Thứ Năm, 7 tháng 11, 2024

 

Mỗi người dân Việt Nam luôn trân trọng những giá trị thiêng liêng của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”

Tác phẩm ảnh : Cha con người Mông tại Sủng Là, Hà Giang dựng cờ tổ quốc để đón Tết cổ truyền của tác giả Dương Tiến Dũng (Bắc Giang) đạt giải Nhất ảnh đơn cuộc thi ảnh nghệ thuật “Tự hào một dải biên cương”.

Tác phẩm ảnh : Cha con người Mông tại Sủng Là, Hà Giang dựng cờ tổ quốc để đón Tết cổ truyền của tác giả Dương Tiến Dũng (Bắc Giang) đạt giải Nhất ảnh đơn cuộc thi ảnh nghệ thuật “Tự hào một dải biên cương”.

“ĐỘC LẬP- TỰ DO- HẠNH PHÚC” ĐƯỢC GHI DƯỚI QUỐC HIỆU CỦA NƯỚC VIỆT NAM TỪ 9/10/1945 ĐẾN NGÀY NAY

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” lần đầu tiên xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50 ngày 9/10/1945 (Sắc lệnh luật số 50). Văn bản luật ghi tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” dưới dòng chữ “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” này chính là sự lựa chọn, là sự khẳng định chính thức của một quốc gia có chủ quyền (đã tuyên bố trước thế giới và mọi người dân Việt Nam). 7 thập niên qua, tiêu ngữ này không hề thay đổi dù thể chế chính trị Việt Nam là “dân chủ cộng hòa” khi xưa hay “cộng hòa xã hội chủ nghĩa” hiện nay, có chăng thì chỉ là sự nhận thức ngày càng sâu sắc hơn và quá trình thực hiện “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” cho các tầng lớp nhân dân ngày càng trọn vẹn, đầy đủ hơn mà thôi. Đây mới chính là sự thật, chứ không phải là “ở Việt Nam làm gì có Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” hay “người dân Việt Nam đâu có được Độc lập - Tự do - Hạnh phúc thực sự” như các thế lực thù địch suy diễn, kích động và xuyên tạc.

Thực tế, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người đã được khẳng định tại Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1789; đồng thời cũng được Chủ tịch Hồ Chí Minh “suy rộng ra”, phát triển, khẳng định là quyền tự quyết của một dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam ngày 2/9/1945. Để có được sự khẳng định đó cũng như để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” xuất hiện trong Sắc lệnh luật số 50, nhân dân Việt Nam đã phải trải qua một hành trình đấu tranh đầy gian khổ theo Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930) để lật đổ ách thống trị tàn bạo của phát xít Nhật, thực dân Pháp và chế độ phong kiến. Với mỗi người dân Việt Nam đã có hơn 80 năm trời đắm chìm trong đêm trường nô lệ, thì thắng lợi của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Tháng Tám năm 1945 và “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trở thành tiêu ngữ đặt dưới quốc hiệu “Việt Nam Dân chủ Cộng hòa” không chỉ thiêng liêng, có ý nghĩa trọng đại, mà còn là sự khẳng định kết quả của sự đồng tâm, đồng chí, đồng lòng, kiên tâm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cho nên, dù ai nói ngả, nói nghiêng, bẻ cong sự thật thì tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” vẫn luôn được khẳng định; luôn là đích đến và được toàn Đảng, toàn dân, toàn quân Việt Nam hết lòng, hết sức bảo vệ 7 thập niên qua chắc chắn không phải là “chỉ để mị dân” như các thế lực thù địch bịa đặt, mà đó chính là sự trân trọng, là biết ơn sự hy sinh của biết bao thế hệ người Việt Nam yêu nước; đồng thời ghi dấu một thành quả lớn lao của hành trình đấu tranh cách mạng hướng đến tương lai tươi sáng theo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Hơn nữa, Độc lập, Tự do, Hạnh phúc có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập không chỉ là khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh mà còn là khát khao ngàn đời của bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Vì thế, với một đường lối chính trị đúng đắn, phù hợp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã không chỉ lãnh đạo nhân dân Việt Nam kiên cường đấu tranh cách mạng để đưa tên nước Việt Nam trở lại bản đồ chính trị thế giới; để tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được khẳng định dưới quốc hiệu của quốc gia Việt Nam, mà Người còn khẳng định: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng ba chính sách: Dân sinh, Dân quyền và Dân tộc. Chúng ta không mong gì hơn nhưng chúng ta không chịu gì kém” (2) và “chính sách đối nội của Việt Nam là dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc”(3) để mỗi người dân đều được thụ hưởng giá trị lớn lao của Độc lập, Tự do, Hạnh phúc.

