phương cách hòa hợp”.

Xét ở góc độ luật pháp, đại diện” là việc một người, một cơ quan, tổ chức nhân danh người, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lí trong phạm vi thẩm quyền đại diện. Quyền đại diện được xác lập theo sự ủy quyền, theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật… Trong hiến pháp và pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới, “đại diện” là một trong những chế định quan trọng được ghi nhận. Ví dụ như tại Mục 1, Điều 3 của Hiến pháp Nga: “Nhân dân Nga đa sắc tộc là đại diện cho chủ quyền và là nguồn duy nhất của quyền lực ở Liên bang Nga”(10), hoặc trong Điều 135, Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam, “quyền đại diện” cũng được quy định rõ: “Quyền đại diện được xác lập theo ủy quyền giữa người được đại diện và người đại diện; theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, theo điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy định của pháp luật”(11)... Lấy cơ sở pháp lý làm căn cứ, chúng ta thấy những hoạt động (từ phát ngôn cho đến các hành động cụ thểcủa những người trong Việt Tân, Việt Quốc, Khối 8406Chính phủ quốc gia Việt Nam lâm thời... chỉ nhân danh cho chính bản thân họ hoặc cho một nhóm người “cùng chung tham vọng”; việc đưa ra các “tuyên ngôn” chẳng qua chỉ là chiêu bài lừa mị những người nhẹ dạ cả tin, những người đã lâu không có điều kiện nắm bắt tình hình trong nước...; các bài viết đăng tải trên Internet của họ chỉ thể hiện quan điểm cá nhân, nhóm người và hoàn toàn không phải là quan điểm đại diện cho nhân dân Việt Nam. Đặc biệt, những người này không có bất kỳ cơ sở pháp lý nào (sự ủy quyền, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, điều lệ pháp nhân, quy định của pháp luật…) để có thể “đại diện” cho số đông hay “nguyện vọng của đa số”, nhất là khi nguyện vọng của đa số ở đây không phải là mong ước chính đáng, phù hợp của tất cả các tầng lớp nhân dân  các tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam, mà chỉ là tham vọng của một nhóm người mang mưu đồ ích kỷ, xấu xa.

Khi đã không có cơ sở pháp lý để “đại diện” cho “nguyện vọng của đa số” thì cái gọi là “phương cách hòa hợp” cũng chỉ là viển vông. Đối với những kẻ không có tư cách đại diện, lại thường xuyên sử dụng các hành động khủng bố thì dĩ nhiên các “phương cách hòa hợp” chỉ đơn thuần là một cách diễn đạt nhằm đánh tráo khái niệm, và mục đích chính là nhằm lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩacuối cùng là đòi đa nguyên đa đảng tại Việt Nam.


Với sự phát triển của khoa học k thuật hiện nay, nhất là khi nhân loại đã bước vào kỷ nguyên số thì việc dẫn nguồn, biên tập lại một cách méo mó thông tin sớm muộn cũng sẽ bị phát hiện, tẩy chay. Trong khi đó, chỉ cần lướt qua trên Internet, người ta rất dễ tìm được những thông tin đã được kiểm chứng rõ ràng. Ví dụ như các chương trình “Xuân Quê hương”, “Trại hè dành cho thanh thiếu niên người Việt ở nước ngoài”… mà chúng ta đã và đang tiến hành đã được rất nhiều hãng thông tấn báo chí, các website trên thế giới thừa nhận và đăng tải. Mặt khác, tình trạng tin giả hiện nay cũng đã được hầu hết các tổ chức, quốc gia cảnh báo và bài trừ. Về vấn đề này, xin dẫn lại một khuyến nghị trên Trang tin tức của Tòa thánh Vatican (Vatican News) trong việc cảnh báo những tin giả (fake new) âm mưu chia rẽ sự đoàn kết về tôn giáo (trong đó có Công giáo) ở Việt Nam như sau: “Trong thời đại hiện nay, Internet nói chung và mạng xã hội nói riêng là mảnh đất tốt để chúng ta có thể thực hiện việc loan báo Tin Mừng. Tuy nhiên, nó đồng thời cũng là mảnh đất màu mỡ cho những thông tin “phản - Tin Mừng” phát triển, nhưng lại mạo danh hay núp dưới danh nghĩa của Giáo hội Công giáo. Trong hoàn cảnh ở Việt Nam, điều này vô cùng nguy hiểm!”.

Thứ năm, sai lầm khi cho rằng Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn còn cấm đoán và hạn chế các nghiên cứu về văn hóa, văn học miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 để quy chụp rằng chưa có sự hòa giải, hòa hợp dân tộc.

