Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

Vận dụng tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

 

Lượt xem: 675
   
Mặc dù tình hình thế giới đang thay đổi nhanh chóng và phức tạp nhưng việc duy trì hòa bình và mở rộng hợp tác để phát triển luôn là xu hướng chủ đạo, là nguyện vọng tha thiết của nhân dân. Gần 40 năm đổi mới và phát triển, Đảng ta đã kế thừa và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa của thời đại, tư tưởng tiến bộ, phát triển dựa trên tư tưởng Mác - Lênin của Hồ Chí Minh, hình thành nên một trường phái ngoại giao rất đặc biệt, độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Đường lối đối ngoại này đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ vững chắc Tổ quốc, đồng thời, linh hoạt, sáng tạo trong việc tìm ra những cách thức mới để thúc đẩy hợp tác quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho xây dựng và phát triển kinh tế, củng cố vị thế, tăng tiềm lực của đất nước.
anh-cuon-sach-doi-ngoai-1-1865
Cuốn sách: “Xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Ảnh: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật.

1. Khái quát tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

 

Suốt dọc dài lịch sử dân tộc Việt Nam, đối ngoại được coi là một trong những kim chỉ nam quan trọng của đất nước, góp phần không nhỏ vào việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời quảng bá những giá trị tốt đẹp của cộng đồng “con Lạc cháu Hồng” đến với bạn bè thế giới, từ đó, củng cố vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

 

Yếu tố góp phần dẫn dắt, chỉ đường cho đối ngoại ngày càng phát triển không thể không nhắc đến đó chính là nền tảng tư tưởng của Đảng. Với tiền thân là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nền tảng tư tưởng của Đảng chính là hệ thống các nguyên tắc, giá trị và niềm tin giá trị mà Đảng theo đuổi. Các nguyên tắc này có tính mục tiêu, ảnh hưởng đến cách Đảng nhìn nhận thế giới, tương tác với các quốc gia và định hình chính sách đối ngoại của mình.

 

Một trong những điểm sáng nổi bật của nền ngoại giao nước nhà phải kể đến ngoại giao “cây tre Việt Nam” - trường phái ngoại giao được hun đúc, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang thực hiện. Việc thúc đẩy “ngoại giao cây tre” thể hiện sự tự tin trong hoạt động đối ngoại, đồng thời cũng là triết lý ngoại giao của Việt Nam. Trên phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, ngoại giao “cây tre Việt Nam” được hình thành, phát triển và được ứng dụng ngày càng rộng rãi. Việc sử dụng cụm từ “cây tre Việt Nam” là cách nói mang tính biểu tượng, khái quát lịch sử và bổ sung, phát triển tư duy lý luận và giải pháp phù hợp, thích ứng với xu thế thời đại và đòi hỏi thực tiễn. Thuật ngữ ngoại giao “tre Việt Nam” ngày càng phổ biến trên các diễn đàn ngoại giao trong và ngoài nước.

 

Tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 29 (năm 2016), Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập tới thuật ngữ “Cây tre Việt Nam”: “cây tre Việt Nam” mềm mại mà cứng cỏi, nhân ái mà quật cường, biết nhu biết cương, biết thời biết thế, biết mình biết người...”(1).

 

Tại hội nghị Đối ngoại toàn quốc ngày 14/12/2021, ngoại giao cây tre Việt Nam tiếp tục được Tổng Bí thư nhìn nhận và tái khẳng định “Gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển… thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam...”(2).

 

Đến ngày 19/12/2023 tại Hội nghị Ngoại giao toàn quốc lần thứ 32 Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng lại một lần nữa nhấn mạnh: “tiếp tục đổi mới, xây dựng và phát triển nền đối ngoại, ngoại giao Việt Nam hiện đại, vững mạnh toàn diện, mang đậm bản sắc "cây tre Việt Nam" ”(3).

 

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đường lối ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã được đúc kế trong thực tiễn quá trình đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, các thế lực thù địch đang ra sức thực hiện các hoạt động chống phá tư tưởng, xâm nhập văn hóa. Đảng Cộng sản Việt Nam cần chủ động ứng phó, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng khỏi những ảnh hưởng tiêu cực. Việc vận dụng hình ảnh cây tre vào ngoại giao cho thấy ý thức tự hào về bản sắc, văn hóa và tinh thần dân tộc, đồng thời, phản ánh giá trị cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh: độc lập, tự chủ, đoàn kết, hòa bình và hợp tác cùng phát triển. Đây cũng được coi là một cách tiếp cận sáng tạo và hiệu quả, góp phần củng cố sự đoàn kết, thống nhất nội bộ Đảng, nâng cao sức đề kháng của nền tảng tư tưởng của Đảng trước những luồng tư tưởng ngoại lai và là biểu tượng của sức mạnh, bền bỉ, dẻo dai và trí tuệ của người dân Việt Nam.

 

Thông tin đối ngoại nói chung và ngoại giao cây tre nói riêng đóng một vai trò quan trọng trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Thứ nhất, ngoại giao cây tre giúp Việt Nam duy trì, củng cố mối quan hệ hữu nghị với các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô, Trung Quốc và các quốc gia Đông Âu. Những mối quan hệ này cung cấp sự hỗ trợ chính trị, kinh tế và quân sự, đồng thời tạo ra một mạng lưới bảo vệ cho Việt Nam khỏi sự can thiệp của các thế lực thù địch.

