Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

KIÊN ĐỊNH VÀ VẬN DỤNG SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN, TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH LÀ SỰ LỰA CHỌN ĐÚNG ĐẮN, SÁNG SUỐT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

 

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện. Ngay từ khi ra đời, Đảng ta xác định: Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đây là quan điểm xuyên suốt của Đảng trong quá trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Đảng ta cũng khẳng định rõ: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”; tại Đại hội XIII, Đảng ta tiếp tục khẳng định: “tiếp tục kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”, đây là sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta, bởi vì:

Thứ nhất, Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là lý luận cách mạng chân chính, khoa học nhất, chỉ ra con đường đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người của cách mạng Việt Nam. Chúng ta đều biết, chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống hoàn chỉnh những quan điểm triết học, kinh tế chính trị, xã hội, là học thuyết khoa học về sự phát triển lịch sử tự nhiên của nhân loại. Sự ra đời của chủ nghĩa Mác – Lênin là một chuyển biến cách mạng vĩ đại trong đời sống chính trị của nhân loại. Chủ nghĩa Mác – Lênin là thế giới quan, phương pháp luận khoa học về các quy luật của tự nhiên và xã hội, khoa học về thắng lợi của chủ nghĩa xã hội và xây dựng xã hội cộng sản. Đó là học thuyết duy nhất từ trước đến nay bàn về mục tiêu, điều kiện và phương pháp giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột, bất công và đói nghèo trên thế giới. Mặt khác, chủ nghĩa Mác – Lênin là một hệ thống mở, có khả năng hấp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, gắn bó và phát triển cùng với thực tiễn phong trào cách mạng đã, đang và sẽ tiếp tục phát triển trong thời đại cách mạng khoa học, công nghệ và toàn cầu hóa.

Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể Việt Nam. Tổng hợp tri thức văn hóa phương Đông và phương Tây. Tư tưởng Hồ Chí Minh đạt tới tầm cao trí tuệ của thời đại, thấm đậm bản sắc văn hóa và bản lĩnh của dân tộc, có sức sống mạnh mẽ, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh ngày càng được hoàn thiện, phát triển cùng với những thắng lợi và những bước tiến lên của cách mạng nước ta, của sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của đất nước.

Thứ hai, Chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cơ sở khoa học để Đảng ta nghiên cứu, đánh giá đúng tình hình, bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn trong mọi thời kỳ. Chỉ có dựa trên cơ sở phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, với phương pháp xem xét khách quan, toàn diện, lịch sử, cụ thể và phát triển, được vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, gắn chặt lý luận với thực tiễn theo tư tưởng Hồ Chí Minh mới bảo đảm cho Đảng ta đánh giá đúng tình hình, bản chất, âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch đối với cách mạng nước ta, đề ra được đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, sát với thực tiễn, dẫn dắt cách mạng giành thắng lợi.

Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào tình hình cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, chấm dứt khủng hoảng đường lối cách mạng ở đầu thế kỷ XX. Nhờ đó, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân tiến hành đấu tranh cách mạng, theo con đường cách mạng vô sản; đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi tháng Tám năm 1945, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, chấm dứt gần 100 năm thuộc địa của thực dân Pháp. Dựa trên bản chất cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã nhận thức đúng bản chất của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, kiên trì mục tiêu, con đường cách mạng vô sản, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, giành thắng lợi trọn vẹn trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Cũng nhờ kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nước ta đạt được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Chính trị ổn đinh, văn hóa phát triển, đối ngoại được mở rộng, quốc phòng, an ninh vững chắc, đặc biệt kinh tế không ngừng phát triển, đời sống của nhân dân được nâng cao, cộng đồng các dân tộc Việt Nam đoàn kết chặt chẽ, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc…

Trong tình hình hiện nay, thế giới và khu vực vẫn có những diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế vẫn đang là xu hướng lớn, diễn ra ngày càng sâu rộng; khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, đánh dấu bằng sự ra đời của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động sâu sắc đến mọi quốc gia, dân tộc; các thế lực thù địch đẩy mạnh “diễn biến hòa bình” chống phá cách mạng nước ta… Để vượt qua những khó khăn, thách thức trong tình hình mới, nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu dâu giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, việc giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề có tính nguyên tắc. Thể hiện tập trung nhất của giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Như vậy, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự lựa chọn đúng đắn, sáng suốt của Đảng./.

St

TỰ DO TÍN NGƯỠNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM LUÔN ĐẶT DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG, SỰ QUẢN LÝ CỦA NHÀ NƯỚC

 

Tôn giáo du nhập, hình thành ở Việt Nam từ rất sớm, được người dân đón nhận bởi những giá trị nhân văn mà tôn giáo mang lại phù hợp với đạo lý, văn hóa truyền thống tốt đẹp của người Việt. Trải qua chiều dài lịch sử dân tộc, tôn giáo luôn gắn kết chặt chẽ, đồng hành cùng dân tộc, biểu hiện rõ nét nhất là các giá trị đạo đức, văn hóa. Việt Nam đã công bố Sách trắng “Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”, minh bạch hóa quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam và thành tựu bảo đảm quyền tự do tôn giáo ở nước ta trong thời gian qua. Như vậy, khẳng định rằng, tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân là chủ trương, chính sách nhất quán, xuyên suốt của Đảng, Nhà nước Việt Nam và được thể chế hóa bằng Hiến pháp, pháp luật. Điều 24, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 đã khẳng định: “(1). Mọi người có quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn giáo bình đẳng trước pháp luật; (2). Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; (3). Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để vi phạm pháp luật”. Cùng với Hiến pháp năm 2013, việc thông qua Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 và hai Nghị định thực thi Luật Tín ngưỡng, tôn giáo đã tạo khuôn khổ pháp lý vững chắc để bảo đảm tốt hơn quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo cho người dân.

  Thế nhưng, gần đây nhất, trên trang Doithoainoline.com Phạm Trần có bài viết “Có tự do tôn giáo ở Việt Nam không?”…. Họ tự cho mình quyền được khuyến khích, cổ vũ các hoạt động tôn giáo trái pháp luật, không cần xin phép, đăng ký chính quyền, thúc đẩy các hoạt động “tà đạo, đạo lạ” ở các vùng sâu, vùng xa, gia tăng hoạt động mê tín dị đoan, trái thuần phong mỹ tục, trái pháp luật, gây bức xúc trong xã hội và nhân dân. Họ xuyên tạc rằng “cả Hiến pháp và Luật Tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam đều có những quy định nhằm hạn chế quyền tự do tôn giáo”. Họ cho rằng “Luật tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam bao gồm: các điều khoản mơ hồ cho phép tự do tôn giáo vì lợi ích an ninh quốc gia và đoàn kết xã hội là “bước thụt lùi”, “bóp nghẹt tôn giáo” không phù hợp với công ước quốc tế về quyền con người”. Họ lợi dụng triệt để quan điểm “quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo trong khuôn khổ pháp luật” để cho rằng “tự do tôn giáo của Việt Nam chỉ là hình thức”.. Họ dựa vào việc các tổ chức đội lốt tôn giáo, có những hoạt động vi phạm pháp luật, như: tổ chức bất hợp pháp Dương Văn Mình (Tây Bắc), Hà Mòn (Tây Nguyên), tịnh thất Bồng Lai (Long An),… bị chính quyền xử lý để vu khống Việt Nam “vi phạm tự do tôn giáo, cấm đoán tôn giáo, đàn áp tôn giáo”, v.v.

Sau gần 40 năm tiến hành công cuộc Đổi mới, công tác tôn giáo ở Việt Nam ngày càng tốt hơn. Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 16/10/1990 của Bộ Chính trị khoá VI về “Tăng cường công tác tôn giáo trong tình hình mới” và Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 12/3/2003, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về công tác tôn giáo đã có những bước đổi mới có tính đột phá, thừa nhận “tôn giáo là vấn đề còn tồn tại lâu dài; tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một bộ phận Nhân dân; đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” và “tôn giáo đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội”. Đây là những vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng, thể hiện một cách rõ ràng quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề tôn giáo trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, không chỉ khẳng định sự “tồn tại lâu dài” của tôn giáo, mà còn phát triển lên mức cao hơn, làm rõ mối quan hệ giữa tôn giáo với dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Với quan điểm đó, công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng vừa quan tâm giải quyết hợp lý nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vừa kịp thời đấu tranh việc chống lợi dụng tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Hòa trong dòng chảy lịch sử mấy ngàn năm của dân tộc Việt Nam, với sức mạnh được hun đúc từ mạch nguồn văn hóa: lòng yêu nước nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, tự cường, đoàn kết xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, “thương người như thể thương thân”, các tôn giáo ở Việt Nam đều có đóng góp nhất định trong những mức độ khác nhau vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không chỉ đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, tôn giáo còn là một bộ phận cấu thành của văn hoá Việt Nam. Những giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của tôn giáo đã góp phần tạo nên sự phong phú, đặc sắc của nền văn hóa dân tộc Việt Nam. Bằng những giáo lý nhân văn, bác ái của mình, các tôn giáo ở Việt Nam đã phát huy, lan toả các giá trị văn hóa, đạo đức nhân văn, bác ái ấy vào đời sống xã hội, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức, văn hóa, ứng xử nhân văn, nhân ái của dân tộc ta, đóng góp vào sự nghiệp xây dựng đất nước, cụ thể hóa thành những hành động thiết thực, cứu người, giúp đời, chung tay cùng đồng bào tôn giáo và đồng bào không có tôn giáo xây dựng đất nước.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đoàn kết dân tộc, đồng lòng đồng sức của toàn thể nhân dân Việt Nam, kiều bào ở nước ngoài, chúng ta tin tưởng rằng, sự tương đồng trong mục tiêu phấn đấu vì con người, vì sự phồn vinh của đất nước, tín đồ các tôn giáo, trước hết là con dân Việt, công dân Việt, sẽ sống “tốt đời, đẹp đạo”, mãi tiếp bước trên con đường “đồng hành với dân tộc”, vượt lên mọi thách thức và đập tan mọi âm mưu đen tối của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách mạng Việt Nam. Đưa đất nước vững bước đi lên, thực hiện thắng lợi mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.