Thời gian qua, đặc biệt là từ những năm ‘80 của thế kỷ XX trở lại đây, việc nghiên cứu văn hóa, văn học miền Nam giai đoạn 1954-1975 đã có nhiều chuyển biến, cởi mở, “quan điểm chính thức được khẳng định hiện nay là, ủng hộ việc đẩy mạnh nghiên cứu, chọn lọc phổ biến các giá trị đích thực của văn học nghệ thuật miền Nam trước 1975 trên tinh thần hòa hợp dân tộc để hàn gắn vết thương, đoàn kết mọi người cùng nhìn về một phía, thực hiện hòa hợp dân tộc bằng con đường văn hóa văn nghệ.”(13). Đặc biệt, trong nghiên cứu khoa học chuyên sâu, đã có nhiều luận văn, luận án, chuyên luận lấy văn hóa, văn học đô thị miền Nam (1954-1975làm đối tượng nghiên cứu, như: Khảo sát sự du nhập của phân tâm học và chủ nghĩa hiện sinh vào văn học đô thị miền Nam trước năm 1975 của Nguyễn Phúc (Luận án Tiến sĩ, 1995); Lý luận phê bình văn học ở đô thị miền Nam 1954-1975 của Trần Hoài Anh (Luận án Tiến sĩ, 2009); Vấn đề thân phận con người trong tiểu thuyết đô thị miền Nam 1954-1975 của Nguyễn Thị Việt Nga (Luận án Tiến sĩ, 2012); Con người và những giá trị văn hóa truyền thống trong văn xuôi đô thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 của Nguyễn Thị Thu Trang (Luận án Tiến sĩ2008); Đặc điểm tùy bút ở đô thị miền Nam (1954-1975) của Bùi Tiến Sỹ (Luận án Tiến sĩ, năm 2017)Toàn cảnh thơ Việt Nam 1945-1975 của Nguyễn Bá Thành (Nxb. Đại học Quốc gia, 2016); Những nguồn cảm hứng trong văn học của Huỳnh Như Phương (Nxb. Văn nghệ, 2009); Văn học Sài Gòn 1954-1975: Những chuyện bên lề của Lê Văn Nghĩa (Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh, 2020)... Ngoài ra, nhiều tác phẩm văn sử triết học cùng các công trình nghiên cứu có giá trị xuất bản trước 1975 ở miền Nam, nay cũng đã được công nhận và lưu hành... Như vậy, không có cái gọi là “tồn tại những cấm đoán” trong nghiên cứu khoa học về miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, có chăng, chỉ là sự cố tình dựng chuyện và sự vu khống của các thế lực thù địch.

Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai tốt đẹp là quan điểm hòa hợp, hòa giải nhân văn của bất cứ quốc gia tiến bộ nào trên thế giới. Với tư cách là một quốc gia có độc lập chủ quyền, có luật pháp và có vị thế quan trọng trên chính trường quốc tế, Việt Nam đã và đang làm tốt công tác hòa hợp dân tộc, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân. Tuy nhiên, hòa hợp không đồng nghĩa với xuyên tạc lịch sử, với vi phạm pháp luật. Chúng ta dang rộng vòng tay chào đón mọi người con Việt Nam từ khắp nơi trên thế giới trở về trong hòa bình, trở về với tâm thế xây dựng đất nước... nhưng chúng ta cũng cương quyết không chào đón, thậm chí phải loại bỏ những kẻ cơ hội, trở về nhằm mục đích chia rẽ, phạm pháp và phá hoại đoàn kết dân tộc./.

ST.

Phản bác luận điệu “thực chất Hồ Chí Minh là người dân tộc chủ nghĩa”

Cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang ngày càng ăn sâu, bám rễ vào đời sống tinh thần, tư tưởng của nhân dân Việt Nam, trở thành “kim chỉ nam” cho sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Trong khi đó, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị trong và ngoài nước lại dùng chiêu bài “hạ bệ thần tượng” để xuyên tạc, phủ nhận giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh. Luận điệu xuyên tạc được họ đưa ra trong thời gian gần đây là “thực chất Hồ Chí Minh là người dân tộc chủ nghĩa”.

NHẬN DIỆN “CHỦ NGHĨA DÂN TỘC” VÀ LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Theo Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học, “Chủ nghĩa dân tộc là tâm lý, hệ tư tưởng, thế giới quan và chính sách thích những dân tộc này hơn những dân tộc khác, tán dương dân tộc mình, gây căm thù dân tộc và thù hằn chủng tộc”. Theo đó, chủ nghĩa dân tộc được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chủ nghĩa sô-vanh nước lớn có tâm lý coi thường các dân tộc khác, tự cho mình quyền “khai hóa văn minh” cho các dân tộc nhỏ hơn hay chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, có khuynh hướng khép kín, không muốn mở rộng quan hệ với các dân tộc khác. Cả hai khung hướng này của chủ nghĩa dân tộc đều xa lạ với bản chất của giai cấp vô sản - giai cấp đại diện cho chủ nghĩa quốc tế vô sản. Do đó, về bản chất, chủ nghĩa dân tộc là thù địch với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản, với thế giới quan mácxít và mâu thuẫn với quá trình khách quan của sự phát triển. Đó là sự xích lại gần nhau của các dân tộc đi theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Là lãnh tụ của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, V.I.Lênin luôn phê phán những người cộng sản có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa. V.I.Lênin chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh chống những thành kiến dân tộc chủ nghĩa càng có ý nghĩa trọng đại khi vấn đề chuyển nền chuyên chính vô sản từ phạm vi quốc gia (tức là mới tồn tại ở trong một nước và không có khả năng quyết định được chính trị thế giới) thành chuyên chính vô sản trên quy mô quốc tế (tức là chuyên chính vô sản ít nhất cũng ở một số nước tiên tiến và có khả năng tác động quyết định đến toàn bộ chính trị thế giới), ngày càng trở nên bức thiết”. Quan điểm của V.I.Lênin đã cho thấy, những người theo chủ nghĩa cộng sản chân chính không thể có tư tưởng dân tộc chủ nghĩa.

