Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

Tự diễn biến","Tự chuyển hóa" - Khái niệm, biểu hiện và nguyên nhân

 

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là sự tự thay đổi theo hướng tiêu cực trong tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của đội ngũ cán bộ, đảng viên. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang diễn ra ngày một mạnh mẽ trong đội ngũ cán bộ, đảng viên; là một thách thức to lớn đối với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. “Tự diển biến”, “tự chuyển hóa” là một loại kẻ thù giấu mặt, một thứ “giặc nội xâm” rất khó nhận diện và vô cùng nguy hiểm. Vì thế phòng chống“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang là nhiệm vụ cấp bách của Đảng, Nhà nước Việt Nam hiện nay. 

• Về khái niệm "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

Khái niệm “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được sử dụng rộng rãi trên sách báo chính trị-xã hôi ở nước ta trong những năm gần đây. Chẳng hạn, hai khái niệm này được được đề cập trong Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XI: “chủ động  phòng ngừa, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ ta; khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chương trình, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”.

Theo nghĩa thông thường thì “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là một quá trình sự vật tự thay đổi về chất. Nhưng các khái niệm “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” được sử dụng trong văn kiện của Đảng và trên sách báo chính trị-xã hôi ở nước ta không theo nghĩa như vậy, mà theo nghĩa là sự suy thoái, biến chất về tư tưởng chính trị, về đạo đức và lối sống của cán bộ và đảng viên . Như vậy, “tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” là quá trình tự thay đổi của chủ thể theo hướng tiêu cực. “Tự diễn biến” và “tự chuyển hóa” của cán bộ và đảng viên nếu không được ngăn chặn sẽ dẫn đến sự chuyển hóa của cả chế độ.

"Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" ở Việt Nam hiện nay đang diễn ra hết sức phức tạp, với nhiều mức độ khác nhau trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đây thực sự là một hiểm họa tiềm tàng, một loại kẻ thù giấu mặt, một thứ "giặc nội xâm" nguy hiểm rất khó nhận diện và đáng sợ nhất. Nếu hiện nay chúng ta xác định nền tảng tư tưởng chính trị với những nguyên lý, quy luật trong học thuyết Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là kim chỉ nam cho hành động thực tiễn của cách mạng Việt Nam mang mầu "đỏ thắm" thì sự "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" theo hướng tiêu cực sẽ làm màu đỏ thắm phai nhạt dần, cuối cùng chuyển sang màu khác hoặc màu đối lập. Hoặc mục tiêu lựa chọn của chúng ta là chủ nghĩa xã hội, song "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" làm nhận thức phai nhạt dần và mục tiêu bị chệch hướng sang chủ nghĩa tư bản...

"Tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chính là quá trình đấu tranh giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa cái lợi ích cá nhân và lợi ích tập thể trong tư tưởng, quan điểm, lập trường của người cán bộ, đảng viên. Trong đó, tư tưởng, lập trường, quan điểm thiên về tư bản chủ nghĩa và lợi ích cá nhân tăng dần lên, còn tư tưởng, lập trường, quan điểm về chủ nghĩa xã hội, về lợi ích tập thể phai nhạt và bị xem nhẹ dần. Sự "tự diễn biến" đến một ngưỡng nào đó, khi đạt đến “độ” thì nó "tự chuyển hóa" thay đổi về chất. Trong thực tế cách mạng Việt Nam hiện nay, đó chính là sự thay đổi trong quan điểm, tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Sự thay đổi này đưa tới những hành động đi ngược lại, thậm chí chống lại quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước.

Như vậy, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong đội ngũ cán bộ, đảng viên là sự suy thoái từ bên trong, là quá trình tự biến đổi về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực. Chủ thể của "tự diễn biến" là cán bộ, đảng viên, bất kể ở vị trí nào. Vị trí của người cán bộ, đảng viên càng cao thì hậu quả tiêu cực của "tự diễn biến" càng lớn. Còn chủ thể của "tự chuyển hóa" vừa là cán bộ, đảng viên, vừa là tổ chức của chính những cán bộ, đảng viên đó. Tuy nhiên, sự xác định như vậy cũng chỉ mang tính tương đối. "Tự diễn biến" và "tự chuyển hóa" có quan hệ chặt chẽ với nhau giống như mối quan hệ không thể phân biệt giữa cá nhân trong tổ chức mà cá nhân đó là thành viên. "Tự diễn biến" là quá trình thẩm thấu từng ngày, từng hoạt động của các chủ thể, còn "tự chuyển hóa" là đích đến, là hệ quả của "tự diễn biến" của các cá nhân, tổ chức.

•  Biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được nhận diện ở những người qua những dấu hiệu như sau:

- Có quan điểm phản bác, phủ định “sạch trơn” học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện;

- Thể hiện thái độ bất mãn, dao động, cực đoan khi nói về thực trạng của đất nước, về vai trò lãnh đạo của Đảng, tương lai của dân tộc. Ủng hộ một cách máy móc, thiếu cơ sở khoa học về một chế độ “đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị”;

- Ca ngợi, tán dương hình mẫu chủ nghĩa tư bản, tự do tư sản, đồng thời xuyên tạc, bịa đặt, áp đặt ý chí chủ quan khi đánh giá về Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chúng ta đang xây dựng;

- Thể hiện thái độ “ba phải”, gió chiều nào theo chiều đó, không có chính kiến, thờ ơ, im lặng trước những vấn đề ở cơ quan, đơn vị và của đất nước;

- Chạy chức, chạy quyền, tham ô tham nhũng, đề cao tư lợi, đề cao lợi ích nhóm, làm giàu một cách bất chính, có lối sống thực dụng;

- Kéo bè, kéo phái, cục bộ địa phương, chia rẽ làm mất đoàn kết nội bộ;

- Có lối sống buông thả, sa đọa, phong cách làm việc cửa quyền, hách dịch, tự mãn, nói nhiều làm ít, thiếu sự gắn bó với tập thể, cộng đồng;

- Trong đấu tranh phê và tự phê thể hiện sự cực đoan, thái quá hoặc lợi dụng các diễn đàn để bày tỏ thái độ “đấu tranh” một cách bất mãn, chống đối và trục lợi cho bản thân….

Có thể nói, nhận biết “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một con người hay trong một tổ chức không đơn giản chỉ dựa trên một vài biểu hiện bề ngoài. Vì thực tế hiện tượng bề ngoài không phải lúc nào cũng phản ánh bản chất bên trọng. Vì thế việc kết luận một trường hợp nào đó có vấn đề “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”cần phải thận trọng, khách quan trên cơ sở phân tích, tổng hợp các dấu hiệu diễn ra có tính hệ thống trong một quá trình nhất định.

• Nguyên nhân của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"

Quá trình "tự diễn biến" và  "tự chuyển hóa" được xem xét diễn ra với ba giai đoạn, ứng với ba mức độ. Ở giai đoạn thứ nhất, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao động, hoài nghi về tư tưởng, chính trị. Ở giai đoạn thứ hai, đối tượng bắt đầu chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, thu thập tổng hợp thông tin và phát tán những thông tin này với thái độ bất mãn, chán ghét, thù địch. Ở giai đoạn thứ ba, đối tượng có tư tưởng, hành động cực đoan, phản động, chống đối Nhà nước. Khi đã đến giai đoạn thứ ba, đối tượng đã thể hiện rõ tư tưởng chính trị phản động, bất chấp mọi nguyên tắc hoạt động của tổ chức và pháp luật của Nhà nước. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị và sự suy thoái về đạo đức và lối sống có quan hệ tương tác với nhau. Sự suy thoái về tư tưởng chính trị có thể dẫn tới sự suy thoái về đạo đức và lối sống và ngược lại, sự suy thoái về đạo đức và lối sống có thể dẫn đến sự thoái hóa về tư tưởng chính trị.

Quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" có nhiều nguyên nhân. Có nguyên nhân ở sự tác động của các thế lực thù địch trên các lĩnh vực tư tưởng, kinh tế, chính trị, văn hóa... Sự tác động của các thế lực thù địch có nhiều phương thức, thủ đoạn thâm độc nhằm làm suy thoái, biến chất đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Có nguyên nhân ở những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới (sụp đổ CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu, các cuộc “Cách mạng màu”, “Mùa xuân Ảrập”...). Có nguyên nhân ở sự tác động từ mặt trái của cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Có nguyên nhân ở sự khó khăn trong đời sống của nhân dân nói chung và của phần lớn đội ngũ cán bộ, đảng viên. Bên cạnh đó, cũng có nguyên nhân ở chỗ, phương pháp lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước còn nhiều chỗ chưa khoa học, việc giáo dục đạo đức cách mạng bị buông lỏng, tình trạng tham ô, tham nhũng trong bộ máy chính quyền các cấp chưa ngăn chặn được mà có xu hướng gia tăng. Những nguyên nhân này dẫn đến sự dao động, hoài nghi, giảm niềm tin vào vai trò lãnh đạo của Đảng và con đường cách mạng Việt nam đang đi.

Đặc biệt theo nhiều nghiên cứu cho thấy, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên có nguyên nhân quan trọng, trực tiếp từ chủ nghĩa cá nhân về kinh tế. Đó là: a) Từ lợi ích bất chính về kinh tế của các cá nhân. Vì lợi ích cá nhân bất chính mà con người có thể làm băng hoại các giá trị đạo đức truyền thống. Vị kỷ và thực dụng làm cho nhiều cán bộ, đảng viên tha hóa, mất kiểm soát, dần dần "chuyển hóa" lúc nào không hay, ngày càng xa dời lý tưởng cộng sản; b) Từ lợi ích nhóm. Đó chính là một hình thức tham nhũng tập thể, được biểu hiện dưới các hình thức như báo cáo không trung thực, chạy dự án, chạy chức, chạy quyền, chạy chính sách... Lợi ích nhóm không những làm rối loạn, gây thất thoát nền kinh tế quốc gia, mà còn là nguy cơ thúc đẩy nhanh tiến trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ; c) Từ tư duy mang tính nhiệm kỳ. Đây là lối suy nghĩ và cách thức hành xử công việc theo nhiệm kỳ bầu cử với mong muốn thu lợi cao nhất cho mình và nhóm lợi ích của mình trong thời gian tại vị; d) Là sự lạc hậu, nghèo đói và những mặt trái của cơ chế thị trường; e) Từ sự yếu kém trong quản lý Nhà nước về kinh tế. Sự yếu kém này là lỗ hổng tạo điều kiện cho những cán bộ, đảng viên thoái hóa, biến chất lợi dụng, câu kết tham ô, bòn rút ngân sách của công làm của tư  v.v

St

Chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay.

 Chuyển đổi số báo chí không chỉ là số hóa nội dung mà còn tích hợp các công nghệ như AI, big data và mạng xã hội, giúp báo chí tương tác tốt hơn với độc giả và tối ưu hóa quy trình sản xuất. Chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay tập trung vào sự thay đổi báo chí dưới tác động của công nghệ số. Bài viết đề cập đến các nội dung trong chuyển đổi số báo chí đa nền tảng và các thách thức pháp lý như quản lý bản quyền, tin giả và bảo vệ dữ liệu cá nhân, đồng thời đề xuất yêu cầu về xây dựng các quy phạm pháp luật phù hợp với sự phát triển, chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng.

GP BC 1
Chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng đã và đang thay đổi cách thức hoạt động của báo chí toàn cầu_ Ảnh: doithoaiphattrien.vn

1. Mở đầu

Hiện nay, công nghệ kỹ thuật số đã thay đổi cách thức mà báo chí vận hành, từ việc thu thập và xử lý thông tin đến cách thức truyền tải nội dung tới độc giả. Việc tích hợp công nghệ không chỉ giúp cải thiện hiệu quả hoạt động của báo chí mà còn mở rộng khả năng tiếp cận và tương tác với độc giả toàn cầu, đồng thời tạo ra các mô hình kinh doanh mới cho ngành truyền thông.

Chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng đã và đang thay đổi cách thức hoạt động của báo chí toàn cầu. Sự kết hợp giữa các phương tiện truyền thống và các nền tảng số không chỉ giúp báo chí mở rộng quy mô tiếp cận độc giả mà còn tối ưu hóa hiệu quả làm việc. Độc giả có thể tiếp cận nội dung thông qua nhiều kênh khác nhau, từ báo in, báo điện tử đến video trực tuyến và mạng xã hội. Điều này giúp báo chí không chỉ thích ứng với sự thay đổi của công nghệ mà còn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng của công chúng trong thời đại số.

2. Chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng

Chuyển đổi số (Digital Transformation) báo chí là quá trình áp dụng công nghệ kỹ thuật số vào các quy trình sản xuất, phân phối và tiêu thụ nội dung báo chí, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và đáp ứng nhu cầu của công chúng hiện đại. Quá trình này không chỉ giới hạn ở việc chuyển các nội dung báo chí từ dạng in sang dạng số, mà còn bao gồm sự tích hợp của dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây và các nền tảng truyền thông xã hội vào quy trình làm báo. Điều này kéo theo sự thay đổi toàn diện của hoạt động báo chí từ mô hình tòa soạn, tổ chức bộ máy, quy trình sản xuất phát triển nội dung, phương thức tác nghiệp, quản lý dữ liệu, văn hoá toà soạn và cả hoạt động lãnh đạo quản lý.

Chuyển đổi số báo chí có thể được hiểu qua ba yếu tố chính: Một là, vấn đề số hóa nội dung, tạo ra các phiên bản kỹ thuật số của các nội dung báo chí truyền thống, như báo in, video, âm thanh, hình ảnh, giúp chúng có thể được phân phối qua mạng internet và các thiết bị số; Hai là, tăng cường khả năng tương tác với độc giả: Sử dụng các công cụ kỹ thuật số để tương tác trực tiếp với công chúng (hiểu công chúng là ai? ở đâu? mong muốn gì?) qua đó thu thập phản hồi, phân tích dữ liệu và cá nhân hóa nội dung theo nhu cầu người dùng. Ba là, tối ưu hóa quy trình sản xuất và phân phối: Áp dụng công nghệ vào quy trình làm việc, từ việc thu thập thông tin, biên tập, xuất bản, cho đến phân phối nội dung qua các kênh đa nền tảng như website, mạng xã hội, và ứng dụng di động.

Báo chí đa nền tảng (Multiplatform Journalism) là xu hướng phát triển tất yếu trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các kênh truyền thông truyền thống như báo in, truyền hình, phát thanh không còn giữ vị trí độc tôn. Thay vào đó, báo chí hiện nay được phát triển và phân phối thông qua nhiều nền tảng khác nhau, bao gồm báo điện tử, mạng xã hội, video trực tuyến, podcast, ứng dụng di động và các nền tảng số khác.

Một số đặc điểm của báo chí đa nền tảng là:

Thứ nhất, báo chí đa nền tảng là sự kết hợp giữa phương tiện truyền thống và nền tảng số. Báo chí đa nền tảng kết hợp các kênh truyền thống như báo in, phát thanh, truyền hình với báo điện tử, mạng xã hội, video trực tuyến và podcast. Điều này giúp tối đa hóa lượng tiếp cận công chúng ở nhiều độ tuổi, thói quen và hoàn cảnh tiêu dùng thông tin khác nhau. Ví dụ, một bài báo có thể được xuất bản dưới dạng bài viết trên trang web, video trên YouTube, và bản tin ngắn trên Facebook hoặc Instagram. Việc tích hợp các nền tảng này giúp thông tin tiếp cận được nhiều đối tượng độc giả với những sở thích và nhu cầu khác nhau.

Thứ hai, báo chí đa nền tảng có sự linh hoạt và đa dạng trong định dạng nội dung. Báo chí đa nền tảng cung cấp nội dung dưới nhiều định dạng khác nhau: từ bài viết văn bản truyền thống, video, hình ảnh, đến đồ họa thông tin và podcast. Độc giả có thể tiếp cận thông tin thông qua hình thức mà họ ưa thích nhất, giúp cải thiện trải nghiệm người dùng và tăng cường mức độ tương tác. Đặc biệt, báo chí đa nền tảng còn có khả năng sử dụng dữ liệu lớn để cá nhân hóa nội dung, cung cấp các thông tin theo sở thích của từng người dùng. Điều này giúp cơ quan báo chí duy trì và tăng cường sự gắn kết với độc giả, đồng thời tăng cơ hội để độc giả thuận lợi duy trì sự theo dõi với sản phẩm báo chí.

