Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

VIỆT NAM CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ, THÚC ĐẨY ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG, GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA BẰNG BIỆN PHÁP HOÀ BÌNH

 VIỆT NAM CHỦ ĐỘNG, TÍCH CỰC HỘI NHẬP QUỐC TẾ, THÚC ĐẨY ĐỐI NGOẠI QUỐC PHÒNG, GÓP PHẦN BẢO VỆ TỔ QUỐC TỪ SỚM, TỪ XA BẰNG BIỆN PHÁP HOÀ BÌNH

Là bộ phận then chốt của công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã và đang khẳng định vai trò quan trọng; là định hướng chiến lược nhằm kiến tạo, củng cố môi trường, điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, thời gian vừa qua, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị liên tục xuyên tạc, bóp méo đường lối, chính sách đối ngoại quốc phòng độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác, phát triển của Việt Nam. Nhận diện, đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái đó là nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh mới hiện nay.
Kiên quyết bác bỏ luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc rằng việc Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại quốc phòng “bốn không” độc lập, tự chủ là lỗi thời, lạc hậu, làm hạn chế sức mạnh của đất nước
Những năm qua, quán triệt và “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại để bảo đảm lợi ích tối cao của quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng và cùng có lợi”(1), Việt Nam đã tích cực, chủ động hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn diện, hiệu quả; trong đó nổi bật về lĩnh vực quốc phòng và luôn xác định đó là phương thức, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình. “Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, mang tính đột phá, tạo điều kiện và môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(2). Nhiều mối quan hệ quốc phòng song phương được củng cố, đi vào chiều sâu, ổn định, vững chắc; nhất là quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các nước thuộc Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và các nước bạn bè truyền thống. Hợp tác quốc phòng đa phương cũng có những bước phát triển thực chất, đóng góp quan trọng vào việc xây dựng lòng tin chiến lược, thúc đẩy xu thế hòa bình, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh, xung đột quân sự. Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đã thực sự trở thành trụ cột then chốt trong chiến lược bảo vệ Tổ quốc; là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; là phương thức thực hiện các mục tiêu về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; đồng thời, là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của quân đội trong thời bình. Tính đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối ngoại quốc phòng với hơn 100 quốc gia, trong đó hầu hết là các đối tác chủ chốt (bao gồm 7 đối tác chiến lược toàn diện; 11 đối tác chiến lược; 12 đối tác toàn diện; 3 quốc gia có quan hệ đặc biệt); đã đặt 33 cơ quan Tùy viên quốc phòng thường trú tại các nước và tại trụ sở Liên hợp quốc; 52 nước đã đặt cơ quan Tùy viên quốc phòng, Tùy viên quân sự tại Việt Nam. Việt Nam đã cử 516 lượt cán bộ, nhân viên tham gia các hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc tại các phái bộ ở Nam Xu-đăng, Cộng hòa Trung Phi và trụ sở Liên hợp quốc. Bên cạnh đó, tháng 2-2023, Việt Nam đã cử 76 sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp tham gia khắc phục hậu quả động đất tại Thổ Nhĩ Kỳ(3).
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là lĩnh vực nhạy cảm, trực tiếp liên quan đến những vấn đề hệ trọng của đất nước, thường gắn kết với các lĩnh vực hợp tác khác và phụ thuộc vào mức độ quan hệ về chính trị, kinh tế với các đối tác. Lợi dụng điều đó, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chính trị trong và ngoài nước, những nhóm người tự xưng là “yêu nước”, “tâm huyết”, “lo lắng” với vận mệnh quốc gia - dân tộc đã nhiều lần gửi cái gọi là “thư ngỏ”, “kiến nghị”, viết bài tán phát với giọng điệu xuyên tạc, bóp méo đường lối đối ngoại và chính sách quốc phòng của Việt Nam. Họ thường rêu rao rằng, việc Việt Nam theo đuổi đường lối đối ngoại quốc phòng trung lập, độc lập, tự chủ là “bảo thủ”, “trì trệ”, “tự mình cô lập mình”, là “đơn phương tách khỏi dòng chảy hội nhập của thế giới đương đại”; rằng, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia tất yếu tăng lên; thế nhưng, Việt Nam vẫn “khăng khăng thực hiện chính sách quốc phòng bốn không” là “đường lối sai lầm”, “đối sách nhu nhược”, “hành động tự trói”, đã lỗi thời, lạc hậu, đi ngược lại xu thế của thời đại (?!). Họ ra sức xuyên tạc chủ trương không tham gia liên minh quân sự của Việt Nam là “tước đi cơ hội hợp tác với các nước lớn để tăng cường sức mạnh quốc phòng của đất nước” và việc “không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế” tức là đã “từ bỏ bạo lực cách mạng trong bảo vệ Tổ quốc, xa rời phương pháp cách mạng mà chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã khẳng định”. Ngang nhiên hơn, họ còn dựng chuyện, cố tình quy chụp việc Việt Nam tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước là “khơi mào cho hành động chạy đua vũ trang trong khu vực”, là để chống lại một nước thứ ba (?!).
