Chủ Nhật, 3 tháng 11, 2024

Lựa chọn và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin theo tư tưởng Hồ Chí Minh

 

Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ lựa chọn đến với chủ nghĩa Mác - Lênin mà còn vận dụng sáng tạo học thuyết cách mạng, khoa học này vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để đưa cách mạng đến thắng lợi và bổ sung, làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin.

Lựa chọn và kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin theo tư tưởng Hồ Chí Minh - 1

Hình ảnh minh họa (Nguồn: Tuyengiao.vn)

Chủ nghĩa Mác - Lênin là ánh sáng soi đường

Chủ nghĩa Mác - Lênin do C.Mác và Ph.Ăngghen đặt nền móng, xây dựng vào đầu thế kỷ XIX và tiếp tục được V.I.Lênin bổ sung, phát triển từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ làm "phát lộ" bản chất, những mâu thuẫn cố hữu trong chế độ tư bản chủ nghĩa, mà còn chỉ rõ sự vận động của các hình thái kinh tế - xã hội và khẳng định tương lai của nhân loại là chế độ cộng sản chủ nghĩa. Đó cũng chính là học thuyết khoa học, cách mạng, nhân văn nhất đã chỉ rõ lực lượng, con đường, phương thức đấu tranh chống lại mọi áp bức, bóc lột, bất công trong xã hội để giải phóng xã hội, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Như là một sự lựa chọn của lịch sử, trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước đúng đắn khi Người được đọc "Sơ thảo Luận cương của Lênin về các vấn đề dân tộc và thuộc địa".

Vì Luận cương đã bàn đến các vấn đề dân tộc, thuộc địa, cách mạng giải phóng dân tộc, nên "Luận cương của Lênin làm cho tôi rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát khóc lên". Vì thế, "ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần chúng đông đảo: "Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta!""[1]. Và cũng vì thế, Người không chỉ tin tưởng, đi theo V.I. Lênin, Quốc tế thứ III, mà còn khẳng định: "Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin" và "Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin" (trong Đường Kách mệnh, 1927); đồng thời triển khai thực hiện những nhiệm vụ quan trọng, cấp bách để chuẩn bị sáng lập một chính đảng vô sản kiểu mới ở Việt Nam. Thực tế, những năm tháng lao động kiếm sống, nghiên cứu các mô hình tổ chức Nhà nước (Anh, Pháp, Mỹ…) và hoạt động trong phong trào cộng sản, công nhân quốc tế (Pháp, Nga, Trung Quốc…) đã giúp Người nhận thức sâu sắc rằng: "Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại (…)  Xem xét lại chủ nghĩa Mác về cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông, đó chính là nhiệm vụ của các Xô viết"[2]. Từ đó, Người đã vận dụng một cách sáng tạo học thuyết cách mạng này vào điều kiện cụ thể của Việt Nam để kiên định thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Một điểm đặc biệt là, vì hiểu rõ, hiểu đúng chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết cách mạng mở, không giáo điều và lý luận Mác - Lênin cho thấy rằng: "Với sự giúp đỡ của giai cấp vô sản các nước tiên tiến, các nước lạc hậu có thể tiến tới chế độ Xôviết, và qua những giai đoạn phát triển nhất định, tiến tới chủ nghĩa cộng sản, không phải trải qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa"[3], nên Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thực hiện thành công việc xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán; truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam; sáng lập Đảng Mácxít Lêninnít kiểu mới - xây dựng, rèn luyện Đảng thành "một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công"[4]. Đồng thời, Người cũng luôn nhấn mạnh yêu cầu "phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta"[5] để đề ra đường lối, chủ trương đúng đắn, phù hợp; để lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hơn 94 năm xây dựng và phát triển chứng minh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã không chỉ lựa chọn mà còn kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin trong quá trình thành lập và xây dựng, phát triển của Đảng Cộng sản Việt Nam (sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước); trong tiến trình thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc (cách mạng ở thuộc địa có thể giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một ví dụ); trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội (từ một xuất phát điểm thấp, Việt Nam đã quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa)… để bổ sung và làm phong phú hơn chủ nghĩa Mác - Lênin từ thực tiễn Việt Nam. Những kết quả của sự hiểu đúng, chân thực tinh thần, phép biện chứng và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; của việc "học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinh nghiệm ấy một cách sáng tạo" vào Việt Nam của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy việc Người nhấn mạnh: "Từ trong học thuyết dạt dào sức sống của chủ nghĩa Lênin, chúng tôi khơi nguồn sức mạnh để giành thắng lợi cho sự nghiệp thiêng liêng là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, để giành thắng lợi cho chủ nghĩa xã hội!"(trong bài viết Chủ nghĩa Lênin và công cuộc giải phóng các dân tộc bị áp bức) và khẳng định "chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay, mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được những thắng lợi to lớn như đồng chí đã biết. Chúng tôi giành được thắng lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng - mà không phải chỉ nhân dịp kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh Lênin - chúng tôi giành được những thắng lợi đó trước hết là nhờ cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin" (khi Trả lời phỏng vấn của Sáclơ Phuốcniô, phóng viên báo L'humanité (Pháp) ngày 15/7/1969) là hoàn toàn đúng đắn. Đó chính là lựa chọn và kiên định vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam để giành thắng lợi từng bước, tiến tới đưa sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đi đến thắng lợi hoàn toàn.

Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin là không thể phủ nhận

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 không chỉ góp phần tạo nên nước Nga xã hội chủ nghĩa và các nước xã hội chủ nghĩa để làm hậu thuẫn vững chắc cho cuộc đấu tranh giành, giữ độc lập dân tộc nói chung, ở các nước thuộc địa, phụ thuộc nói riêng, mà còn thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cộng sản, công nhân quốc tế trong thế kỷ XX và những thế kỷ sau nữa. Thực tế, đúng như V.I.Lênin đã nhấn mạnh, "chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống"[6], nên cho đến nay chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học, cách mạng để phân tích, luận giải xu hướng phát triển của nhân loại trong bối cảnh cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại đã, đang, ngày càng phát triển mạnh mẽ. Vì vai trò của chủ nghĩa Mác - Lênin không hề giảm đi mà trái lại càng được nâng cao trong thế giới đương đại; vì "chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái "cẩm nang" thần kỳ, không những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản"[7], nên Chủ tịch Hồ Chí Minh, những người cộng sản Việt Nam đã kiên định, vững vàng bảo vệ, phát triển học thuyết cách mạng, khoa học này bằng tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của mình và coi đó là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Ở Việt Nam, lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường cách mạng Việt Nam nói chung, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; về mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam "Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh"; về xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về đại đoàn kết toàn dân tộc; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng… đã được vận dụng, bổ sung và điều chỉnh cho phù hợp điều kiện cụ thể của đất nước. Ở Việt Nam, nhờ giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã không chỉ giải quyết linh hoạt, đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa quốc gia và quốc tế, mà còn kết hợp, phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để lãnh đạo nhân dân giành thắng lợi trong đấu tranh giành chính quyền và xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước… Ở Việt Nam, nhờ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến, đất nước ta đã trở thành quốc gia độc lập, tự do, hòa bình, thống nhất và ngày một phát triển trên tất cả các mặt trận quân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng… Và cũng vì thế, ở Việt Nam, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là "cái cốt"/"cái gốc" của Đảng, mà việc "Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động" được khẳng định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; tiếp tục được khẳng định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và trong Văn kiện các kỳ Đại hội của Đảng đã cho thấy giá trị trường tồn của học thuyết cách mạng, khoa học này trong đời sống chính trị của nhân loại và Việt Nam. Bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận này của Đảng không chỉ thể hiện rõ bản lĩnh, lập trường kiên định, ý chí quyết tâm của những người cộng sản Việt Nam trong việc bảo vệ tính khoa học, cách mạng, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu khủng hoảng, sụp đổ thập niên 1990), mà còn khẳng định vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong đời sống xã hội Việt Nam.