St

BỔN CŨ SOẠN LẠI” CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

 

Hàng năm, mỗi dịp đất nước kỷ niệm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước thì các tổ chức phản động, các phần tử cực đoan chính trị lại rêu rao những luận điệu cũ rích, lạc hậu, nhưng với tần suất chống phá ngày một gia tăng, nhất là trên không gian mạng. Mục đích của chúng nhằm kích động gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân. Bằng chứng là gần đây ngày 14/4/2024, trên trang mạng “Voatiengviet” Thiện Ý, đã phát tán bài viết có tựa đề: “Quốc hận, hận ai, hận cái gì, hận để làm gì”, bài viết đã đưa các luồng thông tin sai trái không đúng sự thật lịch sử, nhằm xuyên tạc phủ nhận chiến thắng vĩ đại 30-4, khi cho rằng “30-4 là ngày quốc hận”, “Tháng tư đen”, “cuộc nội chiến”, “huynh đệ tương tàn”…

Chúng còn xây dựng các công cụ thăm dò ý kiến trên mạng rồi dùng thủ thuật để nâng khống số người tham gia nhằm tạo niềm tin cho người đọc, chúng mượn danh các bạn trẻ để bình luận, đưa ra các quan điểm trái chiều nhằm nhiễu loạn thông tin…cần phải khẳng định rằng:

Thứ nhất, những luận điệu mà các tổ chức phản động, kẻ cơ hội chính trị rêu rao hàng năm vào dịp này đều là những luận điệu sai trái phản động được thể hiện lại bằng hình thức khác để phù hợp hơn với sự phát triển của khoa học công nghệ, đặc biệt là mạng xã hội. Biết không thể lôi kéo hầu hết các tầng lớp nhân dân, chúng tập trung vào một bộ phận thanh thiếu niên còn hạn chế về nhận thức để dễ bề lôi kéo dụ dỗ…. Nhưng dù có “khua môi múa mép” bao nhiêu đi nữa thì ánh sáng của sự thật, chính nghĩa và lịch sử đã đập tan mọi âm mưu xảo quyệt của chúng.

Thứ hai, thực tế là, lớp lớp thế hệ cha anh đã đoàn kết một lòng, sẵn sàng hy sinh tất cả để đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, đập tan ngụy quân, ngụy quyền, thống nhất đất nước, non sông thu về một mối. Chiến thắng vĩ đại 30/4/1975 đi vào lịch sử dân tộc như một chân lý rạng ngời. Đó hoàn toàn không phải là cuộc “nội chiến” hai miền hay “chiến tranh mang tính ý thức hệ”. Đó là kết quả tất yếu của cuộc kháng chiến trường kỳ chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam nhằm giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Chiến thắng đó mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ 20, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc.

Thứ ba, với chiến thắng 30/4/1975, Việt Nam một lần nữa chứng tỏ trước lịch sử và thế giới về một đất nước kiên cường, bất khuất với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Tinh thần đó được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta tiếp nối, phát huy tinh và biến thành hành động trong quá trình đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững; tạo nên một Việt Nam với cơ đồ mới, vị thế lớn, uy tín cao trên trường quốc tế. Nhiều thập kỷ qua, khối đại đoàn kết toàn dân thường xuyên được vun đắp và phát triển. Đảng, Nhà nước, nhân dân ta luôn sẵn sàng chào đón tất cả kiều bào trở về đóng góp cho quê hương, đất nước. Những chuyến bay đón kiều bào về quê tránh dịch đã thể hiện tinh thần dân tộc, nghĩa đồng bào được tiếp nối từ thế hệ này qua thế hệ khác. Việt Nam được thế giới ghi nhận, thực hiện thắng lợi “mục tiêu kép” vừa khống chế, ngăn chặn đại dịch Covid-19; vừa phục hồi, phát triển kinh tế, bảo đảm đời sống và an toàn cho người dân.

Thực tế đó là ánh sáng vạch trần những kẻ đang cố tình chia rẽ mối đoàn kết, xuyên tạc, phủ nhận lịch sử chiến thắng 30.4, kích động hận thù, phá hoại công cuộc xây dựng đất nước của nhân dân ta. Qua đó, để thấy rằng, chẳng luận điệu nào có thể làm lu mờ chân lý mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy không bao giờ thay đổi”./.

 St

“…CHỈ CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA MỘT ĐẢNG BIẾT VẬN DỤNG MỘT CÁCH SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA NƯỚC MÌNH THÌ MỚI CÓ THỂ ĐƯA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC ĐẾN THẮNG LỢI VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN THÀNH CÔNG”

 “…CHỈ CÓ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA MỘT ĐẢNG BIẾT VẬN DỤNG MỘT CÁCH SÁNG TẠO CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN VÀO ĐIỀU KIỆN CỤ THỂ CỦA NƯỚC MÌNH THÌ MỚI CÓ THỂ ĐƯA CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN TỘC ĐẾN THẮNG LỢI VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA ĐẾN THÀNH CÔNG”


Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài “Cách mạng Tháng Mười vĩ đại mở ra con đường giải phóng cho các dân tộc”, gửi cho báo Pravđa (Liên Xô); Báo Nhân dân, đăng số 4952, ngày 01 tháng 11 năm 1967.

Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh xem chủ nghĩa Mác - Lênin như kim chỉ nam cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và Người luôn nhấn mạnh sự cần thiết phải vận dụng sáng tạo “cẩm nang thần kỳ” đó vào thực tiễn cách mạng. Sự khẳng định trên của Bác có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, khẳng định và đánh giá cao bài học kinh nghiệm về lý luận và thực tiễn trong lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng của Đảng, đó là một trong những bài học có tính nguyên tắc và phổ biến, đảm bảo cho sự nghiệp giải phóng triệt để của giai cấp công nhân và các dân tộc bị áp bức. Thực tiễn chứng minh, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể ở nước ta đã đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, giành lại độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, tiếp tục giành những thắng lợi trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.


Lời dạy trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn nguyên giá trị, nhất là trong công tác xây dựng Đảng. Theo đó, Đảng ta phải lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động; Đảng phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa học, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Đối với Quân đội ta, đó cũng là nguyên tắc, nền tảng tư tưởng để xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao; xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh. Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn cao tinh thần tự giác, tích cực nghiên cứu, học tập lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nghị quyết, chỉ thị của cấp ủy đảng; đồng thời biết vận dụng sáng tạo vào hoạt động thực tiễn của đơn vị nhằm thực hiện có hiệu quả chức trách, nhiệm vụ được giao.

“CHỚ NÊN CÁI GÌ TỐT THÌ DÀNH CHO MÌNH, XẤU ĐỂ CHO NGƯỜI KHÁC”

 “CHỚ NÊN CÁI GÌ TỐT THÌ DÀNH CHO MÌNH, XẤU ĐỂ CHO NGƯỜI KHÁC” 


Đây là lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh được trích trong bài nói tại hội nghị rút kinh nghiệm công tác quản lý hợp tác xã nông nghiệp toàn miền Bắc, đăng trên Báo Nhân dân, số 2056, ngày 02 tháng 11 năm 1959.


Đây là thời điểm miền Bắc nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội, các ngành, các cấp ra sức thi đua thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và Chính phủ về xây dựng hợp tác xã sản xuất nông nghiệp, xóa bỏ tư hữu cá nhân về ruộng đất để phục vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và chi viện sức người, sức của cho chiến trường miền Nam, đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.


Lời dạy của Bác có ý nghĩa rất sâu sắc trong bối cảnh toàn miền Bắc đang thực hiện hợp tác xã nông nghiệp, việc xây dựng cũng như quản lý hợp tác xã còn gặp nhiều khó khăn, chưa có kinh nghiệm. Mặt khác, ở một bộ phận cán bộ quản lý vẫn còn tư tưởng bảo thủ, lạc hậu, cá nhân chủ nghĩa, chỉ muốn nhận cái tốt về mình và đẩy cái xấu, cái chưa tốt cho người khác, làm ảnh hưởng đến công cuộc xây dựng hợp tác xã nông nghiệp của Đảng và Nhà nước ta. Lời dạy của Bác trong thời điểm này, không những chỉ ra những hạn chế, biện pháp khắc phục mà còn là lời căn dặn, nhắc nhở đối với toàn thể cán bộ làm công tác quản lý nhà nước ta nói chung và quản lý hợp tác xã nông nghiệp nói riêng, kịp thời chấn chỉnh những nhận thức, quan điểm lệch lạc của một số tổ chức và cá nhân trong phương thức làm ăn mới, góp phần vào xây dựng tính tập thể, tình đoàn kết toàn dân thành một khối đại đoàn kết dân tộc, tạo cơ sở cho nông nghiệp miền Bắc phát triển và đi lên chủ nghĩa xã hội; đồng thời, để cho mỗi cá nhân trong tập thể “tự soi, tự sửa”, xây dựng ý thức và hành động của bản thân, mình vì mọi người, tất cả vì miền Nam ruột thịt, góp phần vào thắng lợi của cách mạng miền Nam.


