Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2024

Đấu tranh với “địch bên trong ta” và lành mạnh hóa không gian mạng

Công nghệ số đã tạo nên một môi trường mà ở đó hình thành và chứa đựng mọi mặt hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cuộc cách mạng số không chỉ là cuộc cách mạng về công nghệ, kỹ thuật mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của con người, đến các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội và tự nhiên.

“Địch bên trong ta đáng sợ hơn”

Trong bối cảnh mới, khi phương thức sản xuất mới ra đời thì công tác chống “giặc nội xâm”, đấu tranh với “địch bên trong ta” trở thành yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Nó không chỉ xuất hiện trong thế giới thực mà còn len lỏi vào đời sống xã hội thông qua internet, mạng xã hội. Nhiều kẻ cơ hội chính trị, phản động và một bộ phận người dân (có cả một số cán bộ, công chức, đảng viên) trong cuộc sống hằng ngày thì thể hiện sự quyết tâm, đồng thuận cao đối với các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhưng trên không gian mạng lại sử dụng các kỹ thuật, công nghệ ẩn danh để thực hiện các hoạt động cung cấp thông tin sai lệch, có các hành vi lệch chuẩn. Có những cá nhân còn bôi nhọ, chống phá những thành quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Cần coi giặc nội xâm, coi kẻ địch bên trong ta là kẻ thù trực tiếp, toàn diện, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động đang sử dụng các công nghệ, nhất là sử dụng không gian mạng và các hoạt động ẩn danh trên không gian mạng để cổ xúy cho các hành vi lệch chuẩn, cung cấp các thông tin sai trái, thù địch, lệch lạc, tiêu cực, thực hiện “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu” với mục tiêu làm thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người - Bài 3: Đấu tranh với “địch bên trong ta” và lành mạnh hóa không gian mạng (Tiếp theo và hết)
Minh họa: PHẠM HÀ 

Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác và tinh thần yêu nước của nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, thì trong chống giặc nội xâm, “chống kẻ địch ngay trong ta” cũng phải dựa vào dân mới có thể giành được thắng lợi: Ví dụ như “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”.

Công cuộc chống “giặc nội xâm” chống lại “kẻ địch ngay trong ta” sẽ lâu dài và khó khăn, phức tạp hơn cả sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Người khẳng định rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người chỉ rõ: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.

Ngày nay, người dân không chỉ ở trong thế giới thực mà còn sống, sinh hoạt, hoạt động tích cực trên không gian ảo. Do đó, không chỉ cần quan tâm đến người dân trong thế giới thực mà còn phải tranh đấu với kẻ địch ở ngay trong ta, ngay trong nội bộ, ngay trong tinh thần.

Không gian mạng cần được quản lý như thế giới thực

Thực tiễn chứng minh, lượng thông tin mà con người được cung cấp, tiếp nhận thông qua internet và không gian mạng là vô cùng lớn. Không gian mạng là mở, được cập nhật liên tục, không phân biệt không gian, thời gian nên con người trong bối cảnh này dù chủ động hay bị động thì thông tin cũng là nhân tố trực tiếp tác động đến nhận thức, và đôi lúc hành động của họ cũng phụ thuộc vào lượng thông tin mà họ tiếp nhận được.

Bộ não của mỗi người trong một khoảng thời gian nhất định chỉ có thể tiếp nhận và xử lý được một lượng thông tin nhất định, nếu vượt quá giới hạn sẽ tạo nên chứng “bội thực thông tin”. Từ đó làm con người mất phương hướng, rơi vào tình trạng mù mờ, không phân biệt được đúng sai, nhận thức không đến nơi đến chốn, tư tưởng và hành động dễ sa vào tiêu cực hoặc có các hành vi lệch lạc. Ví dụ như khi một đối tượng giả danh cán bộ của cơ quan nhà nước hay giả mạo một cơ quan nhà nước có uy tín liên tục gây sức ép, cung cấp thông tin giả mạo, sai trái thì sẽ dễ khiến nạn nhân bị khủng hoảng, ức chế tâm lý và vô thức làm theo yêu cầu của các đối tượng này.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã coi không gian mạng là một nơi cần được quản lý như thế giới thực. Hay nói cách khác, các quy tắc, quy định, chế tài, định hướng được thực hiện cả trên môi trường thực và môi trường ảo. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, mặc dù hiến pháp không bảo đảm quyền ẩn danh một cách rõ ràng nhưng có những tham chiếu chặt chẽ về quyền ẩn danh với các ràng buộc pháp lý. Các luật về truyền thông ở một số tiểu bang cũng quy định về hành vi, theo đó các hành vi sử dụng mạng xã hội để tán phát thông tin sai lệch sẽ bị xử lý từ phạt tiền đến án hình sự. Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan chính phủ xác định danh tính của các tài khoản ẩn danh để phục vụ cho quá trình xét xử.

Các điều khoản của hành lang pháp lý ở Liên minh châu Âu và các quốc gia thành viên cũng có những quy định về quyền và nguyên tắc pháp lý về ẩn danh trên không gian mạng để phòng ngừa, xử lý những tác động xấu, tiêu cực do các hoạt động ẩn danh đối với xã hội hay lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hoạt động khủng bố. Có thể thấy rằng, dù cổ vũ cho hoạt động tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng bản thân các quốc gia này cũng đã lường trước và có những quy định chặt chẽ để ứng phó với những tác động tiêu cực mà hoạt động ẩn danh gây ra.

Tuyên bố các nguyên tắc về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin ở châu Phi năm 2019 của Tòa án Nhân quyền châu Phi (ACHR) đưa ra 16 nguyên tắc mà luật pháp quốc gia phải tuân thủ, bao gồm bảo đảm sự đa dạng của các phương tiện truyền thông, các quy định về xử lý vi phạm bằng các hình phạt, kể cả bằng hình sự đối với những hoạt động cung cấp thông tin gây tổn hại tới xã hội. Tuyên bố về nguyên tắc tự do ngôn luận Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (IACHR) bao gồm 13 nguyên tắc, trong đó có cấm kiểm duyệt trước, bảo vệ nguồn, luật riêng tư, tài trợ và quảng cáo công cộng cũng như luật đa dạng và chống độc quyền... hay các quy định Điều 13(3) của Công ước Liên Mỹ, bảo vệ quyền tự do tư tưởng và quan điểm trên không gian mạng cũng như các phương tiện truyền thông. Tất cả đều có những quy định cụ thể với các ràng buộc về pháp lý đối với hoạt động chính danh hay ẩn danh trên môi trường số.