Đặc biệt, trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, khu vực và trên Biển Đông, các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng với chính sách đối ngoại quốc phòng hiện nay thì Việt Nam không thể giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Theo họ, để bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán và lợi ích quốc gia trên các vùng biển, đảo, Việt Nam phải “thoát bên này”, “bài bên kia”; phải nhanh chóng trở thành đồng minh, liên minh, liên thủ với một số nước lớn chứ không thể trung lập “một mình một phe”. Gần đây, nhân cuộc xung đột Nga - U-crai-na, các đối tượng phản động với mưu đồ chống phá đã vội vã xuyên tạc chính sách đối ngoại của Việt Nam là “không dám thể hiện lập trường”, là “đối ngoại quốc phòng núp bóng”, “đu dây”, là hành động “tự sát”. Thậm chí, có người còn “bóng gió” đầy ẩn ý rằng, trong bối cảnh xung đột căng thẳng, Việt Nam đẩy mạnh hợp tác quốc phòng với Nga tức là đã “đi với nước này để chống nước kia”. Từ đó, họ kích động cách hành xử bạo lực với cộng đồng người Việt Nam tại Nga và U-crai-na. Trơ trẽn và phi lý hơn, thông qua việc này, họ đưa ra yêu sách đòi chúng ta thay đổi đường lối và chính sách đối ngoại quốc phòng.
Rõ ràng, những luận điệu trên là hoàn toàn bịa đặt, vô căn cứ, không đúng sự thật. Mục đích của các thế lực thù địch, phản động là xuyên tạc trắng trợn, phủ nhận đường lối, chính sách đối ngoại quốc phòng “bốn không”, độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta, hòng hướng lái Việt Nam tham gia các liên minh quân sự, dần đi sâu vào quỹ đạo lệ thuộc bên ngoài, đánh mất độc lập, tự chủ trong các hoạt động quân sự, quốc phòng, đối ngoại; gây khó khăn cho Việt Nam trong việc củng cố và mở rộng quan hệ đối ngoại quốc phòng vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, họ gieo rắc tâm lý hoang mang, hoài nghi về tính đúng đắn của đường lối quân sự, quốc phòng, đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, hòng gây chia rẽ đoàn kết quân - dân, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, suy giảm sức mạnh quốc phòng của đất nước. Âm mưu thâm độc hơn khi họ cố tình hướng lái người dân từ bỏ trách nhiệm, nghĩa vụ đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, từ chối thực hiện nghĩa vụ quân sự, dẫn tới gián tiếp hoặc trực tiếp tham gia các hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng là trụ cột để kiến tạo và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; là phương thức, kế sách bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa
Là bộ phận then chốt của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng; là định hướng chiến lược nhằm kiến tạo, củng cố môi trường, điều kiện quốc tế thuận lợi phục vụ đắc lực sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việt Nam luôn nhận thức rõ, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là cơ sở quan trọng để duy trì hòa bình, ổn định ở khu vực và trên thế giới; là phương thức căn bản để thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, trên cơ sở “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(4); Đảng và Nhà nước ta xác định phương hướng “chủ động, tăng cường hợp tác và nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế về quốc phòng, an ninh”(5) trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không phân biệt sự khác nhau về thể chế chính trị, trình độ phát triển, nâng cao khả năng bảo vệ đất nước và giải quyết các thách thức an ninh chung. “Việt Nam không chấp nhận quan hệ hợp tác quốc phòng dưới bất kỳ điều kiện áp đặt hoặc sức ép nào”(6).
Mục tiêu của hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng thống nhất với mục tiêu bảo vệ Tổ quốc là “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ thành quả cách mạng, sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; bảo vệ nền văn hoá và uy tín, vị thế quốc tế của đất nước; bảo vệ an ninh quốc gia, an ninh con người, an ninh kinh tế, an ninh mạng, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; củng cố, tăng cường môi trường hoà bình để xây dựng, phát triển đất nước, đóng góp tích cực vào gìn giữ hoà bình ở khu vực và trên thế giới”(7). Đồng thời, “thực hiện đối ngoại quốc phòng phù hợp với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; chống chiến tranh dưới mọi hình thức; chủ động và tích cực hội nhập, mở rộng hợp tác quốc tế, đối thoại quốc phòng, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(😎. Bên cạnh đó, hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng nhằm gắn kết chặt chẽ, kế thừa và phát huy thành tựu, kinh nghiệm, thúc đẩy hội nhập trên các lĩnh vực khác, tạo thành một thể thống nhất, đồng bộ trong chiến lược đối ngoại của quốc gia; góp phần nâng cao vai trò, vị thế của đất nước, quân đội trên trường quốc tế.
Thực hiện mục tiêu đó, quan điểm nhất quán của Việt Nam là đẩy mạnh hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng theo hướng phát triển sâu, rộng cả về phạm vi, quy mô và mức độ hợp tác. “Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc”(9) nhằm phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp của đất nước, tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ của cộng đồng quốc tế để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Luôn xác định rõ lộ trình, bước đi của hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phù hợp với hội nhập quốc tế trên các lĩnh vực khác và xu hướng hợp tác, liên kết, phát triển của khu vực và thế giới. Triệt để khai thác cơ hội trong quá trình hội nhập; chủ động khắc phục khó khăn, đề cao cảnh giác, không để các thế lực thù địch lợi dụng tiến trình này gây phương hại đến độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc. Trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng luôn nhất quán “bốn không” là: “Không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế”(10). Tuy nhiên, thực hiện đối ngoại quốc phòng “bốn không” không phải là bất biến. “Tùy theo diễn biến của tình hình và trong những điều kiện cụ thể, chúng ta sẽ cân nhắc phát triển các mối quan hệ quốc phòng, quân sự cần thiết với mức độ thích hợp trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”(11) và các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi, vì lợi ích chung của khu vực và quốc tế. Quan điểm, đường lối đó đã khẳng định rõ tính trung lập của đối ngoại quốc phòng Việt Nam; là sự kết tinh trí tuệ, ý chí, nguyện vọng, quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trên cơ sở lý luận, thực tiễn, khoa học, pháp lý vững chắc; là kế sách bảo vệ Tổ quốc, ngăn ngừa các nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình.
