Nhân dịp tham dự Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) lần thứ 8, Hội nghị cấp cao Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mê Công (ACMECS) lần thứ 10, Hội nghị cấp cao hợp tác Campuchia-Lào-Myanmar-Việt Nam (CLMV) lần thứ 11, ngày 6-11, tại thành phố Côn Minh, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), Thủ tướng Phạm Minh Chính đã có các cuộc gặp song phương với Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone và Thủ tướng Campuchia Hun Manet.
Ưu tiên các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại Lào
Tại cuộc gặp với Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone, hai bên điểm lại hợp tác song phương thời gian qua; nhất trí làm sâu sắc hơn trụ cột hợp tác về quốc phòng, an ninh, bảo đảm chỗ dựa vững chắc cho nhau, tiếp tục giữ gìn an ninh, xây dựng đường biên giới Việt Nam-Lào hòa bình, hữu nghị, ổn định, phát triển bền vững; nhất trí tiếp tục tạo đột phá trong hợp tác kinh tế, thương mại.
Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp song phương Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone.
Thủ tướng Sonexay Siphandone khẳng định Lào luôn coi trọng và ưu tiên các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, kinh doanh tại Lào; mong muốn thúc đẩy kết nối hai nền kinh tế, hợp tác cải thiện hệ thống pháp lý nhằm thuận lợi hóa cho hoạt động thương mại-đầu tư. Đánh giá cao nỗ lực của hai bên trong khai thông một số dự án trọng điểm thời gian qua, Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị hai bên duy trì đà tích cực, quyết tâm giải quyết dứt điểm khó khăn, vướng mắc của các dự án trọng điểm khác; khẳng định Việt Nam tiếp tục ưu tiên hỗ trợ Lào nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm giúp Lào thích ứng với nhu cầu phát triển trong giai đoạn mới. Hai Thủ tướng nhất trí triển khai hiệu quả hơn hợp tác về văn hóa, đẩy mạnh hơn nữa tuyên truyền về truyền thống quan hệ Việt Nam-Lào trong các tầng lớp nhân dân; nhất trí tiếp tục tăng cường trao đổi tin cậy, chia sẻ thông tin kịp thời, phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau trong các vấn đề quốc tế và khu vực cùng quan tâm.
Đưa kim ngạch thương mại Việt Nam - Campuchia sớm đạt 20 tỷ USD
Tại cuộc gặp với Thủ tướng Campuchia Hun Manet, Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định truyền thống đoàn kết, gắn bó, giúp đỡ lẫn nhau giữa hai nước Việt Nam-Campuchia là tài sản quý báu, là một trong những nhân tố quan trọng đối với sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và công cuộc xây dựng, phát triển của mỗi nước ngày nay. Thủ tướng Hun Manet chúc mừng những thành tựu vượt bậc, nhất là về kinh tế - xã hội mà Việt Nam đạt được thời gian qua; tin tưởng dưới đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do Tổng Bí thư Tô Lâm đứng đầu, Việt Nam sẽ tiếp tục giành được nhiều thành tựu to lớn hơn nữa trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Thủ tướng Phạm Minh Chính gặp song phương Thủ tướng Campuchia Hun Manet.
Hai Thủ tướng vui mừng trước những bước phát triển của quan hệ Việt Nam-Campuchia thời gian qua. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác quốc phòng, an ninh, phối hợp chặt chẽ trong đấu tranh ngăn chặn âm mưu phá hoại, chia rẽ quan hệ hai nước của các thế lực thù địch; khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp hai nước, nỗ lực đưa kim ngạch thương mại song phương sớm đạt 20 tỷ USD trong thời gian tới; cam kết đẩy mạnh kết nối giao thông, nhất là ở khu vực biên giới.
Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị hai bên thúc đẩy giải quyết các khu vực chưa hoàn thành phân giới cắm mốc. Hai Thủ tướng nhấn mạnh ý nghĩa, giá trị lịch sử của quan hệ Việt Nam-Lào-Campuchia; khẳng định tiếp tục duy trì các cơ chế hợp tác giữa 3 nước ở tất cả các kênh, vì lợi ích của nhân dân 3 nước, vì hòa bình, ổn định, phát triển ở khu vực cũng như trên thế giới.
ADB sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng 0
Ngày 6-11, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã tiếp Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Masatsugu Asakawa. Thủ tướng cảm ơn ADB tài trợ nguồn vốn quan trọng cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc xóa đói, giảm nghèo tại Việt Nam; đề nghị ADB tiếp tục tài trợ vốn cho Việt Nam với lãi suất ưu đãi về các lĩnh vực mới nổi như chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, điện toán đám mây, các dự án hạ tầng chiến lược quy mô lớn mang tính chuyển đổi trạng thái, xoay chuyển tình thế.
Chủ tịch ADB hy vọng Chính phủ Việt Nam đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn của ADB tài trợ cho các dự án phát triển ở Việt Nam; đánh giá cao vai trò quan trọng của Việt Nam trong GMS, hy vọng với vai trò là quốc gia sáng lập, Việt Nam tiếp tục tham gia tích cực chương trình của ADB, giống như Việt Nam đang tích cực chuyển đổi năng lượng; cho biết ADB sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam đạt mức phát thải ròng bằng 0 vào năm 2050.
Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp Chủ tịch Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) Masatsugu Asakawa.
Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn ADB tiếp tục đồng hành với Việt Nam, chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ Việt Nam trong tư vấn chính sách; hỗ trợ Việt Nam trong thúc đẩy tăng trưởng bền vững, thúc đẩy phát triển kinh tế xanh, kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; hỗ trợ các doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Nhất trí với ý kiến của Thủ tướng Phạm Minh Chính, đánh giá cao tiềm năng phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam, Chủ tịch Masatsugu Asakawa cho biết ADB đang tạo thuận lợi để các nước được vay vốn với lãi suất thấp hơn, từ đó đóng góp vào giảm tác động biến đổi khí hậu ở Việt Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Việt Nam sẽ xây dựng chính sách khuyến khích vay vốn của ADB; xem xét điều chỉnh, hoàn thiện chính sách phù hợp tình hình phục vụ vay vốn phát triển cho khối tư nhân như Chủ tịch ADB đề xuất.
Tạo thuận lợi cho các địa phương Việt Nam và Trung Quốc tăng cường hợp tác
Ngày 6-11, Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp đồng chí Vương Ninh, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Bí thư Tỉnh ủy Vân Nam. Thủ tướng Phạm Minh Chính khẳng định Đảng và Chính phủ Việt Nam luôn coi trọng, quan tâm, ủng hộ, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các địa phương Việt Nam tăng cường hợp tác với các địa phương Trung Quốc, trong đó có tỉnh Vân Nam; nhấn mạnh Việt Nam và Vân Nam có nhiều tiềm năng, lợi thế và điều kiện thuận lợi để phát triển hợp tác, có nhiều ưu thế bổ sung lẫn nhau, đồng thời mong muốn, nhu cầu của cả hai bên trong việc giao thương, qua lại là rất lớn. Thủ tướng Phạm Minh Chính đề nghị Vân Nam đi tiên phong trong thực hiện nhận thức chung cấp cao và các tuyên bố chung, tăng cường giao lưu với các địa phương Việt Nam; phấn đấu nâng kim ngạch thương mại Việt Nam-Vân Nam lên mức 5 tỷ USD, đưa Vân Nam và Lào Cai trở thành trung tâm kết nối giao thương giữa Trung Quốc với ASEAN; thúc đẩy triển khai thí điểm mô hình cửa khẩu thông minh; tăng cường phối hợp trong công tác điều tiết xả lũ, phòng, chống thiên tai; mong muốn hai bên phối hợp chặt chẽ trong công tác quản lý, bảo vệ biên giới theo 3 văn kiện về biên giới trên đất liền và các thỏa thuận liên quan.