Thứ ba, báo chí đa nền tảng là sự tích hợp của mạng xã hội. Mạng xã hội đã trở thành một kênh thông tin quan trọng, đóng vai trò cầu nối giữa cơ quan báo chí và công chúng. Facebook, Twitter, Instagram, YouTube, TikTok đều trở thành những kênh truyền tải tin tức hàng đầu, với lượng người dùng khổng lồ và tính tương tác cao. Mạng xã hội không chỉ giúp báo chí đưa tin nhanh chóng, mà còn cho phép độc giả chia sẻ và phản hồi về nội dung tức thời. Từ đó, báo chí có thể nhận được những phản hồi trực tiếp từ công chúng, nhanh chóng điều chỉnh thông tin hoặc thậm chí cập nhật nội dung theo thời gian thực.

Thứ tư, sự gia tăng của báo chí video và truyền hình ảnh trực tiếp. Với sự phát triển của công nghệ video và truyền hình ảnh trực tiếp (livestream), nhiều cơ quan báo chí đang chuyển hướng mạnh mẽ sang báo chí video và truyền hình ảnh trực tiếp. Những bản tin trực tiếp (livestream) cho phép khán giả theo dõi các sự kiện theo thời gian thực, giúp tăng tính tức thời và sự tin cậy của báo chí.

Các nền tảng như YouTube, Facebook Live, và TikTok đang trở thành những công cụ quan trọng cho việc phân phối tin tức dưới dạng video. Video có khả năng thu hút sự chú ý cao hơn so với các bài viết văn bản, và từ đó tạo ra một lượng tương tác lớn hơn.

Thứ năm, phân phối và cá nhân hóa nội dung qua ứng dụng di động. Ứng dụng di động của các báo điện tử ngày càng trở nên phổ biến, giúp độc giả dễ dàng truy cập thông tin mọi lúc, mọi nơi. Thông qua ứng dụng di động, các cơ quan báo chí có thể phân phối tin tức nhanh chóng và cập nhật theo thời gian thực, đồng thời sử dụng các tính năng để giữ độc giả liên tục tương tác với nội dung. Nhiều ứng dụng di động cho phép cá nhân hóa trải nghiệm đọc tin bằng cách phân tích dữ liệu người dùng, từ đó gợi ý các bài báo phù hợp với sở thích của từng cá nhân.

Thứ sáu, tối ưu hóa quy trình sản xuất tin tức nhờ công nghệ. Báo chí đa nền tảng không chỉ thay đổi cách thức phân phối tin tức mà còn tối ưu hóa quy trình sản xuất nội dung. Các công nghệ như: trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, và điện toán đám mây giúp cơ quan báo chí sản xuất tin tức nhanh hơn, chính xác hơn, và có thể đáp ứng nhu cầu của công chúng trong thời gian ngắn nhất. Trí tuệ nhân tạo có thể được sử dụng để tự động hóa việc viết tin tức, phân tích dữ liệu, và thậm chí dự đoán nhu cầu đọc tin của độc giả. Dữ liệu lớn giúp các tờ báo hiểu rõ hơn về hành vi và sở thích của độc giả, từ đó điều chỉnh nội dung phù hợp với từng nhóm đối tượng.

Một số xu hướng chính của báo chí đa nền tảng được các nhà khoa học nghiên cứu và nhận định trong bối cảnh toàn cầu:

Phát triển báo chí dữ liệu (data journalism): Nghiên cứu từ Reuters Institute cho thấy báo chí dữ liệu đã trở thành một yếu tố quan trọng trong việc cải thiện chất lượng tin tức và tạo ra sự khác biệt trong thị trường truyền thông. Báo chí dữ liệu không chỉ cung cấp thông tin dưới dạng văn bản mà còn qua các hình ảnh trực quan, biểu đồ và các công cụ tương tác, giúp độc giả hiểu sâu hơn về các sự kiện phức tạp.

Báo chí di động (mobile journalism): Với sự phổ biến của điện thoại thông minh và kết nối internet di động, các nền tảng báo chí số hiện nay phải thích nghi để tối ưu hóa nội dung cho các thiết bị di động. Theo một nghiên cứu của Pew Research Center, hơn 60% độc giả trên toàn thế giới tiếp cận thông tin thông qua điện thoại di động. Xu hướng này dẫn đến việc các tòa soạn báo không chỉ tập trung vào việc sản xuất nội dung mà còn chú trọng vào hình thức và trải nghiệm người dùng trên các nền tảng di động.

Báo chí đa phương tiện (multimedia journalism): Báo chí hiện đại không chỉ sử dụng văn bản mà còn kết hợp hình ảnh, video, podcast, và đồ họa tương tác để thu hút người đọc. Các nền tảng như YouTube, TikTok và Spotify đang dần trở thành những kênh quan trọng của các cơ quan báo chí. Các tờ báo truyền thống cũng đang tìm cách tận dụng các công nghệ này để mở rộng đối tượng độc giả.

Phát triển các mô hình báo chí dựa trên đăng ký trả phí: Nhiều cơ quan báo chí trên thế giới đã chuyển sang mô hình đăng ký trả phí (subscription-based models) nhằm bảo đảm tính bền vững về tài chính trong bối cảnh doanh thu quảng cáo giảm sút. Các tờ báo lớn như The New York Times, The Washington Post và Financial Times đều đã thành công trong việc triển khai mô hình này. Báo chí trả phí đang dần trở thành xu hướng chủ đạo, đặc biệt trong lĩnh vực báo chí điều tra và nội dung chuyên sâu.

Sự gia tăng của trí tuệ nhân tạo và tự động hóa trong báo chí: Trí tuệ nhân tạo (AI) đang được sử dụng rộng rãi trong việc tự động hóa các quy trình báo chí, bao gồm cả việc sản xuất và phân phối nội dung. Một số cơ quan báo chí lớn như Associated Press đã sử dụng AI để tự động viết báo cáo tài chính và các bài báo thể thao. AI không chỉ giảm bớt khối lượng công việc của nhà báo mà còn giúp phân tích dữ liệu và cá nhân hóa nội dung cho độc giả.

Tin tức do người dùng tạo ra (user-generated content): Các nền tảng xã hội như Facebook, Twitter và YouTube đã mở rộng không gian để người dùng có thể tạo ra và chia sẻ nội dung. Điều này đã thay đổi bản chất của báo chí truyền thống, từ việc chỉ có các nhà báo chuyên nghiệp mới sản xuất tin tức, giờ đây, công chúng cũng đóng vai trò tích cực trong việc đưa tin và tạo ra các cuộc thảo luận công khai. Các nền tảng như Reddit và Medium là minh chứng cho sự phát triển của nội dung do người dùng tạo ra, với tính tương tác và lan truyền cao.

3. Chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng ở Việt Nam

Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 ban hành theo Quyết định 348/QĐ-TTg ngày 06-4-2023 xác định mục tiêu tới năm 2025, 70% cơ quan báo chí đưa các nội dung lên các nền tảng số; 80% cơ quan báo chí hoạt động, vận hành mô hình tòa soạn hội tụ; 50% cơ quan báo chí sử dụng nền tảng phân tích, xử lý dữ liệu tổng hợp tập trung, ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tối ưu hóa hoạt động.

Như vậy, xu hướng số hóa đã không còn là khái niệm mơ hồ mà đã được đề ra trong chiến lược phát triển báo chí đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030. Đây là một tất yếu mà báo chí Việt Nam buộc phải tiệm cận để tiến đến một nền báo chí hiện đại, chuyên nghiệp, đa phương tiện, đa nền tảng… phù hợp với xu thế phát triển công nghệ số, truyền thông thế giới.