Vì thế, không phải Chủ tịch Hồ Chí Minh không nhắc đến chủ nghĩa Mác - Lênin trong tác phẩm, bài nói, bài viết nào đó của mình là Người không còn "mặn mà" với chủ nghĩa Mác - Lênin; là Người không căn dặn phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng của Đảng như sự suy diễn ngây ngô của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, các thế lực thù địch. Mà chính là yêu cầu phải "tăng cường giáo dục theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin và đấu tranh chống những khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa như chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa sôvanh, chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại, đặc biệt là chủ nghĩa xét lại"[8] đã cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà Người và tư tưởng của Người cũng hoàn toàn xa lạ với các khuynh hướng xét lại/phủ nhận/đòi xóa bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin.

Càng nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và sự lựa chọn, kiên định của Người đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, càng thấy nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh/nền tảng tư tưởng của Đảng theo Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về "Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới" sâu sắc và có ý nghĩa đến nhường nào. Đồng thời, cũng càng thấy yêu cầu của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: "Điều hết sức quan trọng là phải luôn luôn kiên định và vững vàng trên nền tảng tư tưởng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin - học thuyết khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống" được ghi rõ trong tác phẩm "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" là vấn đề mang tính nguyên tắc, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động. Đó cũng chính là nhiệm vụ vừa quan trọng và cấp thiết, vừa thường xuyên và lâu dài của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm.

________________________

[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.562

[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.1, tr.509-510

[3] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.41, tr.295

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.15, tr.391

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.92

[6] V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, t.4, tr.232

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.12, tr.563

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t.11, tr.189-190

TS. Văn Thị Thanh Mai

Đừng để lời đồn sao nhãng lòng tin

 

Trên sân Nhà văn hóa thôn Do Lễ, gương mặt bà Sáu lộ vẻ lo lắng. Nhìn trước, ngó sau không thấy ai, bà mới tiến đến hỏi Trưởng thôn Khoa:

- Ông Khoa à, tôi nghe người ta nói, anh Hải làng mình do có ai đó nâng đỡ nên được đề bạt làm phó bí thư xã đấy. Người ta còn bảo "con ông cháu cha" nên mới phát triển nhanh thế, có đúng không ông?

- Bà nghe ở đâu vậy? Cả xã này ai chẳng biết Hải là cán bộ trẻ, có năng lực, tham gia công tác đoàn từ hồi học sinh. Đợt vừa rồi, công tác nhân sự theo đúng quy trình, cả tập thể đều bỏ phiếu tín nhiệm mà bà.

- Thì tôi cũng chỉ nghe nói thôi. Người ta bảo cái gì mà “hậu duệ, quan hệ, tiền tệ...”, ai mà không ngờ cho được!

Đừng để lời đồn sao nhãng lòng tin
 Ảnh minh họa: Xaydungdang.org.vn

Đúng lúc đó thì Hải bước vào, trên tay cầm một tập tài liệu. Nghe được câu chuyện của hai người nhưng anh vẫn nhẹ nhàng: “Cháu chào ông Khoa, chào bác Sáu. Cháu chuyển tài liệu chuẩn bị đại hội đảng bộ xã sắp tới. Cháu nghe chưa đầy đủ câu chuyện, nhưng có phải mấy tin đồn về cháu không bác Sáu?”.

- À, ờ... thì tôi chỉ nghe thôi, chứ cũng không dám khẳng định gì cả. Mà cháu đừng để bụng nhé!

- Bác ơi, cháu không để bụng đâu. Nhưng cháu muốn giải thích một chút. Mọi quyết định về nhân sự đều phải theo nguyên tắc, đúng quy trình, quy định của Đảng. Bản thân cháu luôn nỗ lực phấn đấu, mong muốn được cống hiến chứ cháu không dựa dẫm vào ai đâu ạ!