Tán thành với những ý kiến quan trọng của Thủ tướng Phạm Minh Chính, đồng chí Vương Ninh khẳng định Vân Nam coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị với Việt Nam; sẵn sàng phát huy hiệu quả vai trò của các cơ chế hợp tác hiện có, làm sâu sắc hợp tác kinh tế - thương mại, tận dụng tốt các dự án đường sắt kết nối giữa hai nước, tăng cường kết nối cơ sở hạ tầng đường sắt, đường bộ; mong muốn tăng cường hợp tác với Việt Nam trong các lĩnh vực Vân Nam có thế mạnh về năng lượng xanh, nông nghiệp đặc sắc cao nguyên, du lịch... góp phần củng cố quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Trung Quốc-Việt Nam.
* Cùng ngày, Thủ tướng Phạm Minh Chính tiếp đồng chí Lam Thiên Lập, Chủ tịch Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, Trung Quốc.
Hai bên đánh giá cao những tiến triển đáng khích lệ quan trọng của quan hệ hợp tác sâu rộng, hiệu quả giữa Việt Nam và Quảng Tây thời gian qua. Kỳ vọng quan hệ hợp tác tương xứng hơn nữa với tiềm năng, mức độ quan hệ, Thủ tướng Phạm Minh Chính mong muốn hai bên tiếp tục tập trung triển khai hiệu quả, cụ thể hóa nhận thức chung cấp cao; phối hợp tổ chức các hoạt động trong Năm giao lưu nhân văn Việt Nam-Trung Quốc 2025. Thủ tướng đề nghị hai bên hợp tác trong triển khai các tuyến đường sắt khổ tiêu chuẩn kết nối Quảng Tây với Việt Nam; làm tốt mô hình thí điểm cửa khẩu thông minh; đề nghị Quảng Tây tiếp tục tạo thuận lợi cho hàng hóa, nhất là nông sản Việt Nam nhập khẩu vào Quảng Tây; hoan nghênh doanh nghiệp Quảng Tây mở rộng đầu tư vào Việt Nam; đề nghị sớm triển khai công tác nghiên cứu xây dựng mô hình thí điểm khu hợp tác kinh tế qua biên giới và hợp tác kinh tế số, điện lực, năng lượng sạch; tiếp tục phối hợp chặt chẽ trong quản lý biên giới; tăng cường hợp tác thực thi pháp luật, quản lý xuất - nhập cảnh, phòng, chống tội phạm qua biên giới; đẩy mạnh nâng cấp, mở mới các cặp cửa khẩu, lối mở trên tuyến biên giới đất liền hai bên đã nhất trí; vận hành an toàn, hiệu quả khu cảnh quan thác Bản Giốc - Đức Thiên.
Nhất trí với các ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Phạm Minh Chính, đồng chí Lam Thiên Lập khẳng định quyết tâm thúc đẩy hợp tác giữa hai bên, mở rộng và làm sâu sắc giao lưu hữu nghị với các địa phương Việt Nam, đẩy mạnh kết nối giao thông đường bộ, đường sắt; nhanh chóng triển khai thí điểm cửa khẩu thông minh và các biện pháp tạo thuận lợi cho thông quan; phát huy ưu thế đặc biệt của hai bên để qua Quảng Tây kết nối sâu hơn với lục địa Trung Quốc, sang các nước thứ ba cũng như qua Việt Nam kết nối với các nước ASEAN. Đồng chí Lam Thiên Lập mong muốn hai bên mở rộng hơn nữa quy mô, nâng cao chất lượng hợp tác thương mại, đầu tư, nâng cao hiệu suất thông quan với mô hình cửa khẩu thông minh, triển khai hợp tác kinh tế số, mua-bán điện, tăng cường quản lý biên giới, hợp tác phòng, chống tội phạm xuyên biên giới, góp phần củng cố và đưa quan hệ Trung Quốc-Việt Nam đi vào chiều sâu, mang lại lợi ích thiết thực cho các địa phương và nhân dân hai bên.
* Ngày 6-11, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã làm việc với một số tập đoàn hàng đầu của Trung Quốc trong các lĩnh vực hàng không, dịch vụ, nông nghiệp, hạ tầng, năng lượng.
Chiều 31-10, tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi với các học viên cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng khoá 14 về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN
Tham dự buổi trao đổi có đồng chí Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương, Phó Trưởng ban Thường trực Ban Chỉ đạo lớp học. Tạp chí Lý luận chính trị giới thiệu nội dung trao đổi chuyên đề về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc của Tổng Bí thư Tô Lâm:
Một số nhận thức cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tổng Bí thư Tô Lâm chia sẻ, kỷ nguyên là một giai đoạn lịch sử được đánh dấu bởi những đặc điểm quan trọng hoặc sự kiện có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của xã hội - văn hóa - chính trị - tự nhiên. Kỷ nguyên thường được sử dụng để phân chia thời gian trong lịch sử theo những biến cố lớn hoặc có sự thay đổi căn bản trong đời sống chính trị hay khoa học, công nghệ, môi trường. Ví dụ: Kỷ nguyên Công nghiệp, Kỷ nguyên thông tin, Kỷ nguyên Kỹ thuật số, Kỷ nguyên vũ trụ. Còn trước đây là Kỷ nguyên Đồ đá, Kỷ nguyên Cổ đại, Kỷ nguyên Trung cổ…
Kỷ nguyên vươn mình hàm ý tạo sự chuyển động mạnh mẽ, dứt khoát, quyết liệt, tích cực, nỗ lực, nội lực, tự tin để vượt qua thách thức, vượt qua chính mình, thực hiện khát vọng, vươn tới mục tiêu, đạt được những thành tựu vĩ đại.
Kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đó là kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng Cộng sản, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Mọi người dân đều có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, được hỗ trợ phát triển, làm giàu; đóng góp ngày càng nhiều cho hòa bình, ổn định, phát triển của thế giới, hạnh phúc của nhân loại và văn minh toàn cầu. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dâu giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu. Ưu tiên hàng đầu trong kỷ nguyên mới là thực hiện thắng lợi các mục tiêu chiến lược đến năm 2030, Việt Nam trở thành nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển, có thu nhập cao; khơi dậy mạnh mẽ hào khí dân tộc, tinh thần tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Thời điểm bắt đầu kỷ nguyên mới là Đại hội XIV của Đảng, từ đây, mọi người dân Việt Nam, hàng trăm triệu người như một, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng tâm hiệp lực, chung sức đồng lòng, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển toàn diện, mạnh mẽ, bứt phá và cất cánh.
Cơ sở định vị mục tiêu đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Tổng Bí thư nhấn mạnh, những thành tựu vĩ đại đạt được sau 40 năm đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, giúp Việt Nam tích lũy thế và lực cho sự phát triển bứt phá trong giai đoạn tiếp theo: Từ một nước nghèo nàn, lạc hậu, trình độ thấp, bị bao vây, cấm vận, Việt Nam đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình, hội nhập sâu, rộng vào nền chính trị thế giới, nền kinh tế toàn cầu, nền văn minh nhân loại, đảm nhiệm nhiều trọng trách quốc tế, phát huy vai trò tích cực tại nhiều tổ chức, diễn đàn đa phương quan trọng. Độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; lợi ích quốc gia, dân tộc được bảo đảm. Quy mô nền kinh tế năm 2023 tăng gấp 96 lần so với năm 1986. Việt Nam trong nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài; có quan hệ ngoại giao với 193 nước là thành viên Liên hợp quốc; xây dựng các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. Đời sống người dân được cải thiện rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh; hoàn thành về đích sớm các mục tiêu Thiên niên kỷ. Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh không ngừng nâng cao; tham gia đóng góp tích cực duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực và trên thế giới.