Hiện nay, đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, một bộ phận cán bộ, đảng viên, quần chúng có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; mắc bệnh “thành tích”, háo danh, phô trương, che dấu khuyết điểm… Học tập và làm theo lời Bác dạy, đòi hỏi mỗi tổ chức, cá nhân phải luôn đề cao tình đồng chí, đồng đội, biết chia sẻ khó khăn, biết trân trọng những thành quả, quyết tâm khắc phục những hạn chế, thiếu sót, không mắc bệnh “thành tích”, không háo danh, phô trương, không tranh công đổ lỗi cho người khác, dám nghĩ, dám làm và dám chịu trách nhiệm.


Mỗi cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội nhân dân Việt Nam phải luôn nêu cao tinh thần tự giác, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; xác định tốt chức trách, nhiệm vụ của mình, chủ động, sáng tạo, khắc phục mọi khó khăn, quyết tâm hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng cơ quan, đơn vị vững mạnh toàn diện “Mẫu mực, tiêu biểu”./.

PHẢN BÁC, PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VÀ NHẬN THỨC LỆCH LẠC VỀ NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH

 PHẢN BÁC, PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM SAI TRÁI VÀ NHẬN THỨC LỆCH LẠC VỀ NGUYÊN TẮC TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH


Tự phê bình và phê bình là một trong những nguyên tắc tổ chức, hoạt động và là quy luật tồn tại, phát triển của Đảng. Các thế lực thù địch luôn xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc này. Hơn nữa, khi một số cấp ủy, tổ chức đảng thực hiện không nghiêm, hiệu quả thấp thì ngay trong nội bộ Đảng cũng xuất hiện những nhận thức lệch lạc về nguyên tắc này. Nhận diện đầy đủ để đấu tranh phản bác, phê phán, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả nguyên tắc tự phê bình và phê bình là nhiệm vụ quan trọng hiện nay.


Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của cách mạng Việt Nam từ khi Đảng ra đời đến nay đã khẳng định vai trò quyết định của công tác xây dựng Đảng, trong đó “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”. Điều lệ Đảng đã xác định tự phê bình và phê bình trong Đảng là một trong 5 nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng.


Nghị quyết Trung ương 4 các khoá XI, XII và XIII đều xác định 3 nhiệm vụ cấp bách về xây dựng Đảng để tập trung những giải pháp khắc phục, trong đó, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ là vấn đề cấp bách nhất. Giải pháp đầu tiên được xác định và quán triệt trong cả 3 nghị quyết nêu trên đều nhấn mạnh nhiệm vụ tự phê bình và phê bình.


Trên thực tế, công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng được chú trọng, thực hiện nghiêm túc, bài bản, nền nếp, đem lại những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, góp phần khắc phục được những khuyết điểm trong mỗi tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, vẫn còn không ít nơi thực hiện hình thức, đối phó, hiệu quả thấp, từ đó, các thế lực thù địch luôn tìm cách xuyên tạc, hạ thấp, phủ nhận vai trò của nguyên tắc này; đồng thời xuất hiện những khuynh hướng tư tưởng lệch lạc ngay trong cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên. Cụ thể là:


Thứ nhất, thiếu tin tưởng vào tác dụng của nguyên tắc tự phê bình và phê bình.


Ở một số cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu độc đoán, gia trưởng, thích xu nịnh, ít lắng nghe phê bình, thậm chí ngấm ngầm trả thù người phê bình mình, làm cho cấp uỷ, tổ chức đảng mất dân chủ, tự phê bình và phê bình trở thành hình thức.


Ở những cấp uỷ, tổ chức đảng mắc khuyết điểm kéo dài trong thực hiện nguyên tắc làm cho đảng viên cả cũ và mới thực hiện đối phó, chiếu lệ, hiệu quả thấp, hậu quả là thiếu tin tưởng vào tác dụng của nguyên tắc tự phê bình và phê bình, nội bộ “đoàn kết xuôi chiều” (thực chất là mất đoàn kết). Đây là tình trạng khá phổ biến ở những cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu bị kỷ luật vì khuyết điểm nhỏ tích tụ thành khuyết điểm lớn do không được nhắc nhở, không được phê bình để sửa chữa, khắc phục kịp thời. Từ đó xuất hiện tư tưởng cho rằng nguyên tắc này thiếu tính khả thi, không có tác dụng cho dù hằng tháng, hằng năm hay mỗi nhiệm kỳ đại hội đều thực hiện nhưng chỉ là đối phó, để báo cấp cấp trên.


Thứ hai, thiếu trung thực trong tự phê bình.


Mặc dù nguyên tắc tự phê bình và phê bình được thực hiện thường xuyên với nhiều hình thức khác nhau, nhất là dịp sinh hoạt thường kỳ của cấp uỷ, tổ chức đảng nhưng không ít tổ chức đảng coi nhẹ, làm qua loa, cốt cho xong. Không ít cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên thiếu trung thực trong tự phê bình và phê bình đã được cấp uỷ cấp trên gợi ý kiểm điểm qua mỗi dịp kiểm điểm hằng năm hoặc khi thực hiện chủ trương lớn của Đảng về tự phê bình và phê bình như thực hiện Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng hay các nghị quyết Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII chỉ rõ: “tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”.


Không thể phủ nhận thực trạng một bộ phận đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao khi chưa có ai biết hoặc có biết nhưng không dám dấu tranh, phê bình. Đây cũng là cái cớ để các thể lực thù địch khoét sâu, thổi phồng khuyết điểm, chỉ khai thác những mặt trái và rồi đi đến “kết luận” rằng: không có ai tự “vạch áo cho người xem lưng”, ngay cả khi có chứng cứ rõ ràng mà họ vẫn còn chối bằng được thì không thể có chuyện “thật thà nhận khuyết điểm”; hoặc, nếu có người “thật thà nhận khuyết điểm” thì cũng chỉ là khuyết điểm lặt vặt, không quan trọng, nhận cho có khuyết điểm và nếu có nhận khuyết điểm đó thì cũng “chẳng chết ai”, “tự phê bình và phê bình thời nay hết tác dụng”(!). Điều đó càng làm cho không ít cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên thiếu tin tưởng vào tác dụng của nguyên tắc này, không tự giác, không thật thà nhận khuyết điểm ngay cả khi mắc khuyết điểm cần phải sửa chữa.


Thứ ba, thiếu bản lĩnh trong phê bình.


Phê bình khuyết điểm của người khác là một việc khó, nhất là phê bình đồng chí nhưng lại là cấp trên trực tiếp quản lý mình thì càng khó hơn. Tư tưởng “mũ ni che tai”, “ta không đụng đến mi thì mi cũng không đụng đến ta”, né tránh, ngại va chạm nên không dám phê bình người khác, nhất là đối với cấp trên diễn ra ở không ít cấp uỷ, tổ chức đảng hiện nay. Ngay cả trước những dấu hiệu sai trái nhưng cũng không dám thẳng thắn đấu tranh, không dám thực hiện quyền bảo lưu ý kiến theo quy định của Điều lệ Đảng vì sợ bị coi là chống đối tập thể, không ủng hộ người đứng đầu, thậm chí bị quy chụp là có “dấu hiệu mất đoàn kết” nội bộ(!). Nhiều tập thể cấp uỷ, ban thường vụ bị xử lý kỷ luật thời gian qua đều có lý do này. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đánh giá: “có nơi còn buông lỏng sinh hoạt đảng, chất lượng sinh hoạt chưa cao, sinh hoạt chi bộ ở nhiều nơi vẫn còn hình thức; tính chiến đấu trong tự phê bình và phê bình còn yếu”.


Viện dẫn vào những hạn chế trong tiến hành tự phê bình và phê bình ở một số cấp ủy, tổ chức đảng; các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị ra sức rêu rao rằng: tự phê bình và phê bình trong Đảng không có tác dụng, trái lại còn nuôi dưỡng tư tưởng xu nịnh nhau, nhất là nịnh cấp trên(!). Thực chất đây là những luận điệu có ý đồ chính trị xấu, hoặc chí ít cũng là không đúng tầm, không đầy đủ, không chính xác, “chỉ thấy cây mà không thấy rừng”, xem xét, đánh giá, nhận định phiến diện, cố tình xuyên tạc, phủ nhận mục đích, bản chất nguyên tắc và hoạt động tự phê bình và phê bình của Đảng ta.


Thứ tư, thiếu tin tưởng vào cơ chế bảo vệ người phê bình.