Thực tế cho thấy là, luôn lấy người dân làm trung tâm của mọi chiến lược phát triển; vì nhân dân phụng sự để nhân dân hiểu được, thấm được, thụ hưởng được giá trị cao quý của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”, mọi đường lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng xuyên suốt trong cuộc cách mạng giải phóng dân tộc cũng như cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội cũng không ngoài mục đích lớn lao đó; cũng chính là nhằm để thực hiện lời căn dặn “đầu tiên là công việc đối với con người” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Di chúc lịch sử. Đồng thời, minh chứng sinh động nhân dân Việt Nam được thụ hưởng “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự chính là những thành tựu hiển hiện trên thực tế như: Thắng lợi của cuộc đấu tranh chống thù trong, giặc ngoài với những quyết sách đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng để tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu, bình đẳng, đoàn kết và bỏ phiếu kín đầu tiên của nước Việt Nam độc lập ngày 6/1/1946 “dân chủ hơn hàng ngàn lần dân chủ tư sản”; soạn thảo và thông qua Hiến pháp năm 1946/bản Hiến pháp “dân chủ, công bình của các giai cấp”; thực hiện bình dân học vụ, xóa nạn mù chữ, cứu đói và thực thi các chính sách để phát triển văn hóa, xã hội; thực hiện chủ trương đối ngoại mềm dẻo để tránh cùng lúc phải đối phó với nhiều kẻ thù đang đe dọa nền độc lập vừa giành được trong những năm 1945-1946; là những thành tựu của sự nghiệp kháng chiến và kiến quốc (1946-1954) - vừa kháng chiến để bảo vệ nền độc lập dân tộc, vừa kiến quốc để xây dựng đất nước phát triển trong điều kiện có chiến tranh; với thắng lợi của sự nghiệp vừa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, vừa tiếp tục cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975) để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước thống nhất cùng đi lên chủ nghĩa xã hội… Đặc biệt, một Việt Nam ngày càng đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng từ 1986 đến nay đã không chỉ cho thấy “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” luôn là khát vọng, là đích đến của dân tộc trên hành trình xây dựng và phát triển, mà còn là sự khẳng định và làm sâu sắc hơn ý nghĩa lời của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như hiện nay” (4).

Thăm khám bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số _Ảnh: Tư liệu

 

Thăm khám bệnh cho đồng bào các dân tộc thiểu số _Ảnh: Tư liệu

Sự xuyên suốt và nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh về “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” và hành trình đấu tranh cho “6 chữ vàng” đó hiển hiện sinh động qua sự khẳng định: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu”(5) và “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc”(6) của Chủ tịch Hồ Chí Minh; qua căn cứ để lựa chọn tiêu ngữ “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” được ghi rõ trong Sắc lệnh luật số 50: “Xét vì bắt đầu từ ngày 2/9/1945 nước Việt Nam đã tuyên bố độc lập cho toàn thể quốc dân và thế giới biết; Xét vì ngày 24/8/1945, Vua Bảo Đại đã tuyên bố thoái vị và giao chính quyền lại cho Chính phủ dân chủ cộng hoà; Xét vì cần nêu cao một kỷ nguyên mới để đánh dấu vào lịch sử nước ta, nhưng độc lập, tự do và hạnh phúc mà chính thể dân chủ cộng hòa mang lại cho dân chúng”; qua Thư gửi Ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng (17/10/1945): “Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Nhưng nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(7) và lời phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban Nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (10/1/1946): “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”(8); qua tinh thần, ý chí “Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) và tuyên bố “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong Lời kêu gọi chống Mỹ, cứu nước (17/7/1966)… vừa thiêng liêng, vừa có sức mạnh cổ vũ, truyền cảm hứng lớn lao đối với bao thế hệ người Việt Nam yêu nước. Cho nên, nếu cho rằng “thực chất của hạnh phúc” chính là việc con người phải được thụ hưởng quyền con người đúng nghĩa theo Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948 thì đúng là hạnh phúc thực sự đã được thực hiện ở Việt Nam từ khi có Đảng lãnh đạo. Càng kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định con đường đi lên chủ nghĩa xã hội dù phải trải qua nhiều khó khăn, thử thách, thì mỗi người dân Việt Nam yêu nước càng thấy rõ hơn, sâu sắc hơn ý nghĩa thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 và giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” trong tư tưởng Hồ Chí Minh.

 

 
Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chương trình kinh tế - xã hội lớn nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của nhân dân. Ảnh: Tư liệu

Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều chương trình kinh tế - xã hội lớn nhằm bảo đảm và nâng cao chất lượng thụ hưởng các quyền con người của nhân dân. Ảnh: Tư liệu

 

 

KIÊN ĐỊNH MỘT NƯỚC VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA “ĐỘC LẬP- TỰ DO - HẠNH PHÚC”

 

Nhận thức sâu sắc rằng Tự do là “quyền của con người” (9) và người dân chỉ có được Tự do, Hạnh phúc trong một quốc gia độc lập, thống nhất, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng đã kiên trì vượt mọi khó khăn, thách thức để chiến đấu và chiến thắng; đã không chỉ làm nên một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc thành công (1930-1945) mà còn giành thắng lợi trong hành trình đấu tranh cho một Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, non sông liền một dải (1945-1975). Vì thế, kiên định, vững bước trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, Việt Nam đã tiến hành công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng (từ 1986 đến nay) với một đường lối đổi mới đúng đắn, phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để không chỉ xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước đi đến phồn vinh, mà còn nỗ lực thực thi trong từng quyết sách để đảm bảo mỗi người dân Việt Nam đều được sống trong “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự.

Hơn nữa, vì “tự do là sản phẩm tất yếu của sự phát triển lịch sử”(10) nên Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ghi rõ tại Điều 3: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”, song cũng hiến định rõ rằng “2. Mọi người có nghĩa vụ tôn trọng quyền của người khác. 4. Việc thực hiện quyền con người, quyền công dân không được xâm phạm lợi ích quốc gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác” tại Điều 15. Đồng thời, Điều 14 cũng ghi rõ: “2. Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”. Sự giới hạn này tùy thuộc điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, nhưng phải tuân theo nguyên tắc giới hạn quyền con người tại Điều 29: “1) Ai cũng có nghĩa vụ đối với cộng đồng trong đó nhân cách của mình có thể được phát triển một cách tự do và đầy đủ. 2) Trong khi hành xử những quyền tự do của mình, ai cũng phải chịu những giới hạn do luật pháp đặt ra ngõ hầu những quyền tự do của người khác cũng được thừa nhận và tôn trọng, những đòi hỏi chính đáng về đạo lý, trật tự công cộng và an lạc chung trong một xã hội dân chủ cũng được thỏa mãn” của Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền 1948. Cho nên, các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch cần phải hiểu rằng, ở Việt Nam, quyền con người, quyền công dân được Hiến pháp và pháp luật bảo đảm; trong đó có các quyền về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,v.v.. thì “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự của mỗi người dân không phải là “tự do không giới hạn” như chiêu trò kích động, xuyên tạc, mà chính là đời sống vật chất và tinh thần ngày mỗi ngày được nâng cao hơn; quyền con người, quyền công dân ngày càng được đảm bảo hơn bởi đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách, pháp luật ngày càng hoàn thiện của Nhà nước.