Thế giới đang trong thời kỳ thay đổi có tính thời đại, từ nay đến năm 2030 là giai đoạn quan trọng nhất để xác lập trật tự thế giới mới, đây cũng là thời kỳ cơ hội chiến lược quan trọng, giai đoạn nước rút của cách mạng Việt Nam để đạt mục tiêu chiến lược 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, tạo tiền đề vững chắc đạt mục tiêu 100 năm thành lập nước. Sự biến chuyển có tính thời đại đem đến thời cơ, thuận lợi mới, đồng thời cũng có nhiều thách thức, trong đó mặt thách thức nổi trội hơn và thời cơ mới còn có thể xuất hiện trong khoảnh khắc giữa những thay đổi đột biến trong cục diện thế giới. Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, nhất là trí tuệ nhân tạo và công nghệ số đem đến cơ hội mà những quốc gia đang phát triển, chậm phát triển có thể nắm bắt để đi trước đón đầu, phát triển vượt bậc.
Lịch sử cách mạng Việt Nam cho thấy, dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng, khơi dậy ý chí tự lực, tự chủ, tự tin, tự cường, tự hào dân tộc, huy động sức mạnh toàn dân kết hợp với sức mạnh thời đại, con thuyền cách mạng Việt Nam sẽ đạt được những kỳ tích (Kỳ tích về một nước dân chủ thuộc địa nửa phong kiến có thể chiến thắng hai đế quốc thực dân hùng mạnh; kỳ tích về một nước từ bị bao vây cấm vận thực hiện thành công công cuộc đổi mới với những thành tựu vĩ đại). Hiện nay là thời điểm ý đảng hòa quyện với lòng dân trong khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc, sớm xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, sánh vai với các cường quốc năm châu.
Từ những vấn đề trên, có thể thấy, đây là thời điểm “hội tụ” tổng hòa các lợi thế, sức mạnh để đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc tiếp sau kỷ nguyên độc lập, tự do, xây dựng chủ nghĩa xã hội và kỷ nguyên đổi mới.
Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi với các học viên cán bộ quy hoạch Ủy viên Trung ương Đảng khoá 14 về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN
Tổng Bí thư Tô Lâm cũng đã trao đổi về 7 định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc: 1. Về cải tiến phương thức lãnh đạo của Đảng Trong hơn 94 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta không ngừng tìm tòi, phát triển, bổ sung, hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền. Đây là yếu tố then chốt bảo đảm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua mọi thác ghềnh, giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Tổng Bí thư chỉ rõ, bên cạnh kết quả, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: (i) Tình trạng ban hành nhiều văn bản, một số văn bản còn chung chung, dàn trải, trùng lắp, chậm bổ sung, sửa đổi, thay thế. (ii) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng không khả thi. (iii) Mô hình tổng thể của hệ thống chính trị chưa hoàn thiện; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, mối quan hệ công tác của tổ chức, cá nhân, người đứng đầu có nội dung chưa rõ; phân cấp, phân quyền chưa mạnh. (iv) Mô hình tổ chức của Đảng và hệ thống chính trị vẫn còn những bất cập, làm cho ranh giới giữa lãnh đạo và quản lý khó phân định, dễ dẫn đến bao biện, làm thay hoặc buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng. (v) Cải cách hành chính, đổi mới phong cách, lề lối làm việc trong Đảng còn chậm; hội họp vẫn nhiều.
Yêu cầu đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền, đảm bảo Đảng là người cầm lái vĩ đại, đưa dân tộc ta tiến lên mạnh mẽ đang đặt ra cấp thiết, một số giải pháp chiến lược, sau đây: (i) Thực hiện nghiêm phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, tuyệt đối không để xảy ra bao biện, làm thay hoặc buông lỏng sự lãnh đạo của Đảng. (ii) Tập trung tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, bộ “tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. Trong đó, nghiên cứu, đẩy mạnh việc hợp nhất một số cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng; sớm đánh giá toàn diện việc kiêm nhiệm chức danh của Đảng và hệ thống chính trị để có quyết sách phù hợp. Bảo đảm nhiệm vụ lãnh đạo của Đảng không trùng với nhiệm vụ quản lý; phân biệt và quy định rõ nhiệm vụ cụ thể của các cấp lãnh đạo trong các loại hình tổ chức đảng, tránh tình trạng bao biện làm thay, hoặc tồn tại song trùng, hình thức. (iii) Đổi mới mạnh mẽ việc ban hành và quán triệt, thực hiện nghị quyết của Đảng; xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đảng viên thật sự là các “tế bào” của Đảng. Nghị quyết của các cấp ủy, tổ chức đảng phải ngắn gọn, súc tích, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ tiếp thu, dễ thực hiện, xác định đúng, trúng yêu cầu, nhiệm vụ, con đường, cách thức phát triển của đất nước, của dân tộc, của từng địa phương, từng bộ, ngành; phải có tầm nhìn, tính khoa học, tính thực tiễn, thiết thực và tính khả thi; tạo sự phấn khởi, tin tưởng, kỳ vọng và động lực thôi thúc hành động của cán bộ, đảng viên, các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp và nhân dân thực hiện Nghị quyết của Đảng. Xây dựng các chi bộ cơ sở vững mạnh, có tính chiến đấu cao, có năng lực đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống; đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả.(iv) Đổi mới công tác kiểm tra, giám sát; đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong các hoạt động của Đảng. Ban hành Quy định phân cấp thẩm quyền kiểm tra, giám sát gắn với phát hiện, xử lý nghiêm mọi hành vi lợi dụng kiểm tra, giám sát để tham nhũng, tiêu cực. 2. Về tăng cường tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân Sau 02 năm thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế: (i) Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; (ii) hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. (iii) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân. Trong 3 điểm nghẽn lớn nhất hiện nay là thể chế, hạ tầng và nhân lực, thì thể chế là “điểm nghẽn” của “điểm nghẽn”, đặt ra yêu cầu cấp thiết phát huy tính Đảng trong xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa. Tổng Bí thư nhấn mạnh, về quan điểm: Pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Về giải pháp, đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp, trong đó: (i) Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật theo hướng vừa bảo đảm yêu cầu quản lý Nhà nước vừa khuyến khích sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, khơi thông mọi nguồn lực để phát triển. Tư duy quản lý không cứng nhắc, dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”. (ii) Các quy định của luật phải mang tính ổn định, có giá trị lâu dài; luật chỉ quy định những vấn đề khung, những vấn đề có tính nguyên tắc; không cần quá dài. Những vấn đề thực tiễn biến động thường xuyên thì giao Chính phủ, địa phương quy định để bảo đảm linh hoạt trong điều hành. Tuyệt đối không hành chính hóa hoạt động của Quốc hội; luật hóa các quy định của Nghị định và Thông tư. (iii) Đổi mới quy trình xây dựng, tổ chức thực hiện pháp luật. Bám sát thực tiễn, đứng trên mảnh đất thực tiễn Việt Nam để xây dựng các quy định pháp luật phù hợp; vừa làm vừa rút kinh nghiệm; không nóng vội, nhưng cũng không cầu toàn, để mất thời cơ; lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể; thường xuyên đánh giá hiệu quả, chất lượng chính sách sau ban hành để kịp thời điều chỉnh bất cập, mâu thuẫn, giảm thiểu thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những “điểm nghẽn” có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật. (iv) Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”; cải cách triệt để thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ, tạo thuận lợi cao nhất cho người dân và doanh nghiệp. (v) Tập trung kiểm soát quyền lực trong xây dựng pháp luật, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là trách nhiệm người đứng đầu, kiên quyết chống tiêu cực, “lợi ích nhóm”. (vi) Chủ động, tích cực, khẩn trương xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (nhất là những vấn đề liên quan đến cách mạng 4.0, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…) tạo khung khổ pháp lý để thực hiện thành công cuộc cách mạng về chuyển đổi số, tạo đột phá cho phát triển đất nước những năm tiếp theo. 3. Về tinh gọn tổ chức bộ máy hoạt động hiệu lực, hiệu quả Tổng Bí thư chỉ rõ, nhiệm vụ này đang đặt ra rất cấp thiết: (i) Hiện nay 70% ngân sách dùng để nuôi bộ máy, trong khi đó công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành còn ôm đồm nhiệm vụ của địa phương, dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác tinh giản biên chế gắn với vị trí việc làm, nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán bộ công chức, viên chức còn thiếu triệt để. (ii) Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến cản trở phát triển, tăng thủ tục hành chính, lãng phí thời gian công sức của doanh nghiệp, công dân, làm lỡ thời cơ phát triển của đất nước.
