Thứ Bảy, 2 tháng 11, 2024

Quân đội không vì hòa bình mà lơi lỏng tay súng

Bác Hồ đã căn dặn các chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong trong buổi trò chuyện thân mật ngày 19-9-1954 trước khi đơn vị vào tiếp quản Thủ đô: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”.

Tiếp quản thành công Thủ đô Hà Nội…

Trước khi vào tiếp quản Thủ đô, ngày 19-9-1954, tại Đền Giếng trong Khu Di tích Đền Hùng (Phú Thọ), Đại đoàn 308 - Đại đoàn Quân Tiên Phong có vinh dự được Bác Hồ trực tiếp giao nhiệm vụ: “Tiếp quản Thủ đô phải thận trọng, chu đáo; tổ chức và kỷ luật trong công tác và sinh hoạt phải nghiêm minh; giữ gìn trật tự, an ninh, bảo vệ tính mạng tài sản của nhân dân; chống mọi hành động phá hoại vì: Kẻ địch còn lẩn lút, dân ta còn có những việc làm vô ý, cán bộ và chiến sĩ ta còn có những nhận thức và việc làm sơ hở thiếu sót; phải bảo vệ công thương nghiệp, kể cả công thương nghiệp của ngoại kiều”. Đồng thời, Bác nói về tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Bác nhắc nhở Quân đội không vì hòa bình mà lơi lỏng tay súng. Còn đế quốc ở miền Nam ta còn phải xây dựng miền Bắc, giải phóng miền Nam. Nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc còn rất nặng nề. Người căn dặn: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. 

Quân đội không vì hòa bình mà lơi lỏng tay súng

Bác Hồ nói chuyện với các chiến sĩ Đại đoàn Quân Tiên Phong tại Đền Giếng, ngày 19-9-1954. Ảnh: Hochiminh.vn 

Thực hiện lời dạy của Bác và thi hành các thỏa thuận đã ký kết, sáng ngày 10-10-1954, các đơn vị Quân đội nhân dân Việt Nam gồm có bộ binh, pháo binh, cao xạ, cơ giới... từ năm cửa ô, với quân phục chỉnh tề, huy hiệu “Chiến thắng Điện Biên Phủ” lấp lánh trên ngực, lưỡi lê tuốt trần đứng trên các xe ô tô sơn màu xanh rêu, cánh cửa in phù hiệu cờ đỏ sao vàng hùng dũng tiến vào Thủ đô Hà Nội trong niềm vui, phấn khởi chào đón của nhân dân thành phố. 

Hướng Tây Bắc theo đường số 1A, cán bộ, chiến sĩ Trung đoàn Thủ đô do Trung đoàn trưởng Nguyễn Quốc Trị dẫn đầu cùng đoàn cán bộ Thủ đô từ Quần Ngựa theo Kim Mã, tiến qua các phố Hàng Giầy, Hàng Bông, Hàng Gai đến Hàng Ngang, Hàng Đào rồi tiến vào Thành Hà Nội qua các đường Phan Đình Phùng, Cửa Bắc.

Hướng Đông Nam theo đường số 1A, Trung đoàn 36 và Trung đoàn 88 do Trung đoàn trưởng Hồng Sơn (Trung đoàn 36) và Chính ủy Đặng Quốc Bảo (Trung đoàn 88) chỉ huy từ Việt Nam học xá tiến qua Bạch Mai, phố Huế, chợ Hôm đến hồ Hoàn Kiếm, tập kết ở khu vực Đồn Thủy và Đấu Xảo.

Quân đội không vì hòa bình mà lơi lỏng tay súng

Các chiến sĩ Trung đoàn 36 và Trung đoàn 88 tiến qua Bạch Mai, phố Huế…vào tiếp quản Thủ đô sáng 10-10-1954. Ảnh tư liệu TTXVN 

Hướng Tây Nam, đoàn chỉ huy tiếp quản gồm đồng chí Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban quân chính thành phố cùng Bộ tư lệnh Đại đoàn 308 ngồi trên 100 chiếc xe ô tô từ Bạch Mai qua ngã tư Vọng, chia thành hai cánh. Cánh thứ nhất, theo đường cầu Đổ sang ngã tư Trung Hiền đến Ô Cầu Dền, phố Huế, Hàng Bài rồi hội quân với các cánh quân Tây Bắc, Đông Nam ở Bờ Hồ. Cánh thứ hai, theo đường Nhà thương Robin lên Ô Đồng Lâm (Kim Liên) đến Hàng Lọng (đường Nam Bộ) hợp quân với cánh tiến từ Cầu Giấy vào Cửa Nam rồi tiến theo đường Hàng Bông, Hàng Gai hợp quân ở Bờ Hồ. Bộ tư lệnh Đại đoàn 350 cùng hai Trung đoàn 254 và 33 hành quân từ Giáp Bát qua ngã tư Vọng vào sân bay Bạch Mai rồi triển khai làm nhiệm vụ bảo vệ Thành phố. 