- Ờ... thì tôi chỉ nghe bà con xóm dưới nói, chứ thật ra tôi cũng không rõ!

Nghe bà Sáu giải thích, ông Khoa cất lời: “Bà Sáu này, thời buổi này bà đừng nghe theo mấy tin đồn thất thiệt. Đấy là chiêu trò của kẻ xấu muốn phá hoại đoàn kết nội bộ thôi. Người ta gọi đó là chiến lược “diễn biến hòa bình” đấy. Họ tung tin xuyên tạc, làm rối loạn tư tưởng bà con khiến mọi người mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý, điều hành của chính quyền nhân dân.

- Đúng rồi đấy bác, những tin đồn như vậy có thể khiến mọi người nghi ngờ lẫn nhau. Không chỉ riêng cháu mà còn ảnh hưởng đến nhiều người khác. Thay vì nghe những lời không có căn cứ, mọi người nên tìm đến thông tin chính thức, hỏi trực tiếp những người có trách nhiệm. Đừng để những kẻ xấu chia rẽ mối đoàn kết thống nhất của làng, xã mình bác nhé!-anh Hải tiếp lời Trưởng thôn Khoa.

- Thế... cháu nói thật chứ? Mà họ tung tin đó làm gì?

- Họ muốn gây chia rẽ nội bộ bác ạ. Nhân sự đại hội là vấn đề nhạy cảm, nếu mình không tỉnh táo, nghe theo lời đồn thì sẽ tạo ra sự hoài nghi, mất lòng tin. Đấy chính là mục đích của kẻ xấu.

Ông Khoa quay sang bà Sáu phân tích thêm: “Bà nghĩ mà xem, nếu mình tin mấy cái tin đồn này thì ai làm lãnh đạo cũng bị hoài nghi hết. Như thế, công việc ở địa phương ai chăm lo, cáng đáng?”.

- Tôi hiểu rồi. Đúng là nghe mấy cái tin không đâu mà cứ tưởng thật. Từ nay tôi sẽ không tin mấy lời không có căn cứ nữa!

- Cháu cảm ơn bác Sáu. Việc chúng ta cần làm là đoàn kết, ủng hộ lẫn nhau. Mỗi người dân trong làng mình phải là một chiến sĩ, giúp bảo vệ sự ổn định và phát triển của địa phương đấy bác ạ!

- Ừ, bác hiểu rồi. Mình phải tin vào quyết định của Đảng và chính quyền, không để mấy lời đồn gây sao nhãng lòng tin nữa.

HUY PHONG

Lại thêm những luận điệu xuyên tạc việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân

 

Những ngày này, khi các địa phương trên cả nước đang tích cực triển khai công tác khám sức khỏe (từ ngày 1-11 đến 31-12), gọi thanh niên nhập ngũ thì trên không gian mạng lại xuất hiện các thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc việc tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự (NVQS), đả kích môi trường quân ngũ. Đây là luận điệu nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, xuyên tạc việc thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc, tạo dư luận xấu, gieo rắc tư tưởng thoái thác về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc, nhất là những người trong độ tuổi thực hiện NVQS.

Những luận điệu sai trái, xuyên tạc

Trên không gian mạng, mạng xã hội, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đang rêu rao, tuyên truyền các bài viết, đăng status, dòng trạng thái sai sự thật như: “Trong khi các nước phát triển quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi NVQS, nghĩa vụ công an”, “hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi NVQS”, “mất 2 năm đi NVQS về chẳng được gì”, “chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ”...

Lại thêm những luận điệu xuyên tạc việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân

Thanh niên huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn hăng hái lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự. Ảnh: qdnd.vn  

Trong khi sự thật là, nhiều nước trên thế giới vẫn đang áp dụng bắt buộc nghĩa vụ quân sự, không thực hiện miễn, hoãn-kể cả các ngôi sao nghệ thuật. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch, phản động còn đăng tải các cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài với lời bình xuyên tạc là ở Việt Nam; họ cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội... nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề.