Chủ trương chiến lược: (i) Tiếp tục tập trung xây dựng, tinh gọn bộ máy tổ chức Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị-xã hội để hoạt động hiệu lực, hiệu quả; tinh gọn bộ máy, tổ chức các cơ quan của đảng, thực sự là hạt nhân trí tuệ, là “bộ tổng tham mưu”, đội tiên phong lãnh đạo cơ quan nhà nước. (ii) Cắt giảm đầu mối trung gian không cần thiết, sắp xếp tổ chức theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền theo hướng “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm” gắn với tăng cường kiểm tra, giám sát, xác định rõ trách nhiệm giữa Trung ương và địa phương, giữa các cấp chính quyền địa phương, giữa người quản lý và người lao động. Hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát, bảo đảm sự thống nhất trong quản lý nhà nước và phát huy tính chủ động, sáng tạo, nâng cao khả năng tự chủ, tự cường của các địa phương. (iii) Sơ kết đánh giá việc thực hiện Nghị quyết số 18 Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XII “một số vấn đề về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả” trong toàn hệ thống chính trị trình Hội nghị Trung ương 11 khóa XIII; làm cơ sở có những quyết sách mới đổi mới mạnh mẽ công tác tổ chức cán bộ theo định hướng đã được Trung ương 10 thống nhất. 4. Chuyển đổi số Chuyển đổi số không đơn thuần là việc ứng dụng công nghệ số vào các hoạt động kinh tế - xã hội, mà còn là quá trình xác lập một phương thức sản xuất mới tiên tiến, hiện đại - “phương thức sản xuất số”, trong đó đặc trưng của lực lượng sản xuất là sự kết hợp hài hòa giữa con người và trí tuệ nhân tạo; dữ liệu trở thành một tài nguyên, trở thành tư liệu sản xuất quan trọng; đồng thời quan hệ sản xuất cũng có những biến đổi sâu sắc, đặc biệt là trong hình thức sở hữu và phân phối tư liệu sản xuất số. Tổng Bí thư lưu ý, quan hệ sản xuất chưa phù hợp đang cản trở sự phát triển của lực lượng sản xuất mới: (i) Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thu hút các nguồn lực, nhất là nguồn lực trong dân. (ii) Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Vẫn tồn tại những thủ tục hành chính rườm rà, lạc hậu, qua nhiều khâu, nhiều cửa, mất nhiều thời gian, công sức của người dân và doanh nghiệp, dễ nảy sinh tham nhũng vặt, cản trở phát triển. Việc kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa hệ thống thông tin của các bộ, ngành, địa phương và cơ sở dữ liệu quốc gia chưa thông suốt; nhiều dịch vụ công trực tuyến chất lượng thấp, tỷ lệ người sử dụng chưa cao; việc tổ chức vận hành bộ phận “một cửa” các cấp ở nhiều nơi chưa hiệu quả. Thực hiện cách mạng chuyển đổi số với những cải cách mạnh mẽ, toàn diện để điều chỉnh quan hệ sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển, tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi do Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đem lại, đưa đất nước đi tắt đón đầu phát triển vượt bậc. Bộ Chính trị sẽ sớm nghiên cứu, ban hành Nghị quyết về chuyển đổi số quốc gia để lãnh đạo thực hiện quyết liệt trong toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị. Một số giải pháp chủ yếu: (i) Tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho phát triển số, tạo nền tảng để Việt Nam nắm bắt cơ hội từ Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Thường xuyên rà soát, sửa đổi kịp thời các quy định không còn phù hợp, tạo hành lang cho các mô hình kinh tế mới như kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trí tuệ nhân tạo... đảm bảo khung pháp lý không trở thành rào cản của sự phát triển, đồng thời bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, doanh nghiệp. (ii) Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực có kiến thức, kỹ năng và tư duy đổi mới, sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế số và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. (iii) Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng nền tảng số kết nối, chia sẻ dữ liệu giữa các cơ quan, tổ chức. Mục tiêu đến năm 2030, Việt Nam sẽ đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ 3 trong ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. (iv) Đẩy mạnh chuyển đổi số gắn với bảo đảm an ninh, an toàn. Tập trung xây dựng xã hội số, số hóa toàn diện hoạt động quản lý nhà nước, cung cấp dịch vụ công trực tuyến mức độ cao. Kết nối đồng bộ các cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, đất đai, doanh nghiệp, tạo nền tảng tinh gọn bộ máy, cải cách thủ tục hành chính thực chất. Phát triển kinh tế số, xây dựng công dân số.
5. Chống lãng phí Tổng Bí thư nêu rõ, thực tế cho thấy, “Lãng phí tuy không lấy của công đút túi, song kết quả cũng rất tai hại cho nhân dân, cho Chính phủ. Có khi tai hại hơn nạn tham ô”(1), song lãng phí hiện nay diễn ra khá phổ biến, dưới nhiều dạng thức khác nhau, đã và đang gây ra nhiều hệ luỵ nghiêm trọng cho phát triển (gây suy giảm nguồn lực con người, nguồn lực tài chính, giảm hiệu quả sản xuất, tăng gánh nặng chi phí, gây cạn kiệt tài nguyên, gia tăng khoảng cách giàu nghèo; gây suy giảm lòng tin của người dân với Đảng, Nhà nước, tạo rào cản vô hình trong phát triển kinh tế - xã hội, bỏ lỡ thời cơ phát triển của đất nước). Một số dạng thức của lãng phí đang nổi lên gay gắt hiện nay, đó là: (i) Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn dẫn đến khó khăn, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực. (ii) Lãng phí thời gian, công sức của doanh nghiệp, cá nhân khi thủ tục hành chính rườm rà, dịch vụ công trực tuyến chưa thuận tiện và thông suốt. (iii) Lãng phí cơ hội phát triển của địa phương, của đất nước do bộ máy nhà nước có nơi, có lúc hoạt động chưa hiệu quả, một bộ phận cán bộ thiếu năng lực, né tránh, đùn đẩy công việc, sợ trách nhiệm; do chất lượng, năng suất lao động thấp. (iv) Lãng phí tài nguyên thiên nhiên; lãng phí tài sản công do quản lý, sử dụng chưa hiệu quả, trong đó giải ngân vốn đầu tư công; cổ phần hóa, xử lý thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước; sắp xếp lại, xử lý nhà, đất thuộc sở hữu Nhà nước; thực hiện các chương trình, mục tiêu quốc gia, các gói tín dụng hỗ trợ phát triển an sinh xã hội hầu hết rất chậm. (v) Lãng phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng của Nhân dân diễn ra dưới nhiều hình thức. (vi) Lãng phí do hệ thống tiêu chuẩn, định mức, chế độ, một số chưa phù hợp thực tế nhưng chậm được sửa đổi, bổ sung. Trong khi đó, xử lý lãng phí chưa được đề cao, thường gắn với xử lý tham nhũng như hệ lụy kéo theo; chưa tạo được phong trào thi đua rộng khắp về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí cũng như dư luận xã hội mạnh mẽ để phê phán, lên án những hành vi gây lãng phí; việc xây dựng văn hóa tiết kiệm, không lãng phí trong xã hội chưa được quan tâm đúng mức. Giải pháp chiến lược những năm tới đó là: (i) Đẩy mạnh phòng, chống lãng phí tương đương với phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Từ ban hành quy định của Đảng để nhận diện, chiến lược quốc gia, quy định của pháp luật và thực thi trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân; xử lý nghiêm các cá nhân, tập thể có hành vi, việc làm gây thất thoát, lãng phí tài sản công theo tinh thần “xử lý một vụ cảnh tỉnh cả vùng cả lĩnh vực”. (ii) Rà soát, bổ sung các quy định về cơ chế quản lý, các định mức kinh tế - kỹ thuật không còn phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước. Hoàn thiện các quy định xử lý hành vi lãng phí; các quy định về quản lý, sử dụng tài sản công; thể chế trong ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số, tạo sự đồng bộ trong chuyển đổi để giảm thiểu lãng phí. (iii) Giải quyết dứt điểm tồn tại kéo dài đối với các dự án quan trọng quốc gia, dự án trọng điểm, dự án hiệu quả thấp, gây thất thoát, lãng phí lớn; các ngân hàng thương mại yếu kém. Sớm hoàn thành cổ phần hóa, nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước. (iv) Xây dựng văn hóa phòng, chống lãng phí; đưa thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trở thành “tự giác”, “tự nguyện”, “cơm ăn nước uống, áo mặc hàng ngày”.