Cả TP Hà Nội rạo rực trong niềm vui hân hoan giải phóng, sau nhiều năm sống dưới ách đô hộ của thực dân Pháp, người dân Hà Nội lại mới có một ngày hội lớn, tưng bừng, đầy phấn khởi của ngày trở về với độc lập, tự do. 15 giờ ngày 10-10-1954, còi Nhà hát Lớn thành phố nổi lên hồi dài, cả Hà Nội hướng về khu Cột Cờ chờ đón giây phút lịch sử. Lá cờ đỏ sao vàng, biểu tượng thiêng liêng của Tổ quốc được Anh hùng Nguyễn Quốc Trị kéo lên tung bay trên đỉnh Cột Cờ cổ kính, trang nghiêm. Sau khi đoàn quân nhạc cử bài “Tiến quân ca”, đồng chí Vương Thừa Vũ - Chủ tịch Ủy ban quân quản Thành phố đọc Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong đó căn dặn quân và dân Hà Nội phấn đấu xây dựng: “Làm cho Hà Nội thành một Thủ đô yên ổn, tươi vui và phồn thịnh”[3].

Công tác tiếp quản Thủ đô Hà Nội được các đơn vị tiến hành một cách nhanh, gọn, an toàn, các doanh trại của quân đội Pháp, 129 công sở, xí nghiệp, bệnh viện, trường học được thu hồi nguyên vẹn. Sinh hoạt của nhân dân nhanh chóng được ổn định, trật tự trị an được đảm bảo; thông tin liên lạc và các hoạt động công cộng được giữ vững.

Quân đội không vì hòa bình mà lơi lỏng tay súng
Người dân hân hoan hướng về lá quốc kỳ tung bay trên Cột cờ Hà Nội trong ngày Thủ đô được giải phóng, ngày 10-10-1954. Ảnh tư liệu TTXVN

Tiếp quản Thủ đô Hà Nội thành công còn là nguồn động viên, cổ vũ nhân dân cả nước đẩy mạnh phong trào đấu tranh, buộc đối phương phải chấp hành những nội dung đã được ký kết ở Hội nghị Geneva. 

… và giải phóng toàn miền Bắc

Dưới sự chỉ đạo của Khu Tả Ngạn, ngày 29-10-1954, bộ đội ta tiếp quản thị trấn Cẩm Giàng, thị trấn Kẻ Sặt. 6 giờ ngày 30-10, tiếp quản các vị trí của địch trên Đường số 5, Đường số 17, tổ chức lực lượng giữ gìn trật tự an ninh, sau đó từ hai hướng Tây và Nam, Trung đoàn 42, Trung đoàn 50 và các đơn vị bộ đội tỉnh tiến vào thị xã Hải Dương. 15 giờ ngày 30-10-1954, hơn 20.000 bộ đội, cán bộ và các tầng lớp nhân thị xã Hải Dương làm lễ mít tinh chào mừng thị xã và tỉnh Hải Dương được giải phóng. 

Hải Phòng ở miền Bắc và Quy Nhơn ở miền Nam, là hai điểm tập kết 300 ngày, nơi rút quân cuối cùng của quân đội Liên hiệp Pháp và Quân đội nhân dân Việt Nam. Bộ Tổng Tham mưu được lệnh dự kiến kế hoạch đề phòng trong tình huống xấu nhất có thể xảy ra ở miền Bắc cũng như kế hoạch đối phó với khu vực đóng quân của ta còn ở Liên khu 5. Đại đoàn 312 được lệnh cử cán bộ nghiên cứu tình hình thực tế khu vực Hải Phòng và chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu, nếu quân Pháp không chịu rút quân; kế hoạch tác chiến đã được Bộ Tổng tư lệnh chuẩn y vào ngày 16-4-1955. 

Đối với Liên khu 5, để lực lượng đủ bảo đảm giữ khu vực còn lại và nhanh chóng khôi phục vùng giải phóng cũ, những lực lượng khác nhanh chóng tập kết ra miền Bắc theo quy định của hiệp định. Cục Quân báo được lệnh đưa hai đại đội trinh sát theo dõi, bám sát hoạt động của địch ở khu vực Hải Phòng và cử thêm cán bộ vào Liên khu 5 bám sát tình hình để kịp thời xử trí. Trung ương cũng chỉ đạo Hải Phòng phát động quần chúng, công nhân đấu tranh chống hành động phá hoại của địch cũng như tranh thủ trao đổi với phía Pháp về hoạt động kinh tế, văn hóa nhằm duy trì mọi hoạt động bình thường sau khi tiếp quản. 

Theo chỉ thị của Ban Chỉ đạo khu vực 300 ngày và Thành ủy Hải Phòng, ngày 13-5-1955, các đơn vị tiến quân vào nội thành Hải Phòng. Trung đoàn 48 (Đại đoàn 320) tiến quân theo đường số 10 qua cầu Niệm, cầu Rào vào triển khai lực lượng ở khu vực cảng. Trung đoàn 42 theo Đường số 5 vượt qua cửa ô phía Tây Bắc thành phố, triển khai lực lượng tiếp quản khu vực các nhà máy tơ, cá hộp, Nhà ga, Nhà băng Năm sao, Ngã sáu, Khu Hải quân, Nhà máy Oxygen, Chùa Đỏ. Trung đoàn 53 vào tiếp quản khu Pháo thủ, Trường Kỹ nghệ, khu vực từ cầu Hạ Lý đến sông Tam Bạc. 