Việt Nam hiện là một trong những quốc gia có tỷ lệ người dùng internet và mạng xã hội cao nhất khu vực Đông Nam Á, với 78,44 triệu người dùng (tính đến tháng 1-2024)(1). Điều này tạo điều kiện cho các cơ quan báo chí mở rộng quy mô tiếp cận độc giả không chỉ trong nước mà còn quốc tế, thông qua các nền tảng số như Facebook, YouTube, TikTok và các ứng dụng di động.

Nhiều tòa soạn báo tại Việt Nam đã chuyển đổi sang mô hình tòa soạn hội tụ, kết hợp các bộ phận báo in, báo điện tử, truyền hình và phát thanh vào một hệ thống quản lý chung. Các báo như VnExpressThanh NiênTuổi Trẻ đã đầu tư vào công nghệ số hóa quy trình sản xuất tin tức, từ đó giúp tăng tính hiệu quả và mở rộng khả năng sáng tạo nội dung.

Tăng cường tương tác với độc giả: Mạng xã hội và các nền tảng truyền thông số cho phép báo chí tiếp cận và tương tác với độc giả một cách tức thời. Nhiều tờ báo đã triển khai các kênh mạng xã hội mạnh mẽ, với khả năng tương tác cao, giúp tăng cường niềm tin và tạo mối liên kết với độc giả, đồng thời cung cấp cơ hội thu thập phản hồi từ người dùng thông tin.

Bên cạnh những cơ hội, báo chí Việt Nam cũng phải đối mặt với những thách thức:

Thứ nhất, sự cạnh tranh gay gắt với các nền tảng nước ngoài. Mặc dù báo chí Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, nhưng vẫn phải đối mặt với sự cạnh tranh khốc liệt từ các nền tảng thông tin quốc tế như Facebook, YouTube, và các trang tin tức nước ngoài. Những nền tảng này thu hút lượng lớn người dùng và quảng cáo, khiến báo chí trong nước khó khăn trong việc duy trì doanh thu và thu hút độc giả.

Thứ hai, báo chí Việt Nam, giống như báo chí các nước khác, đang phải đối mặt với vấn nạn tin giả lan truyền trên mạng xã hội. Tin tức không chính xác, thông tin không kiểm chứng có thể gây ra những tác động tiêu cực đến xã hội và làm suy yếu uy tín của các cơ quan báo chí. Việc kiểm soát và xử lý tin giả đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý nhà nước, cùng với việc áp dụng các biện pháp pháp lý nghiêm khắc.

Thứ ba, báo chí gặp khó khăn trong việc bảo vệ bản quyền. Trong môi trường số, việc vi phạm bản quyền trở nên phổ biến hơn, với việc sao chép, chia sẻ nội dung báo chí mà không xin phép tác giả. Nhiều tờ báo tại Việt Nam vẫn chưa có cơ chế hiệu quả để bảo vệ bản quyền nội dung của mình, dẫn đến việc thất thoát doanh thu từ các nội dung sáng tạo.

Thứ tư, sự hạn chế về cơ sở hạ tầng công nghệ và nguồn lực. Mặc dù có sự đầu tư vào công nghệ và chuyển đổi số, nhiều cơ quan báo chí Việt Nam vẫn gặp khó khăn về mặt tài chính và nguồn lực để thực hiện một cách triệt để quá trình chuyển đổi số. Sự thiếu hụt nhân sự có trình độ cao về công nghệ và quản lý dữ liệu cũng là một rào cản lớn.

Thứ năm, thói quen tiếp nhận và sử dụng nội dung báo chí thay đổi. Sự gia tăng của các nền tảng xã hội và các kênh thông tin không chính thức đã thay đổi cách thức người dân tiếp cận và tiêu thụ tin tức. Độc giả ngày càng có xu hướng ưa chuộng nội dung ngắn gọn, trực quan và giải trí hơn là các bài viết phân tích chuyên sâu. Điều này buộc các tòa soạn phải thay đổi cách thức sản xuất và định dạng nội dung để duy trì sự quan tâm của độc giả.

4. Các thách thức pháp lý và đề xuất giải pháp hoàn thiện Luật Báo chí phù hợp với chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng hiện nay

Thứ nhất, những thách thức pháp lý nổi bật trong chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng

Sự bùng nổ của công nghệ số đã tạo ra một môi trường báo chí hoàn toàn mới, nơi mà các quy tắc pháp lý truyền thống đôi khi không còn phù hợp. Việc các quy định pháp lý phù hợp với sự phát triển công nghệ trong báo chí đa nền tảng là một yêu cầu cấp bách, đặc biệt trong bối cảnh các vấn đề như bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, bảo vệ dữ liệu cá nhânxử lý tin giả và quản lý nội dung trên các nền tảng mạng xã hội ngày càng trở nên phức tạp.

Trong bối cảnh này, có thể khái quát những thách thức pháp lý nổi bật bao gồm:

Một là, quyền sở hữu trí tuệ và bản quyền: Trong môi trường số, việc sao chép, chia sẻ và phát tán nội dung trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, dẫn đến tình trạng vi phạm bản quyền phổ biến. Điều này đòi hỏi sự điều chỉnh các quy định về bảo vệ quyền tác giả trong không gian số, nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của các tác giả và cơ quan báo chí.

Hai là, bảo vệ dữ liệu cá nhân: Báo chí số thu thập lượng lớn dữ liệu từ người dùng, từ thông tin cá nhân đến thói quen sử dụng nội dung. Điều này đòi hỏi luật pháp phải cập nhật để bảo đảm rằng quyền riêng tư của người dùng được bảo vệ trong khi vẫn bảo đảm tính tự do báo chí.

Ba là, xử lý tin giả và thông tin sai lệch: Môi trường số là nơi mà tin giả và thông tin sai lệch có thể lan truyền nhanh chóng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến xã hội. Điều này đặt ra yêu cầu cho hệ thống pháp lý phải phát triển các cơ chế xử lý và chế tài nghiêm khắc đối với việc phát tán thông tin sai lệch trên các nền tảng số.

Bốn là, trách nhiệm của các nền tảng kỹ thuật số: Các nền tảng như Facebook, YouTube, và Twitter không chỉ là kênh phân phối nội dung mà còn chịu trách nhiệm trong việc kiểm soát nội dung vi phạm pháp luật, chẳng hạn như tin giả, nội dung gây thù hận, hoặc vi phạm quyền sở hữu trí tuệ. Việc xây dựng khung pháp lý quy định trách nhiệm của các nền tảng này là điều cần thiết để bảo đảm quyền lợi và an toàn cho người dùng.

Năm là, quản lý nội dung trên các nền tảng số: Báo chí ngày càng phát triển trên nhiều nền tảng kỹ thuật số như mạng xã hội, website, ứng dụng di động và video trực tuyến. Điều này đặt ra những thách thức trong việc kiểm soát nội dung, đặc biệt là khi các nền tảng này không chịu sự kiểm soát trực tiếp từ cơ quan quản lý báo chí. Trách nhiệm của cơ quan báo chí và các nền tảng phân phối nội dung cũng cần được làm rõ trong hệ thống pháp luật

Trong bối cảnh chuyển đổi số, hệ thống pháp luật cần được điều chỉnh nhanh chóng để bắt kịp với những thay đổi của môi trường truyền thông. Việc hoàn thiện các quy định pháp luật không chỉ giúp quản lý hiệu quả hơn các hoạt động báo chí trên nền tảng số mà còn bảo đảm quyền tự do ngôn luận, quyền riêng tư, và tính minh bạch trong hoạt động truyền thông.