 

Với một hệ thống pháp luật ngày càng được bổ sung, hoàn thiện góp phần đảm bảo, thực thi, thúc đẩy quyền con người, quyền công dân (từ Hiến pháp năm 1946 đến Hiến pháp năm 2013; với các luật, bộ luật như Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân 2015; Luật Tín ngưỡng, tôn giáo 2016; Luật Báo chí 2016; Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Bộ luật Lao động 2019; Luật Xuất cảnh, nhập cảnh của công dân Việt Nam 2019; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022…) và với việc đã tham gia hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về quyền con người (Công ước về các quyền dân sự và chính trị 1966; Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa 1966; Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979; Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc 1969; Công ước về quyền trẻ em 1989; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục con người…) cùng sự nỗ lực thực hiện được cộng đồng quốc tế ghi nhận, được nhân dân tin tưởng, ủng hộ, có thể khẳng định rằng: Ở Việt Nam, “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” thực sự đã hiện hữu, cho nên luận điệu Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam không thực hiện đa đảng đối lập, đa nguyên chính trị thì người dân không có được “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” đúng nghĩa và quyền dân chủ, tự do tôn giáo, tự do ngôn luận “chỉ có ở trên giấy” chỉ là sự suy diễn, xuyên tạc của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch luôn âm mưu chống phá Đảng và chế độ.

Đặc biệt, mới đây, từ 21-24/8/2024 tại Hà Nội, gần 600 đại biểu đã tham dự “Hội nghị người Việt Nam toàn thế giới lần thứ 4” và “Diễn đàn Trí thức và Chuyên gia người Việt Nam ở nước ngoài năm 2024”, với chủ đề “Người Việt Nam ở nước ngoài chung tay hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước”. Đây chính là một diễn đàn, một không gian mở để kiều bào gặp gỡ, trao đổi, chia sẻ ý tưởng và đóng góp vào quá trình phát triển đất nước. Đồng thời, đó cũng là một minh chứng khẳng định Việt Nam đang tiếp tục triển khai Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng; Chỉ thị 45/CT-TW năm 2015 tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết 36-NQ/TW về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới và Kết luận số 12-KL/TW của Bộ Chính trị về công tác người Việt Nam ở nước ngoài trong tình hình mới… để thúc đẩy hơn nữa công tác chăm lo, hỗ trợ kiều bào, củng cố, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Vì thế, việc Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn trân trọng từng ý kiến tâm huyết, đóng góp của các tầng lớp nhân dân, trong đó có đội ngũ trí thức, bà con kiều bào để kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, xây dựng, bảo vệ, phát triển đất nước “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” là sự thật không thể phủ nhận/không thể bẻ cong. Và cũng vì thế, nếu một ai đó, một nhóm người nào đó nhân danh quyền tự do ngôn luận, quyền con người để tiến hành các hoạt động tung tin xấu độc, tuyên truyền, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ bằng những luận điệu xảo trá… thì chính là vi phạm pháp luật theo Điều 117, 331 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và kêu gọi tụ tập biểu tình, kích động biểu tình trái phép gây rối trật tự, phá hoại an ninh quốc gia… thì chính là vi phạm Điều 118, 318 Bộ Luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đến dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4

Thủ tướng Phạm Minh Chính và các đại biểu đến dự Hội nghị người Việt Nam ở nước ngoài toàn thế giới lần thứ 4

 

Cuối cùng, phải khẳng định rằng, trước một đất nước Việt Nam ngày càng phát triển bền vững, hòa hiếu và rộng mở luôn là điểm đến, là sự lựa chọn của các nhà đầu tư nước ngoài, của du khách quốc tế bởi chính trị ổn định, môi trường hòa bình, an ninh, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, hệ thống pháp luật ngày càng đồng bộ,v.v.., với chỉ số hạnh phúc năm sau luôn được xếp cao hơn năm trước: “Năm 2024, Việt Nam đứng thứ 54 trong tổng số 143 quốc gia/vùng lãnh thổ được khảo sát/tăng 11 bậc so với xếp hạng năm 2023. Xét ở khu vực châu Á thì Việt Nam đứng vị trí thứ 6/sau Sinagpore, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc và Philippines” (11) … thì mọi luận điệu phản động, xuyên tạc sự thật cho rằng ở Việt Nam - người dân không có quyền con người/không được thực sự thụ hưởng giá trị của “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc” chỉ là chiêu trò "diễn biến hòa bình" của các phần tử bất mãn, cơ hội, phản động, thù địch./.


 

Phát huy tính Đảng trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Lần đầu tiên Đảng ta ban hành một Nghị quyết chuyên đề về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó xác định các mục tiêu chủ yếu là: Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045. Việc thực hiện thành công các mục tiêu này có ý nghĩa rất quan trọng, là tiền đề vững chắc để đất nước phát triển bền vững trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Thực hiện Nghị quyết số 27-NQ/TW, trong gần 2 năm qua, chúng ta đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Trong đó, xây dựng pháp luật có nhiều đổi mới, năng lực phản ứng chính sách được nâng cao, góp phần tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh; công tác tổ chức thực hiện pháp luật ngày càng gắn kết hơn với xây dựng và hoàn thiện pháp luật; cải cách hành chính, chuyển đổi số được đẩy mạnh và có những kết quả nhất định; công cuộc phòng, chống tham nhũng, tiêu cực được triển khai bài bản, thường xuyên và đạt được nhiều kết quả với tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ, xử lý một vụ, cảnh tỉnh cả vùng, cả lĩnh vực, qua đó giúp tăng cường một bước kỷ cương, trách nhiệm, tính nghiêm minh trong thực thi công vụ.