Cùng với các cánh quân tiến vào Thành phố, Ban Chỉ đạo khu vực 300 ngày, Ủy ban quân chính Thành phố, Bộ tư lệnh khu Tả Ngạn và đoàn cán bộ Bộ Tổng Tham mưu do Thiếu tướng Văn Tiến Dũng - Tổng Tham mưu trưởng dẫn đầu tiến vào trung tâm Thành phố trong sự chào đón nồng nhiệt của hàng vạn đồng bào. 15 giờ 20 phút ngày 13-5, tàu Djiring Bordeaux chở những binh lính Pháp cuối cùng rời bến cảng, chính thức chấm dứt sự chiếm đóng của quân Pháp đối với TP Hải Phòng. Cùng thời điểm này, ca nô treo cờ đỏ sao vàng thực hiện phiên tuần tra đầu tiên trên bến cảng.

Quân đội không vì hòa bình mà lơi lỏng tay súng

Bộ đội ta vào tiếp quản Hải Phòng ngày 13-5-1955. Ảnh tư liệu TTXVN 

Dưới sự lãnh đạo của Trung ương Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Bộ tư lệnh Liên khu III, Khu Tả Ngạn và các ban chỉ đạo khu vực 80 ngày, 100 ngày, 300 ngày, quân và dân ta nêu cao cảnh giác, đấu tranh làm thất bại các âm mưu phá hoại của kẻ thù, buộc thực dân Pháp và các thế lực phản động phải thi hành các điều khoản đã được quy định trong nội dung Hiệp định Geneva, rút quân khỏi các khu vực theo đúng quy định. Toàn miền Bắc được giải phóng, chấm dứt hoàn toàn ách đô hộ của thực dân Pháp. Đây là thắng lợi quan trọng trong cuộc đấu tranh yêu cầu đối phương thực thi đúng quy định của Hiệp định Geneva. 

Thực hiện thắng lợi kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và các nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc sau này

Bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, mặc dù phải đối đầu với tên đầu sỏ của chủ nghĩa đế quốc có lực lượng quân sự hàng đầu thế giới, nhưng dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Quân đội nhân dân Việt Nam đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, hy sinh, anh dũng chiến đấu, mưu trí, sáng tạo, “dám đánh, quyết đánh, biết đánh và biết thắng” đã lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, cùng nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đánh bại ý chí xâm lược của đối phương; đánh bại nỗ lực cao nhất của kẻ thù, làm nên Chiến thắng “Điện Biên Phủ trên không” trên bầu trời Hà Nội (12-1972); tiến hành Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, viết lên trang sử hào hùng, oanh liệt của thời đại Hồ Chí Minh. 

Quân đội không vì hòa bình mà lơi lỏng tay súng

Xe tăng Quân giải phóng húc đổ cổng Dinh Độc Lập trưa 30-4-1975. Ảnh tư liệu 

Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Quân đội nhân dân Việt Nam đã anh dũng chiến đấu, cùng cả nước tiến hành thắng lợi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới Tây Nam, biên giới phía Bắc, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng. Bước vào công cuộc đổi mới, phát triển đất nước, Quân đội nhân dân Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh, bảo vệ sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta; bảo vệ độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển, biên giới và hải đảo của nước Việt Nam thống nhất... Tích cực tham gia sản xuất, góp phần xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. 

Mỗi chiến công, mỗi thành tựu của Quân đội nhân dân Việt Nam là sự kết tinh của nhiều yếu tố. Đó là sự lãnh đạo của Đảng, là thực hiện theo tư tưởng của Bác, là sự đóng góp của nhân dân, sự phấn đấu hy sinh, quên mình, anh dũng, sáng tạo của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ... đã đi vào lịch sử dân tộc như bản hùng ca bất hủ, biểu tượng sáng ngời ý chí chiến đấu vì độc lập, tự do, vì chủ nghĩa xã hội, để lại những kinh nghiệm sâu sắc về tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, về xây dựng lực lượng, phương pháp tiến hành và nghệ thuật quân sự phát huy sức mạnh tổng hợp trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. 

Lời căn dặn của Bác không chỉ nói với Đại đoàn Quân Tiên Phong mà còn nói với toàn quân, toàn dân ta, không chỉ nói với thế hệ năm xưa mà còn nói với thế hệ hôm nay và cả với các thế hệ mai sau, như một mệnh lệnh vang vọng ngàn năm, trường tồn cùng với đất nước, với dân tộc Việt Nam: “Dựng nước phải đi đôi với giữ nước”. /.

ST.         

Mãi mãi là niềm tự hào của hai dân tộc Việt Nam - Lào

Chiến tranh tuy đã lùi xa, nhưng những chiến công xuất sắc của Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào trong những năm tháng thực hiện nghĩa vụ quốc tế cao cả trên đất nước triệu voi mãi mãi được ghi nhớ và là niềm tự hào của cả hai dân tộc.

Tại cuộc gặp mặt kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào (30-10-1949 / 30-10-2024) sáng 29-10, tại Hà Nội, một chặng đường lịch sử vẻ vang "kề vai sát cánh" bên nhau của hai dân tộc Việt Nam và Lào đã được tái hiện sống động.

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam, Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến dự. Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước Lào, Đại tướng Chansamone Chanyalath, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, Phó thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng đến dự.

Tham dự cuộc gặp mặt còn có Thượng tướng Vũ Hải Sản, Ủy viên Trung ương Đảng, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Thượng tướng Phùng Sĩ Tấn, Phó tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam; các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào...

Nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung, son sắt

Phát biểu tại cuộc gặp mặt, Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh, là hai quốc gia có nhiều nét tương đồng về lịch sử, kinh tế, văn hóa, cùng tựa lưng vào dãy Trường Sơn hùng vĩ, uống chung dòng nước Mê Công, Việt Nam và Lào đã gắn kết chặt chẽ với nhau như một quy luật tự nhiên. Đây là nhân tố có ý nghĩa sống còn của mỗi Đảng, mỗi nước và đã được thử thách qua lịch sử.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, phong trào cách mạng của hai nước đã không ngừng phát triển, hai dân tộc đã đoàn kết cùng đứng lên chống kẻ thù chung, trở thành tình đoàn kết, liên minh chiến đấu đặc biệt, một điển hình mẫu mực hiếm có trong lịch sử quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong đó, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam hoạt động trên đất bạn Lào là biểu tượng cao đẹp, sự gắn kết bền chặt của tình đoàn kết đặc biệt ấy.

Ngay sau khi Việt Nam giành được độc lập vào năm 1945, Chính phủ hai nước đã sớm ký kết Hiệp ước tương trợ Việt-Lào, Hiệp định về tổ chức liên quân Lào-Việt. Đặc biệt, ngày 30-10-1949, Ban Thường vụ Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã quyết định các lực lượng quân sự của Việt Nam chiến đấu và công tác giúp Lào tổ chức thành hệ thống riêng và lấy danh nghĩa là Quân tình nguyện.

Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh, đây là mốc lịch sử quan trọng, đánh dấu bước phát triển và trưởng thành của các lực lượng quân sự Việt Nam trên chiến trường Lào; khẳng định đường lối, quan điểm đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam trong thực hiện nhiệm vụ quốc tế. Với ý nghĩa đó, ngày 30-10-1949 được lấy làm Ngày truyền thống Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào.

Là một thành phần của Quân đội nhân dân Việt Nam làm nhiệm vụ quốc tế trên đất bạn Lào, cán bộ, chiến sĩ Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương của Đảng, lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”. Trong khoảng 4 thập niên thực hiện nhiệm vụ quốc tế cao cả trên đất bạn Lào, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đã nêu cao tinh thần quốc tế trong sáng, thủy chung, son sắt, hoàn thành đặc biệt xuất sắc các nhiệm vụ mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tin tưởng giao phó, cùng với lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc Lào lập nên những chiến công hiển hách, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của hai Đảng, hai Nhà nước, quân đội và nhân dân hai nước, góp phần vun đắp tình đoàn kết đặc biệt Việt Nam-Lào, liên minh chiến đấu có một không hai trong lịch sử.

Ghi nhận, biểu dương những chiến công, thành tích đặc biệt xuất sắc và đóng góp to lớn đối với cách mạng hai nước Việt Nam-Lào, lực lượng Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào vinh dự được Đảng, Nhà nước Việt Nam và Lào trao tặng nhiều danh hiệu, phần thưởng cao quý. Đại tướng Phan Văn Giang tin tưởng, với truyền thống vẻ vang của Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào, với ý chí, nhiệt tình và trách nhiệm, Ban liên lạc toàn quốc cựu Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào sẽ tiếp tục có những đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; củng cố, vun đắp, bảo vệ và phát triển mối quan hệ hữu nghị vĩ đại, đoàn kết đặc biệt, hợp tác toàn diện Việt Nam-Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững, như lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Việt-Lào hai nước chúng ta, tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long” và Chủ tịch Kaysone Phomvihane: “Núi có thể mòn, sông có thể cạn, song tình nghĩa Lào-Việt Nam sẽ mãi mãi vững bền hơn núi, hơn sông”.

Mãi mãi là niềm tự hào của hai dân tộc Việt Nam - Lào

Đại tướng Phan Văn Giang, Đại tướng Chansamone Chanyalath cùng các đại biểu với các 

cựu Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào. Ảnh: PHÚ SƠN

Hy sinh xương máu để làm tròn nghĩa vụ quốc tế

Những chiến công, thành tích, sự hy sinh của Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh chung một chiến hào đã để lại trong lòng nhân dân Lào những tình cảm sâu nặng và sự trân trọng đặc biệt.

Phát biểu tại cuộc gặp mặt, Đại tướng Chansamone Chanyalath khẳng định, Đảng, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Lào luôn nhận thức sâu sắc rằng, trên mảnh đất thân yêu của mình từ Bắc vào Nam, những giọt mồ hôi và xương máu của các chiến sĩ cách mạng hai nước đã trộn lẫn vào nhau, vì nền độc lập, tự do của Lào. Không ai có thể đếm được bao nhiêu dòng suối, ngọn núi, con sông trên đất nước Lào mà các chiến sĩ cách mạng hai nước đã đi qua trong thời kỳ chiến đấu chống kẻ thù chung.