 

Thứ hai, tư tưởng ngoại giao này còn tạo thế cân bằng trong quan hệ quốc tế, đặc biệt với các nước lớn như: Mỹ, Nga, Trung Quốc và một số nước phương Tây. Bằng cách duy trì mối quan hệ với các nước phương Đông và phương Tây, Việt Nam có thể tránh phụ thuộc quá nhiều vào bất kỳ một thế lực nào, đồng thời bảo vệ lợi ích quốc gia của mình.

 

Thứ ba, ngoại giao cây tre cho phép Việt Nam thể hiện  lập trường chính trị của mình trên trường quốc tế. Thông qua các diễn đàn như Liên Hợp Quốc và Phong trào Không liên kết, Việt Nam có thể tranh thủ sự ủng hộ cho các chính sách và mục tiêu của mình. Điều này góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình ảnh đất nước, nâng cao vị thế quốc tế, thuận lợi cho ngoại giao, hợp tác quốc tế, đưa hình ảnh con người, đất nước Việt Nam cùng truyền thống văn hóa lịch sử hào hùng tích cực và đáng tin cậy hơn. Qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa.

 

Thứ tư, chiến lược ngày giúp phản bác các chiến dịch tuyên truyền thù địch nhằm mục đích làm suy yếu nền tảng tư tưởng của Đảng. Bằng cách cung cấp thông tin chính xác và khách quan về Việt Nam, ngoại giao cây tre góp phần bảo vệ uy tín và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

2. Vận dụng tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

 

Tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" và tính hiện đại của tư tưởng này trong bối cảnh hiện nay.

 

Tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" là một khái niệm ngoại giao của Việt Nam, xuất phát từ tình hình lịch sử, văn hóa và tư tưởng của dân tộc Việt Nam. Nó tập trung vào nguyên tắc bảo vệ chủ quyền, độc lập, tự do và phát triển của quốc gia, trong khi duy trì tinh thần hòa bình, hợp tác và thân thiện với các quốc gia khác. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" vẫn giữ nguyên sự hiện đại và phù hợp. Cây tre với thuộc tính “ gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển” đã trở thành một biểu tượng cho nền ngoại giao nước nhà và rất cần thiết trong một thế giới phức tạp, biến động và đầy thách thức.

 

Phép ẩn dụ về cây tre nổi bật lên những đặc điểm cốt lõi của một nền ngoại giao vững mạnh và thích ứng. “Gốc vững” chính là nền tảng vững chắc của các giá trị, nguyên tắc và lợi ích quốc gia được dẫn dắt bởi nền tảng tư tưởng của Đảng. “Thân chắc” là khả năng chịu đựng, kiên cường và linh hoạt trước những thách thức, là cốt lõi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế trong thời kỳ đổi mới. “Cành uyển chuyển” là ứng xử “dĩ bất biến, ứng vạn biến” thích nghi, đối phó và hợp tác trong một môi trường quốc tế phức tạp trong phương thức ngoại giao.

 

Với đặc tính thích nghi linh hoạt với mọi điều kiện, hoàn cảnh, trải qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, cây tre đã dần trở thành biểu tượng văn hóa, văn minh, văn hiến của người Việt Nam. Vốn là một quốc gia nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, thiên nhiên khắc nghiệt, tre kết thành lũy, thành hàng để chống chọi với gió mưa, bởi vậy mà chúng ta vẫn nằm lòng những dòng thơ trong bài Tre Việt Nam của Nguyễn Duy:

 

 “Thân gầy guộc, lá mong manh

 

Mà sao nên lũy nên thành tre ơi

 

Ở đâu tre cũng xanh tươi

 

Cho dù đất sỏi đá vôi bạc màu...”.

 

Từ câu chuyện của cây tre Việt Nam, dân tộc ta cũng tìm ra những giải pháp huy động sức mạnh toàn dân, toàn quân để đấu tranh với các thế lực ngoại bang, bảo vệ hòa bình, giữ gìn non sông gấm vóc Tổ quốc. Trong hành trình đầy gian khổ này, hình ảnh cây tre đã trở thành biểu tượng, tượng trưng cho tâm hồn, bản lĩnh, khí phách, tầm vóc của con người nước Nam.

Những bài học lịch sử đã được ông cha truyền lại cho chúng ta thông qua văn hóa đại chúng và  nghệ thuật truyền miệng. Câu chuyện Thánh Gióng là một ví dụ điển hình. Ngựa sắt, gậy sắt, áo giáp sắt, … thể hiện khát vọng làm chủ nền văn minh công nghiệp, thông điệp về phát triển kinh tế, hiện đại hóa quân sự, là những điều kiện cần nhưng chưa đủ. Để diệt trừ giặc Ân ra khỏi bờ cõi nước nhà, Thánh Gióng phải có thêm cây tre. Tre tượng trưng cho nguồn sức mạnh nội sinh của văn hóa dân tộc.

 

Tính hiện đại của đường lối ngoại giao này còn được thể hiện ở chỗ quản lý xung đột hiệu quả, đồng thời, góp phần xây dựng quan hệ đối tác bền vững, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Tư tưởng dẻo dai và linh hoạt giúp các nhà ngoại giao giải quyết các cuộc xung đột và tranh chấp một cách hòa bình, tránh sử dụng bạo lực hoặc biện pháp cứng rắn. Khả năng kiên cường và đoàn kết tạo nên nền tảng vững chắc cho các mối quan hệ quốc tế, dựa trên sự tin tưởng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau.