Mặc dù Đảng đã ban hành các quy định nhằm bảo vệ người đấu tranh phê bình, thậm chí tố cáo những vi phạm của tổ chức đảng, đảng viên, nhưng trên thực tế vẫn có rất ít trường hợp được bảo vệ hiệu lực và hiệu quả. Do vị trí công tác, cơ quan, đơn vị, địa phương nơi công tác gắn bó với cấp uỷ, tổ chức đảng nơi sinh hoạt mà đảng viên đó bị chi phối, ngại đấu tranh bảo vệ chân lý, lẽ phải, quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Nếu phải chuyển công tác đi nơi khác thì cũng khó có nơi nào chấp nhận người “chuyên đấu đá”, đã “gây mất đoàn kết” ở nơi họ công tác. Vậy nên tư tưởng “đấu tranh, tránh đâu?”, “được vạ, má sưng” vẫn còn, cơ chế bảo vệ người đấu tranh phê bình khó khả thi. Do đó, hiện tượng tố cáo giấu tên, nặc danh hay gửi thông tin cho các cơ quan kiểm tra đảng, thanh tra nhà nước, báo chí của đảng viên trong nội bộ cấp uỷ, tổ chức đảng khi người có sai phạm khi đương chức, đã chuyển công tác hay đã nghỉ hưu, thậm chí lên chức cao hơn rồi mới bị phát hiện xử lý, làm giảm lòng tin của đảng viên và nhân dân đối với tính khả thi của nguyên tắc tự phê bình và phê bình.


Vì vậy, một mặt phái tích cực đấu tranh chống những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch và nhận thức lệch lạc ngay trong đội ngũ đảng viên có hiệu quả, mặt khác phải lấy “phòng” là quan trọng, lấy “xây” là chính, vì nội bộ Đảng trong sạch, vững mạnh sẽ là cách tốt nhất để “miễn dịch” với những tư tưởng sai trái, thù địch và phải thực hiện đồng bộ những giải pháp sau đây:


Một là, nâng cao nhận thức về vai trò của nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng.


C.Mác khẳng định: “Những sai lầm về sách lược là lúc nào cũng có thể có”, do vậy “sự phê phán là yếu tố sống còn của nó”. Ph.Ăngghen cũng cho rằng việc tự phê bình và phê bình là tuyệt đối cần thiết và bằng cách đó đảng học đ­ược cách hoạt động tốt hơn.


V.I.Lênin chỉ rõ, cán bộ, đảng viên của đảng cũng là con người, “không phải là thiên thần, không phải là thánh, không phải là anh hùng mà cũng là người như tất cả mọi người khác. Họ cũng có khuyết điểm. Đảng sửa cho họ”; “Tất cả những đảng cách mạng đã bị tiêu vong cho tới nay, đều bị tiêu vong vì tự cao, tự đại, vì không biết nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, và vì sợ sệt không dám nói lên những nhược điểm của mình...”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm”. Bởi vậy: “Về luật phát triển, Đảng Lao động Việt Nam dùng lối tự phê bình và phê bình để giáo dục đảng viên, giáo dục quần chúng”. Người đã đưa ra khái niệm hoàn chỉnh về tự phê bình và phê bình: “Tự phê bình là cá nhân (cơ quan hoặc đoàn thể) thật thà nhận khuyết điểm của mình để sửa chữa, để người khác giúp mình sửa chữa, mà cũng để người khác biết mà tránh những khuyết điểm mình đã phạm. Phê bình là thấy ai (cá nhân, cơ quan, đoàn thể) có khuyết điểm thì thành khẩn nói cho họ biết để họ sửa chữa, để họ tiến bộ. Mục đích của tự phê bình và phê bình đều nhằm giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, phát triển ưu điểm, cùng nhau tiến bộ”.


Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn cán bộ, đảng viên nếu không kiên quyết sửa chữa khuyết điểm, thì cũng như giấu giếm bệnh tật trong mình, không dám uống thuốc, để bệnh ngày càng nặng, nguy đến tính mệnh: “Một đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”.


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, nhờ tự phê bình và phê bình nghiêm túc, đúng đắn mà những mâu thuẫn, bất đồng, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân được giải quyết có lý, có tình, không để tích tụ lại từ nhỏ thành lớn, phá hoại khối đoàn kết thống nhất của Đảng, không để những người thiếu thiện chí với Đảng lợi dụng những bất đồng, những mâu thuẫn đó gây chia rẽ Đảng. “Tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển và tiến bộ của Đảng, cũng là một phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng”.


Mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên nhận thức đầy đủ, đúng đắn vai trò của tự phê bình và phê bình trong Đảng thì tự phê bình và phê bình như “rửa mặt hằng ngày”, thực sự trở thành quy luật phát triển của Đảng.


Hai là, nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp uỷ, tổ chức đảng, thực hiện đầy đủ, đúng đắn nội dung và hình thức tự phê bình và phê bình.


Hoạt động tự phê bình và phê bình diễn ra chủ yếu trong sinh hoạt đảng. Chỉ trong sinh hoạt đảng thì đảng viên mới được lấy tư cách là đảng viên để phê bình đồng chí của mình và phê bình các tổ chức của Đảng.


Chủ thể của hoạt động tự phê bình và phê bình trong Đảng là mọi đảng viên của Đảng, là tất cả các tổ chức trong Đảng, từ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị cho đến các tổ đảng ở các chi bộ của đảng đều phải tự phê bình và phê bình.


Trong quá trình xây dựng Đảng và lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn luôn coi trọng tự phê bình và phê bình:


Nội dung tự phê bình và phê bình trong Đảng bao gồm toàn bộ các mặt hoạt động cả Đảng và của mọi cán bộ, đảng viên. Trong điều kiện hiện nay cần hướng vào việc thực hiện các nghị quyết của Đảng; thực hiện nhiệm vụ chính trị của tổ chức đảng, thực hiện nhiệm vụ đổi mới, chỉnh đốn Đảng. Đặc biệt, cần chú trọng phê phán những quan điểm lệch lạc, sai trái, những tệ nạn gia trưởng, độc đoán, quan liêu, hối lộ, tham nhũng, sự vô trách nhiệm, vô tổ chức kỷ luật, sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng.


Hình thức tự phê bình và phê bình trong Đảng bao gồm tự phê bình và phê bình của cấp trên đối với cấp dưới, cấp dưới phê bình cấp trên; cán bộ, đảng viên phê bình cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị và phê bình cùng cấp... Được thể hiện qua các hình thức như: hội nghị chi bộ, đảng bộ thường kỳ, các đại hội Đảng các cấp, các đợt sinh hoạt chính trị tập trung, các báo cáo hàng tháng, hàng quý của cấp dưới với cấp trên, báo cáo nhiệm kỳ đại hội của cấp trên trước cấp dưới và qua các phương tiện thông tin đại chúng...


Thứ ba, đảm bảo tính chất của tự phê bình và phê bình trong Đảng.


Tính đảng là phải trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin, Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, trên cơ sở các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng để tự phê bình và phê bình; phải đấu tranh không khoan nhượng với những tư tưởng và hành động sai trái; không chấp nhận tính thụ động, bàng quan với những sai lầm, khuyết điểm của bản thân và của đồng chí mình. Tính đảng còn thể hiện ở việc tự phê bình và phê bình ngay khi thấy có những biểu hiện lệch lạc, phải đối chiếu với yêu cầu tư cách, tiêu chuẩn đảng viên, cán bộ và những quy định của Đảng để tự phê bình và phê bình, không đợi đến khi sai lầm, khuyết điểm đã rõ, có bằng chứng pháp lý mới tiến hành tự phê bình và phê bình.


Tính giáo dục là tự phê bình và phê bình của Đảng nếu được hiểu đúng, thực hiện đúng thì tự bản thân nó đã chứa đựng tính giáo dục sâu sắc. Tự phê bình và phê bình của Đảng Cộng sản nhằm mục đích chính là củng cố Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, phong cách công tác, phát triển trí tuệ, nâng cao năng lực của cán bộ, đảng viên... Đây là những điểm thể hiện rõ nhất tính giáo dục sâu sắc của tự phê bình và phê bình của Đảng Cộng sản. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ tự phê bình và phê bình “để dạy dỗ đảng viên, dạy dỗ quần chúng”. Trong nhiều trường hợp, phê bình không nhất thiết diễn ra trong hội nghị mà sự chân thành “vỗ vai bảo nhau” còn có tác dụng hơn.


Tính khách quan, trung thực, chân thành và công khai, thể hiện ở sự khoa học, công tâm của cả người tự phê bình và người phê bình. Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy: “phê bình mình cũng như phê bình người phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nể nang, không thêm bớt. Phải vạch rõ cả ưu điểm và khuyết điểm. Đồng thời, chớ dùng những lời mỉa mai, chua cay, đâm thọc. Phê bình việc làm, chứ không phải phê bình người”, phải tôn trọng thực tế khách quan, không vội vàng quy kết cho đồng chí mình. Phê bình như chữa bệnh cứu người, cho nên phải chân thành, phải thân ái, trên tình đồng chí, tránh biến tự phê bình và phê bình thành những cuộc cãi vã, vi phạm nhân phẩm của cán bộ, đảng viên.


Tự phê bình và phê bình công khai có nghĩa là công khai nói rõ những ưu điểm, khuyết điểm của mình và của đồng chí mình; phân tích, xem xét, đánh giá mọi công việc của tổ chức đảng trước mặt cán bộ, đảng viên và tiến hành trong tổ chức đảng. Không phê bình trước mặt mà “nói sau lưng”, đó là việc làm không trong sáng.