Tuy nhiên, việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Nhận thức về tầm quan trọng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam có lúc, có nơi chưa đồng đều. Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao; hệ thống pháp luật còn có quy định mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với sự phát triển kinh tế, xã hội, chậm được bổ sung, sửa đổi, thay thế. Cơ chế, chính sách, pháp luật chưa tạo dựng được môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng như trong Nhân dân. Công tác sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập, một bộ phận còn cồng kềnh, chồng lấn giữa lập pháp và hành pháp, chưa thực sự đáp ứng yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý. Một số bộ, ngành chưa đẩy mạnh phân cấp, phân quyền cho địa phương, làm thay công việc của địa phương dẫn đến tồn tại cơ chế xin, cho, dễ nảy sinh tiêu cực, tham nhũng. Công tác cải cách hành chính, chuyển đổi số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số còn hạn chế. Tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu, còn một bộ phận cán bộ chưa chủ động, thiếu trách nhiệm trong thực thi công vụ; tình trạng đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, "đổ lỗi" cho hệ thống pháp luật để không thực hiện chức trách, nhiệm vụ vẫn còn tồn tại ở một số bộ, ngành, địa phương.

Những tồn tại, hạn chế nêu trên đã làm suy giảm ý nghĩa, vai trò của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên thực tiễn.

Để thực hiện các mục tiêu phát triển đất nước trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, đòi hỏi tiếp tục phải đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và xã hội; phát huy quyền làm chủ của Nhân dân và xử lý hài hòa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ và phát huy vị trí, vai trò của từng nhân tố này trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó cần chú ý các vấn đề cơ bản sau đây:

Một là,
 Đảng ta là Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng là tuyệt đối, trực tiếp, toàn diện, bao trùm mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là biện pháp, cách thức để thực hiện thành công mục tiêu của Đảng ta đã được xác định trong Điều lệ Đảng: "xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản". Đảng lãnh đạo bằng đường lối, chính sách; lãnh đạo thể chế hóa đường lối, chính sách thành pháp luật để quản lý Nhà nước và xã hội. Như vậy, pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cần phải liên tục được hoàn thiện để thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng, phát huy dân chủ, vì con người, công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Để thực hiện tốt công tác này cần có cơ chế kiểm soát hiệu quả việc thể chế hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng thành pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, phải có quy trình xây dựng pháp luật chặt chẽ, khoa học, dân chủ để chính sách, pháp luật thể hiện được đầy đủ ý chí, nguyện vọng của nhân dân, bảo vệ lợi ích nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân, khuyến khích đổi mới sáng tạo, thu hút mọi nguồn lực cho sự phát triển; nhưng cũng phải linh hoạt để kịp thời phản ứng chính sách, có giải pháp xử lý kịp thời các vấn đề thực tiễn phát sinh làm chậm sự phát triển theo nguyên tắc bảo vệ, bảo đảm lợi ích của quốc gia, dân tộc là trước hết và trên hết. Là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, Quốc hội cần đóng vai trò chủ đạo, có các giải pháp bảo đảm hệ thống pháp luật được ban hành đáp ứng được các yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ủy ban Thường vụ Quốc hội cần phát huy vai trò là cơ quan có thẩm quyền giải thích pháp luật để những vướng mắc trong thực thi các đạo luật được xử lý kịp thời, đáp ứng yêu cầu của cuộc sống. Trong quá trình tổ chức thi hành pháp luật, Chính phủ cần theo dõi, đánh giá tình hình thi hành pháp luật để kịp thời phát hiện những quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, chưa phù hợp với thực tiễn, cản trở đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực đầu tư, sản xuất, kinh doanh để có biện pháp xử lý, không để một số điều luật trở thành điểm nghẽn cản trở thực hiện quyền con người, quyền công dân và phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng phát huy dân chủ để Nhân dân tham gia hoạt động quản lý Nhà nước theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ chức khoa học, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Hoạt động công vụ phải bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, thực hiện quyền hạn theo chức trách, thẩm quyền, có sự thanh tra, kiểm tra chặt chẽ. Bên cạnh đó, với đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì các vị trí lãnh đạo trong bộ máy nhà nước được cơ cấu các vị trí lãnh đạo cấp ủy đảng tương ứng chịu trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động của cơ quan trong bộ máy nhà nước từ trung ương đến cơ sở, hình thành cơ cấu lãnh đạo chặt chẽ của Đảng đối với hoạt động quản lý nhà nước. Từ nguyên lý và thực tiễn này, để phát huy hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước đối với xã hội bằng pháp luật trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì cần phải tăng cường đồng thời 2 yếu tố: Đức trị và pháp trị. Trong đó, yếu tố "đức trị" là sự phát huy các ưu điểm, thế mạnh, vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng, tính tiên phong, nêu gương của cán bộ Đảng viên để dẫn dắt yếu tố "pháp trị" là việc thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật. Sự thượng tôn pháp luật là biểu hiện của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, vì vậy, cán bộ đảng viên phải gương mẫu, đi đầu trong chấp hành và tuân theo pháp luật. Bên cạnh đó, cơ quan nhà nước có trách nhiệm tổ chức thi hành pháp luật trong lĩnh vực mình quản lý, do đó, đảng viên là công chức, viên chức cần tích cực giải quyết công việc theo thẩm quyền và hoàn thành tốt nhiệm vụ; chủ động phát hiện, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn, nhất là các khó khăn, vướng mắc trong thực thi pháp luật để kịp thời có giải pháp hoặc tham mưu, báo cáo cấp có thẩm quyền xử lý. Hay nói cách khác, sẽ không có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên thực tế nếu như cán bộ, đảng viên, cơ quan Nhà nước thờ ơ, thiếu trách nhiệm, vô cảm với quyền lợi hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp và sự phát triển kinh tế - xã hội.