“Đảng, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Lào bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Việt Nam nói chung, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam nói riêng đã cùng chung gian khổ với quân và dân Lào, hy sinh xương máu của mình để làm tròn nghĩa vụ quốc tế tại Lào trong hàng chục năm liền, có người đã coi Lào là quê hương thứ hai của mình, nhiều người đã dành cả cuộc đời chiến đấu, làm chuyên gia trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhiều hơn thời gian bên gia đình ở Việt Nam. Mặc dù nhiều thập niên đã trôi qua, hai nước chúng ta đã cùng nhau xây dựng xã hội chủ nghĩa hơn 40 năm qua nhưng sự ghi nhớ, biết ơn của Đảng, Chính phủ, Quân đội và nhân dân Lào đối với những cống hiến và sự hy sinh to lớn của Quân đội và nhân dân Việt Nam anh em dành cho sự nghiệp cách mạng của Lào sẽ không bao giờ phai nhạt, mãi mãi in sâu trong trái tim của mình”, Đại tướng Chansamone Chanyalath nhấn mạnh.

Ký ức hào hùng

Đại diện các cựu Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào phát biểu, Trung tướng Nguyễn Đức Sơn, Phó trưởng ban Liên lạc toàn quốc cựu Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam tại Lào đã có những chia sẻ chân thành, mộc mạc, khiến ký ức về một thời chiến đấu hào hùng trên xứ sở hoa Champa được tái hiện như một thước phim quay chậm.

Trung tướng Nguyễn Đức Sơn khẳng định, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại Lào trong tâm thế bạn hữu truyền thống, anh em ruột thịt, giúp bạn vô điều kiện, vô tư, trong sáng, tôn trọng, thương yêu bạn, “không gợn chút vị kỷ nào ngay cả trong suy nghĩ”. “Hạt muối cắn đôi, cọng rau bẻ nửa” không phải là tượng trưng, ước lệ mà là thực tế hằng ngày theo nghĩa đen. Mỗi sự trưởng thành, mỗi thắng lợi của cách mạng Lào đều thực sự là niềm vui, thắng lợi của chính Việt Nam.

Theo yêu cầu phát triển từng thời kỳ, số lượng, hình thức tổ chức của Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam tại Lào được thay đổi linh hoạt, lúc tập trung, khi phân tán, lúc nhiều, lúc ít... Nhưng sự hiện diện của Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam chưa bao giờ gián đoạn, kể cả khi lực lượng cách mạng Lào còn non trẻ cũng như lúc đã giành được chính quyền mà vẫn còn bị các thế lực phản động chống phá. Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam có mặt ở tất cả các vùng đất của Lào, cho dù là những nơi hẻo lánh, xa xôi, khó khăn, gian khổ nhất.

“Với Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân Lào, Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam không chỉ là đồng chí, đồng đội cùng chiến hào mà hơn thế, là con em trong gia đình. Mỗi cựu Quân tình nguyện và chuyên gia Việt Nam đều có quyền tự hào về những đóng góp trực tiếp, góp phần nhỏ bé của mình vào thắng lợi của cách mạng Lào, cách mạng Việt Nam... Chúng tôi xin hứa với lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Quân đội, xin hứa trước anh linh của các liệt sĩ đã hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc, sẽ tiếp tục phát huy truyền thống Bộ đội Cụ Hồ, truyền thống người chiến sĩ tình nguyện, không ngừng nỗ lực tiếp tục phấn đấu góp phần vun đắp, xây dựng tình đoàn kết đặc biệt, thủy chung son sắt Việt Nam-Lào mãi mãi xanh tươi, đời đời bền vững và truyền lại cho các thế hệ kế tiếp”, Trung tướng Nguyễn Đức Sơn nhấn mạnh./.

ST.

"Nước rút đến đâu, khắc phục đến đó"

Tranh thủ nước rút, tại các huyện Quảng Ninh, Lệ Thủy (Quảng Bình), lực lượng bộ đội, dân quân khẩn trương khắc phục thiệt hại mưa lũ, giúp nhân dân sớm ổn định cuộc sống.

Ngày 30-10, tại Quảng Bình, mưa giảm, nước rút chậm. Tuy nhiên, ở các huyện Lệ Thủy, Quảng Ninh vẫn còn nhiều khu vực ngập sâu, đời sống người dân gặp rất nhiều khó khăn.

Nước rút dần, nhiệm vụ của lực lượng bộ đội, dân quân huyện Lệ Thủy cũng được điều chỉnh để phù hợp với tình hình thời tiết, sát từng địa bàn và nhu cầu thiết thực của người dân. Sau 3 ngày nỗ lực ứng cứu, di dời người, tài sản ra khỏi khu vực nguy hiểm, hơn 400 cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện Lệ Thủy tiếp tục tham gia vận chuyển người bệnh cấp cứu, điều trị, tiếp tế hàng cứu trợ, cấp phát lương thực, nhu yếu phẩm, nước uống cho bà con.

"Nước rút đến đâu, khắc phục đến đó"
Ban CHQS huyện Lệ Thủy (Quảng Bình) hỗ trợ nhu yếu phẩm cho người dân trên địa bàn huyện. 
"Nước rút đến đâu, khắc phục đến đó"

Bộ đội, dân quân huyện Quảng Ninh (Quảng Bình) tham gia khắc phục thiệt hại tại các trường học. 

Trung tá Phạm Xuân Hùng, Chính trị viên phó Ban CHQS huyện Lệ Thủy cho biết: "Đảng ủy, Ban CHQS huyện xác định đây là nhiệm vụ hết sức quan trọng, cấp thiết và dài ngày, vì vậy, anh em đơn vị và lực lượng dân quân rất nỗ lực, quyết tâm thực hiện nhiệm vụ với hiệu quả cao nhất để sớm ổn định đời sống và khôi phục sản xuất cho nhân dân".