Tính cụ thể, thiết thực và kịp thời là đòi hỏi tự phê bình và phê bình phải cụ thể, thiết thực, phải có nội dung, có địa chỉ; phải chỉ ra được đúng, sai, nguyên nhân và cách khắc phục; phải gắn với điều kiện cụ thể, gắn với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, với chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. V.I. Lênin đã dạy: “khi các đồng chí nghe thấy một lời phê phán như thế, một sự phê phán để mà phê phán, thì các đồng chí hãy đề phòng, hãy tìm xem người phê phán đó có tự ái về điều gì chăng, có lẽ có điều gì chọc tức họ hay chạm đến cá nhân họ chăng, khiến họ đi đến chỗ đối lập bừa bãi, đối lập để mà đối lập”.


Tính kịp thời là phải tự phê bình và phê bình ngay lập tức những sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và của tổ chức đảng, không để chúng tích tụ lại, trầm trọng thêm; ngăn chặn không để chúng tái diễn ở cán bộ, đảng viên và cấp uỷ, tổ chức đảng khác.


Thứ tư, thực hiện đúng phương pháp thực hiện tự phê bình và phê bình trong Đảng.


Phải cứng rắn về nguyên tắc, mềm dẻo và khéo léo về cách thức tiến hành, phải thể hiện rõ những đặc tính cơ bản của tự phê bình và phê bình của Đảng. Việc khéo léo sử dụng tự phê bình và phê bình sẽ làm tăng chất lượng. Phê bình người nào, khi nào, nói những gì, bằng cách nào, nói đến mức độ nào... phải biết xử thế một cách tế nhị, khôn  khéo thì người nghe mới dễ tiếp thu và sửa chữa khuyết điểm nhanh chóng. Ngược lại, sử dụng không khéo tự phê bình và phê bình thì hiệu quả thu được thấp, thậm chí còn gây tác hại. Tuy nhiên, nếu né tránh lựa chiều khi tự phê bình và phê bình tác hại sẽ lớn hơn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phê phán những người hay dùng phương pháp hành chính, mệnh lệnh, không biết sử dụng những phương pháp thích hợp để giải quyết công việc. Người đã nói một cách hình ảnh rằng: “bánh ngọt là một thứ ngon lành, nhưng đem bánh ngọt bắt người ta ăn, nhét vào miệng người ta, thì ai cũng chán”.


Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng luôn được đặt ra cấp bách, nhất là trong bối cảnh, tình hình hiện nay. Vì vậy, mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên phải luôn kiên định lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tự phê bình và phê bình trong Đảng; xa rời, từ bỏ nguyên tắc này là xa rời, từ bỏ Đảng từ bản chất. Đồng thời, đề cao cảnh giác, nhận diện rõ bản chất, âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị; chủ động đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc nguyên tắc này. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên nêu cao trách nhiệm tự phê bình và phê bình như “rửa mặt hằng ngày” để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh. Mỗi cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên “Phải làm cho vũ khí tự phê bình và phê bình, nhất là phê bình từ dưới lên, thật sự trở thành vũ khí sắc bén của toàn Đảng, làm cho tự phê bình và phê bình thật sự là một quy luật phát triển của Đảng”, để Đảng ta luôn “là đạo đức, là văn minh”./. 

BỎ TƯ DUY KHÔNG QUẢN ĐƯỢC THÌ CẤM

 BỎ TƯ DUY KHÔNG QUẢN ĐƯỢC THÌ CẤM 


Có một thực tế trong công tác xây dựng pháp luật thời gian qua là một bộ phận cán bộ, công chức làm nhiệm vụ tham mưu trong lĩnh vực này vẫn còn tư duy “không quản được thì cấm”. Hệ lụy là không ít quy định cấm một cách cứng nhắc, cực đoan đã xuất hiện trong dự thảo văn bản quy phạm pháp luật hoặc thậm chí đã được ban hành.


Đơn cử như mới đây, dự thảo Nghị định về phát triển điện mặt trời mái nhà tự sản xuất, tự tiêu thụ có quy định không cho phép mua bán điện dưới mọi hình thức. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ, ý kiến của đông đảo chuyên gia và người dân, cơ quan chủ trì xây dựng dự thảo nghị định đã sửa nội dung cấm này, tạo cơ chế mạnh mẽ khuyến khích phát triển năng lượng sạch.


Cần phải khẳng định, không thể dùng mệnh lệnh hành chính để cấm những vấn đề mang tính quy luật, tất yếu khách quan. Những gì tiến bộ, phù hợp với thực tiễn đời sống sẽ luôn có xu hướng phát triển. Nếu cố tình cấm đoán, sẽ làm méo mó thị trường, tạo môi trường hoạt động “chui”, cản trở sự phát triển của xã hội và cuối cùng, cả người dân, doanh nghiệp, Nhà nước đều chịu thiệt. Vì thế, phát biểu tại phiên khai mạc Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV, Tổng Bí thư Tô Lâm đã nhấn mạnh: “Đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp... dứt khoát từ bỏ tư duy không quản được thì cấm...”.


Vì sao lại có tư duy “không quản được thì cấm”? Thực tiễn cho thấy, nguyên nhân không hẳn do cán bộ thiếu tinh thần trách nhiệm mà chủ yếu bởi các vấn đề quản lý mới phát sinh, rất khó và phức tạp, trong khi năng lực, trình độ của cán bộ chưa theo kịp. Bởi vậy, nhiều cán bộ đành chọn giải pháp “cấm” cho... an toàn. Từ đây cũng cho thấy, để khắc phục tình trạng này, trước hết và quan trọng nhất là phải chú trọng xây dựng, nâng cao trình độ, năng lực đội ngũ cán bộ, công chức tham gia công tác xây dựng pháp luật nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là trong bối cảnh xã hội đang phát triển nhanh chóng, xuất hiện nhiều xu hướng mới, mô hình mới, vấn đề mới không dễ để nhận diện, quản lý.


Ngày 27-8-2024, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 916/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đến năm 2030”. Đề án này cần được triển khai thực hiện một cách hiệu quả để góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, có cơ cấu hợp lý, năng lực, trình độ chuyên môn cao, thành thạo kỹ năng nghề nghiệp.


Cùng với đó, để xóa bỏ tư duy “không quản được thì cấm” thì không thể thiếu một môi trường làm việc thực sự chuyên nghiệp, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, cơ quan liên quan; việc xây dựng, thẩm định, thông qua luật phải được tiến hành một cách dân chủ, khoa học, khách quan, huy động được trí tuệ tập thể. Đồng thời, cần gắn trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức trong việc xây dựng dự thảo, hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật.

🇻🇳🇻🇳🇻🇳Chống lãng phí - Thông điệp mạnh mẽ của Tổng Bí thư Tô Lâm

 🇻🇳🇻🇳🇻🇳Chống lãng phí - Thông điệp mạnh mẽ của Tổng Bí thư Tô Lâm


Bài viết “Chống lãng phí” của Tổng Bí thư Tô Lâm như một thông điệp mạnh mẽ, mang tính thức tỉnh sâu sắc, khuyến khích mọi người xem xét lại cách thức sử dụng và quản lý các nguồn lực trong toàn xã hội. Từ đó, kêu gọi cả hệ thống chính trị và từng người dân cần có ý thức tránh xa lãng phí, không chỉ vì lợi ích quốc gia, lợi ích của bản thân, gia đình, xã hội mà còn vì trách nhiệm với thế hệ tương lai.

👇👇👇

⭐BÔNG HUỆ TRẮNG TRÊN ĐỈNH TRƯỜNG SƠN

 ⭐BÔNG HUỆ TRẮNG TRÊN ĐỈNH TRƯỜNG SƠN


Bông Huệ ấy là liệt sĩ  nhà báo Phạm Thị Ngọc Huệ. Khi công tác trên rừng Trường Sơn, để tự nhủ mình và đồng đội và cho vơi đi nỗi nhớ mẹ và chị em ở quê Ninh Bình, cô thường hay nhâm nha câu hát:

"Mẹ ơi! Lúc con về  là ngày vui chiến thắng. 

Nếu con không về là con đã trả nợ non sông".


Trước ngày hy sinh, Huệ đã viết thư về cho gia đình báo tin cho mẹ là vài ngày nữa chị sẽ ra quân và được cử đi học ở Liên Xô. Nhưng ngày đó đã mãi mãi không đến với Huệ, chị đã trở thành "bông Huệ trắng" của núi rừng Trường Sơn bất tử.


Khoảng 6 giờ sáng ngày 20.12.1968 Huệ đã anh dũng hy sinh khi cùng đơn vị vượt trọng điểm Ka Tốc, dưới đỉnh Pu Khao, cách cửa khẩu Lùm Bùm không xa.

Người nữ chiến sĩ nhà báo, bình thường nhưng lại sống rất oai phong thời chiến.

Bỏ thói quen xài "Tiền chùa"!

 “Đẻ” chứng từ, “ăn chênh” hóa đơn, “ký khống” văn bản, “giả mạo” nét bút…là những cụm từ có lẽ đã không còn quá xa lạ với nhiều người trong ngôn ngữ thường ngày cũng như xuất hiện trong một số trích lục hồ sơ vụ án. Quy trình thanh quyết toán tiền ngân sách vẫn còn những lỗ hổng cần được khắc phục.

Tỉnh Cà Mau vừa có kết luận thanh tra việc thực hiện chính sách, pháp luật và nhiệm vụ được giao giai đoạn 2020 - 2022 tại một số đơn vị thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch, phát hiện một số dấu hiệu sai phạm gây thiệt hại cho ngân sách.