Thứ hai, đề xuất giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật để phù hợp với thực tiễn phát triển của báo chí đa nền tảng

Dựa trên việc phân tích các thách thức pháp lý mà báo chí phải đối mặt trong quá trình chuyển đổi số, cần nghiên cứu các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về báo chí phù hợp với bối cảnh phát triển của báo chí đa nền tảng. Bao gồm:

Sửa đổi và bổ sung quy định về quyền sở hữu trí tuệ trong môi trường số: Để ngăn chặn các hành vi vi phạm, trong thời gian qua, các cơ quan quản lý nhà nước đã xây dựng và ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật trong đó có các quy định cụ thể để bảo vệ quyền của các tác giả và chủ sở hữu bản quyền trên môi trường mạng như: về căn cứ xác lập quyền tác giả, Luật Sở hữu trí tuệ quy định: “Quyền tác giả phát sinh kể từ khi tác phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định, không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký” (khoản 1 Điều 6 Luật Sở hữu trí tuệ). Ngoài ra, đối với các loại hình tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả, khoản 1 Điều 14 Luật Sở hữu trí tuệ cũng quy định: “a) Tác phẩm văn học, khoa học, sách giáo khoa, giáo trình và tác phẩm khác được thể hiện dưới dạng chữ viết hoặc ký tự khác; b) Bài giảng, bài phát biểu và bài nói khác; c) Tác phẩm báo chí”. Như vậy, sản phẩm báo chí là một trong những đối tượng đang được pháp luật bảo hộ về quyền tác giả và mọi hành vi xâm phạm quyền tác giả trong lĩnh vực báo chí đều là hành vi cần bị lên án. Luật pháp liên quan đến báo chí cần bổ sung các quy định cụ thể về việc bảo vệ bản quyền trong không gian số, bao gồm các cơ chế bảo vệ quyền tác giả và cách thức xử lý vi phạm bản quyền trên các nền tảng trực tuyến. Điều này có thể bao gồm việc tăng cường các chế tài xử lý vi phạm, đồng thời, thúc đẩy các cơ chế bảo vệ bản quyền trên nền tảng số, như hệ thống báo cáo vi phạm bản quyền tự động.

Thiết lập các quy định chặt chẽ về xử lý tin giả: Thuật ngữ “thông tin giả mạo” xuất hiện 8 lần trong Nghị định số 15/2020/NĐ-CP, tuy nhiên, ngay cả trong nghị định hay các văn bản pháp luật khác như Luật An ninh mạng năm 2018, Luật Báo chí năm 2016 và các văn bản trong lĩnh vực thông tin, truyền thông khác, đều chưa đề cập tới khái niệm tin giả. Ngoài ra, trong Luật An ninh mạng năm 2018 cũng chỉ đề cập tới thuật ngữ “thông tin sai sự thật” hai lần, mà không đề cập tới tin giả, hay hành vi liên quan tới tin giả.

Chính vì thế, cần quy phạm hóa khái niệm tin giả vào các văn bản quy phạm pháp luật. Có như vậy, nhà quản lý cũng như người dân có thể hiểu, nhận diện được thế nào là tin giả. Đồng thời, cần bổ sung các quy định trong Luật Báo chí về trách nhiệm của các cơ quan báo chí và các nền tảng truyền thông trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý thông tin sai lệch. Các giải pháp pháp lý có thể bao gồm quy định bắt buộc về việc cung cấp công cụ kiểm tra độ xác thực của thông tin trước khi phát hành, cùng với chế tài xử lý nghiêm khắc các vi phạm liên quan đến tin giả.

Quy định rõ ràng hơn về quản lý nội dung trên nền tảng số: Luật Báo chí cần cập nhật các quy định về trách nhiệm quản lý nội dung trên các nền tảng số. Điều này bao gồm việc xác định rõ hơn trách nhiệm của các cơ quan báo chí khi phát hành nội dung trên mạng xã hội hoặc các kênh số khác, cũng như yêu cầu các nền tảng này hợp tác với cơ quan chức năng để kiểm soát nội dung vi phạm pháp luật, vi phạm những quy định tại điều 9 Luật Báo chí năm 2016, như tin giả hay thông tin vi phạm quyền riêng tư, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân, phương hại tới lợi ích của đất nước và của nhân dân.

Bảo vệ dữ liệu cá nhân, quyền riêng tư, bí mật cá nhân trong hoạt động báo chí: Việt Nam đã công nhận và bảo hộ quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong Hiến pháp, Bộ luật Dân sự và pháp luật chuyên ngành như Luật Báo chí, Luật An toàn thông tin mạng... Tuy nhiên, chế tài xử phạt hay xử lý hình sự các tội liên quan đến xâm phạm bí mật đời tư còn chưa đầy đủ.

Bên cạnh đó, cần bổ sung quy định về bảo vệ dữ liệu cá nhân trong quá trình thu thập và xử lý thông tin của các cơ quan báo chí. Điều này có thể bao gồm yêu cầu các cơ quan báo chí tuân thủ các tiêu chuẩn về bảo mật dữ liệu cá nhân, cung cấp thông tin đầy đủ cho người dùng về việc dữ liệu cá nhân của họ được sử dụng như thế nào và trong các trường hợp cần thiết, yêu cầu sự đồng ý của người dùng trước khi xử lý dữ liệu của họ.

Đặt trách nhiệm pháp lý cho các nền tảng công nghệ lớn: các nền tảng mạng xã hội xuyên biên giới được hưởng lợi không nhỏ từ việc cho phép người dùng được đăng tải tin tức trên các trang cá nhân, song điều đó không có nghĩa là họ được phép phớt lờ trách nhiệm, bỏ qua việc kiểm soát tin giả, tin có nội dung xấu, độc. Thực tế này cho thấy, việc thắt chặt quản lý các nền tảng mạng xã hội là cần thiết và quan trọng, thúc đẩy vai trò chủ động kiểm duyệt nội dung xuất hiện trên các nền tảng xã hội, góp phần bảo vệ môi trường mạng an toàn, lành mạnh.

Hơn nữa, việc yêu cầu các công ty công nghệ phải điều chỉnh, có trách nhiệm tuân thủ các quy định, luật pháp của nước sở tại cũng là một yêu cầu bắt buộc nhằm bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của người sử dụng mạng xã hội, đồng thời góp phần củng cố và khẳng định chủ quyền của quốc gia trên không gian mạng.

Tăng thẩm quyền cho các cơ quan quản lý trong việc thực thi biện pháp ngăn chặn khi phát hiện hoặc nhận được các thông báo về các thông tin vi phạm xuất hiện trên các mạng xã hội hoặc khi các nền tảng này không hợp tác để ngăn chặn, gỡ bỏ thông tin vi phạm; buộc các nền tảng xuyên biên giới phải thực hiện quy trình ngăn chặn, gỡ bỏ dịch vụ, thông tin vi phạm trong vòng 24 giờ khi có yêu cầu từ cơ quan có thẩm quyền và phải thành lập bộ phận chuyên trách tiếp nhận/giải quyết khiếu nại từ người sử dụng.

Cần xác định rõ hơn vai trò và trách nhiệm của các nền tảng công nghệ lớn trong việc quản lý nội dung và bảo đảm tuân thủ các quy định pháp luật về báo chí. Điều này có thể bao gồm việc yêu cầu các nền tảng phải có cơ chế báo cáo vi phạm hiệu quả, cung cấp công cụ kiểm soát nội dung phù hợp với các tiêu chuẩn của pháp luật, và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng trong việc xử lý vi phạm.

5. Kết luận

Báo chí đa nền tảng tại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ trong những năm gần đây, song song với sự bùng nổ của công nghệ số và các thiết bị di động. Các cơ quan báo chí truyền thống như báo in, phát thanh, truyền hình đang nhanh chóng thích nghi với môi trường số, chuyển mình thành các nền tảng đa phương tiện để tiếp cận độc giả ở nhiều kênh khác nhau. Tuy nhiên, quá trình này không hề đơn giản và vẫn còn nhiều cơ hội cũng như thách thức mà báo chí Việt Nam phải đối mặt.

Chuyển đổi số và báo chí đa nền tảng không chỉ là xu hướng tất yếu của thời đại mà còn đặt ra nhiều thách thức pháp lý cần được giải quyết thông qua việc điều chỉnh và hoàn thiện hệ thống pháp luật. Luật pháp cần phát triển để thích ứng với sự thay đổi không ngừng của công nghệ, bảo đảm báo chí có thể phát triển bền vững trong môi trường số hóa.

Yêu cầu về nêu gương trong quy định về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.