Thực tiễn quan hệ quốc tế đương đại cho thấy, các nước lớn luôn có xu hướng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế, thỏa hiệp lẫn nhau rất gay gắt, phức tạp và tăng cường can dự, chi phối nội bộ nước khác. Diễn biến tình hình thế giới, khu vực thời gian gần đây cho thấy cái giá phải trả của việc “tham gia phe nhóm”, “chọn bên” hay “liên minh với nước này để chống nước kia” là vô cùng đắt giá; thậm chí nước nhỏ rất dễ trở thành “quân cờ” trong tay các nước lớn, bị “mặc cả”, “đổi chác”, xâm phạm chủ quyền, lợi ích quốc gia. Vậy nên, đường lối đối ngoại quốc phòng độc lập, tự chủ là đúng đắn, sáng suốt, hợp lý trong một thế giới đầy biến động, khó đoán định. Với lẽ đó, Việt Nam không “chọn bên” mà chọn chính nghĩa, công lý và lẽ phải trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Đây là quan điểm công khai, minh bạch trong đường lối, chính sách đối ngoại quốc phòng hiện nay. Vì vậy, những lời lẽ suy diễn, ngụy biện hay luận điệu núp bóng “hiến kế”, “bày mưu” cho rằng Việt Nam phải “thân cận với bên này” hoặc “liên minh với nước lớn” trong đường lối, chính sách đối ngoại không những là nhận thức sai lầm, phản động, mà còn thể hiện tư tưởng yếu hèn, lệ thuộc, trái với phương châm đối ngoại độc lập, tự chủ, “thêm bạn, bớt thù”, vì hòa bình, hợp tác, phát triển, “lợi ích hài hòa, rủi ro chia sẻ” của Việt Nam.
Về phương châm hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, Việt Nam xác định phải “tích cực, chủ động, chắc chắn, linh hoạt, hiệu quả”(12), không để đất nước rơi vào thế bị động, bất ngờ. Lấy mở rộng và phát huy “điểm tương đồng” để hạn chế, khắc phục và thu hẹp “điểm bất đồng”, duy trì môi trường hòa bình, ổn định, củng cố thế trận quốc phòng, an ninh, tăng cường lòng tin chiến lược với các nước. Đây là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh trên tinh thần mở rộng hợp tác để giải quyết mâu thuẫn, bất đồng vì mục tiêu bảo đảm độc lập, chủ quyền và lợi ích quốc gia - dân tộc. “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước”(13). Quán triệt quan điểm đó, Việt Nam luôn chủ động tham gia và đóng góp nhiều sáng kiến, định hình các cơ chế hợp tác đa phương về quốc phòng, quân sự phù hợp với luật pháp quốc tế và lợi ích của quốc gia - dân tộc; luôn coi trọng củng cố quan hệ quốc phòng với các nước láng giềng, các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện; tham gia sâu vào Đối thoại Shangri-La, Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng Quốc phòng các nước ASEAN mở rộng (ADMM+), nỗ lực tham gia chống phổ biến vũ khí hạt nhân và vũ khí hủy diệt hàng loạt; từng bước tham gia các cơ chế quốc phòng, an ninh ở khu vực Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương, Liên minh châu Âu (EU); tích cực tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, nhất là các hoạt động nhân đạo, khắc phục hậu quả chiến tranh, ứng phó với thảm họa; cam kết thực hiện nghiêm túc các điều ước, thỏa thuận đã ký kết với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực; đồng thời, thiết lập và duy trì đường dây nóng giữa Bộ Quốc phòng Việt Nam với bộ quốc phòng các nước. Hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng hướng đến “tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở pháp luật quốc tế, nhất là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982. Củng cố đường biên giới hòa bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng”(14). Với những tranh chấp, bất đồng còn tồn tại, Việt Nam kiên quyết, kiên trì đấu tranh, giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình, trên cơ sở luật pháp và thông lệ quốc tế; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực. Chú trọng sử dụng biện pháp ngoại giao mềm dẻo (như đàm phán, thương lượng, trung gian hòa giải, thông qua các tổ chức quốc tế, khu vực, thông qua ký kết các điều ước song phương, đa phương...) và tài phán quốc tế (tòa án quốc tế, trọng tài quốc tế...). Việt Nam luôn thiện chí thúc đẩy các cuộc gặp gỡ, tiếp xúc, trao đổi đoàn các cấp để giải quyết vướng mắc; luôn kiềm chế, không có hành động quá khích, cực đoan, không làm phức tạp tình hình. Tuy nhiên, chúng ta sẵn sàng sử dụng sức mạnh, sẵn sàng chiến đấu, thực hiện quyền tự vệ chính đáng khi độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và lợi ích cơ bản của quốc gia - dân tộc bị xâm phạm.
Tiếp tục nâng cao hiệu quả hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng, tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa trong tình hình mới