Tổng Bí thư Tô Lâm với cán bộ, học viên Lớp bồi dưỡng. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN
6. Cán bộ Cán bộ và công tác cán bộ là vấn đề “rất trọng yếu”, “quyết định mọi việc”, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc đang đặt ra cấp thiết. Về phẩm chất, yêu cầu đối với cán bộ trong giai đoạn cách mạng mới, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh: (i) Có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung; hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của Nhân dân lên trên hết, trước hết. (ii) Có bản lĩnh, quyết tâm cao, sẵn sàng dấn thân, hy sinh lợi ích cá nhân. Dám đi đầu, đổi mới, loại bỏ cái cũ, cái lạc hậu; khơi thông điểm nghẽn, giải quyết vướng mắc, ách tắc trong thực tiễn, mang lại hiệu quả cao trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ; giải quyết những vấn đề sai sót tồn đọng, kéo dài hoặc đột phá đối với những vấn đề mới chưa có quy định hoặc quy định chồng chéo, thiếu thống nhất, khó thực hiện. (iii) Có năng lực cụ thể, tổ chức thực hiện, đưa chủ trương chiến lược của Đảng vào thực tiễn từng bộ, ban, ngành, địa phương (chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, phát triển hạ tầng chiến lược, cải cách triệt để thủ tục hành chính…) Tổng Bí thư nêu rõ giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn mới: (i) Đổi mới mạnh mẽ công tác tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, bổ nhiệm, luân chuyển, điều động, đánh giá cán bộ theo hướng thực chất, vì việc tìm người, trên cơ sở sản phẩm cụ thể đo đếm được. (ii) Tăng cường tự đào tạo, tự bồi dưỡng, nhất là đối với yêu cầu của chuyển đổi số. (iii) Xây dựng cơ chế khuyến khích, bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trên cơ sở phân định rõ người dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới sáng tạo vì lợi ích chung với người phiêu lưu, liều lĩnh, viển vông, không thực tế; bảo vệ đối với những trường hợp nguy cơ rủi ro, sai sót từ sớm, ngay khi có kế hoạch, không để nhụt chí. (iv) Sàng lọc, đưa ra khỏi vị trí công tác đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, uy tín. (v) Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, thử thách đối với các đồng chí là nhân sự được quy hoạch tham gia cấp ủy, ban thường vụ cấp ủy các cấp, bảo đảm lựa chọn ra được cấp ủy, nhất là người đứng đầu có năng lực lãnh đạo, có sức chiến đấu cao, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung, có năng lực lãnh đạo thực hiện thắng lợi các chủ trương của Đảng, đưa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn cuộc sống trên từng lĩnh vực, địa bàn.
7. Về kinh tế Tổng thể kinh tế Việt Nam có sự tăng trưởng liên tục từ khi thực hiện Cương lĩnh 1991, thường xuyên ở trong nhóm những quốc gia có tốc độ tăng trưởng cao trong khu vực và trên thế giới, đưa Việt Nam từ nước thu nhập thấp trở thành nước thu nhập trung bình. Tổng Bí thư chỉ rõ, tuy tốc độ tăng trưởng cao, song nguy cơ tụt hậu về kinh tế vẫn hiện hữu, nguy cơ kinh tế Việt Nam rơi vào bẫy thu nhập trung bình và khó tiệm cận với các nước đang phát triển, thể hiện trên 5 điểm: (i) Tốc độ tăng năng suất lao động của Việt Nam giảm dần, thấp hơn nhiều nước trong khu vực (giai đoạn 2021-2025 ước đạt 4,8%, thấp hơn so với bình quân 3 năm 2016-2018 (6,1%), không đạt mục tiêu đề ra (6,5%), trong khi cùng xuất phát điểm với VN, TQ đầu những năm 1990 tăng liên tục mỗi năm đều đạt 9%. (ii) Năng suất các nhân tố tổng hợp - yếu tố quan trọng trong chất lượng tăng trưởng cũng có xu hướng giảm (giai đoạn 2015-2019 đạt 2,77%, đứng đầu khu vực ASEAN, năm 2022 là -1,36%, năm 2023 là -2%), cho thấy hiệu quả của nền kinh tế có xu hướng giảm. (iii) Tăng trưởng của Việt Nam từ năm 2021 đến nay chủ yếu phụ thuộc vào xuất khẩu, trong đó khối FDI chiếm trên 70% (tương đương 60% GDP); các doanh nghiệp này nhập khẩu trên 80% linh kiện, thiết bị, chỉ sử dụng những tư liệu sản xuất giản đơn của Việt Nam như lao động, đất đai, nguyên vật liệu cơ bản, không giúp Việt Nam xây dựng công nghiệp hỗ trợ và doanh nghiệp nội địa có năng lực cạnh tranh cao trong chuỗi giá trị toàn cầu (doanh nghiệp Việt Nam tham gia chuỗi cung ứng chỉ là các sản phẩm giản đơn). Khi thời kỳ dân số vàng kết thúc (khoảng năm 2027-2037), giá nhân công tăng, lợi thế cạnh tranh không còn, FDI dịch chuyển sang nước khác hoặc sụt giảm, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế Việt Nam. (iv) Tình trạng nhiều cán bộ, công chức sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh trong xử lý công việc, sợ đổi mới, không dám nghĩ, dám làm, ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ, tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội. (v) Các nguồn lực phục vụ phát triển kinh tế chưa phát huy hiệu quả (nguồn nhân lực còn hạn chế khi năng suất lao động, động lực làm việc của cán bộ quản lý nhà nước giảm sút; nguồn vật lực còn lãng phí, nguồn tài lực chưa được khai thông): Lãng phí trong sử dụng đất đai (trong khi xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về đất đai chậm), khoáng sản (chủ yếu khai thác, chế biến thô); chưa hiệu quả trong phát triển hạ tầng giao thông (quy hoạch phát triển hạ tầng sân bay, cảng biển dàn trải, đầu tư manh mún ở nhiều địa phương có vị trí địa lý gần nhau, không có lợi thế khác biệt); mất cân đối về hạ tầng năng lượng; thị trường tài chính, tiền tệ thiếu bền vững khi lượng vốn lớn bị đóng băng vào bất động sản. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên do: (i) Điểm nghẽn về thể chế và hạn chế trong thực thi pháp luật. Tình trạng sợ sai, sợ trách nhiệm, không dám làm, né tránh trách nhiệm, đùn đẩy công việc lên cơ quan quản lý cấp trên hoặc sang bộ, ngành khác. (ii) Chuyển đổi mô hình kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu chậm. Đầu tư công tiến độ chậm, hiệu quả sử dụng vốn chưa cao, còn dàn trải, nhiều lãng phí, chưa phát huy vai trò dẫn dắt, kích hoạt hiệu quả các nguồn lực ngoài nhà nước. Hoạt động cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém chậm; tình trạng “sử hữu chéo”, cho vay tín dụng đối với doanh nghiệp “nội bộ”, “sân sau” còn phức tạp và chưa có biện pháp giải quyết triệt để. Xác định các ngành hàng chiến lược, quốc gia giá trị cao chưa được quan tâm. (iii) Hệ thống kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị thiếu tính kết nối; xây dựng hạ tầng số chậm. (iv) Kinh tế tư nhân chưa trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế, chưa tận dụng tốt các nguồn lực đầu tư nước ngoài. (v) Ứng dụng và phát triển khoa học công nghệ chưa đem lại kết quả rõ nét; chất lượng nguồn nhân lực còn nhiều hạn chế, thiếu lao động trình độ cao đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế mũi nhọn, công nghệ cao, phục vụ phát triển số. (vi) Các yếu tố bên ngoài tác động tiêu cực, làm gia tăng nguy cơ tụt hậu về kinh tế. Tổng Bí thư chỉ rõ một số giải pháp, định hướng chiến lược phát triển kinh tế, đẩy lùi nguy cơ tụt hậu, bẫy thu nhập trung bình: (i) Đột phá mạnh mẽ hơn về thể chế phát triển, tháo gỡ điểm nghẽn, rào cản, lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, huy