Phát huy đạo đức cách mạng của từng cán bộ đảng viên, tinh thần trách nhiệm, chủ động của từng cơ quan, đơn vị trong bộ máy nhà nước thì các mục tiêu cải cách hành chính, cải cách tư pháp được thực hiện; người dân, doanh nghiệp sẽ thực sự là trung tâm, là đối tượng phục vụ theo nguyên tắc thượng tôn pháp luật thì pháp luật sẽ đi vào cuộc sống, pháp luật điều chỉnh một cách toàn diện, đầy đủ mọi quan hệ xã hội. Kết quả là, xã hội sẽ vận hành và phát triển theo đúng đường lối, chính sách mà Đảng đã ban hành. Từ đó, đất nước ta sẽ đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh theo đúng Cương lĩnh và mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, năm 2045 mà Đảng ta đã đề ra.

Ba là, trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhân dân được xác định là người làm chủ theo quy định pháp luật và vận hành theo nguyên tắc "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Tuy nhiên, để có dân chủ thực chất thì bên cạnh việc phải có hệ thống pháp luật hoàn thiện theo các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thì sự vận hành hiệu quả của hệ thống chính trị cũng phải đáp ứng, phù hợp với nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, pháp luật. Cũng tương tự như trong quản lý nhà nước, vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng và sự phát huy tính tiền phong, gương mẫu, đức hi sinh vì sự nghiệp chung của cán bộ đảng viên có ý nghĩa quan trọng trong phát huy quyền làm chủ của nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý xã hội.

Để làm được điều này, cần đổi mới, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng, đảm bảo hoạt động sinh hoạt chi bộ thực chất, hiệu quả. Bên cạnh việc triển khai, quán triệt, học tập văn bản, nghị quyết của cấp trên như cách làm hiện nay thì nội dung sinh hoạt chi bộ cơ sở Đảng cần nghiên cứu, bổ sung các chuyên đề như: Nội dung pháp luật cần triển khai; các vấn đề mà thực tiễn pháp lý đặt ra liên quan đến quyền lợi của người dân; vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cần giải quyết; các vấn đề dư luận xã hội, quần chúng quan tâm cần định hướng về quan điểm, nội dung chính sách, pháp luật và đấu tranh phản bác quan điểm sai trái của các thế lực thù địch… Để đạt được các mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì những vấn đề thiết thực này cần được các cấp ủy thảo luận, quán triệt đến đảng viên ngay từ cơ sở với tinh thần mỗi chi bộ là một tế bào của Đảng ta. Để Đảng vững mạnh thì mỗi chi bộ cơ sở cần phát huy vai trò, đổi mới hoạt động sinh hoạt để có những đóng góp thiết thực cho Đảng. Mỗi đảng viên là nhân tố quan trọng lan tỏa tinh thần dân chủ và thượng tôn pháp luật đến nhân dân; để từ đó phát huy dân chủ trong nhân dân, làm cho mọi cá nhân, tổ chức đồng tình, ủng hộ với đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và chủ động tuân thủ, thực thi pháp luật.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, nhân dân là chủ thể của quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi công dân tích cực, chủ động tham gia vào công tác xây dựng, hoàn thiện pháp luật, có ý thức thượng tôn pháp luật thì sẽ tạo nên sức mạnh của cả hệ thống chính trị để hoàn thành các mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và đưa đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

 Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Tổng Bí thư Tô Lâm làm việc với Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Nội chính Trung ương Phan Đình Trạc; Bí thư Trung ương Đảng, Chánh Văn phòng Trung ương Đảng Nguyễn Duy Ngọc; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định; Ủy viên Trung ương Đảng, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long; lãnh đạo các ban, bộ, ngành Trung ương.

Về phía Bộ Tư pháp có Bộ trưởng Nguyễn Hải Ninh, các Thứ trưởng cùng đại diện các cục, vụ thuộc Bộ.

Bảo đảm thể chế là chỗ dựa vững chắc, tin cậy cho đất nước bước vào kỷ nguyên mới

Báo cáo tại buổi làm việc, Phó Bí thư Ban Cán sự đảng, Thứ trưởng Bộ Tư pháp Nguyễn Khánh Ngọc cho biết, từ đầu nhiệm kỳ, Ban Cán sự đảng Bộ Tư pháp đã bám sát các văn bản chỉ đạo của Trung ương, có nhiều đổi mới và quyết liệt trong lãnh đạo, chỉ đạo Bộ, Ngành Tư pháp để có đóng góp tích cực trong xây dựng và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng; hoàn thành tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao.

Về công tác xây dựng pháp luật, từ đầu nhiệm kỳ đến nay, Ban cán sự đảng ban hành 31 nghị quyết, kết luận về công tác xây dựng pháp luật, tổ chức 5 buổi làm việc với các đơn vị xây dựng pháp luật để có các định hướng các vấn đề lớn và tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc trong công tác này. Bộ Tư pháp đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành tham mưu Chính phủ trình Quốc hội thông qua 43 luật, 19 nghị quyết quy phạm, trình Chính phủ ban hành 552 nghị định, tạo cơ sở pháp lý thúc đẩy đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, tháo gỡ khó khăn cho người dân, doanh nghiệp.