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò chiến lược quan trọng của hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; thực hiện chủ trương tranh thủ tối đa và phát huy cao nhất các nguồn lực để tăng cường tiềm lực quốc phòng của đất nước, xây dựng quân đội tinh, gọn, mạnh, tiến lên hiện đại. Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều nguy cơ bất ổn; cạnh tranh chiến lược và tập hợp lực lượng giữa các nước lớn diễn ra gay gắt; xung đột cục bộ, tranh chấp chủ quyền, lãnh thổ và các điểm nóng có chiều hướng gia tăng; các vấn đề về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống ngày càng chuyển hóa, đan xen, tác động sâu sắc trên nhiều lĩnh vực..., sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức mới càng đòi hỏi chúng ta tăng cường hội nhập quốc tế, đối ngoại quốc phòng; xác định rõ chủ trương, giải pháp thực hiện với lộ trình và bước đi phù hợp. Theo đó, cần quán triệt sâu sắc và triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 34-CT/TW, ngày 9-1-2023, của Bộ Chính trị, “về một số định hướng, chủ trương lớn triển khai đường lối đối ngoại Đại hội XIII của Đảng”; Kết luận số 53-KL/TW, ngày 28-4-2023, của Bộ Chính trị, “về Chiến lược hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; Nghị quyết số 44-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XIII, “về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và Đề án xây dựng Trung tâm điều phối quốc gia về gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng phù hợp với tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc; trong đó, xác định rõ các cấp độ đối ngoại quốc phòng phù hợp và tương thích với mức độ quan hệ hợp tác với từng đối tác cụ thể. Tập trung thực hiện tốt ba khâu đột phá trong hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng là: Một là, tiếp tục mở rộng đối ngoại quốc phòng song phương có trọng tâm, trọng điểm trên cơ sở các thỏa thuận đã ký kết; tập trung vào lĩnh vực hợp tác về nghiên cứu khoa học quân sự, hiện đại hóa quân đội, tăng cường khả năng phòng thủ đất nước. Ưu tiên thúc đẩy quan hệ quốc phòng gắn bó mật thiết, ổn định, vững chắc với các nước Lào, Cam-pu-chia, Trung Quốc, thúc đẩy hợp tác và giải quyết các vấn đề còn tồn đọng, củng cố đường biên giới hòa bình, ổn định; coi trọng quan hệ hợp tác với các nước ASEAN; củng cố, phát triển quan hệ quốc phòng với các nước lớn; tăng cường quan hệ đối ngoại quốc phòng với các nước bạn bè truyền thống và các nước đang phát triển. Hai là, tích cực, chủ động tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, trước hết là các cơ chế hợp tác quốc phòng do ASEAN giữ vai trò chủ đạo; tham gia các cơ chế đa phương về kiểm soát vũ khí hủy diệt hàng loạt, hoạt động chống khủng bố và các hoạt động khác phù hợp với điều kiện, khả năng của đất nước. Ba là, từng bước mở rộng phạm vi, quy mô, tham gia hiệu quả hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, như quan sát viên quân sự, huấn luyện, diễn tập chung về ứng phó với các mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống, hoạt động hỗ trợ nhân đạo, tìm kiếm cứu nạn, cứu trợ thảm họa, khắc phục hậu quả chiến tranh... đúng với đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước. “Tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh, thực hiện tốt nhiệm vụ tham gia gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Chủ động phối hợp với các quốc gia bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc; xử lý các vấn đề an ninh phi truyền thống, tạo vành đai an ninh bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”(15).
Quá trình thực hiện quán triệt phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, trong đó độc lập, chủ quyền, lợi ích quốc gia - dân tộc là bất biến; kiên định về nguyên tắc chiến lược; linh hoạt, sáng tạo về sách lược; về quan điểm luôn khách quan, trung lập; về nguyên tắc phải bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc và độc lập, tự chủ; về biện pháp, cách làm cụ thể phải nhạy bén; kịp thời trao đổi, chia sẻ thông tin và kinh nghiệm; nâng tầm tư duy, hành động chắc chắn, hiệu quả. Tích cực tạo lập thế trận giữa quốc phòng, an ninh với đối ngoại vững chắc dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng và sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước. Nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Bộ Quốc phòng với các ban, bộ, ngành Trung ương và địa phương trong thực hiện hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng. Đẩy mạnh công tác thông tin đối ngoại với nội dung, hình thức phong phú, đa dạng; tập trung vào hoạt động đối ngoại của lãnh đạo các cấp, các sáng kiến, đóng góp của Việt Nam tại các hội nghị, diễn đàn quân sự, quốc phòng đa phương, kết quả hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh, hỗ trợ nhân đạo, đối ngoại biên giới, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Nắm chắc diễn biến tình hình, những yếu tố tác động đến hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng, nhất là cạnh tranh chiến lược, xu thế tập hợp lực lượng của các nước lớn, tình hình Biển Đông, tình hình trên các tuyến biên giới và vùng biển Tây Nam, các thách thức an ninh phi truyền thống... để xây dựng đối sách, phương thức xử lý hiệu quả. Triển khai hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng đồng bộ trên các lĩnh vực; tham gia đầy đủ, hiệu quả các cơ chế, khuôn khổ, cấu trúc, diễn đàn khu vực và quốc tế; chủ động đề xuất sáng kiến, thể hiện vai trò dẫn dắt ở một số lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh; đảm nhiệm tốt vai trò chủ trì các hoạt động trong khuôn khổ của ASEAN.
Như vậy, cả lý luận và thực tiễn đều khẳng định tính đúng đắn, sự phù hợp của đường lối đối ngoại quốc phòng độc lập, tự chủ; là sự phản chiếu chính sách quốc phòng vì hòa bình, để tự vệ của Việt Nam. Bất luận ai đó có cố tình phán sai, nói lệch thế nào đi chăng nữa cũng không thể xuyên tạc, phủ nhận điều đó, bởi đây còn là phương thức, kế sách bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa từ sớm, từ xa bằng biện pháp hòa bình trong tình hình mới./.