Theo đó, Chánh Thanh tra tỉnh ban hành quyết định thu hồi số tiền trên 1,5 tỷ đồng, trong đó Văn phòng Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch bị thu hồi 696 triệu đồng, Trung tâm Huấn luyện và thi đấu thể thao tỉnh Cà Mau bị thu hồi 718 triệu đồng, Trung tâm Văn hóa tỉnh Cà Mau bị thu hồi 139 triệu đồng, Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Phú Tân bị thu hồi 17 triệu đồng.

Trung tâm huấn luyện và thi đấu thể thao tỉnh Cà Mau, nơi thanh tra phát hiện một số sai phạm. (Ảnh: CTV)

Đồng thời chuyển hồ sơ có dấu hiệu tội phạm hình sự sang Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cà Mau để xử lý theo quy định vụ lập chứng từ thanh toán khống số tiền 191 triệu đồng, xảy ra tại Văn phòng Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch; vụ việc ông Hứa Đức Trọng (huấn luyện viên) giả chữ ký để ký hợp đồng sử dụng vận động viên thể thao nhằm nhận tiền ăn và tiền lương tập luyện khống với số tiền 131 triệu đồng xảy ra tại Trung tâm Huấn luyện và thi đấu thể thao tỉnh Cà Mau.

Trước đó, ngày 14/12/2023, Tòa án Nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử 3 bị cáo nguyên lãnh đạo Trường Cao đẳng sư phạm Đắk Lắk; nguyên Phó Hiệu trưởng Trường cao đẳng Công thương Việt Nam, phụ trách cơ sở Đắk Lắk do có hành vi vi phạm quy định về kế toán.

Cáo trạng nêu rõ các cá nhân trên đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn, đồng phạm trong việc thực hiện hành vi giả mạo, khai man tài liệu kế toán, ký hồ sơ, chứng từ, lập hồ sơ thanh toán khống, nâng số lượng, khối lượng công việc, nâng số tiền để ước lượng, tạm tính lấy tiền chênh lệch… gây nhiều thiệt hại tài sản Nhà nước.

Kế toán là bộ phận có vai trò vô cùng quan trọng trong từng đơn vị, cơ quan, gắn liền với những con số, giấy tờ, sổ sách, do đó đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận và tập trung cao độ. Đương nhiên, người lập và người ký các phiếu thu, phiếu chi, biên lai thu tiền… phải chịu trách nhiệm về nội dung chứng từ kế toán.

Khoản 3, Điều 3, Chương I Luật Kế toán 2015 (Luật số: 88/2015/QH13 ngày 20 tháng 11 năm 2015) nêu rõ, chứng từ kế toán là những giấy tờ và vật mang tin phản ánh nghiệp vụ kinh tế, tài chính phát sinh và đã hoàn thành, làm căn cứ ghi sổ kế toán (ví dụ phiếu chi, phiếu thu, phiếu xuất - nhập kho, biên lai thu tiền…)

Theo quy định tại Luật Ngân sách nhà nước 2015, Thông tư 40/2017/TT-BTC của Bộ Tài chính…, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt hoặc thiếu trách nhiệm làm thiệt hại đến nguồn thu ngân sách nhà nước; chi sai chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi, không đúng mục đích; tự đặt ra các khoản chi trái với quy định của pháp luật, lập khống hồ sơ, chứng từ rút tiền ngân sách… là các hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực ngân sách nhà nước.

Trở lại với nội dung nêu trên, tham ô tài sản có thể hiểu là hành vi trái pháp luật hình sự do người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, có năng lực trách nhiệm hình sự, có trách nhiệm quản lý tài sản thực hiện bằng việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý thành của riêng cho mình hay người khác.

Thuế là một trong những nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước và đương nhiên những người nộp thuế (cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp…) có quyền yêu cầu chi tiêu tài chính đúng quy định, hiệu quả và tiết kiệm.

Đời sống thực tế luôn phong phú đa dạng, không rõ vô tình hay cố tình mà các cá nhân có chức có quyền lại vận dụng luật một cách “sáng tạo và linh hoạt” hòng mang lại lợi ích cho bản thân và dĩ nhiên gây thiệt hại cho ngân sách.

Họ được đào tạo bài bản, thường xuyên được cập nhật quy định tài chính, có tên trong những đợt tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành…. Nắm luật, hiểu luật nhưng lại lách luật để kiếm chác, tư túi.

Hành vi lập, duyệt, chi chứng từ không có thật hoặc chỉ có một phần thông tin đúng sự thật của những người có quyền quản lý sổ kế toán là không hợp pháp, có thể bị xem xét xử lý hình sự về Tội tham ô tài sản được quy định tại Điều 353, Mục 1, Chương XXIII, Bộ luật Hình sự 2015 với mức phạt lên tới chung thân hoặc tử hình.

Do đó, tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, sử dụng phần mềm kế toán nhiều cấp độ bảo mật, áp dụng chữ ký điện tử và chữ ký số…. là đòi hỏi tất yếu, khách quan của xã hội.

Quan trọng và quyết định nhất vẫn là yếu tố con người, đòi hỏi tinh thần trách nhiệm, đạo đức công vụ và tuân thủ nghiêm các quy định tài chính.

Phải chấm dứt và loại bỏ ngay tư tưởng cũng như thói quen xài "Tiền chùa”!!!

CHÂN DUNG TƯỚNG LĨNH QUÂN KHU 7 (1945 - 2020): TRUNG TƯỚNG ĐỖ QUANG HƯNG

 CHÂN DUNG TƯỚNG LĨNH QUÂN KHU 7 (1945 - 2020): TRUNG TƯỚNG ĐỖ QUANG HƯNG


Đồng chí Đỗ Quang Hưng, sinh năm 1929, quê quán xã Long Điền, huyện Giá Rai (nay là huyện Đông Hải), tỉnh Bạc Liêu. Đồng chí nhập ngũ năm 1945, làm Thư ký Ủy ban kháng chiến - hành chính xã Vĩnh Hưng, huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu. Từ năm 1947 đến năm 1949, đồng chí là cán bộ tiểu đội, trung đội, rồi Huyện đội phó kiêm Trung đội trưởng Trung đội du kích huyện Vĩnh Lợi. Từ năm 1949 đến năm 1952, đồng chí được bổ nhiệm Giám đốc Trường Huấn luyện tân binh, Tỉnh đội Bạc Liêu.


Từ năm 1952 đến năm 1954, đồng chí là Huyện đội phó kiêm Đại đội trưởng Đại đội 553 Huyện đội Cà Mau, Tỉnh đội Bạc Liêu. Từ năm 1954 đến năm 1957, đồng chí tập kết ra miền Bắc, giữ chức Đại đội trưởng Đại đội 11, Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 660, Sư đoàn 338. Từ năm 1957 đến năm 1958, đồng chí là Trợ lý Tiểu đoàn huấn luyện, Sư đoàn 338. Năm 1958, đồng chí là học viên Trường Sĩ quan Lục quân.


Năm 1960, đồng chí là Đại đội trưởng Đại đội 3, Tiểu đoàn 9, Trung đoàn 90. Năm 1961, đồng chí là Trưởng tiểu ban Tác huấn Trung đoàn 90, Sư đoàn 324. Cuối năm 1961, đồng chí được điều động vào chiến trường miền Nam, làm Tiểu đoàn phó, rồi Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 186, Quân khu 6.


Năm 1963, đồng chí Đỗ Quang Hưng là cán bộ Cục Tham mưu Miền. Năm 1964, đồng chí đảm nhiệm Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 (Q761), tham gia Chiến dịch Bình Giã (2-12-1964 - 3-1-1965). Trong Chiến dịch Bình Giã, đơn vị của đồng chí đóng tại ở Nam Xuân Sơn, Đông ấp chiến lược Bình Giã có nhiệm vụ phối hợp với lực lượng địa phương Bà Rịa, tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, diệt gọn từ 1 đến 2 tiểu đoàn lực lượng tổng trù bị và cơ giới của địch, liên tục chiến đấu thu hút địch, hỗ trợ cho phong trào chính trị phá mảng mở vùng. Sau gần 100 ngày đêm chiến đấu liên tục, đồng chí Đỗ Quang Hưng cùng cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 đã góp phần vào thắng lợi to lớn của Chiến dịch Bình Giã.


Năm 1965, đồng chí được điều động về Sư đoàn 9, lần lượt đảm nhiệm Tham mưu phó đến Trung đoàn trưởng Trung đoàn 1, Sư đoàn 9. Thời gian này, Mỹ và ngụy quyền triển khai chiến lược “Chiến tranh cục bộ” với sự tham gia trực tiếp của quân Mỹ và quân đồng minh. Trước đối tượng tác chiến mới, dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Miền, đồng chí Đỗ Quang Hưng cùng Ban Chỉ huy Trung đoàn 1, Sư đoàn 9 trực tiếp tham gia chiến đấu, góp phần làm thất bại hai cuộc phản công chiến lược mùa khô (1965-1966 và 1966-1967). Đặc biệt, ngày 26-11-1965, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Trung đoàn 1, Sư đoàn 9 tổ chức lực lượng tiêu diệt quân Mỹ tại Dầu Tiếng. Đây là lần đầu tiên trên chiến trường miền Nam, Quân giải phóng loại khỏi vòng chiến đấu một trung đoàn quân ngụy Sài Gòn và 25 cố vấn Mỹ... Trận đánh ngày 26-11-1965 và một số trận đánh Mỹ ở miền Đông Nam Bộ được Bộ Chỉ huy Miền tổ chức tổng kết rút kinh nghiệm và phổ biến nhanh nhất phương châm “nắm thắt lưng Mỹ mà đánh”. Tư tưởng dám đánh Mỹ, kết hợp với yêu cầu thực tế hạn chế tối đa hỏa lực - chỗ mạnh nhất của quân Mỹ, trở thành tư tưởng phổ biến đối với mọi lực lượng chiến tranh nhân dân, dưới nhiều hình thức.


Năm 1968, đồng chí Đỗ Quang Hưng đảm nhiệm Tham mưu phó Sư đoàn 9; tham gia cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968. Trong đợt 1, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Sư đoàn 9 chỉ huy đơn vị tiến công Trung tâm huấn luyện Quang Trung; đánh địch ở vùng ven thành phố, ngăn chặn Sư đoàn 25 quân đội Sài Gòn ở Đồng Dù, không cho chúng kéo về Sài Gòn; tiến công Chi khu quân sự Thủ Đức và khu kho Long Bình, đánh thiệt hại nặng một tiểu đoàn thủy quân lục chiến. Trong đợt 2, thực hiện chủ trương trên, Sư đoàn 9 có nhiệm vụ cùng các tiểu đoàn mũi nhọn tiến vào các khu vực đông dân trong nội thành Sài Gòn, phát động quần chúng nổi dậy phá rã bộ máy kìm kẹp của địch từ quận trở xuống.


Thực hiện nhiệm vụ, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Sư đoàn 9 chỉ huy đơn vị chuyển về hướng Tây, Tây Nam Sài Gòn lấy vùng nông thôn Long An, Gia Định làm vị trí bàn đạp tiến vào thành phố. Kết thúc cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968, đồng chí cùng Ban Chỉ huy Sư đoàn 9 chỉ huy đơn vị hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần vào thắng lợi cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968.


Năm 1969, đồng chí Đỗ Quang Hưng là Hiệu trưởng Trường Quân chính Sơ cấp Miền (gọi tắt H12). Năm 1971, đồng chí được bổ nhiệm Tư lệnh C30. Năm 1972, đồng chí được chỉ định làm Tư lệnh phó Sư đoàn 9. Thời gian này, cùng với cán bộ, chiến sĩ sư đoàn, đồng chí tham gia Chiến dịch Nguyễn Huệ (1-4-1972 - 19-1-1973) và chỉ huy chiến đấu chống địch lấn chiếm, bảo vệ vùng giải phóng, chặn đứng âm mưu lấn đất, giành dân của chính quyền Sài Gòn sau Hiệp định Pari.


Năm 1974, Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập một số đơn vị chủ lực ở B2 như thành lập thêm Sư đoàn 4, Sư đoàn 6, Sư đoàn 8 của Quân khu 7, Quân khu 8, Quân khu 9, Sư đoàn 3 của Miền và binh đoàn chiến lược của Bộ (Quân đoàn 1, Quân đoàn 2, Quân đoàn 3, Quân đoàn 4) chuẩn bị cho cuộc tổng tiến công và chiến dịch quyết chiến chiến lược cuối cùng. Đồng chí Đỗ Quang Hưng được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 3. Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh (26-4-1975 - 30-4-1975), Sư đoàn 3 nằm trong đội hình Đoàn 232, tham gia chiến đấu ở hướng Tây và Tây Nam. Theo phương án tác chiến, Sư đoàn 3 tiến công Đức Hòa - Hậu Nghĩa. Ngày 26-4-1975, Sư đoàn 3 triển khai xong và hoàn thành mọi công tác chuẩn bị. 17 giờ ngày 26-4-1975, Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu. Trên hướng Tây Nam và Nam, Binh đoàn cánh Tây Nam cắt đứt hoàn toàn đường 41, kìm chân Sư đoàn 7 và Sư đoàn 9 của ngụy, mở đường cho Sư đoàn 9 của ta vào vị trí tập kết tiến hành đột kích Bàu Công - Mỹ Hạnh (Đức Hòa). 3 giờ ngày 27-4-1975, Sư đoàn 3 mở cửa đánh chiếm đầu cầu khu vực An Ninh - Lộc Giang, tổ chức vượt sông Vàm Cỏ, áp sát địch, bảo đảm cho Sư đoàn 9 và binh khí kỹ thuật qua sông.


10 giờ 10 phút ngày 29-4-1975, Sư đoàn 3 giải phóng thị xã Hậu Nghĩa, diệt Chi khu Đức Hòa, bức rút Chi khu Đức Huệ (14 giờ 30 phút) và Căn cứ Trà Cú (18 giờ 20 phút), mở bến vượt sông Vàm Cỏ Đông. Sau khi hoàn thành đánh chiếm khu vực Hậu Nghĩa, hai bên sông Vàm Cỏ, Sư đoàn 3 triển khai lực lượng tiêu diệt lực lượng biệt động quân và bảo an, bảo đảm cho đơn vị vượt sông thọc sâu đánh chiếm các mục tiêu theo quy định; tiêu diệt làm tan rã toàn bộ Sư đoàn 22 và lực lượng biệt động quân, chiếm mục tiêu Biệt khu thủ đô và Tổng nha cảnh sát lúc 10 giờ 30 phút và phát triển hợp điểm tại Dinh Độc Lập. Hướng Tây và Tây Nam hoàn thành nhiệm vụ; góp phần vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

 

Sau ngày 30-4-1975, đồng chí Đỗ Quang Hưng cùng đơn vị thực hiện nhiệm vụ quân quản tại thành phố Sài Gòn. Năm 1977, đồng chí Đỗ Quang Hưng được điều chuyển giữ chức Phó Giám đốc Sở Công an Thành phố Hồ Chí Minh. Trong giai đoạn này, Đảng bộ và nhân dân Thành phố vừa tập trung giải quyết các hậu quả chiến tranh vừa tiến hành công cuộc cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cùng cả nước đối phó với cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam… Tình hình an ninh trật tự ở địa bàn Thành phố trong giai đoạn này cực kỳ căng thẳng, phức tạp. Đồng chí cùng Đảng ủy, Ban Giám đốc Sở Công an Thành phố lãnh đạo lực lượng công an Thành phố Hồ Chí Minh liên tục tiến công trấn áp, phá rã hàng trăm tổ chức nhen nhóm phản động, truy bắt nhiều tên đầu sỏ nguy hiểm, phá tan nhiều âm mưu chuẩn bị gây biến động chính trị, hoạt động vũ trang. Qua đó, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.


Năm 1979, đồng chí Đỗ Quang Hưng được bổ nhiệm làm Tham mưu phó Quân khu 7, Phó Tư lệnh - Tham mưu trưởng Mặt trận 479. Năm 1981, đồng chí làm Tư lệnh Mặt trận 779. Năm 1983, đồng chí làm Phó Tư lệnh Quân khu 7, Tư lệnh Mặt trận 479. Năm 1988, đồng chí làm Tư lệnh Mặt trận 779. Trong thời gian này, đồng chí cùng với Bộ Tư lệnh Mặt trận 479 và Mặt trận 779, lãnh đạo, chỉ huy các đơn vị trực thuộc, phối hợp các đoàn Chuyên gia truy quét tàn quân địch, đánh địch phản kích ở cả chiến trường biên giới và nội địa; giúp nhân dân Campuchia khắc phục hậu quả chế độ diệt chủng và phát triển sản xuất, ổn định cuộc sống; xây dựng thực lực cách mạng và phát triển kinh tế, văn hóa xã hội ở cơ sở.


Tháng 10-1989, thực hiện Quyết định số 08-QĐ/QP về việc tổ chức các đoàn Chuyên gia quân sự Việt Nam tại Campuchia, Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 7 phối hợp với các cơ quan chức năng của Bộ Quốc phòng tổ chức 2 đoàn Chuyên gia K2B và K4B sang giúp bạn. Đồng chí Đỗ Quang Hưng được chỉ định làm Trưởng đoàn Chuyên gia K4B. Với tư cách Trưởng đoàn, đồng chí cùng cán bộ, chiến sĩ và Chuyên gia Đoàn K4B tích cực chủ động giúp bạn trong việc điều chỉnh, tổ chức, bố trí lại lực lượng; củng cố cơ sở, tạo thế và lực có lợi cho bạn trong giai đoạn đấu tranh mới; giúp bạn vượt qua được những khó khăn, thử thách, giữ vững và phát triển thành quả cách mạng của dân tộc. Bạn đã trưởng thành trên nhiều mặt, nhất là tinh thần tự chủ, tự đảm đương nhiệm vụ bảo vệ thành quả cách mạng và xây dựng đất nước. Qua đó, góp phần giữ vững tình đoàn kết quốc tế trong sáng giữa hai quân đội và hai dân tộc Việt Nam - Campuchia.


Năm 1991, sau khi hoàn thành nhiệm vụ quốc tế tại Campuchia về nước, đồng chí Đỗ Quang Hưng được bổ nhiệm làm Phó Tư lệnh Quân khu 7. Năm 1994, Tư lệnh Bùi Thanh Vân đột ngột qua đời, đồng chí Đỗ Quang Hưng được chỉ định làm quyền Tư lệnh Quân khu 7. Năm 1995, đồng chí Đỗ Quang Hưng trở lại giữ chức Phó Tư lệnh cho đến khi nghỉ hưu năm 1998.


Từ năm 1999, mặc dù nghỉ hưu, đồng chí tiếp tục tích cực hoạt động tại Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh, cùng tập thể Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh góp phần quan trọng vào việc bảo vệ Đảng, chính quyền, bảo vệ thành quả cách mạng, xứng đáng là chỗ dựa tin cậy của Đảng, trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Ngày 31-5-2009, đồng chí qua đời do tuổi cao sức yếu. Suốt cuộc đời cống hiến cho cách mạng, đồng chí Đỗ Quang Hưng được Đảng và Nhà nước tặng thưởng nhiều phần thưởng cao quý: Huân chương Độc lập hạng Nhì; 3 Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba; Huân chương Kháng chiến chống Pháp hạng Ba; Huân chương Kháng chiến chống Mỹ hạng Nhất; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất; 3 Huân chương Chiến sĩ giải phóng hạng Nhất, Nhì, Ba; 3 Huân chương Chiến sĩ vẻ vang hạng Nhất, Nhì, Ba; Huy chương Quân kỳ quyết thắng; Huy hiệu 60 năm tuổi Đảng; Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng Nhất do Nhà nước Campuchia trao tặng, cùng nhiều phần thưởng cao quý khác.

Cách mạng tháng Mười Nga mở ra con đường giải phóng và phát triển trên thế giới ngày nay

 107 năm trước, dưới sự lãnh đạo của chính Đảng tiền phong do V.I. Lênin vĩ đại đứng đầu, quần chúng công - nông Nga đã làm nên một sự kiện làm rung chuyển toàn thế giới: Cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công, khai sinh chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử loài người.

Lãnh tụ V.I.Lênin diễn thuyết ở Quảng trường Đỏ, Moscow năm 1917 

Bắt đầu từ tháng Mười Nga năm 1917 đã chấm dứt thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản trong nền kinh tế và chính trị thế giới, mở ra kỷ nguyên mới của phát triển và tiến bộ xã hội. Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản bộc lộ rõ rệt nhất những hạn chế không thể vượt qua. Nền văn minh vật chất sung mãn do chủ nghĩa tư bản tạo ra đã được xây dựng bằng nước mắt và máu của quần chúng lao động khắp toàn cầu; sự phồn vinh của quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp người này phải được đánh đổi bằng sự bần cùng hoá của nhiều quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp khác; sự hưng thịnh của một số cường quốc phải được đánh đổi bằng hàng loạt cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, biến hàng trăm quốc gia Á, Phi, Mỹ La tinh thành hệ thống thuộc địa đáng hổ thẹn của chủ nghĩa thực dân... Như kết tinh của mọi tư tưởng giải phóng và phát triển tiến bộ của thời đại, Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra, đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu bức bách của lịch sử là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, mở ra chân trời mới cho mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội.

Từ chiếc nôi nước Nga và Liên Xô, cách mạng vô sản và chế độ xã hội chủ nghĩa đã được tiến hành thắng lợi ở nhiều không gian địa chính trị trọng yếu; chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới, đối trọng hữu hiệu trên nhiều lĩnh vực với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Giương cao lá cờ búa liềm thắm hồng sắc màu cách mạng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn Nga thực sự nắm quyền làm chủ, xây dựng chính quyền Xô viết, biến chủ nghĩa xã hội từ mơ ước và lý luận thành hiện thực sinh động ở Nga và sau đó trên toàn Liên bang chiếm 1/6 diện tích địa cầu.

Dưới ánh sáng của ngọn hải đăng Tháng Mười Nga, quần chúng lao động và các lực lượng cách mạng khác đã xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở 15 quốc gia thuộc châu Âu, châu Á và cả ở châu Mỹ; cộng với nhiều quốc gia định hướng xã hội chủ nghĩa ở Á, Phi và Mỹ La tinh. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội đã thực sự là lực lượng mở ra và thực thi mục tiêu giải phóng và phát triển cho nhân loại trong những thập kỷ sôi sục đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc và đấu tranh xã hội. Chủ nghĩa tư bản đã buộc phải chung sống hòa bình với chủ nghĩa xã hội, chấp nhận chủ nghĩa xã hội là một trong những lực lượng quyết định xu hướng vận động của thế giới trong thế kỷ XX.

Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra và tạo động lực mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Trong suốt thế kỷ XX, các dân tộc trên thế giới đã vùng lên giải phóng khỏi các chế độ quân chủ, phát xít, thực dân, đế quốc; xác lập nền cộng hòa với chủ quyền đối nội, đối ngoại không thể bác bỏ; xây dựng chế độ xã hội mới do người lao động làm chủ. Dưới sức công phá của dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới do Cách mạng tháng Mười Nga mở ra, hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa thực dân đế quốc thiết lập trong suốt 5 thế kỷ (từ 1492) đã hoàn toàn sụp đổ trong vòng chưa đầy 5 thập kỷ. Bản đồ thế giới đã được vẽ lại từ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.

Động lực và cảm hứng từ Cách mạng tháng Mười Nga tiếp tục tạo nên xu hướng phê phán, phủ định và thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn trong bối cảnh thế giới ngày nay. Thế kỷ XXI đặt ra nội dung và yêu cầu mới cho mục tiêu phát triển. Đó là sự phát triển trong hoà bình và tự do; phát triển hài hoà giữa vật chất và tinh thần; phát triển trong công bằng và dân chủ; phát triển bền vững và nhân văn; sự phát triển của mỗi người, mỗi nhóm xã hội, mỗi giai cấp, tập đoàn, mỗi quốc gia, dân tộc phải là điều kiện tích cực cho sự phát triển của những người khác và toàn bộ loài người. Mục tiêu phát triển hiện đại tự nó đặt ra yêu cầu tiếp tục giải phóng, giải phóng triệt để hơn khỏi con đường và chế độ tư bản chủ nghĩa trong mọi biến thái khác nhau của chúng.

Ngay từ chính các trung tâm tư bản chủ nghĩa đã không ngừng cất lên biết bao lời cảnh tỉnh, phê phán rằng chủ nghĩa tư bản là “một thế giới không thể chấp nhận được” (René Dumond), nó “chứa đựng nhiều vết loét không thể cứu chữa” (Henry Kissinger), nó sẽ rơi vào “cuộc khủng hoảng toàn cầu” (George Soros), vì vậy, loài người sẽ phải vận động đến “làn sóng văn minh thứ ba” (Alvin Toffler), đến một “xã hội hậu tư bản” (Peter Drucker),v.v... Chủ nghĩa tư bản, dưới hình thức hiện đại nhất của nó là chủ nghĩa tự do mới, đã bị phê phán quyết liệt ngay từ bên trong và ở quy mô toàn cầu. Lao động toàn thế giới đang năng động đấu tranh vì những phương án thay thế chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu.

Kiên định theo con đường và phát huy bài học sáng tạo của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội chúng minh sức sống và tính ưu việt của mình thông qua quá trình cải cách, đổi mới và phát triển. Từ cuối thế kỷ XX đến nay, các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng cộng sản thế giới tích cực đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức và cải cách chính sách phát triển trên mọi lĩnh vực. Những nguyên lý và các giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin được nhận thức đầy đủ hơn; những kinh nghiệm thành công và những hạn chế, vấp váp của chủ nghĩa xã hội được xác định một cách chân thực hơn; những xu thế vận động của thế giới hiện đại được lĩnh hội kịp thời, khách quan hơn. Nhờ vậy, các quốc gia xã hội chủ nghĩa không những thoát khỏi khủng hoảng, mà còn đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Với tính cách là sản phẩm của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội hiện nay vẫn là một lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế, tinh thần không thế lực nào có thể bỏ qua trong những tính toán chiến lược toàn cầu. Chính vì chân lý sáng tỏ này, mà nhiều trí tuệ lớn như Jacques Derrida, Noam Chomsky, Joseph Stiglizt, Dinoviev…, giống như Albert Enstein, Paul Satre, Bertral Roussel…, trước kia, đều biểu thị sự đồng tình không che dấu với chủ nghĩa cộng sản, công khai đánh giá Mác là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI và Cách mạng Tháng Mười Nga là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới hiện đại.

Cách mạng tháng Mười Nga như ánh mặt trời soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Đi theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập, tổ chức, rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị phát xít, thực dân, phong kiến, khai sinh chế độ xã hội mới, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Gần 10 năm sau, quân và dân Việt Nam làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, mở đầu quá trình phi thực dân hóa trên toàn thế giới; và ngày 30 tháng 4 năm 1975, kỷ nguyên độc lập, tự do của Việt Nam đã được hoàn thành trọn vẹn với thắng lợi mang tầm vóc thời đại trước đế quốc Mỹ và ngụy quân, ngụy quyền, Bắc - Nam thống nhất một nhà. Kiên định lá cờ Cách mạng tháng Mười Nga, Đảng và nhân dân Việt Nam đã giành nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong kỷ nguyên đổi mới và phát triển từ năm 1986 đến nay. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam thông qua đổi mới đã trụ vững, ra khỏi khủng hoảng và phát triển đầy sinh lực, đưa đất nước ra khỏi tình trạng chậm phát triển, trở thành nền kinh tế trong tốp 40 và tốp 20 nền thương mại lớn nhất thế giới ngày nay.

Trong kỷ nguyên đang tới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chắc chắn ánh sáng của Cách mạng tháng Mười Nga sẽ tiếp tục soi sáng, tạo động lực to lớn cho Đảng và nhân dân Việt Nam vượt qua mọi thử thách lịch sử, trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.