Với phương châm "nước rút đến đâu, khắc phục đến đó", cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang huyện Quảng Ninh đã đến từng địa bàn trọng điểm ngập lụt, hỗ trợ chính quyền, nhân dân khắc phục thiệt hại do mưa lũ. Thượng tá Lê Ngọc Nhân, Chính trị viên Ban CHQS huyện Quảng Ninh chia sẻ: "Trước mắt, chúng tôi tập trung lực lượng, phương tiện giúp đỡ các gia đình chính sách, người neo đơn sửa chữa nhà cửa; phối hợp cùng các lực lượng vệ sinh môi trường, tổng dọn bùn đất, rác thải, cây cối ngã đổ trên các tuyến đường, công trình công cộng; sắp xếp bàn ghế, sửa chữa đồ dùng học tập tại các trường học để sớm đón học sinh trở lại trường".

Cùng với lực lượng tại chỗ, Bộ CHQS tỉnh Quảng Bình đã điều động 160 cán bộ, chiến sĩ các cơ quan, đơn vị trực thuộc cùng nhiều phương tiện cơ động tham gia hỗ trợ, giúp đỡ nhân dân hai huyện Quảng Ninh và Lệ Thủy. "Sau khi hành quân đến huyện Quảng Ninh, cán bộ, chiến sĩ đơn vị đã nhanh chóng bắt tay vào thực hiện nhiệm vụ. Căn cứ chỉ đạo của Bộ CHQS tỉnh và đề nghị của cấp ủy, chính quyền, người dân, đơn vị xác định hoàn thành mọi phần việc được giao mới cơ động trở về đơn vị"-Đại úy Lê Hoài Nam, Đại đội trưởng Đại đội Trinh sát cơ giới, Phòng tham mưu, Bộ CHQS tỉnh Quảng Bình khẳng định./.

ST.

Đổi mới gắn nhà trường với đơn vị

Trước yêu cầu ngày càng cao về đào tạo nguồn nhân lực phục vụ nhiệm vụ xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, những năm qua, Trường Sĩ quan Phòng hóa từng bước thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa nội dung, chương trình, quy trình đào tạo, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, đổi mới theo hướng “tinh giản, hiện đại, thiết thực” gắn nhà trường với đơn vị.

Bám sát nhu cầu thực tế đơn vị

Dù đang bận nhưng Đại tá Hoàng Văn Hoán, Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Phòng hóa vẫn dành cho chúng tôi buổi trò chuyện. Vừa trở về từ thao trường kiểm tra bộ đội huấn luyện, Đại tá Hoàng Văn Hoán chia sẻ: “Trong điều kiện hiện nay, những sự cố có liên quan đến hóa chất, độc xạ, ô nhiễm môi trường do cháy nổ, dịch bệnh… có thể xảy ra bất cứ lúc nào, bởi thế việc huấn luyện những nội dung này sát với tình hình thực tế là rất cần thiết. Đây cũng là yêu cầu đối với công tác giáo dục đào tạo ở nhà trường phải sát với khả năng sẵn sàng chiến đấu ở đơn vị”.

Đổi mới gắn nhà trường với đơn vị

Giảng viên hướng dẫn bộ đội thực hành động tác đo phóng xạ cho đối tượng nhiễm.

Gần ba mươi năm gắn bó với công tác giáo dục đào tạo ở Trường sĩ quan Phòng hóa, Đại tá Hoàng Văn Hoán cho rằng: Nhà trường và đơn vị có mối quan hệ chặt chẽ; đơn vị không chỉ là nơi sử dụng sản phẩm do nhà trường đào tạo, mà còn là nơi kiểm nghiệm, phản hồi chất lượng giáo dục đào tạo một cách khách quan, toàn diện và chính xác nhất. Do đó, những năm qua, Trường Sĩ quan Phòng hóa thường xuyên duy trì mối quan hệ chặt chẽ với các đơn vị phòng hóa trong toàn quân, để nắm nhu cầu của đơn vị, đồng thời đánh giá đúng thực trạng chất lượng học viên sau ra trường. Bên cạnh đó, Nhà trường chú trọng đổi mới chương trình, nội dung giáo dục đào tạo với đổi mới phương pháp dạy, học. Tập trung đổi mới, bổ sung những nội dung mà học viên mới tốt nghiệp ra trường còn thiếu, yếu.

Lật giở từng trang sổ nhật ký, Đại tá Hoàng Văn Hoán cho biết thêm, qua 6 lần Nhà trường tổ chức khảo sát đánh giá chất lượng học viên, nhân viên ra trường và bằng kinh nghiệm thực tế nhiều năm đưa học viên đi thực tập ở các đơn vị, đồng chí nhận thấy: Về cơ bản học viên ra trường đáp ứng được yêu cầu của đơn vị, nhiều đồng chí thích ứng nhanh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, có tiềm năng phát triển. Tuy nhiên, năng lực thực hành, “kỹ năng mềm” và khả năng huấn luyện, sử dụng vũ khí, trang bị kỹ thuật thế hệ mới của một số học viên sau khi ra trường còn hạn chế.