Thế nhưng gần đây, các thế lực thù địch lại rêu rao rằng “thực chất Hồ Chí Minh chỉ là người dân tộc chủ nghĩa”. Họ cho rằng “chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi”; từ đó, quy chụp Hồ Chí Minh “là một người theo chủ nghĩa cộng hòa và chủ nghĩa hòa bình hơn là một người theo chủ nghĩa cộng sản”. Thậm chí, có những kẻ cơ hội chính trị còn cố tình quy chụp rằng trong bộ 15 tập Hồ Chí Minh có 17 lần nhắc đến cụm từ “chủ nghĩa dân tộc” nên cáo buộc rằng “Hồ Chí Minh đích thị là người theo chủ nghĩa dân tộc”!

Từ sự cáo buộc đó, một số phần tử phản động, cơ hội chính trị còn lên tiếng đối lập chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ cho rằng “bây giờ chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam hay “Chủ nghĩa Mác - Lênin là chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, thiên về đấu tranh giai cấp, đối lập với tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng đề cao đoàn kết và thống nhất; Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh”. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế chủ nghĩa Mác - Lênin!”. Thực chất của luận điệu này là nhằm chia rẽ chủ nghĩa Mác - Lênin với tư tưởng Hồ Chí Minh, phá vỡ phá vỡ từng bộ phận cấu thành trong nền tảng tư tưởng của Đảng, gây ra sự xáo trộn trong ý thức hệ của nhân dân.

CHỦ NGHĨA DÂN TỘC CHÂN CHÍNH TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Chủ nghĩa dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thực chất là chủ nghĩa dân tộc chân chính, mang bản chất của giai cấp vô sản. Từ năm 1924 , trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, tại mục D “Chủ nghĩa dân tộc”, Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên đề cập và khẳng định vai trò của chủ nghĩa dân tộc chân chính: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó dạy cho những người cu li biết phản đối; nó làm cho những người “nhà quê” phản đối ngầm trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi nghĩa năm 1917…”. Đây là chủ nghĩa dân tộc chân chính vì nó khơi dậy lòng yêu nước, trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc và trở thành động lực để các tầng lớp nhân nhân đứng lên đấu tranh chống lại những áp bức, bất công. Đây cũng chính là động lực to lớn để chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Ái Quốc lên tiếng đấu tranh ở nhiều diễn đàn quốc tế khác nhau nhằm đòi quyền lợi chính đáng cho dân tộc Việt Nam.

Thẻ đại biểu tư vấn cấp cho Nguyễn Ái Quốc để tham dự Đại hội lần thứ 5 Quốc tế Cộng sản tại Moskva (Liên Xô), từ ngày 17/6 - 8/7/1924. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Trong bài viết “Con đường dẫn tôi đến chủ nghĩa Lênin” đăng trên Báo Nhân dân (ngày 22/4/1960), Chủ tịch Hồ Chí Minh một lần nữa khẳng định một sự thật không thể xuyên tạc được, đó là: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba. Từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác-Lênin, vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ. Ở nước ta và ở Trung Quốc cũng vậy, có câu chuyện đời xưa về cái “cẩm nang” đầy phép lạ thần tình. Khi người ta gặp những khó khăn lớn, người ta mở cẩm nang ra, thì thấy ngay cách giải quyết. Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”(8). Lập luận trên của Hồ Chí Minh vừa cho thấy hành trình Người đến với chủ nghĩa Lênin, vừa khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin. Do đó, luận điệu cho rằng tư tưởng Hồ Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn toàn sai lầm, quy chụp.

Không chỉ vậy, bản thân Hồ Chí Minh cũng là người luôn đấu tranh chống lại những biểu hiện của chủ nghĩa dân tộc. Tại Hội nghị đại biểu các Đảng cộng sản và công nhân các nước xã hội chủ nghĩa họp ở Mát-xcơ-va họp từ ngày 14 đến 16/11/957, không ai khác và hơn ai hết, Hồ Chí Minh là người kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tư sản. Vì vậy, Người đã tán thành bản Tuyên bố chung của Hội nghị và nhấn mạnh thêm: “Bản Tuyên bố nhắc nhở chúng ta cần phải tăng cường giáo dục theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh chống những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, đặc biệt là chủ nghĩa xét lại”(9). Do đó, những kẻ cơ hội cố tình bóp méo, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin là nhằm “hạ bệ thần tượng”, chia rẽ phá vỡ từng bộ phận cấu thành trong nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

Khi cho rằng “Hồ Chí Minh thực chất là người dân tộc chủ nghĩa” là một cách diễn đạt thiếu chính xác, không đầy đủ. Cách diễn đạt này dù vô tình hay hữu ý đã bỏ qua tính giai cấp, làm mờ đi lập trường, quan điểm giai cấp của Hồ Chí Minh trong nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc ở Việt Nam. Với cách diễn đạt ấy đã tước bỏ tính đảng và lập trường cách mạng chân chính trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực chất là để phủ nhận tư tưởng của Người. Đúng như V.I.Lênin đã từng cảnh báo: “Chừng nào người ta chưa phân biệt được lợi ích của các giai cấp này hay giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị và xã hội, thì trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”. Do đó, chúng ta cần phải tỉnh táo trước những luận điệu cố tình bóp méo, xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh hay tinh vi hơn là lấy danh nghĩa đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp chủ nghĩa Mác - Lênin để đối lập, tách dời từng mảng trong nền tảng tư tưởng của Đảng.

BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

Trên hành trình tìm đường giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã kế thừa triệt để tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là vận dụng sáng tạo, bổ sung và làm phong phú thêm học thuyết Mác - Lênin “bằng dân tộc học phương Đông”. Từ trong bản chất của sự phát triển, tất cả các học thuyết chính trị nói chung mà học thuyết Mác - Lênin nói riêng đều rất cần đến sự bổ sung, phát triển cho phù hợp với thực tiễn ở từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Chính bản thân Hồ Chí Minh là người đã chứng kiến sự vận động không ngừng của cách mạng thế giới những năm đầu thế kỷ XX nên Người đã bổ sung vấn đề dân tộc thuộc địa - điều mà V.I.Lênin, đặc biệt là C.Mác và Ph.Ăngghen chưa thể hoặc chưa có điều kiện đề cập một cách sâu sắc.

Khi nghiên cứu chủ nghĩa Mác, Hồ Chí Minh nhận thấy: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Và “Dù sao thì cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được”, “xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông”. Việc bổ sung vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác bằng dân tộc học phương Đông - nơi mà có nhiều nước bị lệ thuộc và trở thành thuộc địa của các nước tư bản phương Tây đã làm cho vấn đề dân tộc trở nên phong phú hơn, đầy đủ hơn, toàn diện hơn. Đó là biểu hiện rõ ràng của tinh thần dân tộc vô sản, đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa và lệ thuộc.

Tháng 7/1920, sau gần 10 năm bôn ba tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã bắt gặp bản “Sơ thảo Luận cương về các vấn đề dân tộc và thuộc địa” của V.I.Lênin. Những tư tưởng về dân tộc, thuộc địa của V.I.Lênin như một ngọn đuốc soi đường cho Nguyễn Ái Quốc trên hành trình tìm kiếm con đường giải phóng dân tộc Việt Nam. Từ đây, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và hướng sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Điều đó giúp cho Nguyễn Ái Quốc ngày càng mạnh dạn nói lên tiếng nói của mình tại các diễn đàn quan trọng để lên tiếng ủng hộ phong trào cách mạng ở các dân tộc thuộc địa.

Đồng chí Nguyễn Ái Quốc (người đầu tiên bên trái, hàng ngồi) với một số đại biểu tham dự Đại hội lần thứ 5 Quốc tế cộng sản tại Moskva, từ 17/6 - 8/7/1924. (Ảnh: Tư liệu/TTXVN)

Khi vận dụng nội dung Luận cương của V.I.Lênin vào thực tiễn cách mạng ở thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy: “Cuộc đấu tranh cách mạng của công nhân các nước tư bản trực tiếp giúp cho các dân tộc bị áp bức tự giải phóng mình, vì cuộc đấu tranh đó đánh thẳng vào trái tim của bọn áp bức;... Trong khi đó, cuộc đấu tranh cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa lại trực tiếp giúp đỡ giai cấp vô sản các nước tư bản trong cuộc đấu tranh chống các giai cấp thống trị để tự giải phóng khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa tư bản. Sự nhất trí của cuộc đấu tranh chống đế quốc bảo đảm thắng lợi cho các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa và cho giai cấp vô sản ở các nước tư bản”. Đó là cơ sở để cách mạng vô sản ở các dân tộc thuộc địa có tính độc lập, chủ động không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, nó có thể nổ ra và thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc tiến lên. Đánh giá về sự bổ sung, vận dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh đối với quan điểm của V.I.Lênin về vấn đề dân tộc, đồng chí Phạm Văn Đồng đã khẳng định: “Luận điểm của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh mới mẻ đến kỳ lạ,... Nó nằm trong dòng sáng tạo cách mạng của những con người mà cống hiến lý luận và sự nghiệp đấu tranh vạch đường cho thời đại”.

Ngoài ra, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy rằng, cách mạng vô sản và độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển của dân tộc Việt Nam. Bởi lẽ, con đường này chẳng những giải phóng hoàn toàn dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa đế quốc, mà còn giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi mọi sự áp bức bóc lột, đi đến ấm no, hạnh phúc thực sự. Sự lựa chọn này vừa đáp ứng yêu cầu phát triển của dân tộc Việt Nam, vừa phù hợp với xu thế phát triển tất yếu của nhân loại và thời đại mới - thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội đã được mở ra, bắt đầu từ Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Với quan điểm độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, “Hồ Chí Minh là người tiên phong trong việc củng cố và bổ sung chủ nghĩa Mác - Lênin”./.

ST.

Phản bác luận điệu đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác - Lênin

Một trong những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động chống phá cách mạng Việt Nam là xuyên tạc, đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin.

Ảnh minh họa / Tuyengiao.vn

Ảnh minh họa / Tuyengiao.vn

Mục đích của chúng nhằm phá hoại, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh từ gốc rễ, qua đó tiến công trực diện vào một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 đã xác định “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Quan điểm này tiếp tục được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và được bổ sung tại Đại hội XII của Đảng: “Tư tưởng của Người, cùng với Chủ  nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta”. Việc khẳng định này cho thấy tầm quan trọng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và đối với nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng.

Thời gian qua, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn chính trị ra sức chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, trong đó chúng tìm mọi cách để đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin. Chúng quy kết Chủ tịch Hồ Chí Minh không tuân thủ đúng lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản: “Tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ là tư tưởng dân tộc, không theo Chủ nghĩa Mác-Lênin”; “Con đường Bác Hồ đã lựa chọn là con đường dân tộc, không phải chủ nghĩa xã hội” (!). Chúng còn cố ý minh họa bằng những những sự kiện lịch sử, như: Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương, giải quyết vấn đề dân tộc trước vấn đề giai cấp... nhằm củng cố những luận điệu xuyên tạc này.

Chủ tịch Hồ Chí Minh giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và giai cấp

Luận điệu xuyên tạc trên là vô căn cứ. Bởi lẽ, lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin đã chỉ rõ: “Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc”, vì thế, “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc. Cho nên, mấu chốt của cách mạng vô sản vẫn là giải quyết mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, dù cho quốc gia đó đã trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa hay chưa trải qua giai đoạn này. Ở các nước thuộc địa, nhiệm vụ trước mắt và quan trọng bậc nhất là thực hiện cách mạng giải phóng dân tộc giành lấy độc lập, quyền tự quyết dân tộc để làm cơ sở hiện thực làm cách mạng xã hội chủ nghĩa. Do vậy, cách mạng vô sản suy cho cùng cũng là vì quyền và lợi ích quốc gia, dân tộc; việc giải quyết vấn đề giai cấp không đứng trên lập trường lợi ích quốc gia, dân tộc sẽ không thể giải quyết triệt để các vấn đề đặt ra của cuộc cách mạng, đôi khi còn dẫn đến thất bại.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận thức, tiếp thu sâu sắc Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản. Người đã tích cực chuẩn bị tư tưởng chính trị, tổ chức, cán bộ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam năm 1930 và cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng Việt Nam giành lấy độc lập cho Tổ quốc, tự do cho dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới. Thắng lợi đó là do Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn giải quyết vấn đề dân tộc trước, sau đó giải quyết vấn đề giai cấp trên lập trường giai cấp vô sản, điều này đã thể hiện rõ nguyên tắc tôn trọng thực tiễn khách quan và bảo đảm tính lịch sử cụ thể của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Việc lựa chọn này không phải là sự ngẫu nhiên, “ăn may” mà là sự tìm tòi, phân tích thực tiễn cách mạng thấu đáo. Điều đó xuất phát từ tài năng, trí tuệ, sự nhạy bén chính trị và năng lực hoạt động thực tiễn vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Khi phân tích thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người chỉ rõ, Việt Nam xuất phát từ một nước phương Đông truyền thống, nền nông nghiệp lạc hậu, hơn 90% là nông dân, sự phân hóa giai cấp chưa sâu sắc, khi thực dân Pháp xâm lược thì nhiệm vụ nổi lên hàng đầu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, giành lấy độc lập dân tộc, tự do cho người dân, nên Người đã phê phán thẳng thắn quan điểm phiến diện, giáo điều, rập khuôn máy móc của một số người về giải quyết mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam: “Nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người đã khẳng định: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Người đã vận dụng lập trường, quan điểm và phương pháp cách mạng vô sản của Chủ nghĩa Mác-Lênin để nghiên cứu thực tiễn, tìm ra quy luật vận động và phát triển cách mạng Việt Nam bằng con đường cách mạng vô sản, qua đó khắc phục được khủng hoảng về con đường cứu nước, cứu dân tộc.

Những thành quả to lớn của cách mạng Việt Nam đạt được đã cho thấy những điều Người khẳng định là hoàn toàn đúng đắn, “Đảng ta nhờ kết hợp được Chủ nghĩa Mác-Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”, và sự thật là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã giành lại độc lập dân tộc, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa và đưa nước ta bước vào giai đoạn độc lập, tư do và phát triển.

Thực tế đó cho thấy, con đường cách mạng vô sản ở Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đường, dẫn lối là phù hợp với thực tiễn Việt Nam, đó là: Người đã đề ra nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên trước giải phóng giai cấp nhưng không đối lập giữa nhiệm vụ giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc mà kết hợp chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp để tiến tới giải phóng con người; Người chủ trương thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam thay vì thành lập Đảng Cộng sản Đông Dương vì nhiệm vụ cách mạng của mỗi nước Đông Dương khác nhau, điều kiện kinh tế, xã hội, văn hóa, dân tộc, con người mỗi nước có sự khác nhau.

Tư tưởng Hồ Chí Minh góp phần làm phong phú kho tàng lý luận Mác-Lê nin

Một trong những âm mưu, thủ đoạn thâm độc khác mà các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị còn lèo lái dư luận rằng “Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ phù hợp với phương Tây còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam”; “bây giờ Chủ nghĩa Mác-Lênin đã lỗi thời, không còn phù hợp với sự phát triển của lịch sử, chỉ có tư tưởng Hồ Chí Minh là đáng giá, là phù hợp với dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chỉ cần dựa vào tư tưởng Hồ Chí Minh và đề cao thành “chủ nghĩa Hồ Chí Minh” để thay thế Chủ nghĩa Mác-Lênin”(!).

Việc đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, hạ thấp Chủ nghĩa Mác-Lênin vô hình trung đã phủ định nguồn gốc hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ định tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại Đại hội lần thứ IX năm 2001 và Đại hội lần thứ XI của Đảng năm 2011, tư tưởng Hồ Chí Minh được khẳng định là “một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.

Sự khẳng định đó đã chứng minh tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết tinh giữa Chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam và phẩm chất, nhân cách của Người, cùng với truyền thống văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Không có Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là Chủ nghĩa Mác-Lênin mà là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa này vào giải quyết các vấn đề thực tiễn của cách mạng Việt Nam trên lập trường của cách mạng vô sản. Cho nên “không thể nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh mà hạ thấp, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin”.

Đối lập giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin là hoàn toàn sai trái, vô căn cứ, xuyên tạc lịch sử và logic vận động cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng vô sản thống nhất với nhau về mục tiêu, lý tưởng, đó là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Bản thân các nhà kinh điển mác-xít không đưa ra một khuôn mẫu cứng nhắc cho việc tiến hành cuộc cách mạng vô sản mà chỉ nêu ra những nguyên lý cơ bản, nên việc vận dụng những nguyên lý đó như thế nào, thành công đến đâu phụ thuộc vào tài năng của lãnh tụ phong trào cách mạng.

Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng thành công những nguyên lý đó để thực hiện thắng lợi các mục tiêu cách mạng Việt Nam, giải phóng dân tộc và đưa cách mạng Việt Nam tiếp tục tiến theo con đường chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp, giải phóng con người trên thế giới, qua đó khẳng định và củng cố tính khoa học, tính cách mạng, tính nhân văn của Chủ nghĩa Mác-Lênin./.

ST.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng là bảo vệ linh hồn, mạch sống của Đảng

Trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử, nhất là ở những thời khắc có tính bước ngoặt, thì tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh phải được tiến hành đồng thời, đảm bảo sự "gắn kết chặt chẽ giữa xây và chốngxây là cơ bản, chống phải quyết liệt, hiệu quả.

Những năm qua, căn cứ vào yêu cầu thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể của cách mạng Việt Nam, vào Cương lĩnh của Đảng, cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch (tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh) được chú trọng và đẩy mạnh theo tinh thầnNghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII ngày 22/10/2018 về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới" (Nghị quyết 35- NQ/TW). Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa thường xuyên và lâu dài; không chỉ là công việc của các cơ quan Đảng, Nhà nước mà là của cả hệ thống chính trị, đồng thời cũng là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân.

Có thể nói rằng, từ sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các thế lực thù địch, phản động ngày càng gia tăng các hoạt động chống phá nhằm phủ định chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; nhất là xuyên tạc, chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để thông qua đó đòi xóa bỏ vai trò cầm quyền/độc quền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập… Vì thế, công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch ngày càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn. Và cũng vì thế, việc quán triệt sâu sắc tầm quan trọng của công tác tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh nói chung; việc tiếp tục kiên quyết, kiên trì thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu mà Nghị quyết số 35-NQ/TW đề ra nói riêng càng trở nên quan trọng và cần thiết hơn.

LỰC LƯỢNG TUYÊN GIÁO LÀ NÒNG CỐT TRONG THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT 35- NQ/TW

Lợi dụng những diễn biến phức tạp, khó lường của tình hình quốc tế, khu vực và trong nước, các thế lực thù địch tăng cường các hoạt động tuyên truyền, kích động, xuyên tạc, chống phá, phủ định và đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, ngấm ngầm truyền bá tư tưởng đi ngược lại với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, nhằm chuyển hóa thể chế chính trị ở Việt Nam…

Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, hơn 94 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng công tác "bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước" gắn liền với việc chủ động và kiên quyết đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, đáp ứng yêu cầu của tình hình và nhiệm vụ cách mạng trong bối cảnh toàn cầu hóa, Nghị quyết 35- NQ/TW đã khẳng định: Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh, phản bác có hiệu quả các quan điểm sai trái, thù địch là một nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, để Đảng luôn trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức.

Để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - bảo vệ linh hồn, mạch sống của Đảng, trận tuyến tuyên truyền/bảo vệ và đấu tranh theo Nghị quyết số 35-NQ/TW được xác định là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân; trong đó, lực lượng Tuyên giáo các cấp là nòng cốt. Tại mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp; tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị, trước hết là người đứng đầu và với mỗi cán bộ, đảng viên, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng phải được phải quán triệt thường xuyên, trở thành công việc tự giác, chủ động, kịp thời, nhằm ngăn chặn và làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.   

Nội dung Nghị quyết số 35-NQ/TW cũng cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng với đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Do đó, trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm lịch sử, nhất là ở những thời khắc có tính bước ngoặt, thì tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh phải được tiến hành đồng thời, đảm bảo sự "gắn kết chặt chẽ giữa xây và chốngxây là cơ bản, chống phải quyết liệt, hiệu quả", trong đó, xây là tuyên truyền, bảo vệ và chống là đấu tranh, để kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên trì con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; đồng thời, hoạch định, không ngừng bổ sung, phát triển đường lối đổi mới và tiếp tục thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011).

Lực lượng Tuyên giáo các cấp có vai trò quan trọng, kết hợp giữa nhiệm vụ trước mắt và nhiệm vụ lâu dài để đi tiên phong trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Việc thực thi nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh của toàn  Đảng, của cả hệ thống chính trị chính là nhằm tiếp tục làm cho toàn Ðảng, toàn dân, toàn quân nhận thức ngày càng đầy đủ hơn, sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của đời sống xã hội, xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh... Đồng thời, thông qua tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh để nhận diện đúng, kịp thời; để nâng cao khả năng tự phòng, chống của cán bộ, đảng viên, các tầng lớp nhân dân trước âm mưu, thủ đoạn và hoạt động của các thế lực thù địch, của các đối tượng phản động, cơ hội chính trị.

Trong thực thi nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh, một mặt phải tăng cường công tác quản lý nhà nước về internet, truyền thông, báo chí và mạng xã hội gắn liền với việc bổ sung, hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý các hoạt động trên không gian mạng để làm căn cứ cảnh báo, răn đe và xử lý các trường hợp vi phạm. Mặt khác, chú trọng việc đa dạng hóa nội dung, phương thức, hình thức để tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh theo nhiều tầng, nhiều nấc, nhiều cấp độ, phù hợp từng đối tượng, từng lĩnh vực, từng thời điểm. Đồng thời, nâng cao khả năng dự báo, nắm bắt tình hình (kịp thời nhận diện các thông tin xấu, độc, xuyên tạc…) và chủ động, kết hợp tuyên truyền, bảo vệ, đấu tranh bằng hình thức trực diện và gián tiếp, với nhiều hình thức, nhiều cấp độ theo một sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất, chặt chẽ từ Trung ương đến địa phương, để kịp thời phát hiện, tẩy chay và không tiếp tay cho kẻ cơ hội lan truyền thông tin xấu, nhất là trên không gian mạng.

KIÊN ĐỊNH CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

Xác định rõ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị, trước khi Nghị quyết 35 NQ/TW ra đời, những nhiệm kỳ gần đây, từ Trung ương đến địa phương đã triển khai thực hiện sâu rộng Văn kiện Đại hội Đảng các khóa và các chỉ thị, nghị quyết chuyên đề như Nghị quyết số 01-NQ/TW về "Công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”(3/1992); Nghị quyết số 09-NQ/TW về "Một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay” (2/1995); Chỉ thị số 05-CT/TW của Ban Bí thư về "Tăng cường cuộc đấu tranh chống các luận điệu sai trái và hoạt động tán phát tài liệu chống Việt Nam" (1/2002); Thông báo Kết luận số 94-KL/TW của Ban Bí thư về "Tăng cường nhiệm vụ chống âm mưu “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa" (12/2002); Chỉ thị số 34-CT/TW của Ban Bí thư về "Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá" (4/2009); Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XI về "Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" (5/2011) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay"(1/2012); Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”(5/2016) và Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về "Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ" (10/2016)… để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thông qua đó, công tác tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh đã đạt được những kết quả quan trọng, không chỉ bảo vệ Đảng, mục tiêu và lý tưởng của Đảng, của chế độ xã hội chủ nghĩa trước âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch mà còn đồng thời phòng, chống, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; làm cho công tác xây dựng Đảng đạt hiệu quả hơn, tính chiến đấu, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày được củng cố vững chắc hơn, góp phần giữ vững an ninh chính trị, ổn định xã hội, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Trong khi đó, tình hình chính trị quốc tế (chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên, các vấn đề an ninh phi truyền thống…); đại dịch Covid-19 vẫn đang diễn biến phức tạp trên phạm vi toàn cầu; đặc biệt sự mâu thuẫn giữa các quốc gia, dân tộc, nhất là âm mưu, thủ đoạn chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ở trong và ngoài nước là những yếu tố có tác động ngược chiều đến công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Bên cạnh những kết quả đạt được của công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, thì "một bộ phận cán bộ, đảng viên bản lĩnh chính trị không vững vàng, suy thoái về tư tưởng chính trị, còn hoài nghi, mơ hồ về mục tiêu, lý tưởng của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; một số ít hoang mang, dao động, mất lòng tin; cá biệt còn phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng” và “sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình trạng tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”…

Thực tế cho thấy, “sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc”, không chỉ gây bức xúc, mất lòng tin của nhân dân mà còn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Thực tế cũng cho thấy, càng khó khăn, thử thách, càng phải chú trọng và tăng cường công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh nói riêng để các nhiệm vụ này không đối lập nhau, không phủ định nhau mà luôn tác động, tương hỗ, ảnh hưởng lẫn nhau, có ý nghĩa quyết định đến thành công của công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch hiện nay. Đặc biệt, một quan điểm chỉ đạo quan trọng được nêu trong Nghị quyết số 35-NQ/TW chính là việc các cơ quan chức năng, các lực lượng chức năng cần phải chú trọng sự gắn kết chặt chẽ giữa xây và chống trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch. Trong đó, xây là giải pháp tập trung vào bên trong, nội tại để chống đạt hiệu quả hơn; còn chống là sự hướng vào việc ngăn chặn những tác động tiêu cực từ bên ngoài, để không chỉ tiếp tục phát huy những giá trị và những ưu thế đã và đang có, mà còn từng bước ngăn chặn, làm thất bại mọi hoạt động làm phương hại đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ để xây được ổn định và vững chắc hơn, để kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.

Trong thời gian tới, để tiếp tục nâng cao hiệu quả cuộc đấu tranh và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nhất là đảm bảo sự gắn kết chặt chẽ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh theo Nghị quyết số 35-NQ/TW, toàn Đảng và hệ thống chính trị cần tập trung thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, các cơ quan, ban, ngành chức năng cùng mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, người đứng đầu, nhất là lực lượng Tuyên giáo các cấp cần nâng cao nhận thức và quán triệt sâu sắc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách, cơ bản, lâu dài, thường xuyên và liên tục. Việc triển khai đồng bộ trận tuyến tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh là nhằm bảo vệ tính đúng đắn, khoa học, giá trị thời đại của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh; bảo vệ chủ trương, đường lối của Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam; bảo vệ những thành quả mà nhân dân Việt Nam đã đạt được trong tiến trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dưới ánh sáng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong đó, tuyên truyền, bảo vệ có ý nghĩa quyết định để không chỉ củng cố sự vững chắc trong nội bộ tổ chức Đảng, vai trò, vị trí cầm quyền/độc quyền lãnh đạo của Đảng được Hiến pháp hiến định, mà còn góp phần hạn chế và chống lại sự tấn công của các thế lực thù địch từ bên ngoài. Còn đấu tranh có ý nghĩa như là xây dựng phòng tuyến vững chắc để ngăn chặn sự suy thoái, biến chất, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" từ bên trong; đồng thời, góp phần đẩy lùi sự chống phá ngày càng điên cuồng của các thế lực thù địch, củng cố sự thống nhất, vững chắc của từng tổ chức cơ sở Đảng.