Bước vào thời kỳ mới, chúng ta lựa chọn xây dựng xã hội mới với những con người xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại-phương thức sản xuất số. Để chiến thắng “địch bên trong ta”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần có nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp của cuộc đấu tranh này, cần có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là các hoạt động quản lý, định hướng và triển khai phát triển xã hội số, văn hóa số, con người số.

Không gian số là nội hàm mới, là thực tiễn, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho từng tổ chức, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, người dân và toàn xã hội không thể thực hiện trong một sớm một chiều mà phải trải qua một thời gian dài tích góp và có quá trình để đấu tranh, sàng lọc, loại bỏ và cập nhật liên tục những kiến thức, kỹ năng mới, đổi mới và cập nhật liên tục để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, của xã hội và nhận thức. Mỗi cá nhân, tổ chức cần rèn luyện thói quen tiếp cận thông tin một cách chủ động, có hệ thống, có mục đích.

Cần chủ động sàng lọc, tìm hiểu, tham vấn ý kiến chuyên gia, sử dụng các kênh thông tin chính thống, thực hiện kiểm tra, kiểm chứng thông tin trước khi chia sẻ, bình luận để loại bỏ những thông tin sai trái, thù địch, lệch chuẩn, thiếu các giá trị chuẩn mực xã hội... Mỗi người dân, tổ chức cần nâng cao trình độ nhận thức, tinh tường nhận diện, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, có quan điểm rõ ràng, chuẩn mực, có cái nhìn khách quan, toàn diện, có tư duy phản biện, bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

ST.

Lợi dụng ẩn danh “ném đá” hại người

Internet giúp con người có thể tiếp nhận một lượng thông tin rất lớn. Về mặt tích cực, những thông tin này là nguồn tri thức vô hạn, để con người khai thác, học tập, vận dụng trong các hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, đây cũng là mảnh đất màu mỡ để các thông tin xấu, độc, lệch chuẩn, sai trái, thù địch, các thông tin gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân phát triển - tuy trên môi trường ảo, nhưng những thông tin này lại có mối quan hệ mật thiết với thế giới thực.

Từ những hành vi đơn lẻ hòng trục lợi...

Những mặt tiêu cực này đã và đang dần len lỏi vào đời sống xã hội Việt Nam, xuất hiện những yếu tố làm cho con người trở nên lệch lạc, mất phương hướng dẫn đến dễ tin hoặc làm theo những quan điểm sai trái, thù địch, có những hành động lệch chuẩn gây ảnh hưởng tới uy tín, quyền lợi của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.

Không gian mạng (KGM) góp phần hình thành nên xã hội số, ngoài các thông tin tích cực, các tri thức có ích còn tồn tại một lượng thông tin xấu, độc nhất định. Nguồn “nguyên liệu” chính để hình thành thông tin trên KGM xuất phát từ những mối quan hệ, các hoạt động hằng ngày của các cá nhân, xã hội nên bao giờ cũng lẫn trong đó những “tạp chất”. Khi con người tiếp nhận thông tin, bản thân mỗi người đều tự hình thành một “bộ lọc” để tiếp nhận những thông tin được coi là có ích, có lợi tùy thuộc vào quan điểm, mục đích, thị hiếu của chính mình.

Có những vấn đề cùng là một thông tin nhưng đối với người này là có lợi, đối với người khác thì không và ngược lại. Các tiêu chí để đánh giá “có lợi”, “có hại”, “có ích”, “vô ích”, “tích cực”, “tiêu cực” chỉ mang tính tương đối. Các hoạt động của con người trên KGM, trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật cho phép con người thực hiện các hoạt động ẩn danh để đạt được những “phần lợi ích” nhiều nhất, “có lợi” nhiều nhất.

Mạng xã hội (MXH) Facebook, một dịch vụ trên KGM có nhiều người sử dụng cho phép các hoạt động ẩn danh để cung cấp thông tin. Ở Việt Nam, tính đến năm 2024, trên MXH Facebook có khoảng 78 triệu tài khoản đang hoạt động. Cũng năm 2024, MXH Zalo có khoảng 75 triệu tài khoản hoạt động thường xuyên; MXH TikTok có 67,72 triệu người dùng từ 18 tuổi trở lên.

Ngoài các tài khoản chính danh, cung cấp thông tin hữu ích, có giá trị còn rất nhiều tài khoản ảo, tài khoản ẩn danh cung cấp các thông tin về mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội dưới danh nghĩa là các hoạt động dân sự, lợi dụng quyền cung cấp thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để trục lợi, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, xúc phạm, bôi nhọ, cung cấp các thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận, gây bức xúc trong xã hội.

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người - Bài 2: Lợi dụng ẩn danh “ném đá” hại người

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người. Ảnh minh họa: MẠNH TIẾN 

Những hoạt động lừa đảo, giả mạo, giả danh cơ quan, tổ chức, cá nhân ngày càng được các đối tượng thông qua hoạt động ẩn danh để lợi dụng niềm tin hòng trục lợi cá nhân, chiếm đoạt tài sản của người khác. Thời gian qua, nhiều người dân trên cả nước liên tục bị các số điện thoại giả mạo cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước gọi đến với nội dung như: “Cập nhật số liệu thẻ căn cước công dân”; giả danh cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, nhà mạng thông báo “số điện thoại sẽ bị chặn, hủy và khóa sau vài giờ”; thông báo triệu tập của “công an xã”, “công an huyện” đến xử lý và thực hiện hoàn thành thủ tục của tòa án, pháp luật hay xử lý nợ; giả danh cán bộ ngân hàng “thông báo trúng thưởng”, thực hiện tra soát tài khoản, yêu cầu người dân cung cấp số tài khoản, mật khẩu giao dịch, mã OTP...