CẦN PHÁT ĐỘNG, TỔ CHỨC “NGÀY TOÀN DÂN THỰC HÀNH TIẾT KIỆM” HẰNG NĂM

 CẦN PHÁT ĐỘNG, TỔ CHỨC “NGÀY TOÀN DÂN THỰC HÀNH TIẾT KIỆM” HẰNG NĂM

Thực hiện chủ trương “Tiết kiệm là quốc sách” của Đảng và Nhà nước ta, những năm qua, các cấp, các ngành và các địa phương trong cả nước đã có nhiều quy định và biện pháp nhằm thực hành tiết kiệm, ngăn ngừa, hạn chế tình trạng lãng phí và bước đầu đạt được một số hiệu quả nhất định.

Tuy nhiên, để nhắc nhở, động viên, khích lệ các tầng lớp nhân dân nâng cao ý thức, trách nhiệm và tích cực thực hành tiết kiệm, chúng ta nên tổ chức “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm”.

Chủ trương, chính sách tiết kiệm chưa thật sự phát huy hiệu quả

Về mặt chủ trương, chính sách, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, quy định về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Ngày 21/12/2012, Ban Bí thư khóa XI ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW về việc đẩy mạnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Ngày 25/12/2023, Bộ Chính trị khóa XIII ban hành Chỉ thị số 27-CT/TW về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

Trước đó, Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa X đã ban hành Pháp lệnh về việc thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 1998. Pháp lệnh này sau đó được Quốc hội khóa XI nâng lên thành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005. Sau tám năm thời gian thực hiện luật này, nhận thấy những bất cập, hạn chế cần phải sửa đổi, bổ sung, Quốc hội khóa XIII đã ban hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013. Hiến pháp năm 2013 cũng hiến định: Cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, phòng, chống tham nhũng trong hoạt động kinh tế-xã hội và quản lý nhà nước.

Như vậy, trong vòng 15 năm, chính sách về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí đã được đưa lên bàn nghị sự ở cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất không dưới ba lần, điều đó cho thấy sự cấp bách của một vấn đề xã hội được Quốc hội đặc biệt quan tâm. Sự ra đời của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí là văn bản pháp lý quan trọng trong việc thúc đẩy thực hành tiết kiệm ở mọi cấp, mọi ngành từ Trung ương đến cơ sở.

Cùng với những quy định, chế tài bắt buộc các cơ quan, đơn vị và cán bộ, công chức nhà nước phải thực hành tiết kiệm, chúng ta cần đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền, động viên các tầng lớp nhân dân thường xuyên nêu cao ý thức thực hành tiết kiệm ở mọi lúc, mọi nơi, đồng thời phải chú trọng kiểm tra và xử lý nghiêm minh những nơi, những người gây lãng phí, làm thất thoát tiền của, tài sản của Nhà nước và nhân dân.

Tuy nhiên, việc thực hành tiết kiệm vẫn chưa thành nền nếp thường xuyên, ý thức tiết kiệm chưa trở thành ý thức thường trực của một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và nhân dân. Tình trạng lãng phí gây thất thoát tiền bạc, tài sản công vẫn diễn ra khá phổ biến, có nơi và có vụ việc rất nghiêm trọng, làm ảnh hưởng ngân sách nhà nước và đời sống nhân dân.

Một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến tình trạng lãng phí còn nghiêm trọng, đã được Tổng Bí thư Tô Lâm chỉ ra trong bài viết “Chống lãng phí” mới đây, đó là: Chưa tạo được phong trào thi đua rộng khắp về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng như dư luận xã hội mạnh mẽ để phê phán, lên án những hành vi gây lãng phí. Việc xây dựng văn hóa tiết kiệm, không lãng phí trong xã hội chưa được quan tâm đúng mức.

Ý nghĩa sâu sắc của “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm”

Phát huy tinh thần, hiệu quả của những “ngày/ngày hội toàn dân”, Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam nên phối hợp tổ chức, phát động phong trào “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm”; đồng thời duy trì thường niên “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm”.

Trong ngày này, cùng với làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền về ý nghĩa chính trị-xã hội của “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm”, Đảng, Nhà nước, cấp ủy và chính quyền các cấp huy động, động viên mọi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, người lao động ở các ngành, các cơ quan, tổ chức, đơn vị, đội ngũ cán bộ, chiến sĩ trong các lực lượng vũ trang và các tầng lớp nhân dân tự nguyện trích một khoản tiền nhất định của mỗi cá nhân đóng góp vào “Quỹ tiết kiệm quốc gia”.

Số tiền này thu được sẽ hỗ trợ công tác xóa đói, giảm nghèo, giúp đỡ các gia đình có công với cách mạng, đối tượng chính sách và giải quyết một số chính sách an sinh xã hội.

Duy trì thực hiện “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm” hằng năm có ý nghĩa sâu sắc cả về chính trị, kinh tế-xã hội. Về mặt chính trị, đây là ngày giúp cho mọi công dân thấy rõ vai trò, tác dụng, ý nghĩa to lớn của việc thực hành tiết kiệm để phục vụ đầu tư cho phát triển đất nước.