 

Những thành tựu, hạn chế và thách thức trong vận dụng tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

 

Tính đến hết tháng 9/2023, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 193 nước. Việt Nam đã nâng quan hệ đối tác toàn diện, đối tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với 30 nước, trong đó có 5 nước là Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và tất cả các nước khác(4). Dấu ấn của Việt Nam cũng in đậm trên nhiều diễn đàn, hội nghị cấp cao của thế giới, khu vực như:  Nhóm 7 nước công nghiệp phát triển (G7), Hội nghị Cấp cao ASEAN, Hội nghị Cấp cao Đông Á (EAS), Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM)... Cùng với đó, Việt Nam cũng đã ký kết 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA) với sự tham gia của gần 60 nền kinh tế bao gồm các nước công nghiệp phát triển(5).

 

Từ năm 2023 đến nay, ngoại giao Việt Nam sôi động với nhiều đoàn cấp cao đến và đi, trong đó các của nguyên thủ quốc gia trên các châu lục, địa bàn chiến lược. Tất cả những điều trên là minh chứng sinh động về chuyển hóa lượng thành chất trong đối ngoại của Việt Nam. Điều đó càng có ý nghĩa to lớn trong bối cảnh thế giới biến động, phức tạp, khó lường hiện nay. Mặt khác cũng cho thấy tính đúng đắn của đường lối ngoại giao “cây tre mà Việt Nam” đang thực hiện.  

 

Đối ngoại của Việt Nam cũng tạo những bước đột phá, duy trì sự hài hòa, cân bằng trong hành động, quan hệ với các nước lớn trong bối cảnh mới, tránh phụ thuộc vào một đối tác nào. Đơn cử trước và ngay sau khi sự kiện nâng cấp quan hệ với Hoa Kỳ, Việt Nam đã chủ động trao đổi để các nước hiểu rõ quan hệ đối tác chiến lược toàn diện không phải là liên minh quân sự, không đi với nước này chống nước khác, không để mối quan hệ này cản trở mối quan hệ kia. Các quyết sách, chủ trương đó thể hiện bản lĩnh chính trị, độc lập, tự chủ, uyển chuyển, linh hoạt, hiệu quả của lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nền ngoại giao “cây tre Việt Nam”. 

 

Những kết quả đã được trong công tác đối ngoại thời gian quan cũng đồng nghĩa là những thông điệp quan trọng về chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ mới. Đó là đối ngoại của Việt Nam đã hình thành mạng lưới quan hệ sâu rộng, đa phương, đa chiều, đa tầng lớp, tạo nền tảng định vị vững chắc, sáng lập vị thế quốc gia có lợi trên trường quốc tế.

 

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, việc vận dụng tư tưởng “ngoại giao cây tre” trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vẫn còn tồn đọng một số hạn chế như:

 

Tính linh hoạt của tư tưởng này có thể khiến hệ tư tưởng bị pha loãng. Vận dụng tư tưởng "cây tre Việt Nam" quá mức có thể dẫn đến việc nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên quá mềm dẻo, linh hoạt và dễ bị tác động bởi các luồng tư tưởng bên ngoài. Điều này có thể làm suy yếu sự ổn định và thống nhất của tư tưởng trong Đảng.

 

Đồng thời, việc vận dụng tư tưởng này quá mức cũng sẽ tạo ra khó khăn và đi ngược lại trong việc bảo vệ nguyên tắc. Tư tưởng "cây tre Việt Nam" nhấn mạnh tính linh hoạt và thích nghi, điều này có thể cản trở việc bảo vệ các nguyên tắc cốt lõi của nền tảng tư tưởng Đảng. Trong bối cảnh tiếp cận của toàn cầu hóa và sự giao thoa văn hóa mạnh mẽ, bản sắc tư tưởng của Đảng có thể bị thách thức và làm xói mòn, dẫn đến việc phương pháp luận không nguyên tắc và thiếu nhất quán trong các chính sách đối ngoại và đối nội của Đảng.

 

Điều này có thể làm suy yếu sự tin cậy của công chúng đối với Đảng và dẫn đến tình trạng bất ổn chính trị, thậm chí là thờ ơ về tư tưởng. Việc nhấn mạnh quá mức tính linh hoạt có thể dẫn đến tình trạng các đảng viên trở nên thờ ơ về nền tảng tư tưởng của Đảng. Họ có thể coi hệ tư tưởng chỉ là một công cụ để thích ứng với các hoàn cảnh thay đổi, thay vì là một hệ thống các giá trị và niềm tin cốt lõi. Nếu tư tưởng "cây tre Việt Nam" được áp dụng quá cực đoan, có thể gây khó khăn cho việc giáo dục và tuyên truyền hệ tư tưởng Đảng cho các đảng viên và quần chúng. Tư tưởng trở nên khó hiểu và trừu tượng, làm giảm sự hiệu quả trong việc định hướng và thống nhất tư tưởng.

 

3. Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay

 

3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay.