Thứ hai, tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh phải được tiến hành toàn diện về cả lý luận và thực tiễn, gắn lý luận với thực tiễn, nhằm bổ sung và hoàn thiện lý luận; đồng thời, trong từng thời điểm, với mỗi loại đối tượng, cần chọn lọc và thận trọng để có đối sách hợp lý, bằng nhiều hình thức, biện pháp phù hợp. Trong đó, tuyên truyền, bảo vệ tập trung vào việc không ngừng phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội, về kinh tế, văn hóa, giáo dục; về cán bộ và công tác cán bộ,v.v.. Còn đấu tranh với những luận điệu xuyên tạc, bẻ cong lịch sử dân tộc và Đảng nhằm để bảo vệ Đảng, chế độ, đất nước và nhân dân; đồng thời phản bác lại sự xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lý tưởng của Đảng, về chủ nghĩa xã hội, nhất là mục tiêu đòi thay đổi chế độ của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội gắn liền với việc phòng, chống những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ và những biểu hiện tiêu cực khác. Sự gắn kết chặt chẽ giữa tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh này không chỉ góp phần bảo vệ  nền tảng tư tưởng của Đảng mà còn thiết thực tìm ra những "con sâu làm rầu nồi canh" từ sớm, từ gốc, để sàng lọc nội bộ, làm cho Đảng ngày càng mạnh khỏe, chắc chắn, trong sạch, vững mạnh từ cơ sở.

Thứ ba, các cơ quan, ban, ngành chức năng cùng mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu cần phải nghiêm túc quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm nghị quyết các kỳ Đại hội của Đảng, các nghị quyết chuyên đề, các chỉ thị, quy định, kết luận về xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng nói riêng để thực thi nhiệm vụ tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh đảm bảo sự gắn kết và hiệu quả. Trên cơ sở dự báo sát sao và chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, việc xử lý thông tin, định hướng dư luận xã hội, tăng cường đấu tranh chống các quan điểm sai trái, lệch lạc, các hoạt động phá hoại, kích động, gây rối của các thế lực thù địch phải được triển khai kịp thời, có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan, các lực lượng, các cấp, để bảo đảm sự thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục thực hiện nghiêm Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị khóa XII về "Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh" gắn với Kết luận 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, gắn với Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 "về những điều đảng viên không được làm" để phòng và chống sự suy thoái, biến chất, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; để kịp thời nhận diện và cảnh giác trước những quan điểm nhân danh yêu nước, dân chủ, phản biện để cổ xúy cho vấn đề xã hội dân sự, đòi đa nguyên, đa đảng, ra báo tư nhân…

Thứ tư, công tác tuyên truyền, bảo vệ phải luôn đổi mới, song có lộ trình và thận trọng, nhất là triển khai phải theo từng bước, tránh nóng vội, chủ quan, chệch hướng; và đấu tranh thì luôn phải linh hoạt, nhưng bản lĩnh, trong sáng, chân chính để tránh sa vào bẫy kích động, chia rẽ của kẻ thù. Đồng thời, phòng và tránh tạo kẽ hở cho các phần tử phản động, bọn cơ hội "mượn hơi" gây rối và chống phá. Sự gắn kết chặt chẽ giữa tuyên truyền, bảo vệ và đấu tranh không chỉ nhằm thể hiện sự kiên định con đường mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân đã chọn; không chỉ thể hiện rõ tinh thần và ý chí vượt mọi trở ngại, khó khăn, mà còn đảm bảo được quá trình xây dựng, bảo vệ, phát triển của đất nước theo đúng Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung và phát triển năm 2011) và Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch, các cơ quan, ban, ngành chức năng cùng mỗi cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên cần chú trọng việc lấy cái tích cực, cái tốt đẹp, sự nêu gương và tạo lan tỏa rộng rãi để dẹp cái xấu, đẩy lùi sự tiêu cực và cái ác, góp phần làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vai trò chủ đạo, phổ quát trong đời sống tinh thần của xã hội; làm cho tư tưởng tiến bộ, tích cực, thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, cải tạo những tư tưởng lạc hậu, đẩy lùi những suy nghĩ và hành động sai trái.

Thứ năm, cùng với việc kiện toàn các cơ quan chức năng, xây dựng, phát triển và phối hợp các lực lượng thực thi nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch là việc cần phải củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp đảm bảo về số lượng và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Để hoàn thành sứ mệnh “đi trước, mở đường”, đội ngũ cán bộ tuyên giáo các cấp cần phải rèn luyện phẩm chất đao đức, nâng cao bản lĩnh chính trị gắn liền với việc nỗ lực nâng cao trình độ lý luận chính trị, nghiệp vụ, chuyên môn và cập nhật kiến thức để hoàn thành tốt nhiệm vụ tham mưu, xử lý các vấn đề về tư tưởng phức tạp phát sinh. Đồng thời, phân tích, luận giải, thuyết phục cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tin tưởng và thực hiện đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và đi liền cùng đó là nhận diện đúng để kịp thời phản bác, đập tan các âm mưu, thủ đoạn tinh vi, nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động. Cùng với đó, nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong hoàn thành nhiệm vụ được giao, trong thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng và "tích cực đấu tranh, phản bác có hiệu quả quan điểm sai trái của các thế lực thù địch", góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch./.

ST.