Hay việc người sử dụng MXH Facebook, Zalo, Viber, Telegram... liên tục được đưa vào các hội, nhóm, bị gửi các đường liên kết trên mạng có tiêu đề hấp dẫn, gây sốc có chứa đựng mã độc, chứa đựng các cách thức truy cập trái phép vào tài khoản hoặc giả danh người thân vay tiền... Nhiều tài khoản ẩn danh, giả mạo các kênh truyền thông chính thống như Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân... các cơ quan, tổ chức có uy tín như các bệnh viện nổi tiếng để quảng cáo thực phẩm chức năng, thuốc giả, tư vấn cách thức chữa bệnh, bán “thuốc dạo” để chữa bệnh ung thư, bệnh đặc trị... Điều đáng buồn là nhiều người dân đã sập bẫy lừa đảo của các đối tượng này, bị ảnh hưởng tâm lý, thiệt hại về kinh tế với số tiền rất lớn.

Ngoài ra, còn có các hoạt động ẩn danh nhằm thực hiện các hành vi ác ý, bôi nhọ danh dự người khác. Nhiều người dân bị các tài khoản MXH ẩn danh ghép các nội dung xấu, giả mạo và tạo các đoạn video clip nhằm mục đích bắt nạt, quấy rối, lăng mạ, sỉ nhục, tra tấn tinh thần thông qua các phương tiện điện tử và KGM. Trên MXH Facebook, có nhiều hội, nhóm mang những cái tên gây sốc như: “Bóc phốt”, “diễn đàn”, “trang thú tội (confession)”..., các tài khoản này gửi tin nhắn, đánh cắp thông tin và phá hoại tài khoản, đăng tin nhắn, comment, gửi các tin nhắn, đăng các hình ảnh, video clip có nội dung khiêu dâm gây rối loạn tâm lý, tổn thương, tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác.

Các tài khoản ẩn danh còn dùng công nghệ để định vị, theo dõi vị trí và hoạt động của nạn nhân để quấy rối, theo dõi người khác trên MXH; đăng tải thông tin riêng tư hoặc giả mạo danh tính nhằm làm tổn hại danh dự, uy tín của người khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm trạng và tinh thần của họ. Các hoạt động này còn hướng đến xâm hại trẻ em, nhiều trẻ em bị dụ dỗ gửi ảnh, video về bộ phận nhạy cảm khi sử dụng internet. Nhiều trẻ vị thành niên thông qua môi trường mạng bị dụ dỗ tham gia đường dây mua bán người, đường dây thực hiện các dịch vụ nhạy cảm như vũ trường, quán bar, quán karaoke trá hình...

...đến phá hoại sự ổn định của đất nước

Nói về hoạt động ẩn danh trên KGM, thời gian qua đã có nhiều tiền lệ và hậu quả xấu đối với đời sống xã hội, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Các hoạt động lợi dụng MXH, lợi dụng các yếu tố kỹ thuật và kẽ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tin và “mơ màng” với cảm giác đứng trong bóng tối, thực hiện các hoạt động ẩn danh để sử dụng các thông tin giả mạo, thất thiệt, đưa thêm thông tin nửa vời, cắt ghép; lợi dụng ẩn danh để lừa đảo, đưa các thông tin sai trái, xuyên tạc để “ném đá” hại người; qua đó gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; làm nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí gây hoang mang, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Nguy hiểm hơn nữa, các hoạt động ẩn danh còn được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ, kích động bạo lực, cổ vũ cho các hoạt động tập trung đông người hòng thúc đẩy bạo loạn, bạo động; thực hiện các hoạt động cổ xúy, thúc đẩy “cách mạng màu”.

Các kênh truyền thông cả chính danh lẫn ẩn danh của một số cá nhân, tổ chức móc nối với một số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước nhằm đưa các tin, bài có nội dung tiêu cực, xuyên tạc; lợi dụng tình hình và các sự kiện quan trọng của đất nước, các vấn đề dư luận xã hội quan tâm, các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, dân tộc... để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi xấu các thành quả của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vừa qua, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tích cực phòng, chống và khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (bão Yagi), các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng xấu, hoang mang dư luận liên tục được tung ra trên MXH Facebook, YouTube với những dòng trạng thái, hình ảnh, video clip “vỡ đê” ở một địa phương nào đó... Trên các tài khoản này, ngoài các thông tin xấu, thất thiệt còn cung cấp nhiều thông tin sai trái, sai lệch, cổ vũ các hành vi lệch chuẩn, thực hiện các hành vi chống phá những thành quả mà Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Mỹ, Liên minh châu Âu... đã có những hành lang pháp lý nhằm xử lý các hành vi trên KGM, trong đó có những quy định để thực hiện giám sát, trừng phạt hoặc thực hiện các biện pháp hình sự. Đã đến lúc chúng ta quan tâm, hoàn thiện và xây dựng các hành lang pháp lý liên quan đến các hoạt động ẩn danh và lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hành vi xấu trên KGM.

Ngoài ra, cần có các hành lang pháp lý về “chính danh” trong các hoạt động liên quan đến KGM, đồng thời cần nâng cao nhận thức, văn hóa ứng xử, trách nhiệm của người dân khi sử dụng MXH. Cần xây dựng “thế trận lòng dân” trên KGM để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới hiện nay./.
ST.

Người ẩn danh: Quyền riêng tư hay kẽ hở lợi dụng?

Trên xã hội số, các dịch vụ và mối quan hệ của những chủ thể có mối quan hệ cơ hữu, gắn kết chặt chẽ với nhau. Một xã hội mới trong không gian ảo trên cơ sở các quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới, dân tộc và quan hệ dân tộc, gia đình và quan hệ gia đình, các tầng lớp xã hội cũng đã dần hình thành trên môi trường này.

Hiểu đúng về “quyền riêng tư” trên mạng xã hội

MXH và dịch vụ MXH trên không gian ảo là một cách điển hình để triển khai các hoạt động giao tiếp, chia sẻ thông tin của các chủ thể trên không gian ảo. Ban đầu, MXH được tạo ra nhằm cung cấp một dịch vụ trên internet để mỗi thành viên kết nối với nhau trên cơ sở cùng sở thích, cùng mối quan tâm và thực hiện nhiều mục đích khác nhau. Dịch vụ MXH tạo nên một môi trường mà trên đó, người tham gia có thể tự do thể hiện quan điểm, chia sẻ về những hoạt động trong cuộc sống hằng ngày.