Về khía cạnh kinh tế, thông qua thực hiện ngày này sẽ huy động được một lượng tiền đáng kể trong các tầng lớp nhân dân, góp phần tích cực vào việc giải quyết một số vấn đề cấp bách về chính sách kinh tế quốc gia.

Về phương diện xã hội, đây là ngày thúc đẩy, lan tỏa phong trào toàn xã hội nêu cao ý thức thực hành tiết kiệm; giáo dục mọi công dân và các cơ quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp hợp lý hóa việc thu-chi; động viên mọi ngành, mọi nghề, mọi nhà, mọi người đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động sản xuất, triệt để thực hành tiết kiệm, hạn chế tới mức thấp nhất sự lãng phí cả về thời gian, tiền bạc, của cải, sức lực.

Về thời gian tổ chức, có thể nghiên cứu, xác định lấy ngày 29/11 hằng năm là “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm”. Sở dĩ lấy ngày này vì ngày 29/11/2005, lần đầu tiên Quốc hội khóa XI ban hành Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Đây là dấu mốc chính thức luật hóa chủ trương “Tiết kiệm là quốc sách” của Đảng, Nhà nước ta.

Việc phát động, duy trì tổ chức “Ngày toàn dân thực hành tiết kiệm” vào ngày 29/11 hằng năm cũng là một cách vận dụng quan điểm, cách làm “đưa chính trị vào giữa dân gian” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, qua đó động viên, khích lệ các tầng lớp nhân dân nêu cao ý thức, trách nhiệm trong thực hiện văn hóa tiết kiệm, góp phần xây dựng hệ giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Việt Nam thời đại mới./. 

Nguồn: Báo Nhân dân


ĐẶC SẢN DÚN ĐÁ NINH BÌNH "MỌC" TỪ ĐÁ, CHỈ CÓ SAU MƯA RÀO, ĂN VỪA MÁT VỪA GIÒN

 ĐẶC SẢN DÚN ĐÁ NINH BÌNH "MỌC" TỪ ĐÁ, CHỈ CÓ SAU MƯA RÀO, ĂN VỪA MÁT VỪA GIÒN

😋
Dún đá (rêu mọc trên đá, hay còn gọi mầm rêu) từ lâu đã được xem như đặc sản quen thuộc ở Ninh Bình. Đây là loại rêu thường xuất hiện vào mùa hè, hình thành trên các khe đá đọng nước của vùng núi đá vôi trắng sau mỗi trận mưa lớn.
Chúng có hình dạng giống nấm tai mèo, màu xanh rêu, trong suốt như thạch.
Theo người dân địa phương, trước đây, khi cuộc sống thiếu thốn, lương thực cạn kiệt, bà con trong vùng thường trèo lên núi đá vôi để tìm dún đá về ăn. Tuy nhiên, ngày nay, món ăn dân dã này lại được xem như đặc sản hút khách tìm mua ở Ninh Bình.
Chị Yến Nhi (ở Ninh Bình) cho biết, vì dún đá thường mọc ở những ngọn núi cheo leo và xuất hiện sau những đợt mưa to nên việc thu hoạch chúng rất nguy hiểm. Chưa kể, người dân phải thu hái chúng ngay sau mưa vì khi trời tạnh ráo, dún sẽ tan ra và không thể sử dụng được.
Không chỉ thu hoạch vất vả, việc sơ chế dún đá cũng đòi hỏi tốn nhiều thời gian và công sức.
“Dún đá có kết cấu giống như một loại thạch. Khi bám trên đá, chúng dính nhiều bụi bẩn và các loại lá. Vì vậy, việc làm sạch dún đá cần cẩn thận và kỹ lưỡng.
Người dân địa phương thường ngâm dún đá vào nước gạo rồi đãi thật kỹ để loại bỏ hết bụi bẩn bám trên dún rồi mới mang đi chế biến”, chị Nhi chia sẻ. Với người dân Ninh Bình, món ăn phổ biến và quen thuộc nhất từ dún là dún luộc.
Dún sau khi làm sạch thì đem cho lên rá đồ hoặc bỏ vào nồi luộc, canh tới lúc dún chuyển màu từ xanh sang vàng là chín, có thể ăn được ngay.
Chị Nhi cho biết thêm: “Cách ăn truyền thống của người Ninh Bình từ ngày xưa là luộc dún lên chấm với muối lạc, vừa ngon vừa giữ được vẹn nguyên hương vị ban đầu, lại tiết kiệm thời gian”.
Tất cả cảm xúc:
15
Thích
Bình luận
Gửi
Chia sẻ

HOÀNG SÂM - NGƯỜI ĐỘI TRƯỞNG MƯU LƯỢC, QUYẾT ĐOÁN

 HOÀNG SÂM - NGƯỜI ĐỘI TRƯỞNG MƯU LƯỢC, QUYẾT ĐOÁN

Thiếu tướng Hoàng Sâm tên thật là Trần Văn Kỳ - là một trong những học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cộng sản kiên trung, mẫu mực, người con ưu tú của dân tộc ta. Qua nhiều cương vị lãnh đạo, chỉ huy, chiến đấu và công tác, ông luôn tập trung tinh thần, trí tuệ, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân giao phó.
Thiếu tướng Hoàng Sâm là “một cán bộ chính trị, quân sự song toàn, có đạo đức, có tài năng, một đảng viên ưu tú của Đảng Lao động Việt Nam, một cán bộ chỉ huy giỏi của Quân đội ta”(1) thời đại Hồ Chí Minh. Ông là người được Bác đặt cho bí danh này và cũng được Bác chọn lựa, chỉ định làm Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân - tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay.
Mưu lược, tài chỉ huy vô cùng khéo léo, quyết đoán của ông khi còn làm Đội trưởng Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã được thực tiễn lịch sử khẳng định, không thể phủ nhận.
Thứ nhất, dẫn đầu và chỉ huy một đội quân 34 người, kể cả ông trong điều kiện thiếu thốn về vũ khí trang bị, đạn dược ít, khó khăn về lương thực, thực phẩm; lại hầu như chưa được huấn luyện bài bản về kỹ chiến thuật chiến đấu; chỉ sau hai ngày thành lập mà liên tiếp giành được thắng lợi trong hai trận Phai Khắt, Nà Ngần trước một đội quân được huấn luyện bài bản hơn, đông hơn, được vũ khí trang bị tốt hơn do những viên sĩ quan Pháp của quân đội nhà nghề trực tiếp chỉ huy.
Quân ta đã thắng địch bằng mưu trí, chứ không hoàn toàn dựa vào sức mạnh của vũ khí, đạn dược. Trong điều kiện thực lực quân ta chưa mạnh, vũ khí, đạn dược ít, lại phải đối mặt đánh với đội quân được huấn luyện bài bản, vũ khí trang bị hơn gấp bội mà giành được thắng lợi. Tiếp đó, dưới sự chỉ huy tài tình, khéo léo của ông, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không chỉ duy trì, bảo tồn được thực lực mà còn không ngừng phát triển, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Xứng đáng “là đội quân đàn anh… Tuy lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm của giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt Nam”(2) đúng như kỳ vọng của Lãnh tụ Hồ Chí Minh.
Vũ khí ngày đầu thành lập, Đội chỉ có 2 khẩu súng thập, 17 khẩu súng trường, 14 khẩu súng kíp. Ngoài ra, có 1 khẩu súng tiểu liên Mỹ Sub Machine-gun, 150 viên đạn, 6 quả bom lửa, 1 hộp bom nổ chậm, 5.000 đồng Đông Dương.
Điều kiện con người, vật chất chỉ có vậy; trong khi Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh là “Ra quân trận đầu nhất định phải thắng”, nên áp lực của “thành công” phụ thuộc vào tài chọn phương án tác chiến phù hợp với khả năng và sát tình thế. Ông cùng lãnh đạo Đội chọn tập kích là hình thức tác chiến chính vào hai đồn Phai Khắt, Nà Ngần. Tuy nhiên, nhấn mạnh phải thật bí mật, bất ngờ.
Mưu trí của Ban Chỉ huy Đội là sử dụng trinh sát đồn Phai Khắt - một thiếu niên tên Hồng chỉ mới 12 tuổi, lợi dụng công việc mang bánh, rượu cho tên đồn trưởng, tránh cho tên đồn trưởng và đội quân đồn Phai Khắt không nghi ngờ, mất cảnh giác để nắm sát tình hình địch, ra báo cáo đúng, kịp thời với Ban Chỉ huy đội. Tài cải trang, nghi binh lừa địch của Đội cũng đạt tới nghệ thuật. Toàn Đội cải trang thành lính dõng và một số lính tập mang theo Giấy đi tuần giả do đồng chí Võ Nguyên Giáp đánh máy bên Tòa soạn báo Việt Nam Độc lập chia thành ba toán xâm nhập đồn địch trót lọt, không gặp bất cứ trở ngại nào. Giấy này có dấu giả, chữ ký khéo bắt chước tới mức, quân địch không hề nghi ngờ gì.
Tuy nhiên, để bảo đảm yếu tố bí mật và thành công cho trận đánh đồn Nà Ngần, sự linh hoạt trong công tác cải trang đã được chỉ huy Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đổi khác nhanh chóng. Ba du kích quân đóng giả người Dao bị quân du kích bắt được, trói giải lên đồn. Khi quân ta bằng giấy giả lọt được vào đồn trót lọt thì tên quản khố đỏ đã dậy sớm ngồi vào bàn làm việc, bị bắt đầu hàng, nhưng y sử dụng súng ngắn kháng cự lại và bị đồng chí Thu Sơn dùng tiểu liên tiêu diệt, bốn tên lính kháng cự cũng bị quân ta tiêu diệt bằng sáu viên đạn súng trường. Phương thức tác chiến của Đội khi đánh đồn Nà Ngần vẫn là cải trang thành lính địch đi tuần, tập kích bất ngờ, binh vận, dụ hàng, chỉ diệt địch khi cần. Nếu ở Phai Khắt, quân ta chỉ bất ngờ nổ súng diệt viên sĩ quan đồn trưởng Pháp, thì ở Nà Ngần, tình thế đã buộc quân ta phải nổ súng diệt một tên sĩ quan và bốn lính kháng cự. Trận đánh đồn Nà Ngần diễn ra vẻn vẹn trong dăm phút. Toàn Đội rút lui an toàn. Hàng binh địch xin trở về quê hương làm ăn được trợ cấp lộ phí.