Mục đích của họ là bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước. Từ đó, khiến cho công dân đến độ tuổi nhập ngũ và gia đình, người thân “tự diễn biến”, dao động tư tưởng, hoài nghi, thiếu niềm tin, trốn tránh thực hiện NVQS, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hệ quả là rơi vào âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.

Trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng, biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất.

Những anh hùng liệt sĩ như: Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc... là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, niềm tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam học tập, noi theo: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”-câu nói đanh thép của Anh hùng Lý Tự Trọng đã trở thành lời hiệu triệu, động lực thôi thúc hàng triệu thế hệ thanh niên Việt Nam mong muốn được cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc là quyền lợi và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên cho chính quê hương, gia đình, người thân của mình. Thực hiện NVQS đã được hiến định trong Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Điều 45, Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

Công dân phải thực hiện NVQS và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Điều 64, Chương IV quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Thể chế hóa Hiến pháp, khoản 1, khoản 2, Điều 4 và khoản 1, Điều 59 Luật NVQS năm 2015 quy định: “NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân; công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện NVQS theo quy định.

Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện NVQS thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, công dân đến tuổi tham gia NVQS không thể đưa ra để bàn luận, so đo, tính toán “đi hay không đi”, “dám hay không dám”. Việc trốn tránh NVQS, trốn tránh trách nhiệm công dân không những vi phạm pháp luật mà còn là tội lớn với thế hệ cha anh đi trước, với Tổ quốc và dân tộc.

Trường học lớn để thanh niên phấn đấu

Cần khẳng định, Quân đội là trường học lớn để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường Quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Với kỷ luật tự giác và nghiêm minh, môi trường văn hóa quân sự là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, trưởng thành và cống hiến.

Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách đối với quân nhân ngày càng được quan tâm, bảo đảm tốt. Quá trình thực hiện NVQS, thanh niên được học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Trong môi trường quân ngũ, họ được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được giáo dục chính trị, truyền thống, giáo dục pháp luật...

Thông qua đó, thanh niên trưởng thành về nhận thức chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận diện rõ, đúng những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới; đồng thời, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch.

Môi trường quân ngũ còn giúp thanh niên được rèn luyện sức khỏe, thể lực dẻo dai; tác phong chững chạc, có trách nhiệm cao với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; giao tiếp, ứng xử đúng mực, có văn hóa. Quân đội cũng chính là môi trường giáo dục tốt nhất về tình đồng chí, đồng đội; tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái; cán bộ, chiến sĩ đồng sức, đồng lòng cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là nơi mà thanh niên thấm nhuần sâu sắc tình đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân, tình yêu quê hương, đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Bên cạnh đó, sau khi huấn luyện, những quân nhân có đủ điều kiện sẽ được tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng hoặc cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (nếu có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong Quân đội). Những quân nhân hoàn thành NVQS, khi xuất ngũ sẽ được hưởng chính sách ưu đãi như cộng điểm khi thi tuyển sinh vào các trường đại học, học viện, hỗ trợ đào tạo học nghề, tạo công ăn việc làm...

Khi xuất ngũ được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp việc làm, trợ cấp bảo hiểm, thanh toán nghỉ phép, quà Tết, phụ cấp, thẻ học nghề giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp và ổn định cuộc sống sau này. Điều đó minh chứng, môi trường Quân đội không những không “xấu” như sự bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch mà còn là nơi có điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà trên hết đó còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các thế hệ thanh niên được tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Thực tiễn sinh động đó là minh chứng bác bỏ, phê phán các luận điệu xuyên tạc về thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Trung tá, TS ĐỖ NGỌC HANH, Phó chủ nhiệm Khoa Triết học Mác-Lênin, Trường Sĩ quan Chính trị