 

Trong tương lai, môi trường chính trị, an ninh toàn cầu và khu vực sẽ tiếp tục phức tạp hơn, tiềm ẩn nhiều rủi ro, bất ổn. Vấn đề xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đứng trước nhiều cơ hội mới, cũng như nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi những yêu cầu mới ngày càng cao hơn về ngoại giao. Các nước lớn điều chỉnh chiến lược và cạnh tranh ngày càng gay gắt. Các xung đột vũ trang, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ tiếp tục diễn ra gay gắt, ảnh hưởng đến nhiều nước trong đó có Việt Nam. Không những vậy, các cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ còn khó khăn, thách thức; kẻ thù, thế lực phản động không từ bỏ kế hoạch “phát triển hòa bình” nhằm chống phá Đảng và Nhà nước; Các vấn đề an ninh phi truyền thống như thiên tai, an ninh môi trường, an ninh nguồn nước, an ninh mạng, tội phạm quốc tế, khủng bố,… đặt ra nhiều thách thức cho Việt Nam, đòi hỏi phải có sự hợp tác quốc tế nhiều hơn nữa để giải quyết vấn đề.

 

Trong bối cảnh đó, để nâng cao hiệu quả vận dụng tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng hiện nay, có thể cân nhắc, xem xét các phương hướng sau:

 

Thứ nhất, cần tăng cường nhận thức lý luận và nâng cao năng lực chuyên môn. Đảng cần đầu tư vào việc đào tạo và nâng cao năng lực chuyên môn của các cán bộ ngoại giao, đặc biệt là trong lĩnh vực quan hệ quốc tế, luật pháp quốc tế, kỹ năng giao tiếp và đàm phán quốc tế, nghiên cứu sâu về lịch sử, văn hóa, truyền thống ngoại giao của Việt Nam và các quốc gia khác để có cái nhìn toàn diện và đa chiều. Từ đó, cán bộ ngoại giao trở thành những nhà ngoại giao chuyên nghiệp, có khả năng đàm phán và bảo vệ quyền lợi của Việt Nam một cách hiệu quả.

 

Thứ hai, cần xây dựng mạng lưới ngoại giao đa dạng, linh hoạt, sáng tạo trong bối cảnh mới. Xây dựng và mở rộng mạng lưới ngoại giao đa dạng, bao gồm các đại sứ quán, các đại diện thương mại, và các cơ quan đại diện khác trên toàn cầu là một việc làm hết sức cần thiết. Điều này giúp tăng cường khả năng tiếp cận thông tin, tạo mối quan hệ và thúc đẩy hợp tác với các quốc gia và tổ chức quốc tế khác.

 

Thứ ba, tận dụng công nghệ thông tin và truyền thông. Sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông để tăng cường sự hiểu biết về tư tưởng và chính sách của Đảng đối với cộng đồng quốc tế. Việc tạo ra và phổ biến thông điệp chính xác, thu hút và thuyết phục trên các nền tảng truyền thông xã hội và các phương tiện truyền thông quốc tế giúp xây dựng hình ảnh tích cực về Việt Nam và tăng cường sự ủng hộ cho nền tảng tư tưởng của Đảng.

 

Thứ tư, thúc đẩy hợp tác quốc tế. Đảng cần tiếp tục thúc đẩy hợp tác quốc tế thông qua các diễn đàn đa phương và tổ chức quốc tế. Việc tham gia tích cực vào các hiệp hội, tổ chức và diễn đàn quốc tế giúp xây dựng mối quan hệ và đưa ra quan điểm của Việt Nam về các vấn đề quốc tế, đồng thời tạo ra cơ hội để tạo dựng mối quan hệ và thu hút sự ủng hộ cho quan điểm của Đảng.

 

3.2. Những giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả và lan tỏa tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

 

Từ những thành tựu và hạn chế của nền ngoại giao nước nhà thời gian qua, nhằm cải thiện chất lượng, hiệu quả và lan tỏa tư tưởng ngoại giao “cây tre Việt Nam” trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thời gian tới, chúng ta có thể thực hiện một số các giải pháp sau:

 

Một là, đào tạo và phát triển đội ngũ cán bộ ngoại giao. Nâng cao nhận thức và hiểu biết sâu sắc về tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" thông qua các khóa đào tạo chuyên sâu, hội thảo và nghiên cứu cũng như triển kỹ năng thực tiễn cần thiết cho ngoại giao, bao gồm giao tiếp, đàm phán, xây dựng quan hệ và quản lý khủng hoảng. Tích cực tạo cơ hội trao đổi kinh nghiệm và thực hành tốt nhất giữa các thế hệ nhà ngoại giao để bảo tồn và truyền bá tư tưởng "cây tre Việt Nam".

 

Hai là, cải thiện cơ chế phối hợp và hợp tác. Cần tăng cường phối hợp giữa các cơ quan ngoại giao và các ban, bộ, ngành liên quan để đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả trong thực hiện tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam". Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội, các kênh truyền thông và các đại diện của Việt Nam ở nước ngoài trong việc lan tỏa tư tưởng ngoại giao này.

 

Ba là, tăng cường nghiên cứu và ứng dụng lý thuyết. Thường xuyên nghiên cứu, phát triển và cụ thể hóa đánh giá và cập nhật tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" để phù hợp với tình hình mới và các thách thức toàn cầu. Bên cạnh đó, phát triển các học thuyết và hướng dẫn cụ thể để áp dụng hiệu quả tư tưởng ngoại giao này trong các tình huống thực tế.