 Bộ Chính trị vừa ban hành Quy định 144-QĐ/TW về chuẩn mực đạo đức cánh mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, nêu rõ các phẩm chất đạo đức người đảng viên cần thực hành và thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện. Trong đó, phẩm chất gương mẫu hay yêu cầu về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên tiếp tục được nhấn mạnh, bởi đây không chỉ là một phẩm chất đạo đức, mà còn là một trong những phương thức lãnh đạo quan trọng của Đảng. Phải thực sự gương mẫu, nêu gương trong công tác, trong cuộc sống hằng ngày, cán bộ, đảng viên mới có thể tập hợp và lãnh đạo được quần chúng thực hiện thắng lợi các đường lối, chủ trương của Đảng. Bài viết phân tích yêu cầu về nêu gương đối với cán bộ, đảng viên trong Quy định số 144-QĐ/TW ngày 9-5-2024.

Ảnh minh họa: tuyengiaoangiang.vn

1. Mở đầu

“Gương mẫu” là những điều, những việc có tính chất tốt đẹp, điển hình, làm khuôn mẫu cho người khác noi theo. “Nêu gương” là hành động tự mình làm mẫu mực, thể hiện qua lối sống, hành vi, cách ứng xử chuẩn mực để người khác học tập và làm theo. Nêu gương không chỉ giới hạn ở việc làm đúng, mà còn ở việc làm tốt nhất có thể, vượt qua những yêu cầu tối thiểu để trở thành chuẩn mực, là tấm gương sáng về đạo đức và năng lực. Như vậy, có thể hiểu nêu gương hay gương mẫu có cùng nội hàm, và sự gương mẫu hay hành động nêu gương của mỗi người góp phần làm cho xã hội tốt đẹp hơn.

2. Chủ tịch Hồ Chí Minh với việc thực hành nêu gương

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Nếu chúng ta làm gương mẫu và biết lãnh đạo thì bất cứ công việc gì khó khăn đến đâu cũng nhất định làm được”(4). Vì vậy, Người đặc biệt coi trọng trách nhiệm nêu gương, tính gương mẫu của mỗi cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, đặc biệt là ở những thời điểm khó khăn, thử thách của cách mạng.

Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ lãnh đạo đất nước qua những giai đoạn gian khó mà còn thể hiện một tấm gương đạo đức mẫu mực để các thế hệ học tập và noi theo. Từ những ngày đầu tham gia cách mạng, Người đã thể hiện sự kiên định với lý tưởng của mình. Dù giữ các trọng trách trong Đảng và Nhà nước, Người luôn nêu gương đạo đức cách mạng và lối sống giản dị. Hồ Chí Minh không chỉ đề cao giáo dục lý tưởng cách mạng, mà còn thực hành đạo đức cách mạng một cách nghiêm túc, nhất quán. Điều này đã tạo lòng tin yêu từ phía nhân dân, giúp nâng cao hiệu quả công việc và củng cố niềm tin của người dân vào Đảng, vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và con đường cách mạng của dân tộc.

Hồ Chí Minh luôn ý thức tự hoàn thiện bản thân và coi đó là một phương thức nêu gương mà cán bộ, đảng viên cần thực hiện. Trong cuộc sống hằng ngày, Người luôn khiêm tốn, giản dị và gần gũi với quần chúng nhân dân. Những hành động của Người phản ánh sự tinh tế trong ứng xử và tinh thần trách nhiệm cao, mang tầm vóc của một nhà lãnh đạo tài ba, một tấm gương đạo đức mẫu mực.

Bên cạnh đó, Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cán bộ, đảng viên nêu gương thông qua hành động, việc làm cụ thể. Người khẳng định: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(5). Theo Người, hành động và lối sống thực tế là những minh chứng mạnh mẽ nhất để tuyên truyền, thuyết phục người khác, thay vì những lời nói suông, nói không đi đôi với làm.

Trong khi các bài diễn văn và tuyên truyền có thể tạo ra ấn tượng tạm thời, thì tấm gương của người lãnh đạo, đặc biệt là một lãnh tụ như Hồ Chí Minh, có sức mạnh lâu dài và bền vững hơn. Đó là một minh chứng cho giá trị của việc sống đúng với lý tưởng và nguyên tắc mà mình theo đuổi, và làm gương cho người khác học tập và noi theo.

Tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh không chỉ có giá trị trong bối cảnh lịch sử của Việt Nam, mà còn mang ý nghĩa rộng lớn hơn đối với tất cả các dân tộc và quốc gia. Đó còn là sự khẳng định rằng sự lãnh đạo hiệu quả không chỉ dựa vào tài năng và trí tuệ, mà còn phụ thuộc vào đạo đức và sự gương mẫu của người lãnh đạo. Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta một bài học quý về cách sống và cách lãnh đạo, đó là những bài học giá trị mà các thế hệ cán bộ, đảng viên cần học hỏi và thực hành.

3. Yêu cầu về nêu gương trong Quy định của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới

Ngày 9-5-2024, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định số 144-QĐ/TW “Về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới” (gọi tắt là Quy định 144). Ngoài Điều 6, về­ tổ chức thực hiện, Quy định 144 có 5 điều, 19 điểm, quy định cụ thể các chuẩn mực đạo đức mà mỗi cán bộ, đảng viên phải liên tục rèn luyện, trau dồi.

Điều 5, Quy định 144 nêu rõ: Cán bộ, đảng viên phải “Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời”(1). Quy định cũng cụ thể hóa chuẩn mực gươ­ng mẫu thành các nội dung, đó là: “Gương mẫu trong công tác và sinh hoạt, tích cực học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cán bộ, đảng viên chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, cấp trên gương mẫu trước cấp dưới, cấp ủy gương mẫu trước đảng viên, đảng viên gương mẫu trước quần chúng(2).

Không chỉ tự mình làm gương, cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt phải “tích cực vận động, thuyết phục gia đình, người thân thực hiện đầy đủ, nghiêm túc, trách nhiệm các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước”(3). Khi cán bộ, đảng viên nêu gương sẽ tạo dựng được lòng tin đối với nhân dân, tạo nền tảng vững chắc để mỗi cán bộ, đảng viên có thể lãnh đạo và tổ chức thực hiện hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.

Bên cạnh đó, cán bộ, đảng viên nêu gương sẽ lan tỏa các giá trị đạo đức, tinh thần yêu nước và trách nhiệm xã hội đến cộng đồng. Những hành động tích cực của cán bộ, đảng viên sẽ khuyến khích quần chúng cùng hành động tích cực để cùng tạo ra một môi trường xã hội lành mạnh và tiến bộ. Ở một khía cạnh khác, việc nêu gương đòi hỏi cán bộ phải giữ vững sự liêm chính và trung thực, phải tuân thủ nghiêm các quy tắc đạo đức, kỷ luật công tác, từ đó giảm thiểu các hành vi tham nhũng, lạm quyền.

Thực tế, không phải đến nay Đảng ta mới đề ra các quy định về phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Vấn đề này đã được đề cập, chỉ rõ và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng viên phải nghiêm túc quán triệt, thực hiện từ rất sớm. Các quy định này được thể hiện trong các văn bản như: Điều lệ Đảng (Điều 1, Điều 2); Quy định số 37-QĐ/TW của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm; 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được Ban Chấp hành Trung ương chỉ ra cụ thể tại Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng Đảng, v.v.. Quy định 144 là bước kế thừa các quy định trước đây và tiếp tục cụ thể hóa chủ trương của Đảng về yêu cầu nêu gương đối với cán bộ, đảng viên.

4. Thực hành nêu gương của cán bộ, đảng viên hiện nay

Thực tế cho thấy, nhờ những tấm gương quả cảm, anh dũng, hy sinh, luôn đặt lợi ích của Đảng, của nhân dân lên trên hết, trước hết của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ, đảng viên trong suốt hơn 90 năm qua mà Đảng ta đã tập hợp được sức mạnh toàn dân, từ đó làm nên những thành tựu vĩ đại của dân tộc. Đó là thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám; là thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước…

Đặc biệt, hiện nay, từ những nền tảng cha ông đã dựng xây, để lại, sự gương mẫu, nêu gương, sự sáng tạo, nhiệt huyết, quyết liệt của đội ngũ cán bộ, đảng viên góp phần làm nên những kỳ tích của đất nước trong công cuộc đổi mới. Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước đang vận hành tốt mô hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều chế độ sở hữu, với nhiều chính sách thích hợp, được điều hòa bởi Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân; các hoạt động văn hóa, tinh thần được quan tâm, đời sống nhân dân được cải thiện, xã hội ngày càng phồn vinh…

Những thành tựu to lớn đó chính là kết quả của ý chí, của sự quyết tâm cao, cùng sự nỗ lực phấn đấu, đoàn kết, chung sức, đồng lòng của cả hệ thống chính trị và toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta. Như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhận định, được Đại hội XIII của Đảng thông qua và đưa vào Nghị quyết Đại hội: Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(6).