Nhờ mưu trí tổ chức trinh sát mục tiêu và cải trang lừa địch hiệu quả; công tác chuẩn bị khoa học, chu đáo, chặt chẽ đã tạo cho Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân thế tiến công địch hoàn toàn bất ngờ để đột nhập đồn, diệt địch, thu vũ khí. Tiểu đội trưởng Thu Sơn mặc bộ kaki lính tập, xách tiểu liên đi đầu, đưa “giấy đi tuần”. Một tiểu đội đi theo tiến thẳng vào kho súng. Tiểu đội khác nhanh chóng tỏa ra bao vây đồn Phai Khắt. Đồng chí Thu Sơn hô tiếng Pháp “Rátsămmăng” (tập hợp). 17 lính và 1 cai tập hợp lại. Các chiến sĩ Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân chĩa súng, buộc địch đầu hàng. Trong lúc đó, tên đồn trưởng Pháp đang trên đường Nguyên Bình - Phai Khắt về đồn, bị một chiến sĩ ta nổ súng tiêu diệt. Sau khi thu chiến lợi phẩm, động viên nhân dân, Đội tổ chức rút lui an toàn. Toàn đội đã thực hiện đúng căn dặn của Lãnh tụ Hồ Chí Minh đối với Đội khi tiễn đồng chí Võ Nguyên Giáp trở về tổng Hoàng Hoa Thám để thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân: “Phải nhớ bí mật: Ta ở Đông, địch tưởng là ở Tây. Lai vô ảnh, khứ vô hình” (3).
Hai chiến thắng Phai Khắt, Nà Ngần đã biểu hiện rõ nét tinh thần “Quyết chiến, quyết thắng”; mưu lược, tài chỉ huy vô cùng khéo léo, quyết đoán của Đội trưởng Hoàng Sâm; lòng yêu nước và dũng khí toàn thể đội viên Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân; mở đầu truyền thống đánh chắc thắng, đánh thắng trận đầu của Quân đội ta; góp phần thực hiện được phương châm “Lấy chiến thắng để tuyên truyền vũ trang. Lấy tuyên truyền vũ trang để giành chiến thắng mới” như Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chỉ thị.
Thứ hai, Chỉ đạo, chỉ huy Đội Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không chỉ bảo tồn được thực lực mà còn không ngừng phát triển, cùng với các đội vũ trang cách mạng khác hợp nhất trở thành Việt Nam Giải phóng quân.
Sau những trận thắng đầu tiên đó, thực dân Pháp tiếp theo là phát xít Nhật đã thực thi trăm phương ngàn kế nhằm tiêu diệt đội quân chủ lực này, nhưng đội quân chủ lực này được đồng bào các dân tộc chở che, giúp đỡ; sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng; sự dẫn dắt, chỉ huy tài ba của Đội trưởng Hoàng Sâm tiếp tục trụ vững và không ngừng phát triển. Lực lượng Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân không còn chỉ là vài trung đội, đại đội mà đã phát triển thành nhiều đại đội.
Cuối tháng 4 năm 1945, các đơn vị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã giải phóng hầu hết các xã, châu, huyện ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Giang. Ngày 20 tháng 4 năm 1945, cánh Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân gặp Cứu quốc quân ở Bảo Lạc, Thất Khê xuống cùng đánh chiếm Văn Mịch. Ngày 1 tháng 5, tiếp tục giải phóng Bằng Mạc. Cánh quân của Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân trên đường tiến từ Bảo Lạc về Thất Khê đã tước được hàng nghìn khẩu súng (có cả súng cối, súng máy, đại bác) và rất nhiều lừa, ngựa của các đoàn quân Pháp nối nhau chạy qua biên giới Việt - Trung.
Có những bộ phận quân Pháp ngoan cố chống cự đã bị Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đánh bại, tước toàn bộ vũ khí như ở Trà Lĩnh, Mã Phục (Cao Bằng). Tiến đến đâu, các đội quân đều phối hợp với cơ sở cứu quốc địa phương tước vũ khí lính dõng, thu bằng, triện của bọn tổng lý, trừng trị bọn việt gian đầu sỏ, thành lập chính quyền nhân dân, củng cố và phát triển các hội cứu quốc, xây dựng các đội tự vệ chiến đấu và du kích để bảo vệ chính quyền cách mạng mới được thành lập.
Trước tình thế cách mạng chín muồi, ngày 15 tháng 4 năm 1945, Hội nghị quân sự Bắc Kỳ tại huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang do đồng chí Trường Chinh - Tổng Bí thư của Đảng chủ trì, quyết định thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân cùng các tổ chức vũ trang khác, thành lập Việt Nam Giải phóng quân để cùng nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Ngày 15 tháng 5 năm 1945, tại Định Biên Thượng, Chợ Chu, Thái Nguyên, Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được hợp nhất với các đơn vị Cứu quốc quân thành đội chủ lực của Việt Nam Giải phóng quân. Lực lượng lên tới 13 đại đội. Ở một số tỉnh, huyện cũng tổ chức nhiều trung đội, đại đội Giải phóng quân khác. Đó là một đội ngũ vũ trang được rèn luyện trong lò lửa đấu tranh cách mạng. Hầu hết đội viên Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã trở thành những cán bộ chỉ huy tài ba của Quân đội ta sau này.
Như vậy, do yêu cầu của bối cảnh, điều kiện cách mạng đã chín muồi, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân được thành lập theo Chỉ thị của Lãnh tụ Hồ Chí Minh. Và dưới sự chỉ huy mưu lược, tài ba, quyết đoán của Đội trưởng Hoàng Sâm. Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân đã không ngừng phát triển, khẳng định vị thế của đội quân chủ lực đầu tiên và hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử của Trung ương Đảng và nhân dân giao phó. Tháng 1 năm 1948, Đội trưởng Hoàng Sâm khi đó giữ chức vụ Khu trưởng Chiến khu II đã được phong hàm Thiếu tướng ngay đợt đầu tiên phong tướng của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.