Đổi mới gắn nhà trường với đơn vị

Đại tá Hoàng Văn Hoán, Phó hiệu trưởng Trường Sĩ quan Phòng hóa kiểm tra bộ đội động tác thực hành sử dụng khí tài đề phòng cá nhân. 

Thực tế này đã được Đảng ủy, Ban giám hiệu Nhà trường bàn bạc, tìm giải pháp khắc phục. Trên cơ sở tiếp thu ý kiến đóng góp của các cơ quan, đơn vị phòng hóa và phân tích đánh giá thực tế, Nhà trường đã tập trung đổi mới chương trình, nội dung giáo dục đào tạo theo hướng chuẩn hóa, hiện đại, cắt giảm nội dung trùng lặp, giảm lý thuyết, tăng thời gian thực hành, tập trung nâng cao chất lượng huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật, điều lệnh; kết hợp huấn luyện với rèn luyện “kỹ năng mềm” thông qua các hoạt động ngoại khóa, hành quân dã ngoại làm công tác dân vận. Đồng thời, chú trọng đổi mới tổ chức phương pháp giảng dạy của giảng viên, tích cực xoay vòng, đổi tập để học viên được tiếp xúc nhiều lần với vũ khí, trang bị, khí tài.

Cùng với đó, Nhà trường tổ chức tốt việc nghiên cứu, sưu tầm tài liệu, tổng kết kinh nghiệm chiến đấu, kinh nghiệm thực tiễn, hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị, kinh nghiệm chỉ huy, quản lý để lồng ghép trong từng bài giảng nhằm truyền thụ tới học viên. Chủ động mời những đồng chí cán bộ đã tham gia chiến đấu, đã và đang giữ các cương vị lãnh đạo, chỉ huy các cơ quan, đơn vị phòng hóa trong toàn quân về nói chuyện chuyên đề cho cán bộ, giảng viên, học viên. Tham gia, tham quan nhiều cuộc diễn tập do Binh chủng và Bộ Quốc phòng tổ chức, nhất là diễn tập của các đơn vị trực thuộc Binh chủng và các đơn vị phòng hóa toàn quân.

Chuẩn hóa chương trình, đặt yêu cầu cao đối với cán bộ

Trao đổi về nhiệm vụ đào tạo, Đại tá Hoàng Văn Hoán cho biết, Trường Sĩ quan Phòng hóa là cơ sở đào tạo đa ngành, chuyên sâu về kỹ, chiến thuật phòng hóa, có nhiệm vụ đào tạo cán bộ, nhân viên hóa học từ trình độ sơ cấp đến đại học và tiểu đội trưởng hóa học. Ngoài đào tạo nhân lực cho Quân đội, Nhà trường còn liên kết đào tạo kỹ sư phòng hóa cho Học viện Kỹ thuật quân sự, đào tạo cán bộ chỉ huy kỹ thuật hóa học trình độ đại học cho Bộ Công an, Quân đội nhân dân Lào và Quân đội Hoàng gia Campuchia.

Những năm qua, Nhà trường thường xuyên phối hợp với các cơ quan, đơn vị phòng hóa trong toàn quân, nhất là với các lữ đoàn phòng hóa của Binh chủng Hóa học, Khoa Hóa học của Học viện Quốc phòng, Học viên Lục quân để triển khai nhiệm vụ nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong việc bổ sung, hoàn thiện hệ thống tài liệu huấn luyện, giáo trình dạy học đảm bảo sát với yêu cầu thực tiễn.

Nhà trường đã và đang phối hợp với các cơ quan, đơn vị phòng hóa, các cơ sở nghiên cứu trong trong và ngoài Binh chủng Hóa học để triển khai thực hiện đề tài độc lập cấp Bộ Quốc phòng: Bảo đảm hóa học đánh địch đổ bộ đường không chiến lược trong tác chiến phòng thủ chiến lược; chú trọng cử cán bộ đến các cơ quan như Cục Kỹ thuật, Phòng Quân huấn, Phòng Quân lực, Bộ Tham mưu Binh chủng Hóa học để thu thập tài liệu, thông tin về các trang bị kỹ thuật mới, xin ý kiến đóng góp đối với các bản thảo tài liệu huấn luyện.

Đổi mới gắn nhà trường với đơn vị
Giảng viên hướng dẫn bộ đội động tác thực hành tiêu tẩy.

Đưa cho chúng tôi xem một số cuốn giáo trình, tài liệu do Nhà trường biên soạn, Đại tá Hoàng Văn Hoán cho biết, ngoài việc nghiên cứu hệ thống tư liệu có sẵn, Nhà trường còn chủ động phối hợp với Lữ đoàn Phòng hóa 86, 87, 88, Viện Hóa học Môi trường quân sự Binh chủng Hóa học để cử cán bộ, giảng viên đến trực tiếp sử dụng trang bị kỹ thuật mới mà Nhà trường chưa được biên chế, trao đổi và thống nhất các nội dung biên soạn tài liệu huấn luyện, tập trung thống nhất thứ tự các bước sử dụng, làm cơ sở phục vụ cho hoàn thiện công tác nghiên cứu biên soạn và nghiệm thu.

Bên cạnh đó, Nhà trường đề cao vai trò của đội ngũ cán bộ quản lý trong hướng dẫn, giúp đỡ học viên củng cố kiến thức, hình thành phương pháp, tác phong chỉ huy, hoàn thiện nhân cách người cán bộ. Trong điều kiện mới, Nhà trường chú trọng bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý, quản trị hiện đại cho cán bộ quản lý ở các cấp, cũng như năng lực tổ chức xây dựng và thực hiện quy trình, chương trình đào tạo cho đội ngũ cán bộ, giảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ, giảng viên trực tiếp tham gia biên soạn chương trình đào tạo. Chủ động đề xuất với cấp trên hoàn thiện cơ chế chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ để thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là các nhà khoa học đầu ngành, những cán bộ có năng lực, kinh nghiệm thực tiễn trong công tác chỉ huy, quản lý đang công tác tại đơn vị về làm giảng viên tại Nhà trường.

Nhà trường tích cực thực hiện chuyển đổi số lĩnh vực giáo dục, đào tạo, gắn với xây dựng mô hình nhà trường thông minh. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ dạy, học và nghiên cứu khoa học; ưu tiên xây dựng các phòng học mô phỏng, phòng thí nghiệm chuyên dùng, hệ thống thư viện điện tử, kết nối internet với phương tiện, công nghệ hiện đại. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng, chuyển giao công nghệ cho cán bộ, giảng viên về khả năng sử dụng phương tiện, mô hình học cụ, vũ khí, trang thiết bị hiện đại để đáp ứng nhu cầu giảng dạy theo quy trình, chương trình đào tạo mới, qua đó góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đào tạo, đáp ứng yêu cầu xây dựng Quân đội, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới./.

ST.

Sửa đổi Luật Sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

Việc sửa đổi Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam, đặc biệt là tăng tuổi công tác, sẽ giúp nâng cao chất lượng đội ngũ, tạo điều kiện để sĩ quan phát triển sự nghiệp và ổn định cuộc sống. Bên cạnh đó, một số chính sách mới tạo động lực để thu hút nhân tài, giữ chân cán bộ, giảm tình trạng chảy máu chất xám, góp phần xây dựng Quân đội ngày càng vững mạnh.

Tăng tuổi công tác để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ

Quá trình công tác hơn 20 năm trong Quân đội, từ đơn vị đủ quân làm nhiệm vụ, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, chuyển về đơn vị bộ đội địa phương, tôi nhận thấy, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam lần này có nhiều điểm mới mang lại nhiều tác động tích cực.

Trong đó, đối với cán bộ sẽ có thêm thời gian để tích lũy kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn, đảm nhận những vị trí lãnh đạo quan trọng hơn. Với thời gian công tác dài hơn, sĩ quan sẽ có mức lương hưu cao hơn, nhất là với những sĩ quan mang quân hàm thiếu tá, trung tá, bảo đảm cuộc sống ổn định hơn sau khi nghỉ hưu, điều này cũng phù hợp với Bộ Luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội.

Cùng với đó, việc tận dụng kinh nghiệm của những sĩ quan có nhiều năm công tác phần nào giúp giảm thiểu chi phí đào tạo cán bộ, tuy nhiên, việc tăng tuổi công tác cũng đặt ra một số quy định để có cơ chế đánh giá, phân loại cán bộ bảo đảm những sĩ quan được kéo dài thời gian công tác thực sự có đủ phẩm chất, năng lực, có chế độ đãi ngộ hợp lý để thu hút và giữ chân những sĩ quan có trình độ cao.

Sửa đổi Luật Sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới
Đảng ủy Trung đoàn 974 công bố quyết định thành lập chi bộ trực thuộc Đảng bộ bộ phận Tiểu đoàn 460.

Nhiều chế độ, chính sách đãi ngộ với cán bộ

Quá trình hoàn thiện chế độ chính sách đối với sĩ quan trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam quy định rõ hơn một số chế độ, chính sách với sĩ quan, như thăng quân hàm, nâng lương trước thời hạn, chế độ bảo hiểm xã hội, chế độ nhà ở, đất ở, chăm sóc sức khỏe… tạo động lực cho cán bộ phấn đấu, rèn luyện để đạt được những thành tích cao hơn. Trong đó, quy định về bảo đảm chế độ nhà ở giúp đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ trẻ yên tâm công tác, giảm bớt gánh nặng về kinh tế, tập trung vào nhiệm vụ chính trị. Khi các chế độ chính sách tốt sẽ thu hút những người có tài, năng lực, có trình độ vào làm việc trong Quân đội.

Sửa đổi Luật Sĩ quan đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới

 Lãnh đạo Bộ CHQS tỉnh Khánh Hòa kiểm tra công tác huấn luyện tại Trung đoàn 974. 

Mặt khác, khi cán bộ được bảo đảm về đời sống, họ sẽ có tâm lý ổn định, gắn bó hơn với đơn vị, được xã hội tôn trọng và tin tưởng, từ đó nâng cao ý thức kỷ luật, kỷ cương, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được hiệu quả cao, việc thực hiện chính sách cần phải đi đôi với các giải pháp đồng bộ như nâng cao hiệu quả công tác giáo dục, quản lý, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ, đánh giá, phân loại cán bộ công bằng, thực chất, nghiêm minh, có cơ chế luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ trẻ vào những vị trí quan trọng.

Do vậy, việc tăng tuổi theo dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam là một bước đi cần thiết để hoàn thiện chế độ chính sách đối với sĩ quan, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới./.

ST.