Có được kết quả như vậy là nhờ sự hy sinh anh dũng của các thế hệ cha ông, sự nỗ lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhân dân, trong đó đặc biệt có sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Họ là những nhà chính trị, những doanh nhân, những nhà khoa học và nhân dân lao động, đã bền bỉ, trách nhiệm lao động, cống hiến trên nhiều lĩnh vực. Họ là những người đã từng bước làm nên uy tín, sức mạnh lãnh đạo của Đảng, đó là điều không thể phủ nhận.

Tuy nhiên, bên cạnh những tấm gương sáng, cùng những kết quả to lớn đã đạt được, hiện nay, lối sống thực dụng cùng những tác động của mặt trái cơ chế thị trường đã khiến cho phẩm chất nêu gương của cán bộ đảng viên đứng trước nhiều thử thách. Kết quả đấu tranh với các biểu hiện suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hóa trong nội bộ theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) và Kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng chỉnh đốn Đảng cho thấy, có không ít cán bộ đảng viên, kể cả đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý trở nên suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống, bị ma lực của đồng tiền xô ngã, trở thành những người lời nói không đi đôi với việc làm, nói một đằng làm một nẻo, gây giảm sút niềm tin trong nhân dân.

5. Giải pháp tăng cường nêu gương của cán bộ, đảng viên hiện nay

Theo Quy định 144, nêu gương là một phẩm chất đạo đức, là điều mỗi cán bộ, đảng viên đều phải thực hành để thể hiện vị trí lãnh đạo, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong trào cách mạng. Là quy định của Đảng, tất cả cán bộ, đảng viên đều phải nghiêm túc thực hiện. Cán bộ chức vụ càng cao càng phải nêu gương trong thực hành. Để thực hiện có hiệu quả Quy định 144, làm tốt nhiệm vụ nêu gương của cán bộ, đảng viên, cần quán triệt, thực hiện một số yêu cầu sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về nêu gương.

Để làm tốt trách nhiệm nêu gương, mỗi cán bộ, đảng viên phải quán triệt, nhận thức rõ vai trò của nêu gương, phải hiểu sâu, nắm chắc các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Từ đó thực hiện đúng, thực hiện tốt, và khi đó các việc làm của mình mới có kết quả tốt, mới có tác dụng nêu gương trước quần chúng nhân dân. Cần tránh hiện tượng hình thức, hời hợt trong quán triệt nội dung và triển khai thực hiện. Hời hợt, hình thức thì không thể có được những hành động quyết liệt, dù có đạt kết quả chăng nữa, nhưng cũng khó đạt tới mức “nêu gương”. Vì vậy, công tác tuyên truyền, giáo dục nhận thức về nêu gương là nhiệm vụ quan trọng, tác động vào nhận thức của mỗi cán bộ, đảng viên, từ đó mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao nhu cầu tự thân và tính tự giác để hành động đạt kết quả tốt nhất, đạt hiệu quả thực chất về nêu gương.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) nêu rõ: “Nguyên nhân sâu xa, chủ yếu của tình trạng suy thoái ở một bộ phận cán bộ, đảng viên trước hết là do bản thân những cán bộ, đảng viên đó thiếu tu dưỡng, rèn luyện; lập trường tư tưởng không vững vàng, hoang mang, dao động trước những tác động từ bên ngoài; sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, hẹp hòi, bị cám dỗ bởi các lợi ích vật chất, không làm tròn trách nhiệm, bổn phận của mình trước Đảng, trước dân”(7). Để khắc phục điều này, trong giai đoạn hiện nay, chỉ khi cán bộ, đảng viên chiến thắng được “ma lực" của đồng tiền, thật sự là người có đức, có tài, có sự cống hiến đích thực, tận tâm, thì người cán bộ, đảng viên đó mới là tấm gương để mọi người học tập, noi theo.

Thứ hai, mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn quán triệt nói đi đôi với làm. Quy định 144 yêu cầu mỗi một cán bộ, đảng viên phải “nói đi đôi với làm, làm đi đôi với nói, đã nói là làm”(8). “Nói đi đôi với làm” là lời nói và việc làm phải thống nhất, gắn chặt với nhau. Theo đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải nhất quán trong nhận thức, phát ngôn, cũng như trong hành động thực tiễn; nêu gương phải được biểu hiện cụ thể trong sự thống nhất giữa suy nghĩ, lời nói và hành động, giữa tư tưởng và hành vi của mỗi cán bộ, đảng viên.

Cụ thể, cán bộ, đảng viên cần nêu gương ở mục đích sống, sự tận tụy, cống hiến; nêu gương ở thái độ tôn trọng mọi người, đức tính khiêm tốn; nêu gương trong thực hành đoàn kết, nêu cao tinh thần dân chủ; nêu gương về phương pháp, cách thức làm việc; nêu gương về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; nêu gương trong ứng xử văn hóa, khoan dung…

Thứ ba, nêu gương là một quá trình không ngừng tự rèn luyện nghiêm túc, bền bỉ của mỗi cán bộ, đảng viên. Các nội dung của Quy định 144-QĐ/TW là sự cụ thể hóa chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới. Trong đó, nêu gương vừa là một phẩm chất, vừa là một phương pháp rèn luyện đạo đức, và hơn hết, đó là một phương thức lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện tốt Quy định 144, mỗi cán bộ, đảng viên cần có sự bền bỉ, trách nhiệm trong tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu; sự nghiêm túc, nỗ lực vượt lên những cám dỗ và cạm bẫy trong cuộc sống thường ngày. Làm được những điều này, mỗi cán bộ, đảng viên sẽ ngày càng hoàn thiện bản thân trên mọi phương diện.

Thứ tư, cán bộ chủ chốt phải tiên phong trong việc nêu gương. Cán bộ chủ chốt là lực lượng có vị trí nòng cốt, đóng vai trò quan trọng lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện các nhiệm vụ được giao. Để hoàn thành trọng trách, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ được phân công trước Đảng, trước dân thì việc nêu gương và phát huy vai trò nêu gương trước tập thể, quần chúng nhân dân là một trong những yêu cầu quyết định, và cũng là biện pháp quan trọng để cán bộ chủ chốt nâng cao uy tín, vị thế của mình.

Thực tiễn phát triển đất nước đã khẳng định, nếu cán bộ chủ chốt phát huy tốt vai trò, trách nhiệm nêu gương, luôn mẫu mực từ lời nói đến việc làm, thì cán bộ ấy tự mình đã tỏa sáng, được mọi người tôn trọng, yêu quý, tin tưởng và ủng hộ; nhờ đó, có tác dụng động viên, cổ vũ, khích lệ cán bộ, quần chúng nhân dân học tập và noi theo.

Ngược lại, nếu cán bộ chủ chốt không thực hiện tốt việc nêu gương, không nỗ lực phấn đấu vươn lên trong tu dưỡng, rèn luyện, công tác, khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ, không giữ được chuẩn mực trong quan hệ, giao tiếp, ứng xử trong đời sống, sinh hoạt và công tác, thì cán bộ ấy không thể tạo dựng, củng cố hình ảnh, uy tín và vị thế của cá nhân đối với tập thể, không những thế, còn làm giảm sút niềm tin trong quần chúng, nhân dân. Chính vì vậy, việc nêu gương của cán bộ, đảng viên, đặc biệt là của cán bộ chủ chốt là phương thức tuyên truyền có sức thuyết phục tốt nhất, hiệu quả nhất.