 

Bốn là, củng cố năng lực truyền thông. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của truyền thông, nhất là mạng xã hội như: Facebook, TikTok, Instagram, … việc xây dựng các chiến lược truyền thông hiệu quả để lan tỏa thông điệp về tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" trong nước và quốc tế là điều hết sức cần thiết. Để thực hiện được điều này một cách hiệu quả, chúng ta cần sử dụng truyền thông đa nền tảng để tiếp cận nhiều đối tượng hơn.

 

Quan hệ đối ngoại dựa trên tinh thần “ngoại giao tre” đã bước đầu tạo dựng được một số thành tựu quan trọng như hiện nay, góp phần giúp Việt Nam có môi trường hòa bình, ổn định, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và hòa bình, ổn định cho đất nước. Thực tiễn ngoại giao thời qua cũng làm phong phú và sâu sắc hơn những bài học quý báu rút ra từ công tác đối ngoại trong quá trình đổi mới. Nói cách khác: càng gặp nhiều khó khăn, thách thức thì chúng ta càng phải vững chắc về nguyên tắc, linh hoạt và sáng tạo trong chiến lược của mình; quản lý đúng đắn mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ, đoàn kết, hợp tác quốc tế, lợi ích quốc gia và nghĩa vụ, trách nhiệm quốc tế. Việc vận dụng tư tưởng ngoại giao "cây tre Việt Nam" trong nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng thực sự sẽ giúp Đảng Cộng sản Việt Nam giữ vững ngọn cờ lãnh đạo, tăng cường sức mạnh đoàn kết toàn dân, xây dựng một xã hội chủ nghĩa thịnh vượng và công bằng./.

Bộ đội Biên phòng xác minh, trao trả tài sản cho người dân

 

Lúc 7 giờ sáng 7-11, Trạm Biên phòng Cửa khẩu cảng Tiên Sa (Biên phòng Cửa khẩu cảng Đà Nẵng, Bộ đội Biên phòng TP Đà Nẵng) tiếp nhận thông tin trình báo của anh Ngô Ngọc Hiểu, trú tại tổ 48, phường Hòa Hiệp Nam, quận Liên Chiểu, TP Đà Nẵng về việc làm rơi chiếc điện thoại Iphone 12 Promax tại khu vực cảng Tiên Sa, nhờ đơn vị thông báo tìm lại tài sản.

Khẳng định cam kết của Việt Nam đối với hợp tác Mê Công

 

Nhận lời mời của Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Lý Cường, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham dự Hội nghị thượng đỉnh hợp tác Tiểu vùng Mê Công mở rộng (GMS) lần thứ 8, Hội nghị cấp cao Chiến lược hợp tác kinh tế Ayeyawady-Chao Phraya-Mê Công (ACMECS) lần thứ 10, Hội nghị cấp cao hợp tác Campuchia-Lào-Myanmar-Việt Nam (CLMV) lần thứ 11 và làm việc tại Trung Quốc từ ngày 5 đến 8-11.

 TCCS - Ngoại giao “cây tre Việt Nam” được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nêu trong Hội nghị đối ngoại toàn quốc (14-12-2021). Khái niệm này là sự đúc kết, hình tượng hóa đường lối đối ngoại mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang thực hiện với những đóng góp quan trọng vào thành tựu phát triển chung của đất nước. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, việc thấm nhuần triết lý và thực hành hiệu quả trường phái ngoại giao mang bản sắc “cây tre Việt Nam” có ý nghĩa hết sức quan trọng.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tham quan triển lãm ảnh về ngoại giao Việt Nam tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32_Nguồn: vietnamplus.vn

1- Ngày 14-12-2021, phát biểu chỉ đạo tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã đề cập đến “trường phái đối ngoại và ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo của thời đại Hồ Chí Minh, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”, “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”, thấm đượm tâm hồn, cốt cách và khí phách của dân tộc Việt Nam”(1).

Ngày 19-12-2023, tại Hội nghị Ngoại giao lần thứ 32, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp tục nhấn mạnh về trường phái đối ngoại, ngoại giao rất đặc sắc và độc đáo, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”. Đó là vừa kiên định về nguyên tắc, vừa uyển chuyển về sách lược; mềm mại, khôn khéo, nhưng cũng rất kiên cường, quyết liệt; linh hoạt, sáng tạo, nhưng rất bản lĩnh, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của Nhân dân; đoàn kết, nhân ái, nhưng luôn luôn kiên quyết, kiên trì bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc.

Theo khắc họa khái quát của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” được hình thành trong thời kỳ đổi mới gần 40 năm qua. Trường phái này được Đảng Cộng sản Việt Nam phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kế thừa và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại. Như vậy, đề cập đến trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” chính là đề cập đến đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam, cũng như các hoạt động đối ngoại, ngoại giao của cả hệ thống chính trị Việt Nam trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội trong thời kỳ đổi mới.

2- Khi khắc họa khái quát về trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh, đây là trường phái được “phát triển trên nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(2).

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin trang bị cho chúng ta thế giới quan và phương pháp luận khoa học, biện chứng và cách mạng để có thể thấy rõ được những quy luật phát triển và xu thế vận động khách quan của xã hội loài người. Với thế giới quan và phương pháp luận đó, Đảng Cộng sản Việt Nam nhìn nhận thế giới là một chỉnh thể phức tạp, luôn trong trạng thái không ngừng vận động, vừa tuân theo các quy luật và xu thế khách quan, vừa chịu sự tương tác phức tạp, chứa đựng cả hợp tác lẫn đấu tranh giữa các quốc gia - dân tộc, giữa các nền kinh tế và giữa các nền văn hóa... Quy luật phát triển của xã hội loài người là đi từ hình thái kinh tế - xã hội thấp lên hình thái kinh tế - xã hội cao, và hình thái kinh tế - xã hội cao nhất là chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, nhân loại đang trong giai đoạn lịch sử quá độ từ hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa lên hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác, vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc(3).

Đứng vững trên lập trường của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, kế thừa và phát huy bản sắc, truyền thống dân tộc, tiếp thu chọn lọc tinh hoa thế giới và tư tưởng tiến bộ của thời đại, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát triển hệ thống quan điểm mang tính nền tảng, chỉ đạo việc hoạch định và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam. Trong kho tàng tư tưởng của Người mà Đảng Cộng sản Việt Nam lấy làm nền tảng để hình thành và phát triển trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, đáng chú ý là tư tưởng cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, Việt Nam là một bộ phận cấu thành của chỉnh thể thế giới; “dĩ bất biến ứng vạn biến”, kiên trì thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc trong mọi hoàn cảnh, kiên định về chiến lược, linh hoạt về sách lược; đoàn kết giai cấp, đoàn kết toàn dân tộc và đoàn kết quốc tế; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; “Thực lực là cái chiêng mà ngoại giao là cái tiếng. Chiêng có to tiếng mới lớn”(4)“Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”(5); “giúp bạn là tự giúp mình”; ngoại giao là một “mặt trận”...

Có thể nói, thế giới quan khoa học, biện chứng, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giúp Đảng ta có cách nhìn rõ về cấu trúc chính trị, kinh tế - xã hội, về các quy luật và xu thế vận động khách quan của thế giới ngày nay, về vị trí của Việt Nam trong sự vận động của thế giới. Với cách nhìn đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã hoạch định đường lối, đề ra chủ trương, chính sách phát triển đất nước vừa phù hợp với thực tiễn Việt Nam, vừa phù hợp với các quy luật và xu thế vận động khách quan của thế giới và xã hội loài người, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Từ thực tiễn sinh động các hoạt động đối ngoại trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc kết nên một hệ thống quan điểm chỉ đạo việc hoạch định và triển khai thực hiện thắng lợi đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Đặc biệt đáng chú ý là các quan điểm sau: 1- Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại(6); 2- Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi(7); 3- Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế(8); 4- Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam  có quan hệ; 5- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế(9); 6- Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế với cách nhìn biện chứng về đối tượng, đối tác: “trong mỗi đối tượng vẫn có thể có mặt cần tranh thủ, hợp tác; trong một số đối tác, có thể có mặt khác biệt, mâu thuẫn với lợi ích của ta”(10); 7- Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế(11); 8- Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả”(12); 9- Nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế(13); 10- Phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước(14); 11- Thực hiện chính sách “bốn không”: không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ để chống lại nước khác, không tham gia liên minh quân sự, không liên kết với nước này để chống nước kia, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế; 12- Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân(15).

Nhân dân giới thiệu quà tặng du lịch thuyền buồm ba vách Quảng Yên cho du khách (ảnh: Dương Văn Toàn)_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

3- Lợi ích quốc gia - dân tộc luôn là xuất phát điểm, là cơ sở để hoạch định và triển khai thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đối ngoại, là cái “gốc” của đối ngoại, ngoại giao. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã nhấn mạnh: “Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, độc lập, tự cường và bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc luôn luôn là nguyên tắc bất biến, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong toàn bộ hoạt động của chúng ta”(16).

Kể từ khi thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước (năm 1986) đến nay, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại(17) của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được khẳng định xuyên suốt qua các kỳ Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng. Với đường lối đối ngoại đó, Việt Nam luôn giữ vững độc lập, tự chủ trong hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại, có quan điểm, lập trường riêng đối với các vấn đề quốc tế... Giữ vững độc lập, tự chủ, nhưng không biệt lập, đóng cửa, tự cô lập, mà luôn mở rộng sự hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với các nước, các nền kinh tế, các tổ chức quốc tế và khu vực; luôn phấn đấu vì hòa bình, thúc đẩy tình hữu nghị, sự hợp tác, phát triển và tiến bộ xã hội. Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động phức tạp, việc Việt Nam nhất quán thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa đã tạo nên sự tin cậy trong quan hệ hợp tác giữa Việt Nam với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực, không ngừng nâng cao vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam.

Ngay từ khi định hình đường lối đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo: Giữ vững nguyên tắc vì độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với thực lực, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam cũng như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng mà Việt Nam có quan hệ. Sự uyển chuyển trong chính sách và các bước đi đối ngoại của Việt Nam không phải là sự ngả nghiêng, thực dụng, vô nguyên tắc, mà là sự sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược trên cơ sở kiên định về chiến lược nhằm bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc Việt Nam trong mọi hoàn cảnh. Chỉ trên cơ sở giữ vững nguyên tắc và kiên định về chiến lược mới có thể sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược. Đồng thời, sự sáng tạo, năng động và linh hoạt về sách lược giúp cho việc triển khai, thực hiện chiến lược đạt hiệu quả cao.

Thực tiễn đối ngoại, ngoại giao Việt Nam trong thời kỳ đổi mới thể hiện rõ sự bám chắc vào lợi ích quốc gia - dân tộc, sự kiên định và nhất quán về đường lối, sự sáng tạo, năng động, linh hoạt về sách lược và trong từng bước đi, đối sách cụ thể; tạo thành ba nét đặc sắc của trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam”, như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khái quát: “gốc vững, thân chắc, cành uyển chuyển”.  

4- Đại hội VI của Đảng (tháng 12-1986) đã mở đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước. Khi đó, Việt Nam đang trong hoàn cảnh đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức, cả về kinh tế - xã hội lẫn quan hệ đối ngoại. Trong khi đó, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Trong bối cảnh đó, về mặt đối ngoại, có hai vấn đề lớn, hết sức cấp bách mà Việt Nam phải xử lý: Một là, phá được thế đất nước bị bao vây, cấm vận, tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để củng cố độc lập dân tộc, thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và phát triển đất nước. Hai là, thích ứng với bối cảnh khách quan của thế giới đang biến đổi sâu sắc với những đảo lộn trong cục diện thế giới... Từ việc xử lý những vấn đề này, quá trình hình thành đường lối đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đã được thúc đẩy.

Ngày 20-5-1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết số 13-NQ/TW, “Về nhiệm vụ và chính sách đối ngoại trong tình hình mới”, trong đó nhận định: tình trạng kinh tế yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và cô lập về chính trị sẽ trở thành nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Từ đó, Nghị quyết đề ra nhiệm vụ phải ra sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới, phân hóa hàng ngũ đối phương, “thêm bạn, bớt thù”, làm thất bại âm mưu cô lập Việt Nam về kinh tế và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; ra sức tranh thủ sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế. Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VI thể hiện sự đổi mới tư duy, nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về thời cuộc và thế giới; mở đầu cho việc hoạch định đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Tiếp đó, các Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (tháng 3-1989), Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (tháng 8-1989) và Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (tháng 3-1990) khóa VI đã tập trung đánh giá tình hình thế giới liên quan đến những biến động xảy ra ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu; đề ra quyết sách đối phó với những tác động phức tạp từ diễn biến của tình hình thế giới đối với đất nước, đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam.

Đến Đại hội VII của Đảng (tháng 12-1991), Việt Nam khẳng định “hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình”(18). Đại hội VII của Đảng đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, trong đó xác định một trong sáu đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là “có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới”; xác định mục tiêu của đối ngoại Việt Nam là “tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(19).

Thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, Hội nghị Trung ương 3 khóa VII (tháng 6-1992) đã ra nghị quyết về công tác đối ngoại, xác định rõ nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các phương châm xử lý các vấn đề quan hệ quốc tế. Đây là văn kiện đánh dấu sự hình thành đường lối đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam cho thời kỳ đổi mới toàn diện đất nước.

Đường lối đối ngoại đổi mới đã được Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994) chính thức khẳng định với tuyên bố “Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”(20).

Từ Đại hội VIII của Đảng (tháng 6-1996) đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Cùng với sự nhất quán đó, qua các nhiệm kỳ Đại hội của Đảng, đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam liên tục được hoàn thiện và phát triển. Đáng chú ý là những nội dung lớn sau:

Về thực hiện lợi ích quốc gia - dân tộc: Từ chỗ yêu cầu các hoạt động đối ngoại phải “đáp ứng lợi ích của nhân dân ta” (Đại hội VII) đã phát triển thành yêu cầu “vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh” (Đại hội XI), rồi “bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi” (Đại hội XIII).

Về quan hệ song phương với các nước: Từ chủ trương “bình thường hóa, thiết lập quan hệ với các nước” (Đại hội VII) đã phát triển thành chủ trương “đưa các mối quan hệ đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững” (Đại hội XI), rồi thành chủ trương “đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác, tạo thế đan xen lợi ích và tăng độ tin cậy” (Đại hội XIII).

Về quan hệ đa phương: Từ chủ trương “hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp bằng thương lượng” (Đại hội VII) đã phát triển thành chủ trương “tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc” (Đại hội XI), rồi “nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đối ngoại đa phương, chủ động và tích cực đóng góp xây dựng, định hình các thể chế đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN và Liên hợp quốc. Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh, trong đó có việc tham gia các hoạt động hợp tác ở mức cao hơn, như hoạt động gìn giữ hoà bình của Liên hợp quốc, diễn tập về an ninh phi truyền thống và các hoạt động khác” (Đại hội XII). Đến Đại hội XIII của Đảng (tháng 1-2021), nội dung về quan hệ đa phương trong đường lối đối ngoại của Đảng đã được phát triển thành “Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Chủ động tham gia và phát huy vai trò của Việt Nam tại các cơ chế đa phương, đặc biệt là ASEAN, Liên hợp quốc, APEC, hợp tác tiểu vùng Mê Kông và các khuôn khổ hợp tác khu vực và quốc tế, trong những vấn đề và các cơ chế quan trọng có tầm chiến lược, phù hợp với yêu cầu, khả năng và điều kiện cụ thể”(21). “Chủ động tham gia, tích cực đóng góp, nâng cao vai trò của Việt Nam trong xây dựng, định hình các thể chế đa phương và trật tự chính trị - kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và các hiệp định thương mại đã ký kết”(22).

Về hội nhập quốc tế: Từ chủ trương “tham gia và tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động quốc tế” (Nghị quyết số 13-NQ/TW, của Bộ Chính trị khóa VI), đã phát triển thành “chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực” (Đại hội IX); rồi “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác” (Đại hội X); “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” (Đại hội XI) và hiện nay là “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng” (Đại hội XIII).

Về định vị Việt Nam trong thế giới ngày nay và xác định tâm thế đối ngoại của Việt Nam: Từ thời điểm ban đầu hết sức khiêm tốn khi tuyên bố: “Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển” (Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII) đã phát triển thành “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” (Đại hội IX), rồi “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực” (Đại hội X), “Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Đại hội XI) và Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(23).

Về quan hệ Đảng: Từ chỗ Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ xác lập các mối quan hệ với các đảng cộng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới (Đại hội VI), đã mở rộng quan hệ với các đảng cánh tả (Đại hội VII) và từ Đại hội VIII mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác, nghĩa là với tất cả chính đảng. Từ Đại hội XI, bên cạnh quan hệ song phương với các chính đảng ở các nước trên thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương mở rộng tham gia và thúc đẩy mạnh hơn quan hệ đa phương chính đảng.

Về lãnh đạo, chỉ đạo và quản lý: Từ quan điểm “Bảo đảm sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại” (Đại hội IX) đã phát triển thành “Bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế” (Đại hội XIII).

Về tổ chức lực lượng: Từ yêu cầu “phối hợp chặt chẽ” hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại, đối ngoại quốc phòng và an ninh, thông tin đối ngoại và thông tin trong nước” (Đại hội VIII) đã phát triển thành “xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân” (Đại hội XIII).

Có thể thấy, quá trình hoàn thiện, phát triển đường lối đối ngoại đổi mới của Việt Nam và trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” vẫn đang tiếp diễn.

5- Trong gần 40 năm qua, nhất quán triển khai thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Việt Nam đã phá được thế bị bao vây, cấm vận; tạo dựng và củng cố ngày càng vững chắc cục diện đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hầu hết các nước trên thế giới; có quan hệ đặc biệt với ba nước(24), quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với bảy nước(25), quan hệ đối tác chiến lược với 11 nước(26), quan hệ đối tác toàn diện với 12 nước(27); có quan hệ kinh tế - thương mại với 230 nước và vùng lãnh thổ; hình thành thế đan xen lợi ích nhiều tầng nấc với nhiều nước. Việt Nam cũng là thành viên tích cực và có trách nhiệm của hơn 70 tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng. Đảng  Cộng sản Việt Nam đã có quan hệ với 247 chính đảng ở 111 quốc gia. Quốc hội Việt Nam có quan hệ với quốc hội, nghị viện của hơn 140 quốc gia và tham gia tích cực tại nhiều diễn đàn nghị viện quốc tế quan trọng. Các tổ chức hữu nghị nhân dân Việt Nam có quan hệ với 1.200 tổ chức nhân dân và phi chính phủ nước ngoài.

Vấn đề biên giới với các nước liên quan từng bước được giải quyết, tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi để bảo vệ chủ quyền, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đồng thời góp phần vào việc củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực. Đối với những vấn đề phức tạp về biên giới lãnh thổ, biển, đảo, Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ hòa bình, hợp tác, tích cực trao đổi, đàm phán với các nước liên quan, cố gắng kiểm soát bất đồng, thúc đẩy tìm kiếm giải pháp cơ bản, lâu dài cho các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế.

Việt Nam đã có những đóng góp tích cực và trách nhiệm vào việc giữ vững hòa bình, hợp tác phát triển và tiến bộ trên thế giới; đồng thời, tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn (ASEM, APEC, Diễn đàn Kinh tế thế giới về ASEAN...) và hoàn thành nhiều trọng trách quốc tế quan trọng với tư cách Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Ủy viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc, Chủ tịch luân phiên ASEAN... Trong nhiều vấn đề quốc tế quan trọng, tiếng nói, sáng kiến và cách thức giải quyết có lý, có tình trên tinh thần bình đẳng, hòa hiếu và nhân văn của Việt Nam đã nhận được sự đồng tình và ủng hộ của cộng đồng quốc tế, nhờ đó vị thế và uy tín của Việt Nam ngày càng được nâng cao trên trường quốc tế.

Nhìn tổng thể, trong gần 40 năm qua, trường phái đối ngoại, ngoại giao “cây tre Việt Nam” đã góp phần quan trọng vào thành tựu chung có ý nghĩa lịch sử của đất nước, để “với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(28); đồng thời, ngày càng vững bước tiến tới mục tiêu trở thành nước phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045./.

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2024

Giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười Nga

 

Ngày 7-11-1917, một sự kiện lịch sử vĩ đại của nhân loại đã diễn ra ở nước Nga. Với tiếng súng lệnh từ chiến hạm Rạng Đông, cuộc tiến công Cung điện mùa Đông của giai cấp công nhân, binh sĩ Nga ở Petrograd bắt đầu. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa vĩ đại dưới sự lãnh đạo của Đảng Bolsheviks Nga, đứng đầu là V.I.Lenin, đã giành thắng lợi ở Petrograd, lan tỏa và toàn thắng trên nước Nga. 107 năm đã đi qua, song giá trị lịch sử, tầm vóc thời đại của Cách mạng Tháng Mười Nga vẫn trường tồn cùng năm tháng.