động, khơi thông mọi nguồn lực bên trong, bên ngoài, nguồn lực trong dân, phát triển khoa học và công nghệ đồng bộ, thông suốt, tất cả vì sự phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội của đất nước và phát triển nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân; đồng bộ và đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội là ưu tiên cao nhất. (ii) Tập trung xây dựng mô hình xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trọng tâm là xây dựng con người xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa mà Cương lĩnh của Đảng đã xác định (dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý, Đảng Cộng sản lãnh đạo). (iii) Tập trung phát triển lực lượng sản xuất mới (kết hợp giữa nguồn nhân lực chất lượng cao với tư liệu sản xuất mới, hạ tầng chiến lược về giao thông, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh) gắn với hoàn thiện quan hệ sản xuất. (iv) Khởi xướng và thực hiện cách mạng chuyển đổi số. Đẩy mạnh công nghệ chiến lược, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh, lấy khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực chính cho phát triển.
Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII (1994), Đảng ta đã thẳng thắn nhận định tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, tham nhũng, tiêu cực là một trong những nguy cơ, nguyên nhân cản trở sự phát triển, sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, khả thi, sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” đã được cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe và xử lý nghiêm minh, đạt kết quả quan trọng bước đầu, nhưng chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà có mặt còn diễn biến phức tạp hơn. Căn cứ lý luận và qua tổng kết thực tiễn, Nghị quyết Trung ương 4khoá XII, về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, và biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ đã chỉ ra những biểu hiện để nhận diện các hành vi này, trong đó có 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”. Cụ thể như sau:
1. Biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị.
(1) Phai nhạt lý tưởng cách mạng; dao động, giảm sút niềm tin vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hoài nghi, thiếu tin tưởng vào chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
(2) Xa rời tôn chỉ, mục đích của Đảng; không kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; phụ hoạ theo những nhận thức lệch lạc, quan điểm sai trái.
(3) Nhận thức sai lệch về ý nghĩa, tầm quan trọng của lý luận và học tập lý luận chính trị; lười học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
(4) Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác; né tránh trách nhiệm, thiếu trách nhiệm, trung bình chủ nghĩa, làm việc qua loa, đại khái, kém hiệu quả; không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao.
(5) Trong tự phê bình còn giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau hoặc vu khống, bôi nhọ, chỉ trích, phê phán người khác với động cơ cá nhân không trong sáng.
(6) Nói và viết không đúng với quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nói không đi đôi với làm; hứa nhiều làm ít; nói một đằng, làm một nẻo; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác; nói và làm không nhất quán giữa khi đương chức với lúc về nghỉ hưu.
(7) Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.
(8) Tham vọng chức quyền, không chấp hành sự phân công của tổ chức; kén chọn chức danh, vị trí công tác; chọn nơi có nhiều lợi ích, chọn việc dễ, bỏ việc khó; không sẵn sàng nhận nhiệm vụ ở nơi xa, nơi có khó khăn. Thậm chí còn tìm mọi cách để vận động, tác động, tranh thủ phiếu bầu, phiếu tín nhiệm cho cá nhân một cách không lành mạnh.
(9) Vướng vào "tư duy nhiệm kỳ", chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình; tranh thủ bổ nhiệm người thân, người quen, người nhà dù không đủ tiêu chuẩn, điều kiện giữ chức vụ lãnh đạo, quản lý hoặc bố trí sắp xếp vào vị trí có nhiều lợi ích.
2. Biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống.
(1) Cá nhân chủ nghĩa, sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tỵ nạnh, không muốn người khác hơn mình.
(2) Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, gây mất đoàn kết nội bộ; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức; cục bộ, bè phái, kèn cựa địa vị, tranh chức, tranh quyền; độc đoán, gia trưởng, thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành.
(3) Kê khai tài sản, thu nhập không trung thực.
(4) Mắc bệnh "thành tích", háo danh, phô trương, che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, "đánh bóng" tên tuổi; thích được đề cao, ca ngợi; "chạy thành tích", "chạy khen thưởng", "chạy danh hiệu".
(5) Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.
(6) Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên....; đầu tư công tràn lan, hiệu quả thấp hoặc không hiệu quả; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt quy định; chi tiêu công quỹ tuỳ tiện, vô nguyên tắc. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.
(7) Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để thao túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực.
(8) Thao túng trong công tác cán bộ; chạy chức, chạy quyền, chạy chỗ, chạy luân chuyển, chạy bằng cấp, chạy tội... Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.
(9) Đánh bạc, rượu chè bê tha, mê tín dị đoan, ủng hộ hoặc tham gia các tổ chức tôn giáo bất hợp pháp. Sa vào các tệ nạn xã hội, vi phạm thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tôc, chuẩn mực đạo đức gia đình và xã hội.
3. Biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá" trong nội bộ
(1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện "đa nguyên, đa đảng".
(2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế "tam quyền phân lập", phát triển "xã hội dân sự". Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai.
(3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ định những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước.
(4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng vên và nhân dân.
(5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hoá" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an.
(6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước.
(7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước.
(8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ suý cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hoá, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng.
(9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề "dân chủ", "nhân quyền", dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước./.
Ngày 4-11-2024, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh phối hợp với Quỹ Rosa Luxemburg Đông Nam Á tổ chức Tọa đàm khoa học “Sự tham gia của chính quyền cấp cơ sở và người dân trong chu trình chính sách bảo vệ môi trường: Từ lý luận đến thực tiễn”, GS, TS Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện dự và chủ trì Tọa đàm.
GS,TS Lê Văn Lợi, Phó Giám đốc Học viện phát biểu khai mạc và đề dẫn Tọa đàm
Cùng chủ trì Tọa đàm có Ngài Mentschel Stefan, Giám đốc Vùng - Văn phòng Rosa Luxemburg Đông Nam Á; PGS, TS Lê Văn Chiến, Viện trưởng Viện Lãnh đạo học và chính sách công; PGS, TS Hoàng Văn Nghĩa, Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Tham dự Tọa đàm có đại diện lãnh đạo Bộ Tài nguyên và môi trường, Trường Chính trị tỉnh Thái Bình, Hội Xã hội học Việt Nam, các đơn vị thuộc Học viện cùng đông đảo nhà khoa học, giảng viên.
Phát biểu đề dẫn Tọa đàm, GS, TS Lê Văn Lợi nêu rõ: Ngày nay, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu hướng tới phát triển bền vững đã trở thành mục tiêu có tính phổ quát của tất cả các quốc gia trên thế giới. Là nguyên tắc và cốt lõi của phát triển bền vững. Vấn đề môi trường luôn được đặt ở vị trí trung tâm trong các chương trình nghị sự; các chương trình, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của đất nước với mục tiêu cao nhất là bảo vệ sức khỏe nhân dân, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái.
Các quốc gia không chỉ hướng tới mục tiêu tăng trưởng kinh tế thuần túy, mà quan trọng hơn là tăng trưởng kinh tế phải đi liền với tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường, bảo tồn và phát huy giá trị đa dạng sinh học cho thế hệ mai sau. Trong 17 mục tiêu thiên niên kỷ về phát triển bền vững do Liên Hợp quốc đưa ra có 6 mục tiêu liên quan đến vấn đề môi trường.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đến bảo vệ môi trường trong quá trình phát triển. Nhiều chủ trương, chính sách được ban hành và thực thi trên thực tế. Năm 1998, Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị số 36-CT/TW về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ CNH, HĐH đất nước; năm 2004 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Đại hội XIII khẳng định: Lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường. Ngoài ra, Luật Bảo vệ môi trường năm 2020; Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050 do Thủ tướng Chính phủ ký ban hành đầu năm 2022 là những cơ sở pháp lý quan trọng cho phát triển bền vững về môi trường. Tại Hội nghị COP26 năm 2021, Việt Nam đã cùng 147 quốc gia cam kết đưa mức phát thải ròng về "0" vào giữa thế kỷ.
Thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước cùng với tăng trưởng kinh tế tương đối cao, công tác bảo vệ môi trường đã đạt được nhiều kết quả tích cực: diện tích che phủ rừng được khôi phục, ý thức bảo vệ môi trường của chính quyền, doanh nghiệp và người dân được nâng lên. Kinh tế tuần hoàn, kinh tế xanh đã được đưa vào các chương trình nghị sự của nhiều địa phương. Bên cạnh các thành tựu đạt được, thực tiễn công tác bảo vệ môi trường ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập: Tài nguyên thiên nhiên còn bị khai thác quá mức, thiếu bền vững; sản xuất và tiêu dùng có lúc, có nơi chưa gắn với trách nhiệm bảo vệ môi trường; việc chấp hành Luật Bảo vệ môi trường và giữ gìn vệ sinh môi trường của các hộ sản xuất, kinh doanh, nhất là ở các làng nghề còn yếu kém, trách nhiệm của nhiều doanh nghiệp còn thấp, vẫn chạy theo lợi nhuận, coi nhẹ bảo vệ môi trường. Việc nâng cao năng lực ứng phó với biến đổi khí hậu cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp cơ sở và người dân chưa được quan tâm chú ý nhiều. Trong khi vai trò của chính quyền cơ sở trong thực thi chính sách bảo vệ môi trường là rất quan trọng. Họ là lực lượng trực tiếp thực thi các chính sách bảo vệ môi trường tại địa phương, gần gũi nhất với người dân, hiểu rõ đặc điểm của từng vùng, từng cộng đồng. Họ có trách nhiệm chuyển tải chính sách của Nhà nước đến người dân, đồng thời là cầu nối để lắng nghe và phản ánh nguyện vọng, ý kiến của người dân lên cấp trên.
Sự tham gia của người dân vào chu trình chính sách là yếu tố cốt lõi giúp các chính sách môi trường trở nên khả thi và hiệu quả hơn. Khi người dân được tham gia vào quá trình xây dựng, giám sát và thực thi các chính sách môi trường, họ sẽ có trách nhiệm hơn trong việc bảo vệ môi trường sống xung quanh mình. Điều này không chỉ giúp nâng cao nhận thức của người dân mà còn góp phần tạo ra một cộng đồng gắn kết, có ý thức cao trong bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tọa đàm “Sự tham gia của chính quyền cấp cơ sở và người dân trong chu trình chính sách bảo vệ môi trường: Từ lý luận đến thực tiễn” tập trung thảo luận sâu về cách thức huy động sự tham gia của các bên liên quan vào chu trình chính sách bảo vệ môi trường, từ lý luận đến thực tiễn.
Phát biểu tại Tọa đàm, Ngài Mentschel Stefan chia sẻ, tại Đức, các chính sách về bảo vệ môi trường chú trọng giảm phát thải khí nhà kính và khí thải lò hơi đốt than, trong đó Chính phủ cam kết bảo đảm việc làm khác cho lực lượng lao động đang làm các công việc này, qua đó giúp các chính sách được triển khai nhanh chóng, góp phần cân bằng bảo vệ môi trường và nhu cầu xã hội. Tuy nhiên, Đức cũng gặp phải khó khăn khi thực hiện các chính sách trên nếu không có sự đồng thuận của người dân. Do đó, việc nghiên cứu, thực hiện các biện pháp tăng cường sự tham gia của người dân vào các chu trình của chính sách có ý nghĩa quan trọng trong thúc đẩy việc ra quyết định cũng như quá trình hoạch định, hoàn thiện các chính sách bảo vệ môi trường kịp thời, hiệu quả. Trong bối cảnh phát triển của Việt Nam hiện nay, việc áp dụng kinh nghiệm của Đức, thực hiện các giải pháp tăng cường sự tham gia của chính quyền và người dân vào các chu trình chính sách bảo vệ môi trường có ý nghĩa quan trọng trong đạt được các mục tiêu về bảo vệ môi trường.
Trình bày tham luận “Quan điểm của Đảng về bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu trong giai đoạn mới”, TS Nguyễn Mai Chi, Viện Lịch sử Đảng nêu rõ: Quan điểm bảo vệ môi trường của Đảng được hình thành trong quá trình Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đặc biệt trong thời kỳ thực hiện CNH, HĐH đất nước và được đề cập trong các văn kiện quan trọng của Đảng, tiêu biểu như: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991; Cương lĩnh sửa đổi, bổ sung năm 2011; Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 1991 - 2000, 2001 - 2010, 2011 - 2020, 2021 - 2030; Chỉ thị số 36-CT/TW ngày 25-6-1998, của Bộ Chính trị “Về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 41-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 15-11-2004 “Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”; Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 3-6-2013 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI “Về chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường”... Trong bối cảnh hiện nay, Đảng ta chú trọng bảo vệ môi trường sinh thái với nguyên tắc lấy bảo vệ môi trường sống và sức khỏe nhân dân làm mục tiêu hàng đầu”, “xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường”.
Phát biểu tại Tọa đàm, PGS, TS Trịnh Văn Tùng, Viện Lãnh đạo học và chính sách công chia sẻ kinh nghiệm của Đức về phát huy vai trò của chính quyền cấp cơ sở trong hoạch định và thực thi chính sách bảo vệ môi trường. Đối với quá trình thực hiện chính sách, chính quyền cấp cơ sở ở Đức có vai trò quan trọng trong xây dựng, thực thi và đánh giá các chính sách bảo vệ môi trường được triển khai thực hiện tại cấp cơ sở. Theo đó, chính quyền cấp quận tham gia xây dựng các giải pháp thích ứng với biến đổi khí hậu, mô hình bảo vệ môi trường; xây dựng các chính sách giáo dục bảo vệ môi trường, góp phần hình thành văn hóa bảo vệ môi trường trong các tầng lớp nhân dân; tham gia triển khai, thực hiện và giám sát các chính sách bảo vệ môi trường được thực hiện trong quận; đồng thời là cầu nối giữa người dân và chính quyền bang, liên bang qua công tác truyền thông hai chiều; tham gia vào các bước đánh giá chính (trước, trong và sau khi thực hiện chính sách) đối với các dự án về bảo vệ môi trường được thực hiện trên địa bàn quận. Các kinh nghiệm của Đức trong phát huy vai trò của chính quyền cấp cơ sở đối với chu trình chính sách bảo vệ môi trường có thể áp dụng và mang lại hiệu quả trong công tác bảo vệ môi trường của Việt Nam hiện nay.
Trình bày tham luận “Những điểm mới của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020 về vai trò của cộng đồng dân cư và chính quyền cấp cơ sở trong bảo vệ môi trường”, TS Nguyễn Đình Đáp, Trung tâm truyền thông tài nguyên và môi trường nêu rõ những điểm mới cơ bản của Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, bao gồm: quy định về trách nhiệm của Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc, cá nhân, cộng đồng dân cư trong bảo vệ môi trường; mức chi cho công tác bảo vệ môi trường; quy định về xử lý chất thải rắn trong sinh hoạt và sản xuất; trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong việc cung cấp, công khai thông tin môi trường… Những quy định này góp phần hoàn thiện hành lang pháp lý, tạo nhiều thuận lợi cho triển khai công tác bảo vệ môi trường của các ngành, các cấp và địa phương; đồng thời cũng góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, cộng đồng, cá nhân trong bảo vệ môi trường.
Phát biểu tại Tọa đàm, TS Nguyễn Đức Luận, Hiệu trưởng Trường Chính trị tỉnh Thái Bình chia sẻ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong thực thi chính sách bảo vệ môi trường trên địa bàn tỉnh Thái Bình. Thái Bình là một trong những tỉnh khu vực đồng bằng sông Hồng, có thổ nhưỡng và khí hậu thuận lợi trong phát triển nông nghiệp lúa nước; đồng thời có nhiều kết quả tích cực trong bảo vệ môi trường, trong đó có sự đóng góp quan trọng của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn tỉnh. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đã tích cực tổ chức nhiều cuộc tuyên truyền, vận động các tầng lớp nhân dân tham gia bảo vệ môi trường, tiêu biểu như các hoạt động bảo vệ môi trường trong xây dựng nông thôn mới; tuyên truyền phổ biến thông tin, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành bảo vệ môi trường trong sản xuất kinh doanh dịch vụ của người dân; sử dụng đúng cách thuốc bảo vệ thực vật, sản xuất nông nghiệp theo hướng sinh thái bền vững; tổ chức và thực hiện các mô hình, chương trình, cuộc vận động, phong trào thi đua về bảo vệ môi trường. Ngoài ra, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tham gia tích cực trong phản biện, giám sát các chính sách bảo vệ môi trường được thực hiện trên địa bàn tỉnh. Qua đó, góp phần hình thành ý thức, huy động được sự tham gia của người dân đối với công tác bảo vệ môi trường của tỉnh, mang lại hiệu quả.
Trình bày tham luận “Vai trò của chính quyền cơ sở trong thực hiện chính sách bảo vệ môi trường ở Ninh Thuận và Sóc Trăng”, TS Vũ Thái Hạnh, Viện Xã hội học và Phát triển nêu nhưng đóng góp của chính quyền tỉnh Ninh Thuận và Sóc Trăng thực hiện chu trình bảo vệ môi trường. Thời gian qua, Ninh Thuận và Sóc Trăng đã đạt nhiều kết quả tích cực trong bảo vệ môi trường, trong đó UBND các tỉnh đã chủ động xây dựng kế hoạch cũng như tham gia vào quá trình triển khai, tổ chức thực hiện các chính sách về bảo vệ môi trường nhanh chóng, mang lại hiệu quả cao.
Phát biểu tại Tọa đàm, PGS, TS Đặng Thị Ánh Tuyết, Vụ Quản lý khoa học chia sẻ kết quả nghiên cứu về nhận thức của cấp ủy đảng các cấp về kinh tế tuần hoàn và kinh tế cácbon thấp ở Việt Nam hiện nay. Qua khảo sát 4.800 đảng viên tại các tỉnh Điện Biên, Ninh Thuận, Hòa Bình và Sóc Trăng năm 2023-2024 cho thấy, nhận thức của những người tham gia trả lời phiếu hỏi về các đặc trưng, lợi ích hay triển vọng triển khai chủ trương phát triển kinh tế cácbon thấp ở Việt Nam hay địa phương còn hạn chế. Qua đó, nghiên cứu đã đề xuất một số giải pháp truyền thông nhằm thay đổi, nâng cao nhận thức, hình thành thái độ, hành vi tích cực của cán bộ, đảng viên đối với việc hóa hiện thực chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế cácbon thấp trong thực tế.
PGS, TS Lê Văn Chiến đề xuất một số giải pháp nâng cao năng lực chính quyền cấp cơ sở trong tham gia bảo vệ môi trường. Nhằm thúc đẩy sự tham gia của chính quyền và người dân vào chu trình chính sách bảo vệ môi trường cần thực hiện đồng bộ, hệ thống các giải pháp từ cấp Trung ương đến cấp cơ sở, trong đó cần ưu tiên thực hiện một số giải pháp như: tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các ngành, các cấp, các tầng lớp nhân dân về ý thức, trách nhiệm trong bảo vệ môi trường; hoàn thiện khung luật pháp, chính sách, cơ chế quy định sự tham gia của các cấp chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng cư dân trong bảo vệ môi trường; Nhà nước quan tâm đầu tư nhiều hơn cho hệ thống quan trắc và cảnh báo môi trường; đổi mới công tác tuyên truyền của ngành khí tượng thủy văn; coi tiêu chí giảm ô nhiễm môi trường địa phương là một trong những tiêu chí đánh giá người đứng đầu địa phương; chính quyền cấp cơ sở cần tổ chức cho các tổ chức chính trị - xã hội và cộng đồng dân cư trực tiếp bảo vệ môi trường; tăng cường tập huấn, nâng cao kiến thức về bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu cho các cấp chính quyền và cộng đồng dân cư.
Tại Tọa đàm, các đại biểu trao đổi, thảo luận, đề xuất nhiều giải pháp trong thúc đẩy sự tham gia của chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp cơ sở và người dân vào các chu trình chính sách bảo vệ môi trường, trong đó các giải pháp trọng tâm hướng đến xây dựng ý thức, văn hóa bảo vệ môi trường trong cộng đồng dân cư, tạo các diễn đàn, xây dựng các phong trào, các cuộc vận động người dân tham gia bảo vệ môi trường ở không gian sinh hoạt và sản xuất; đồng thời qua đó góp phần hỗ trợ, tạo sự thuận lợi cho các cấp, ngành, chính quyền địa phương trong quá trình triển khai các chính sách bảo vệ môi trường trong thực tế.