Ngoài ra, công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hóa, hợp nhất văn bản quy phạm pháp luật, pháp điển hệ thống quy phạm pháp luật được tăng cường, đi cùng với nâng cao hiệu quả việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật với tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, đẩy mạnh theo dõi thi hành pháp luật, góp phần làm cho pháp luật đến gần với người dân, doanh nghiệp và đi vào cuộc sống.

Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng kết quả thi hành án dân sự liên tục tăng qua các năm cả về số lượng việc và tiền; năm 2024 đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đặc biệt là thu hồi tài sản trong các vụ án hình sự về tham nhũng, kinh tế. Công tác hộ tịch, quốc tịch, chứng thực, lý lịch tư pháp có nhiều đổi mới, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân trong thực hiện thủ tục hành chính, góp phần đẩy mạnh xây dựng Chính phủ điện tử, Chính phủ số.

Công tác bổ trợ tư pháp với nhiều nghề bổ trợ tư pháp như luật sư, tư vấn pháp luật, công chứng, giám định tư pháp, đấu giá tài sản, thừa phát lại, trọng tài thương mại… ngày càng phát triển mạnh mẽ. Công tác trợ giúp pháp lý ngày càng thể hiện được vị trí, vai trò trong thực hiện các chính sách tốt đẹp của Đảng, Nhà nước ta đối với người nghèo, nhóm yếu thế trong xã hội và các đối tượng chính sách khác. Công tác pháp luật quốc tế và các vấn đề pháp lý có yếu tố nước ngoài ngày càng phát triển với nhiều vấn đề mới, phức tạp phát sinh.

Về phương hướng, nhiệm vụ chủ yếu đến hết nhiệm kỳ, Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp sẽ nỗ lực, cố gắng để tham mưu cho Đảng, Quốc hội, Chính phủ có nhiều đổi mới trong xây dựng và thi hành thể chế theo nghĩa rộng bao gồm cả các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước để bảo đảm thể chế là chỗ dựa vững chắc, tin cậy cho đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Trước mắt, Ban Cán sự Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Bộ, Ngành Tư pháp nghiên cứu kỹ, tham mưu Chính phủ, Quốc hội báo cáo Bộ Chính trị để có định hướng đổi mới căn bản quy trình xây dựng pháp luật, từ đó đề xuất sửa đổi, bổ sung kịp thời Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, trong đó thay đổi tư duy xây dựng pháp luật, thể chế hóa được cách tiếp cận lấy con người là trung tâm, là mục tiêu, chủ thể và là động lực phát triển...

Đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp

Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Tổng Bí thư Tô Lâm ghi nhận, đánh giá cao, chúc mừng những thành tích, kết quả mà Bộ, Ngành Tư pháp đã đạt được trong những năm qua.

Tuy nhiên, Tổng Bí thư chỉ rõ, công tác hoàn thiện thể chế, trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện pháp luật có phần trách nhiệm quan trọng của Bộ, Ngành Tư pháp vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế; đề nghị Bộ, Ngành Tư pháp lưu tâm, sớm có giải pháp khắc phục. Đó là: Một số chủ trương, định hướng lớn của Đảng chưa được thể chế kịp thời, đầy đủ hoặc đã thể chế nhưng tính khả thi không cao.

Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi; các quy định chưa thực sự đồng bộ, còn chồng chéo, nhiều quy định còn chưa rõ ràng, rườm rà, cản trở việc thực thi, gây thất thoát, lãng phí các nguồn lực; chưa tạo môi trường thực sự thuận lợi để thúc đẩy đổi mới sáng tạo, thu hút nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân.

Việc phân cấp, phân quyền phần lớn chỉ dừng ở chủ trương, chưa thể hiện nhiều trong các văn bản pháp luật, chưa triệt để, chưa rõ trách nhiệm, vẫn tập trung nhiều ở Trung ương. Tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu; chưa có cơ chế hữu hiệu để nhận diện và phản ứng chính sách kịp thời. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy hành chính nhà nước chưa tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả hoạt động chưa cao, việc giảm đầu mối, giảm cấp trung gian còn bất cập. Đáng chú ý, dấu hiệu bị tác động, “lợi ích nhóm” trong quá trình xây dựng, thẩm định các văn bản pháp luật là đáng lo ngại, gây ra thiệt hại, thậm chí tạo khúc quanh đối với phát triển...

Nêu rõ công tác xây dựng pháp luật có vai trò, vị trí, tầm quan trọng đặc biệt, có ý nghĩa then chốt để nắm bắt thời cơ, khơi thông, huy động mạnh mẽ nguồn lực cho phát triển, chăm lo cho nhân dân, Tổng Bí thư nhấn mạnh, không phải ngẫu nhiên mà từ Đại hội XII đến nay Đảng ta đều xác định đột phá về thể chế, trọng tâm là đột phá về pháp luật là đột phá chiến lược. Để đất nước vững vàng bước vào kỷ nguyên mới, sớm hoàn thành thắng lợi các mục tiêu chiến lược mà Đảng đã đề ra, thực tiễn nóng bỏng đang đòi hỏi công tác xây dựng pháp luật ở tầm cao mới, thật sự tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển.

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm Phòng truyền thống Bộ Tư pháp. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Tổng Bí thư Tô Lâm thăm Phòng truyền thống Bộ Tư pháp. Ảnh: Thống Nhất/TTXVN

Tổng Bí thư đề nghị đổi mới mạnh mẽ công tác lập pháp theo chức năng, nhiệm vụ của Bộ Tư pháp, trong đó cần đổi mới tư duy xây dựng pháp luật.