Ẩn danh-một tính năng cho người sử dụng internet xuất hiện khi không gian số trở thành phổ biến trong đời sống xã hội của con người. Tính năng này cho phép người dùng xuất hiện mà không lưu lại các dấu vết hoạt động trên không gian mạng. Tính năng này hiện nay thường được người dùng sử dụng các dịch vụ MXH để tổ chức, tạo lập và sản xuất những sản phẩm thông tin, truyền thông như tin, bài, video clip, âm thanh dưới sự hỗ trợ của các công cụ sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp như dữ liệu lớn, các phần mềm thông minh nhân tạo... Tính năng ẩn danh tạo ra một dịch vụ cho phép thực hiện các quyền riêng tư, quyền tự do cá nhân... Bên cạnh những thông tin tích cực, nhân văn, vì xã hội và cộng đồng vẫn có các cá nhân, tổ chức lợi dụng các kỹ thuật, công nghệ tạo nên các kênh, cá nhân ẩn danh nhằm phá hoại những thành quả của đất nước, nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước thông qua việc cung cấp những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ trên MXH...

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người: Bài 1: Người ẩn danh: Quyền riêng tư hay kẽ hở lợi dụng?
Minh họa: NGUYỄN HIẾU 

Về mặt khái niệm, ẩn danh là việc người sử dụng thiết lập các tài khoản trên không gian số như tài khoản trên MXH Facebook; YouTube; Zalo; TikTok; Threads; Instagram... mà thông tin về danh tính thật của người sử dụng không được tiết lộ. Tính năng này cũng cho phép người dùng sử dụng tên giả, hồ sơ cá nhân giả, ảnh giả hoặc không có thật để hạn chế, trốn tránh việc truy vết thông tin, định danh người dùng.

Chính vì lẽ đó, tài khoản ẩn danh ngoài những người dùng sử dụng để thực hiện các hoạt động truyền thông mang nhiều nét nhân văn, tốt đẹp trên cơ sở hài hòa và gìn giữ văn hóa dân tộc thì hiện nay đang bị các đối tượng phản động, cơ hội chính trị thực hiện những hoạt động chống phá, cung cấp thông tin thất thiệt, quấy rối, bắt nạt người khác, thực hiện các hành vi lừa đảo, gian lận thông qua giả mạo thông tin người dùng khác, lợi dụng sự tin tưởng của người khác để trục lợi.

Bên cạnh đó, các tài khoản ẩn danh còn được sử dụng như một cách để xâm phạm quyền riêng tư, cố tình thu thập thông tin, hình ảnh của người khác để sử dụng cho mục đích xấu, gây lo lắng và bất an cho xã hội. Các tài khoản ẩn danh còn sử dụng những kỹ thuật, công nghệ như trí thông minh nhân tạo để tạo ra các sản phẩm truyền thông chứa đựng những thông tin sai lệch, tin giả, tin thất thiệt gây hoang mang và hiểu lầm trong cộng đồng, đặc biệt là bôi nhọ, xuyên tạc lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thành quả của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

Các tài khoản này cũng thường được sử dụng để kích động bạo lực, thù hận và kỳ thị như phân biệt vùng miền, phá hoại tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, gây nên những tổn thương tâm lý, sự hoang mang, phân hóa và mất niềm tin trong cộng đồng cũng như toàn xã hội, gây xung đột và căng thẳng không đáng có.

Hành lang pháp lý về trách nhiệm hành vi trên mạng xã hội

Internet đã tạo ra một không gian ảo, hình thành xã hội ảo trên cơ sở quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới-phương thức sản xuất số-mà ở đó, các mối quan hệ như quan hệ giai cấp, mối quan hệ giữa con người với con người đã có những thay đổi, người dân có thể tiếp cận thế giới một cách dễ dàng hơn.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2024, Việt Nam có hơn 100 triệu dân với hơn 70 triệu người sử dụng internet. Lợi dụng những điều kiện thuận lợi được pháp luật quy định, các đối tượng đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại (như dùng các kỹ thuật để ẩn danh tương tác, lừa đảo qua MXH, các ứng dụng nhắn tin qua mạng (OTT)...) để thực hiện nhiều vụ lừa đảo trực tuyến, chiếm đoạt tài sản có giá trị cao, gây hoang mang dư luận, mất an toàn xã hội.

Ứng phó với những vấn đề trên, theo thống kê của Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông), tính đến tháng 6-2024, thông qua triển khai Hệ thống cảnh báo, ngăn chặn tên miền độc hại quốc gia (DNS Shinkhole quốc gia), cơ quan chức năng đã ngăn chặn 12.818 web/blog vi phạm, trong đó có 3.170 website lừa đảo trực tuyến. Bảo vệ hơn 10,981 triệu người dân không truy cập vào các website lừa đảo, vi phạm pháp luật). Tuy nhiên vẫn còn đó những khó khăn, thách thức về hành lang pháp lý, về kỹ thuật công nghệ, về nhận thức của người dân cần được tiếp tục rà soát, hoàn thiện và thúc đẩy.

Những tài khoản ẩn danh trên MXH mang lại nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi chúng ta cần có các phương án, giải pháp mang tính định hướng để bảo đảm quyền riêng tư, hạn chế các hoạt động ẩn danh mang mục đích xấu thông qua tăng cường các hoạt động bảo đảm bảo mật thông tin, sử dụng các biện pháp nhằm xác thực danh tính, hoàn thiện hành lang pháp lý theo hướng quy định trách nhiệm hành vi khi sử dụng MXH, tiến tới xử lý nghiêm minh các vi phạm liên quan đến tài khoản ẩn danh.

Cùng với đó, người dân cần nhận diện các hoạt động lợi dụng ẩn danh để quấy rối, bắt nạt, lừa đảo, xâm phạm quyền riêng tư, tán phát thông tin sai lệch và bôi nhọ, cung cấp các thông tin thất thiệt, các quan điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá thành quả của cách mạng Việt Nam, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta./.

ST.

Bác bỏ luận điệu sai trái “ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”

Những luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong gần 80 năm qua.

1. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cả hệ thống chính trị vào cuộc thực thi quyền lực nhà nước trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; đồng thời luôn thống nhất trong lãnh đạo tổ chức thực hiện, nhằm góp phần bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân. Chủ trương đó không phải là khẩu hiệu suông, càng không phải là việc “đấu đá, triệt hạ phe cánh” như những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Trước mỗi kỳ đại hội Đảng, các đối tượng chống phá lại đơm đặt, dựng chuyện và xuyên tạc rằng: “Ở Việt Nam quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân”.

Sự thật lịch sử và quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam đã bác bỏ, phủ nhận những luận điệu xuyên tạc, chống phá đó.

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, thiết lập nên những thiết chế căn bản đầu tiên của một nhà nước dân chủ nhân dân-khởi đầu của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. Điều 1 của Hiến pháp năm 1946 khẳng định tính chất của Nhà nước ta là nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

Trong suốt quá trình cùng với Đảng, Nhà nước và nhân dân tổ chức, xây dựng hệ thống quyền lực ở nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng luôn nhấn mạnh và thực hành tư tưởng: “Nước ta là nước dân chủ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân/ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân/ Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân/ Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân/ Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra/ Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên/ Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”.

Như vậy, có thể thấy, từ những văn bản pháp lý đầu tiên của Nhà nước và người đứng đầu Nhà nước ta đã xác nhận, hệ thống chính trị XHCN nước ta luôn khẳng định chủ thể thật sự, chủ thể đích thực và chủ thể tối cao của Nhà nước và của tất cả quyền lực nhà nước là nhân dân. Điều này có nghĩa rằng, ở Việt Nam, quyền lực nhà nước có nguồn gốc từ nhân dân và cho dù bất cứ cơ quan, cá nhân nào nắm giữ thì quyền lực nhà nước cũng đều có nguồn gốc từ sự ủy quyền của nhân dân. Không có thứ quyền lực nhà nước nào có nguồn gốc tự thân, nằm ngoài sự trao quyền, ủy quyền của nhân dân.

2. Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và quyền lực nhà nước, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng hiện thực hóa chủ trương “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” thành cơ chế chung trong quản lý toàn bộ xã hội. Đảng thực thi quyền lực chính trị của các giai tầng xã hội mà mình đại diện bằng cách tác động vào Nhà nước, để thông qua Nhà nước hiện thực hóa quyền, lợi ích và ý chí của các giai tầng xã hội.

Trong lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, đường lối lãnh đạo thực hiện lĩnh vực này. Nghị quyết Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến.

Hiến pháp năm 2013 hiến định: “1) Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam là nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; 2) Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam do nhân dân làm chủ; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức; 3) Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện những quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Điều 2). Về hình thức: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). Để bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, Điều 8 Hiến pháp năm 2013 hiến định: “Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền”.

Những năm qua, trong đời sống chính trị-pháp lý ở Việt Nam, việc kiểm soát quyền lực nhà nước đã trở thành nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị. Hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội và của các cơ quan Quốc hội, đại biểu Quốc hội được quan tâm tăng cường; công tác thanh tra, kiểm tra phục vụ quản lý nhà nước trong bộ máy hành pháp đã được đẩy mạnh, góp phần không chỉ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước mà còn trực tiếp đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội và nhất là vai trò, quyền làm chủ của nhân dân đã được bảo đảm thực thi thực chất, đầy đủ theo phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát, dân thụ hưởng”. Công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng đã được kết hợp chặt chẽ với việc thực thi các cơ chế thanh tra, kiểm soát bằng pháp luật. Công tác phòng, chống tham nhũng, chống tha hóa quyền lực được tiến hành đồng bộ, bài bản, ngày càng hiệu quả. Việc xử lý các hành vi, đối tượng tham nhũng bảo đảm nghiêm khắc nhưng cũng nhân văn, có lý, có tình, kết hợp “xây” và “chống”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai, làm gì; không còn tư tưởng “hạ cánh an toàn”, làm bước nào chắc bước đó, vi phạm đến đâu, xử lý đến đó, kỷ luật Đảng trước, kỷ luật hành chính, hình sự sau; bảo đảm phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ.

Với bước đi có lộ trình, phù hợp và kiên quyết, Việt Nam đã đạt được kết quả to lớn trong công tác phòng, chống tham nhũng. Qua đó, xử lý dứt điểm, kịp thời, nghiêm minh trước pháp luật nhiều vụ án, vụ việc nghiêm trọng, phức tạp, trong đó, có nhiều cán bộ cấp cao của Đảng, Nhà nước, điều đó cho thấy, sự quyết tâm của Đảng đối với xử lý tham nhũng, tiêu cực trong thực thi quyền lực nhà nước, góp phần củng cố niềm tin của các tầng lớp nhân dân.

3. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân là kết quả thực hành tư tưởng pháp quyền xã hội chủ nghĩa sáng suốt và rõ ràng, được định hướng bởi lý luận Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, được Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trực tiếp, toàn diện về mọi mặt, được Nhà nước Việt Nam hiện thực hóa trong các chính sách và luật pháp; được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước thực thi hiệu lực và hiệu quả; được nhân dân và các đoàn thể chính trị-xã hội trực tiếp giám sát, tham gia, quản lý bằng những cơ chế, chính sách phù hợp.

Như vậy, cả lịch sử hình thành nhà nước, xây dựng, hiến định những tư tưởng pháp quyền XHCN đầu tiên đến quá trình tổ chức hiện thực hóa, thực thi trong đời sống chính trị, xã hội và pháp lý; cùng với sự bổ sung, phát triển ở những giai đoạn tiếp theo cho thấy, ở Việt Nam quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân. Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là sự tiếp nối mà còn là một sự bổ sung, phát triển và khẳng định sự kiên định nhất về chủ trương, đường lối thực thi quyền lực nhà nước của nhân dân, hoàn toàn không có sự xa rời và đối nghịch với tư tưởng pháp quyền XHCN mà Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng đã đề ra, đó là xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và mọi quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân.

Những luận điệu và thủ đoạn phản ánh sai lệch về quyền lực nhà nước ở Việt Nam hiện nay đều xuất phát từ những tổ chức, cá nhân chống cộng cực đoan, chống chủ nghĩa xã hội và cơ hội về chính trị. Động cơ và mục đích chính trị của họ cũng không ngoài mục đích phủ nhận thành quả của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong gần 80 năm qua. Mưu đồ sâu xa là lợi dụng bàn luận về những vấn đề dân chủ của đất nước, lợi dụng việc góp ý vào chủ trương, đường lối, chính sách, nhất là văn kiện của các kỳ đại hội Đảng để xuyên tạc, phủ nhận sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc xây dựng chế độ và Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.

Những quan điểm, thái độ và hành động chính trị phản động, thù địch đó tất yếu sẽ bị thất bại, không chỉ bởi tất cả quyền lực của Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam hiện nay đã thuộc về nhân dân, mà còn bởi sự nhận thức chính trị của nhân dân Việt Nam hiện nay đã phát triển hơn hẳn những giai đoạn trước; đồng thời nhờ vào chính những thành quả cách mạng to lớn mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang và sẽ tiếp tục phát huy trong thời kỳ mới./.

ST.

Lãnh đạo cần hiểu sâu, nắm chắc nhiệm vụ của mình

Trong một hội nghị mới đây, đồng chí Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh nêu vấn đề, đó là hiện nay có lãnh đạo sở và cán bộ chủ trì một số lĩnh vực của thành phố khi được hỏi về nhiệm vụ của ngành mình, cơ quan mình thì báo cáo là không nắm được, vì “đã giao cho cấp phó phụ trách”. Vấn đề này khiến dư luận quan tâm, bàn luận. Có hai lý do cơ bản để giải thích cho hiện tượng này: Thứ nhất, cán bộ có hạn chế về năng lực thực tiễn trong xử lý và giải quyết công việc ở vai trò lãnh đạo, quản lý; thứ hai, cán bộ thiếu trách nhiệm, thờ ơ, đùn đẩy, né tránh, tranh công đổ lỗi.

Cán bộ lãnh đạo cần tầm vượt thoát

Trong thực tế hiện nay, cán bộ rơi vào tình trạng như nêu ở trên đang xuất hiện ở khá nhiều ngành, nhiều cơ quan, đơn vị, lĩnh vực, thế nên một số người đã nói đùa rằng, những lãnh đạo ấy chẳng khác gì “chuyên viên nhận thêm phụ cấp lãnh đạo”. Những cán bộ lãnh đạo trưởng thành từ chuyên môn nhưng lại thiếu tư duy, trình độ quản lý, chỉ huy sẽ dẫn đến hiện tượng làm lãnh đạo nhưng vẫn với tư duy cũ, sa đà vào một số lĩnh vực mà mình giỏi, bỏ qua những lĩnh vực mà mình không giỏi và “giao phó” cho người khác, nhất là đối với những việc khó, việc phức tạp.

Thực tế là, công việc của người lãnh đạo đòi hỏi một năng lực hoàn toàn khác với người làm chuyên môn sâu, nhất là về tư duy tham mưu, chỉ đạo. Họ cần phải có tư duy bao quát, toàn diện, nhưng cũng lại phải cụ thể, tỉ mỉ, vì vậy, cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ trì cần phải có tầm vượt thoát khỏi tư duy của chuyên môn, như vậy mới có thể làm thay đổi mang tính đột phá ở đơn vị mình, ngành mình.

Lãnh đạo cần hiểu sâu, nắm chắc nhiệm vụ của mình
Ảnh minh họa. Nguồn: qdnd.vn  

Trong hầu hết quy định phân công nhiệm vụ trong bộ máy lãnh đạo quản lý các cấp, người đứng đầu bao giờ cũng là người chịu trách nhiệm chung về lĩnh vực được giao, đồng thời sẽ đảm nhiệm trực tiếp một số nhóm nhiệm vụ, lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, một nguyên tắc bắt buộc đối với cán bộ lãnh đạo là khi đã nhận nhiệm vụ thì phải hiểu sâu và bao quát được toàn bộ lĩnh vực mà ngành mình, đơn vị mình phụ trách.

Do vậy, cán bộ cấp trưởng, chủ trì sẽ khác với công việc của cấp phó hoặc của cán bộ chuyên môn. Bản chất công việc của lãnh đạo quản lý là điều hành trên cơ sở tạo dựng các thể chế, chính sách để huy động, phân bổ nguồn lực sao cho phù hợp. Người đứng đầu có thể không nắm một cách cụ thể, chi tiết tất cả vấn đề, nhưng nhất định phải nắm được mấu chốt, nội dung cốt lõi, cơ bản của lĩnh vực, vấn đề về hệ thống nhiệm vụ mà mình đang được giao.

Hiện nay, trong một số trường hợp, lĩnh vực, việc lựa chọn lãnh đạo quản lý tuy vẫn “đúng quy trình” nhưng kết quả thực hiện nhiệm vụ lại chưa như ý muốn. Thậm chí có người làm việc gì kết quả cũng chỉ “làng nhàng”, nhưng vì nhiều lý do, họ vẫn được cất nhắc làm lãnh đạo, do đó, họ không nắm chắc nhiệm vụ là điều dễ hiểu. Sở dĩ như vậy là vì, việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay đôi khi còn chưa thực sự coi trọng năng lực lãnh đạo như một điều kiện cần. Trong khi đó, năng lực lãnh đạo của cán bộ lại chưa được đưa vào quy trình bổ nhiệm như một tiêu chí có tính định lượng, mà hiện nay, đánh giá tiêu chí này cơ bản mang tính định tính. Do vậy sẽ có hiện tượng “lọt lưới” hoặc là “ngồi nhầm ghế” lãnh đạo, chủ trì.

Cán bộ phải biết mình có gì và thiếu gì

Hiện tượng cán bộ chủ trì thiếu năng lực nhưng vẫn lãnh vị trí đứng đầu sẽ dẫn đến không đủ khả năng nắm bắt và làm tròn trách nhiệm trong công tác, từ đó cũng có thể xảy ra sự né tránh, đùn đẩy, đổ thừa trách nhiệm cho cấp dưới, khiến công việc trì trệ, không hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ (...). Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” (...). Phải "chí công vô tư" và có tinh thần "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Đó là đạo đức của người cộng sản”(*).

Thời phong kiến đã có chuyện mua quan, bán chức. Nghĩa là người mua chức bỏ ra một khoản tiền để mua chức vụ và được làm quan. Họ coi đó là cuộc “đầu tư danh lợi”, vì thế sẽ không sốt sắng chăm lo công việc mà chỉ lo vơ vét, hoàn vốn, kiếm lời và tái đầu tư ở vị trí cao hơn. Ngày nay, nếu lãnh đạo quản lý chỉ chăm lo vun vén cá nhân mà thờ ơ với công việc, thiếu trách nhiệm với vị trí, chức trách được giao thì cũng không khác gì những “ông quan mua chức” ngày xưa.

Bởi vậy, việc lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ cần phải làm cho nghiêm, cho đúng, việc giám sát công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cũng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, thành thực ở tất cả các lĩnh vực. Trong thực tế, ở nhiều cơ quan, đơn vị hiện nay, việc đánh giá hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ trì còn chung chung, xuê xoa, xuôi chiều mà chưa mang tính cá nhân hóa. Các báo cáo về công tác lãnh đạo, quản lý còn khá cứng nhắc, hình thức và mang tính tập thể cao. Quy định và thực thi trách nhiệm giải trình trước tập thể, nhân dân cũng còn hạn chế, vẫn rơi vào tình trạng “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”. Thế nên cái yếu, cái hạn chế của một số cán bộ chủ trì chậm được khắc phục, thậm chí có cán bộ còn không biết mình có điểm yếu để tự khắc phục. 

Hệ lụy đầu tiên của hiện tượng trên là công việc trì trệ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển, làm mất cơ hội hoặc làm giảm hiệu quả từ nguồn lực đầu tư. Hậu quả lớn hơn là làm suy giảm động lực làm việc của tập thể, làm mất niềm tin của nhân dân.

Khắc phục hiện tượng nêu trên cần tiếp tục rà soát, hoàn chỉnh cơ chế lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ để bảo đảm luôn chọn được người đủ tâm, tầm, tài bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu, bổ sung điều kiện về đo lường, đánh giá có tính định lượng năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức của cán bộ, coi đó là tiêu chí quan trọng, quyết định của quy trình bổ nhiệm.

Bên cạnh đó, cần tăng cường sự giám sát hoạt động lãnh đạo bảo đảm tính thường xuyên, liên tục qua thực hiện quy chế về trách nhiệm giải trình, qua kênh góp ý và sự hài lòng của người dân đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là người cán bộ lãnh đạo phải biết kiểm soát mình, phải biết mình mạnh gì, yếu gì để tự học tập, bồi dưỡng, không ngừng tự nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành, xứng tầm với công việc, nhiệm vụ mà tổ chức tin tưởng giao phó./.

Thành tựu phát triển của Việt Nam - giá trị không thể phủ nhận

Các thế lực thù địch luôn cố tình phủ nhận những giá trị phát triển của Việt Nam. Với tâm địa xấu, họ xuyên tạc rằng “dưới chế độ cộng sản, đất nước Việt Nam ngày càng tụt hậu so với thế giới”, “đời sống người dân khổ cực”... Thế nhưng tất cả những tuyên truyền thiếu khách quan, thiếu tử tế và sai trái đó đều bị thực tiễn tại Việt Nam vạch trần. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Việt Nam đuổi kịp và vượt qua nhiều nước đã phát triển trước, người dân được chăm lo toàn diện, có cuộc sống ngày càng khấm khá.

Kinh tế Việt Nam dần vươn lên nhóm trên

Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, quy mô tổng sản phẩm nội địa (GDP) của nền kinh tế Việt Nam theo giá hiện hành năm 2023 ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD. Với kết quả này, quy mô nền kinh tế Việt Nam năm 2023 xếp thứ 34 thế giới theo bảng xếp hạng của Trung tâm Nghiên cứu kinh tế và kinh doanh ở Anh (CEBR). Theo dự báo, nếu tiếp tục duy trì đà phục hồi và tăng trưởng thì đến năm 2038, với quy mô GDP dự kiến đạt 1.559 tỷ USD, nền kinh tế Việt Nam có thể sẽ vượt qua các nền kinh tế khác trong khu vực Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) như Philippines (1.536 tỷ USD), Thái Lan (1.313 tỷ USD), Singapore (896 tỷ USD) để lọt nhóm 25 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Thành tựu phát triển của Việt Nam - giá trị không thể phủ nhận
Thủ đô Hà Nội nhìn từ phía cầu Nhật Tân. Ảnh: TUẤN HUY  

Thậm chí, nếu xét về GDP (PPP) hay còn gọi là GDP theo sức mua thì theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Việt Nam hiện xếp thứ 3 khu vực Đông Nam Á và thứ 25 thế giới. Theo đó, năm 2023, Indonesia là quốc gia có quy mô GDP (PPP) lớn nhất trong khu vực Đông Nam Á, đạt khoảng 4.391 tỷ USD. Xếp thứ hai là Thái Lan với quy mô GDP (PPP) đạt khoảng 1.563 tỷ USD. Việt Nam xếp thứ 3 với quy mô GDP (PPP) đạt khoảng 1.438 tỷ USD. Philippines xếp thứ 4 với quy mô GDP (PPP) đạt khoảng 1.280 tỷ USD. Malaysia xếp thứ 5 với quy mô GDP (PPP) đạt khoảng 1.221 tỷ USD. GDP (PPP) Singapore đạt khoảng 759,52 tỷ USD, xếp thứ 6 trong khu vực Đông Nam Á. Đến năm 2026, quy mô GDP (PPP) Việt Nam được IMF dự báo đạt khoảng 1.833 tỷ USD, đứng thứ hai trong khu vực Đông Nam Á, vượt qua Thái Lan (đạt khoảng 1.807 tỷ USD) và chỉ xếp sau Indonesia (đạt khoảng 5.402 tỷ USD).

Xét trên quy mô thế giới, đến năm 2023, quy mô GDP (PPP) Việt Nam đã xếp trên Hà Lan và Thụy Sĩ. Cụ thể, GDP (PPP) Hà Lan đạt khoảng 1.290 tỷ USD, xếp thứ 27 trên thế giới và Thụy Sĩ đạt khoảng 787 tỷ USD, xếp thứ 35 trên thế giới vào năm 2023. Cùng với đó, khoảng cách với Australia (đạt khoảng 1.724 tỷ USD, xếp thứ 20 thế giới) và Ba Lan (đạt khoảng 1.706 tỷ USD, xếp thứ 21 trên thế giới) không còn quá xa. Đến năm 2029, IMF dự báo quy mô GDP (PPP) Việt Nam (2.343 tỷ USD) vượt qua Australia và Ba Lan, xếp thứ 20 trên thế giới. 

Xét một cách toàn diện thì GDP (PPP) mang lại bức tranh kinh tế toàn diện hơn so với GDP. Bởi GDP (PPP) đo lường giá trị toàn bộ hàng hóa và dịch vụ sản xuất của một quốc gia trong một năm dựa trên sức mua của tiền tệ địa phương. GDP (PPP) thường được sử dụng để so sánh sức mạnh kinh tế giữa các quốc gia và để xác định mức sống của người dân trong các quốc gia khác nhau. Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan về khả năng mua sắm của một quốc gia và giúp đánh giá sự phát triển kinh tế và tiêu dùng của nó.

Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, Việt Nam là quốc gia còn rất nhiều tiềm năng, dư địa để tăng tốc phát triển kinh tế. Do đó, những mục tiêu phát triển mà Đại hội XIII của Đảng đã đặt ra là hoàn toàn khả thi.

Người dân được hưởng thành quả của phát triển

Tại một số nơi trên thế giới, kinh tế phát triển nhưng đời sống của đại bộ phận người dân còn khó nhọc, nước phát triển nhưng dân không giàu, không sung sướng. Tại Việt Nam, khi nền kinh tế đang thăng hạng nhanh thì cùng với đó, cuộc sống người dân đã được cải thiện nhanh. Theo số liệu Tổng cục Thống kê công bố vào tháng 4-2024, thu nhập bình quân đầu người tại Việt Nam giai đoạn 2012-2022 đã tăng hơn 2,3 lần, từ 1,99 triệu đồng/người/tháng lên 4,67 triệu đồng/người/tháng. Mỗi người Việt Nam có thể tự so sánh để cảm nhận mức sống của bản thân được nâng lên rất nhiều và toàn diện so với 5 năm, 10 năm trước. Tại các thành phố lớn, xuất hiện rất nhiều khu đô thị hạng sang. Do mức sống tăng, có tài sản tích lũy nên người Việt Nam có cơ hội đi công tác, du lịch, học tập ở các nước phát triển trên thế giới và thấy rằng, điều kiện sống, điều kiện sinh hoạt tại Việt Nam không còn thua kém nhiều so với các nước trên.

Cùng với đó, Việt Nam thực hiện chính sách phát triển bao trùm, quan tâm đến các chính sách xã hội, chăm lo người nghèo, thúc đẩy sự phát triển của miền núi, vùng sâu, vùng xa. Năm 2023, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước chỉ còn 3,4%. Chế độ, chính sách trợ giúp xã hội được sửa đổi theo hướng mở rộng về đối tượng, tăng về mức hưởng trợ cấp. Hiện nay, cả nước có khoảng 3,356 triệu người (chiếm khoảng 3,356 % dân số) đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng tại cộng đồng. Từ ngày 1-7-2024, mức chuẩn trợ cấp xã hội tăng từ 360.000 đồng/tháng lên 500.000 đồng/tháng, tương ứng tăng 38,9% so với mức trợ cấp trước đó.

Các phúc lợi xã hội trong giáo dục, y tế, nhà ở tại Việt Nam đều được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Hiện nay, cả hệ thống chính trị tại Việt Nam đang nỗ lực chung tay hỗ trợ người nghèo xây dựng nhà để đến hết năm 2025 sẽ xóa được toàn bộ 400.000 nhà tạm, nhà dột nát trên cả nước. Nếu mục tiêu này được thực hiện thành công sẽ là một thành tựu rất ý nghĩa.

Cảm nhận về hạnh phúc

Ngày Quốc tế hạnh phúc (20-3) năm nay, Việt Nam đón nhận thông tin tích cực khi trong Báo cáo hạnh phúc thế giới 2024, đất nước ta đứng thứ 54, tăng 11 bậc so với năm 2023. Xét ở khu vực châu Á, Việt Nam đứng vị trí thứ 6. Đây là bảng xếp hạng do Mạng lưới Giải pháp phát triển bền vững của Liên hợp quốc công bố dựa trên kết quả khảo sát tại 143 quốc gia và vùng lãnh thổ. Chỉ số hạnh phúc tại Việt Nam tăng đều qua các năm cho thấy kết quả đạt được rất quan trọng của Đảng, Nhà nước ta về chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, đem lại hạnh phúc cho nhân dân. Trong lúc tình hình an ninh của nhiều khu vực trên thế giới rất phức tạp với cảnh bom rơi đạn lạc thì người dân Việt Nam càng cảm nhận được sự vô giá của hòa bình, hạnh phúc mà mình đang được hưởng.

Dù mức sống chưa bằng nhiều quốc gia trên thế giới nhưng người Việt Nam dù có đi khắp năm châu, bốn bể vẫn thấy quê cha đất tổ là nơi hạnh phúc nhất, an toàn nhất đối với mình. Có những giá trị nằm ngoài vật chất tạo ra sức hút của mảnh đất hình chữ S. Đó là cuộc sống thanh bình, là giá trị về văn hóa, tinh thần. Những giá trị truyền thống tốt đẹp của văn hóa, con người, gia đình tại Việt Nam vẫn được gìn giữ. Nhiều khách nước ngoài chỉ cần đến Việt Nam lần đầu cũng đã yêu mảnh đất, con người Việt Nam và muốn gắn bó lâu dài. Đó là vì họ thấy cuộc sống ở Việt Nam rất dễ chịu, cảnh sắc thiên nhiên tươi đẹp, con người thân thiện, mến khách. Do đó, dựa vào phản hồi từ du khách, Flight Centre-một trong những công ty lữ hành lớn nhất thế giới-đã xếp Việt Nam là một trong 10 quốc gia hàng đầu thế giới dành cho khách du lịch.

Vì thế, có thể thấy rõ rằng, những giá trị của kinh tế phát triển, đời sống người dân hạnh phúc đều đã được thể hiện trên thực tế tại Việt Nam và được quốc tế công nhận. Do đó, dù các thế lực thù địch, những kẻ xấu có cố công xuyên tạc, bóp méo thì cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên đó, mà chỉ khiến họ trở nên nực cười./.
ST.