Thứ năm, cần có cơ chế giám sát việc thực hành nêu gương của cán bộ, đảng viên. Thực tế cho thấy, có khoảng cách nhất định giữa việc quán triệt, triển khai thực hiện các quy định; hiệu quả việc thực hiện phụ thuộc vào ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên. Do vậy, để Quy định 144, trong đó có quy định về nêu gương được thực hiện hiệu quả, ngoài coi trọng việc đề cao tính tự giác trong rèn luyện, cần có cơ chế giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và của nhân dân đối với việc rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong và hiệu quả công việc của mỗi cán bộ, đảng viên. Việc giám sát sẽ góp phần quan trọng giúp đánh giá chính xác hiệu quả thực hiện; bảo đảm cán bộ, đảng viên, đặc biệt là các cán bộ, đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý thực thi nhiệm vụ theo đúng quy định của Đảng và khuôn khổ pháp luật.

6. Kết luận

Nêu gương là một phương thức lãnh đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội bằng Cương lĩnh, đường lối, công tác cán bộ, công tác kiểm tra và bằng sự nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên. Nhiều cán bộ, đảng viên nêu gương sẽ góp phần xây dựng nhiều tổ chức đảng nêu gương. Nhiều tổ chức đảng nêu gương sẽ xây dựng nên một Đảng nêu gương, để Đảng ta thực sự là đạo đức, là văn minh, xứng tầm vị thế lãnh đạo đất nước, xứng đáng với sự tin yêu của nhân dân. Khi cán bộ, đảng viên nêu gương, uy tín và hình ảnh của Đảng sẽ được củng cố, các giá trị tích cực được lan tỏa, từ đó tạo động lực để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ đề ra.

Kỷ niệm 204 năm Ngày sinh Ph. Ăngghen (28/11/1820 - 28/11/2024) Nhà lý luận và chiến sỹ cách mạng vĩ đại


Ph. Ăngghen là lãnh tụ thiên tài, người thầy vĩ đại của giai cấp vô sản, người đã cùng Các Mác xây dựng nên lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân, nhân dân lao động.

Ph. Ăngghen sinh ngày 28/11/1820 trong một gia đình chủ xưởng dệt ở thành phố Barơmen, vương quốc Phổ (ngày nay là nước Đức). Ông sinh sống, thâm nhập thực tiễn vào phong trào cách mạng ở nhiều nước khác nhau để tìm hiểu cuộc sống người dân.

Xuất thân từ một gia đình tư sản, nhưng Ph. Ăngghen đã hiến dâng toàn bộ cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng của giai cấp công nhân, Ông là người bạn, người đồng chí gần gũi nhất của C. Mác, đã cùng C. Mác xây dựng nên chủ nghĩa cộng sản khoa học.

Trong nhiều thập kỷ, Ph. Ăngghen ra sức nghiên cứu, tiếp thu, kế thừa những tinh hoa tư tưởng của nhân loại, mà trước hết và trực tiếp là triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp. Quá trình nghiên cứu lý luận luôn gắn chặt với thực tiễn phong phú, sinh động của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân. Từ đó, Ông đã cùng với Mác, xây dựng nên một hệ thống lý luận khoa học và cách mạng, bao gồm triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học. Cái đặc sắc nhất là hai ông đã sáng tạo ra chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phát hiện ra những quy luật khách quan của sự phát triển xã hội và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; xây dựng lý luận giá trị thặng dư chỉ ra các quy luật chi phối sự vận động, phát triển và diệt vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản. Đây chính là vũ khí tư tưởng cho giai cấp công nhân; là những trụ cột của cả một hệ thống đồ sộ!

Rất nhiều tác phẩm cơ bản của chủ nghĩa Mác là do Mác và Ăngghen cùng viết. Tiêu biểu nhất là “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Nhiều công trình nghiên cứu của Ăngghen là sự phát triển những tư tưởng hình thành trong quá trình trao đổi thường xuyên với C. Mác. Về phía mình, nhiều tác phẩm của C. Mác được viết với những ý tưởng và kiến thức của Ăngghen. Lênin cho rằng: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăngghen”. Ăngghen còn sát cánh cùng C. Mác trong truyền bá tư tưởng cách mạng, xây dựng các tổ chức cách mạng của giai cấp công nhân, trở thành lãnh tụ của phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân các nước châu Âu ở nửa cuối thế kỷ XIX. Lênin kết luận: “Sau bạn ông là Các Mác, Ph. Ăngghen là nhà bác học và người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”.

Ăngghen được ngưỡng mộ, kính trọng không chỉ bởi trí tuệ của một nhà bác học, lòng dũng cảm, nhiệt huyết của một chiến sỹ cách mạng vĩ đại, mà còn bởi phẩm chất cao cả thể hiện trong tình bạn, tình đồng chí khăng khít, thủy chung, cảm động, hiếm có với Mác. Người tự nhận mình là “cây vĩ cầm số 2” bên cạnh Mác. Lênin khẳng định: “Giai cấp vô sản châu Âu có thể nói rằng khoa học của mình là tác phẩm sáng tạo của hai nhà bác học kiêm chiến sỹ mà tình bạn đã vượt xa tất cả những gì là cảm động nhất trong những truyền thuyết của đời xưa kể về tình bạn của con người”.

Sau khi Mác qua đời, Ăngghen đã tập trung thời gian, công sức để thực hiện một công việc vô cùng nặng nề, hết sức khó khăn, mà chỉ Ông mới có thể làm được, đó là chỉnh lý, biên tập và cho xuất bản tiếp tục các bản thảo còn lại của bộ “Tư bản”- tác phẩm lớn nhất, vĩ đại nhất của Mác. Lê-nin cho rằng, thông qua công việc quan trọng này: “Ăngghen đã dựng cho người bạn thiên tài của ông một đài kỷ niệm trang nghiêm, trên đó Ăngghen cũng không ngờ là đã khắc luôn cả tên mình bằng những chữ không bao giờ phai mờ được”. Ngoài ra, Ông còn tiếp tục truyền bá sâu rộng những tư tưởng của Mác, đấu tranh bảo vệ và phát triển học thuyết Mác...

Từ khi xuất hiện, chủ nghĩa Mác đã luôn bị các trào lưu tư tưởng đối lập phê phán, đả kích. Sau sự sụp đổ của Liên Xô, các thế lực thù địch coi đây là thời cơ lớn, đẩy mạnh tấn công, xuyên tạc, vu cáo, bác bỏ... Điều này không có gì là khó hiểu! Vì thế, phải bằng tinh thần khoa học và cách mạng, chúng ta tiếp tục đấu tranh bảo vệ, phát triển nền tảng tư tưởng của mình, phù hợp với tinh thần mác-xít, phù hợp với tính chất, đặc điểm mới của thời đại!

Ngày nay, mặc dù tình hình có nhiều thay đổi so với thời điểm đó, nhưng tư tưởng của C. Mác và Ph. Ăngghen về chủ nghĩa xã hội khoa học, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về công tác xây dựng Đảng vẫn còn nguyên giá trị. Chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là nền tảng tư tưởng và hành động cho các Đảng Cộng sản trên thế giới, trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn coi “Chủ nghĩa Mác - Lênin là cái cẩm nang thần kỳ”; luôn vận dụng sáng tạo, phát triển phù hợp với điều kiện cụ thể của nước ta, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, đưa cách mạng vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, giành được những thắng lợi vĩ đại. Đó là bằng chứng hùng hồn, khẳng định sự đúng đắn, vai trò và ý nghĩa to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà Ăngghen là một trong những lãnh tụ sáng lập. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đang tập trung xây dựng Đảng thật trong sạch, vững mạnh theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII, XIII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” và tiếp tục đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong toàn Đảng, vì vậy việc học tập, noi gương nhân cách người chiến sĩ cộng sản mẫu mực của Ph. Ăngghen càng có ý nghĩa thiết thực trong việc nâng cao đạo đức cách mạng của người đảng viên, góp phần giữ vững bản chất cách mạng của Đảng Cộng sản, vì nhân dân mà phục vụ./.

St