Đối với Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh do Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp chỉ đạo đề xuất hằng năm, Tổng Bí thư yêu cầu phải xuất phát trên cơ sở thực tiễn phát triển của Việt Nam, những điểm nghẽn, nút thắt có nguyên nhân từ quy định của pháp luật cần tháo gỡ; những vấn đề mới, thực tiễn phát triển nóng bỏng chưa có quy định của pháp luật điều chỉnh; những chủ trương mới của Đảng chưa được thể chế hoá để xây dựng, đề xuất Chương trình.

Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh phải thật sự sống động, thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn, kịp thời chủ trương của Đảng, phản ánh hơi thở thực tiễn, bám sát thực tiễn, giải quyết vấn đề thực tiễn; phải tháo gỡ các “điểm nghẽn” pháp lý, khẩn trương đưa các nguồn lực xã hội bị đình trệ, lãng phí hoạt động trở lại; tạo cơ sở pháp lý hình thành các động lực tăng trưởng mới, các quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mới, các ngành công nghiệp mới.

Đồng thời, tập trung xây dựng hành lang pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới (trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh…); hình thành cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước; thực hiện cơ chế “Sửa một luật, điều chỉnh nhiều luật” để khắc phục ngay tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo của các luật.

Nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật

Trong thẩm định pháp luật, xây dựng văn bản pháp luật, Tổng Bí thư đề nghị tuyệt đối không để xảy ra lợi ích nhóm, tác động pháp luật, để lọt, đánh giá không toàn diện yếu tố an ninh gây tác động tiêu cực đến lợi ích chung, lợi ích quốc gia, quyền lợi của người dân

Về đổi mới mạnh mẽ quy trình xây dựng pháp luật, Tổng Bí thư lưu ý 3 bảo đảm. Đó là: Bảo đảm dân chủ, minh bạch, kịp thời, khả thi, hiệu quả, dễ áp dụng trên thực tế, tiết kiệm thời gian, chi phí, nâng cao “năng suất và chất lượng” xây dựng pháp luật; bảo đảm đánh giá tác động chính sách thực chất; bảo đảm thực hiện cơ chế tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu tác động là người dân, doanh nghiệp, không để lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ, không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế các quy định pháp luật.

Ngoài ra, phát huy cao độ tính đảng trong xây dựng, hoàn thiện và thực thi pháp luật; tập trung hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của các cơ quan trong hệ thống chính trị, gắn với tinh thần đẩy mạnh phân cấp, phân quyền và cải cách tối đa thủ tục hành chính.

Đồng thời, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật với 4 nhiệm vụ, cụ thể là đổi mới công tác phổ biến giáo dục pháp luật và tập trung xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, trước hết là trong cán bộ, đảng viên và cán bộ, đảng viên Ngành Tư pháp; thường xuyên đánh giá hiệu quả pháp luật sau ban hành; chủ động phát hiện và tháo gỡ nhanh nhất những điểm nghẽn có nguyên nhân từ các quy định của pháp luật.

Các nhiệm vụ tiếp theo là hoàn thiện quy định giải thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật theo hướng ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, cơ sở giải thích, áp dụng pháp luật để bảo đảm sức sống của pháp luật thay vì thường xuyên thay đổi pháp luật; đề cao hơn nữa trách nhiệm của Bộ Tư pháp trong đổi mới hoạt động của hệ thống cơ quan thi hành án dân sự, hành chính theo hướng rút ngắn thời gian, giảm thiểu chi phí; tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động hành nghề luật sư; bảo đảm công chứng, hòa giải, trọng tài, thừa phát lại, giám định tư pháp phải thiết thực, hiệu quả, vì lợi ích cao nhất của đất nước, của người dân.

Tổng Bí thư cũng lưu ý việc phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật; nâng cao trách nhiệm tham gia hội nhập quốc tế, trách nhiệm xây dựng luật pháp quốc tế, bảo vệ quyền lợi của Việt Nam.

Trên cơ sở các kiến nghị, đề xuất của Ban Cán sự Đảng Bộ Tư pháp và ý kiến phát biểu, Tổng Bí thư nhất trí xem xét đưa vào Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư năm 2025 nội dung nghiên cứu xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chỉ thị về “Đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới”.

Tổng Bí thư tin tưởng, với truyền thống gần 80 năm xây dựng và trưởng thành, với tâm huyết, khát khao, trí tuệ, Bộ, Ngành Tư pháp nhất định sẽ có bước phát triển mạnh mẽ, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước.

 Chuẩn bị tổ chức thật tốt Lễ công bố và trao Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024

Hội nghị Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024.

Hội nghị Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024.

Tham dự Hội nghị có các đồng chí thành viên Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Giải Búa liềm vàng; Lãnh đạo Bộ Công an, Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cán bộ Trung ương, UBND TP. Hà Nội.

Tại Hội nghị, đồng chí Phan Thăng An, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Tổ chức Giải đã công bố các quyết định thành lập Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024; Kế hoạch 207-KH/BTCTW ngày 29-10-2024 của Ban Tổ chức Trung ương về tổ chức Lễ công bố và trao Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024.

Đồng chí Phan Thăng An cho biết, thực hiện ý kiến chỉ đạo của đồng chí Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Công văn số 11772-CV/VPTW ngày 19-10-2024 của Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tổ chức Trung ương đã xây dựng Kế hoạch thực hiện. Theo đó, Lễ công bố và trao Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024 đã được Ban Chỉ đạo quyết định chọn tổ chức vào tối 20-1-2025 tại Nhà hát Hồ Gươm - Hà Nội.

Đồng chí Phan Thăng An, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Tổ chức Giải phát biểu tại Hội nghị.

Đồng chí Phan Thăng An, Phó Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Tổ chức Giải trình bày Kế hoạch 207-KH/BTCTW ngày 29-10-2024 của Ban Tổ chức Trung ương về tổ chức Lễ công bố và trao Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024..

Báo cáo kết quả triển khai tổ chức Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024, đồng chí Ngô Minh Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng (Cơ quan Thường trực Giải Búa liềm vàng) cho biết, qua tiếp nhận các tác phẩm gửi sớm về Cơ quan Thường trực Giải cho thấy, các tác phẩm tham dự Giải Búa liềm vàng năm 2024 ở các cơ quan báo chí Trung ương và địa phương tiếp tục phong phú về chủ đề, thể loại. Hầu hết các tác phẩm đã bám sát các vấn đề nóng, các sự kiện nổi bật, nhiệm vụ trọng tâm của hệ thống chính trị và đất nước, nhiều tác phẩm đã đi sâu phản ánh vấn đề thời sự của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tình hình, kết quả qủa 4 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng cùng với nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025 và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương khoá XIII. Các tác phẩm phản ánh việc tích cực, chủ động chuẩn bị đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng; những yêu cầu mới, cao hơn đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị với những nhiệm vụ, giải pháp đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm đã phát hiện, chỉ ra những bất cập, hạn chế, những “điểm nghẽn” trong thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 và trong thực hiện 6 nhiệm vụ trọng tâm Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Một số tác phẩm đề cập tới những vấn đề bức xúc hiện nay, có tính phản biện xã hội, chiến đấu cao…

Nét mới trong nội dung các tác phẩm báo chí tham dự Giải Búa liềm vàng năm nay là đã phản ánh sinh động, kịp thời những sự kiện, sinh hoạt chính trị của Đảng như Hội nghị Trung ương lần thứ 9, 10 và các nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương (khoá XIII), tạo diễn đàn sôi nổi về các vấn đề như tổng kết công tác xây dựng Đảng cả nhiệm kỳ và việc thi hành Điều lệ Đảng, tổng kết Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 30-5-2019 của Bộ Chính trị khoá XII và triển khai thực hiện Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14-6-2024 của Bộ Chính trị khoá XIII về đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng với một số điểm mới… 

Đồng chí Ngô Minh Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng - Cơ quan Thường trực Giải

Đồng chí Ngô Minh Tuấn, Tổng Biên tập Tạp chí Xây dựng Đảng - Cơ quan Thường trực Giải báo cáo kết quả triển khai tổ chức Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024.

Đồng chí Ngô Minh Tuấn cho biết, bám sát tinh thần chỉ đạo của Ban Chỉ đạo Giải, Ban Tổ chức Giải Búa liềm vàng đã thành lập Hội đồng Sơ khảo và Hội đồng Chung khảo với cơ cấu đổi mới, toàn diện, tăng tính đại diện các lĩnh vực, bảo đảm tính trung lập, khách quan hơn.

Phát biểu tại Hội nghị, đồng chí Lê Minh Hưng, Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tổ chức Trung ương, Trưởng Ban Chỉ đạo Giải Búa liềm vàng nhấn mạnh: Lễ công bố và trao Giải Búa liềm vàng lần thứ IX - năm 2024 là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng thiết thực chào mừng kỷ niệm 95 năm Ngày thành lập Đảng. Theo đó, đồng chí yêu cầu Ban Tổ chức Trung ương phối hợp chặt chẽ với Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Nhà báo Việt Nam và các cơ quan báo chí: Báo Nhân Dân, Tạp chí Cộng sản, Đài Truyền hình Việt Nam và các cơ quan liên quan (Bộ Công an, Ban Bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ cán bộ Trung ương, UBND TP. Hà Nội) thực hiện đạt kết quả với tinh thần trách nhiệm cao các nhiệm vụ đã nêu trong Kế hoạch số 207-KH/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương.

Đồng chí Lê Minh Hưng nhấn mạnh, Lễ công bố và trao Giải cần được tổ chức chu đáo, trang trọng, vừa mang tính chính trị, vừa mang tính nghệ thuật, hấp dẫn, xứng tầm với một giải báo chí lớn, tạo động lực mới đẩy mạnh việc thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, nghị quyết đại hội đảng bộ các cấp nhiệm kỳ 2020-2025, đồng thời tạo không khí phấn khởi tiến hành đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIV của Đảng.

Để Giải Búa liềm vàng thực sự ý nghĩa, lan toả, đồng chí Lê Minh Hưng đề nghị Hội đồng Sơ khảo, Hội đồng Chung khảo với tinh thần công tâm, khách quan, công bằng, nghiêm túc, lựa chọn được những tác phẩm thực sự xứng đáng để trao Giải. Các cơ quan, đơn vị phối hợp hoàn chỉnh kịch bản và các phóng sự về Giải; làm tốt công tác tuyên truyền trước, trong và sau Lễ trao giải, tuyên truyền các tác phẩm đoạt giải trên các phương tiện thông tin đại chúng để tạo hiệu ứng lan tỏa trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.

KHÔNG THỂ PHỦ NHẬN TẦM VÓC VĨ ĐẠI CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH

                                                                                  

Bôi nhọ hình ảnh, uy tín của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chiêu bài rất thâm hiểm của các thế lực thù địch, phần tử phản động, cơ hội chính trị hòng làm mất đi tinh thần dân tộc, lòng tôn kính của nhân dân ta đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Gần đây, trên trang Quyenduocbiet.com, Lê Bá Vận đăng bài “Bác Hồ khước từ Nguyễn Ái Quốc”. Theo đó, bằng cách ngụy tạo chứng cứ, bóp méo tài liệu lịch sử, y trắng trợn xuyên tạc “Nguyễn Ái Quốc là yếu tố bất lợi, làm hoan ố thanh danh và sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh”. Đây là luận điệu hoàn toàn sai trái, cần nhận diện, đấu tranh phản bác và khẳng định như sau: