Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024

"Mặt trời chói lọi" và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô

 

Trong những năm “cải tổ” ở Liên Xô (1985-1991) lan truyền luận điệu Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, do đó cần xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) để “sửa chữa sai lầm lịch sử” đó!?

Luận điệu này là một trong những biểu hiện tập trung của quá trình “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chứng minh Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”.

Nguy hại của sự dối trá

 


Dối trá là một thói xấu nhưng vẫn có ở nhiều người, trong cả cán bộ, đảng viên, gây ra những hậu quả khó lường. Người dối trá cố tình cung cấp thông tin sai sự thật, dẫn đến nhìn nhận, đánh giá không đúng sự việc, vấn đề, con người và nghiêm trọng hơn là sự dối trá gây bức xúc, mất đoàn kết nội bộ, niềm tin, kìm hãm sự phát triển của cá nhân, tập thể và đất nước... Đấu tranh, ngăn chặn thói dối trá là việc rất cần thiết để phòng, chống “tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong nội bộ hiện nay.

Khắc phục tình trạng cán bộ né việc

 


Thời gian qua, tình trạng cán bộ né việc, né trách nhiệm diễn ra khá phổ biến ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, ảnh hưởng nghiêm trọng tới kinh tế-xã hội đất nước, gây bức xúc trong xã hội.

Mặc dù lãnh đạo Đảng, Nhà nước đã chỉ đạo quyết liệt để khắc phục, tuy nhiên tình trạng trên vẫn chưa chấm dứt. Do đó, cần có những giải pháp quyết liệt hơn nữa để làm thay đổi nhận thức, thái độ của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, đồng thời kiên quyết thay thế những cán bộ thiếu trách nhiệm, không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ.

“QUYỀN TỰ DO TÍN NGƯỠNG, TÔN GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ QUYỀN TUYỆT ĐỐI, TỰ DO VÔ NGUYÊN TẮC”

 


Tự do tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu chính đáng, là cái thiêng liêng không ai được xâm phạm hay làm tổn hại. Tôn trọng tự do tín ngưỡng, tôn giáo chính là tôn trọng nhu cầu tâm linh của một bộ phận nhân dân, tôn trọng tự do, dân chủ trong đời sống văn hóa, tinh thần của xã hội. Đây là nguyên tắc hàng đầu và nhất quán của Đảng, Nhà nước Việt Nam vì cuộc sống tinh thần của người dân. Tuy nhiên, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo không phải là quyền tuyệt đối, tự do vô nguyên tắc. Luật pháp quốc tế và của nhiều quốc gia đều quy định quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo là một quyền cơ bản của công dân, nhưng vẫn phải chịu sự điều chỉnh của nhà nước. Điều 18 trong Công ước quốc tế về Các quyền dân sự và chính trị được Liên Hiệp Quốc năm 1966 ghi rõ: “Mọi người đều có quyền về tự do tư tưởng, nhận thức và tôn giáo. Quyền này bao gồm cả quyền tự do thay đổi tôn giáo hay tín ngưỡng, cũng như quyền tự do biểu lộ tôn giáo hay tín ngưỡng của mình, với tư cách cá nhân hay tập thể, ở nơi công cộng hay trong chỗ tư nhân, bằng sự truyền dạy, thực hành, thờ phượng và áp dụng các nghi thức đạo giáo”, song các quyền này vẫn phải giới hạn bởi quy định của pháp luật của nhà nước và những giới hạn này là cần thiết cho việc bảo vệ an toàn, trật tự công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức của công chúng hoặc những quyền tự do cơ bản của người khác... Điều 29 trong Tuyên Ngôn Quốc tế nhân quyền năm 1948 cũng nêu rõ: “Trong việc hành xử nhân quyền và thụ hưởng tự do, mọi người chỉ phải chịu những hạn chế do luật định - và những hạn chế này chỉ nhằm mục tiêu bảo đảm sự thừa nhận và tôn trọng nhân quyền, và quyền tự do của những người khác, cũng như nhằm thỏa mãn những đòi hỏi chính đáng về luân lý, trật tự công cộng, và nền an sinh chung trong một xã hội dân chủ. Trong bất cứ trường hợp nào, nhân quyền và những quyền tự do này cũng không được hành xử trái với những mục tiêu và nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc”.

NHẬN DIỆN VÀ ĐẨU TRANH CHỐNG LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ NHÂN QUYỀN Ở VIỆT NAM

 


Các luận điệu xuyên tạc nhằm phủ nhận những chủ trương đúng đắn của Đảng và chính sách và pháp luật Việt Nam về nhân quyền, thành tựu lý luận và kết quả thực tiễn đạt được về nhân quyền ở nước ta trong gần 40 năm qua. Cổ xúy, thêu dệt cho những giá trị nhân quyền phương Tây, kêu gọi “phong trào bảo vệ tự do tôn giáo”, áp đặt các “chuẩn mực” về “tự do”, “dân chủ”... đối với Việt Nam. Ở Việt Nam, nổi lên một số hội nhóm, tổ chức được sự hỗ trợ của các thế lực, tổ chức phản động nước ngoài nhằm xây lực lượng lượng thành lập đảng chính trị đối lập, thúc đẩy cho việc thực hiện “cách mạng màu”. Lợi dụng kẽ hở về pháp luật để tung hô những vấn đề còn khiếm khuyết, chưa chặt chễ về các vấn đề xã hội, nhằm mục đích gây bạo loạn, mất ổn định xã hội ở Việt Nam. Các luận điệu này đều là sai trái, thiếu khách quan, một chiều, không kiểm chứng và thiếu chính xác về quyền con người, thậm chí nhân danh các tổ chức xã hội dân sự để đóng vai trò phản biện xã hội nhưng thực chất là để tập hợp, lôi kéo lực lượng chống đối Đảng, Nhà nước Việt Nam. Thêm vào đó là việc lợi dụng sức mạnh của truyền thông xã hội, chúng đã tung ra các thể loại bài viết, video, clip… với tần xuất lớn, gây hoang mang tư tưởng, chĩa vào những khiếm khuyết xã hội. các các tổ chức này xuyên tạc, thổi phồng những sự vụ riêng lẻ nhằm vu cáo ở Việt Nam đã và đang vi phạm nghiêm trọng nhân quyền trên mọi lĩnh vực của đời sống, thậm chí chúng sử dụng chiêu bài khoác áo nhân quyền để can thiệp vào chính trị nội bộ Việt Nam. Điển hình là các luận điệu: “nhân quyền không biên giới”; “nhân quyền cao hơn chủ quyền”; “Việt Nam tuyên án đối với những nhà đấu tranh vì quyền của dân tộc thiểu số và quyền tự do tôn giáo đặc biệt là 5 bản án kể từ tháng 1/2024”; “bắt giữ nhiều nhà hoạt động nhân quyền trong thời gian gần đây như: Hoàng Việt Khánh, Nguyễn Chí Tuyến, Nguyễn Vũ Bình",…

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHỮNG BỘ PHIM VỀ NGƯỜI LÍNH THỜI BÌNH - KỶ NIỆM 80 NĂM NGÀY THÀNH LẬP QĐND VIỆT NAM!

     Những hình ảnh đầu tiên của bộ phim truyền hình “Không thời gian” tái hiện hình ảnh chú Bộ đội Cụ Hồ trong thời bình!
Dự án truyền hình “Không thời gian” được sản xuất để kỷ niệm 80 năm thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam. Bộ phim của Đạo diễn Nguyễn Danh Dũng gồm 60 tập (25 phút/tập) sẽ tái hiện lại hình ảnh những anh bộ độ sẵn sàng xông pha vì nước, vì dân trong mọi hoàn cảnh.
Và với những gì xảy ra trong vài ngày qua ở miền Bắc nước ta, khi bão lũ ập đến đe doạ tính mạng biết bao người, thì hình ảnh đầy cảm động của những người lính hy sinh thân mình hỗ trợ, cứu giúp người dân đã thúc đẩy VFC khẩn trương sản xuất để sớm mang đến khán giả cả nước.
Phim nhằm thể hiện những cống hiến, đóng góp, hy sinh của quân đội trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc cũng như gìn giữ, phát huy, lan tỏa những giá trị cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ trong thời bình./.
Môi trường ST.

ĐẾN VỚI NHỮNG CUỐN SÁCH HAY: GIÁO SƯ, NHÀ GIÁO NHÂN DÂN NGUYỄN ĐỨC BÌNH - NHÀ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ BẢN LĨNH VÀ TRÍ TUỆ!

         Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình (tên khai sinh là Nguyễn Bình) sinh ngày 09/09/1927, trong một gia đình nông dân giàu truyền thống yêu nước tại xã Trung Lương, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh!

Hơn 70 năm hoạt động cách mạng, Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình đã đảm nhận nhiều cương vị quan trọng của Đảng và Nhà nước. Trên cương vị nào, đồng chí cũng luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Đồng chí từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng các khóa V, VI, VII, VIII; Bí thư Trung ương Đảng khóa VII; Ủy viên Bộ Chính trị khóa VII và khóa VIII; nguyên: Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1982-2001); Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương (1996 - 2001). Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, đồng chí luôn thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ của một nhà lý luận sắc sảo, nhà giáo tiêu biểu của Đảng; một cán bộ lãnh đạo đức độ và tài năng; có lối sống giản dị, liên khiết; luôn nêu cao tinh thần đoàn kết và phấn đấu hết mình cho sự nghiệp lý luận và đạo tạo cán bộ của Đảng.

Nhân dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (1949-2019), năm 2019, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật phối hợp với Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và Tỉnh ủy Hà Tĩnh xuất bản cuốn sách: "Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình - Nhà lý luận chính trị bản lĩnh và trí tuệ", sách dầy 728 trang, khổ 24 cm.

Nội dung cuốn sách được chia thành 04 phần:
Phần thứ nhất: Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình - người thầy, nhà lý luận chính trị đức độ, uyên bác và kiên định.
Phần thứ hai: Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình với sự nghiệp đào tạo lý luận chính trị.
Phần thứ ba: Một số tác phẩm tiêu biểu của Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình.
Phần thứ tư: Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình nặng lòng với quê hương.

Các bài viết trong cuốn sách thể hiện tình cảm yêu quý, sự kính trọng, cảm phục của bạn bè, đồng chí, học trò, con cháu đối với người đồng chí, người thầy, người cha Nguyễn Đức Bình. Cuốn sách cũng tập hợp nhiều tác phẩm lý luận tiêu biểu, các công trình, bài viết, bài nghiên cứu sâu sắc của Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình.

Cuốn sách là sự tri ân về những cống hiến, đóng góp của Giáo sư, Nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức Bình đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự phát triển của đất nước; với quá trình đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh và với công cuộc xây dựng quê hương Hà Tĩnh.

Qua đó, cuốn sách cũng góp phần giáo dục thế hệ trẻ nói chung cũng như các thế hệ cán bộ, đảng viên, học viên của Học viện nói riêng phải liên tục phấn đấu và rèn luyện về đạo đức cách mạng, truyền thống yêu nước, về tinh thần nỗ lực học hỏi, nghiên cứu, cống hiến, về lối sống chân thành, giản dị, về đức tính khiêm nhường, mẫu mực. Điều này đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong giai đoạn hiện nay, khi Đảng ta đang đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và phát huy tinh thần nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.

Xin trân trọng giới thiệu cuốn sách và mời bạn đọc tìm đọc sách tại Thư viện Quân đội, số 83 Lý Nam Đế - Hoàn Kiếm - Hà Nội./.

Môi trường ST.

 KẾT QUẢ VIỆC NHẬN DIỆN CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH TRONG BẢO VỆ NỀN TẢNG TƯ TƯỞNG CỦA ĐẢNG

Những năm qua, sự phủ định, xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh gây ảnh hưởng lớn đến vai trò nền tảng tư tưởng của Đảng và đe dọa sự tồn vong của chế độ XHCN ở nước ta. Trên cơ sở phân tích âm mưu, thủ đoạn, cách thức xuyên tạc của các thế lực thù địch, những thành tựu và hạn chế của việc nhận diện các thế lực thù địch chống phá xuyên tạc các giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất giải pháp đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng kịp thời, hiệu quả.

1. Mở đầu

Nhằm chống phá sự nghiệp cách mạng, xóa bỏ chế độ XHCN, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng, thủ đoạn của các thế lực thù địch ngày càng tinh vi, xảo quyệt và khó nhận diện. Một trong những nội dung chúng tập trung xuyên tạc đó là những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Sự chống phá thâm độc của các thế lực thù địch gây ảnh hưởng tới vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ. Vì vậy, việc chỉ rõ, nhận diện đúng những thủ đoạn, cách thức mà các thế lực thù địch, phản động sử dụng để phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó nhận rõ những thành tựu, hạn chế trong công tác này để có những biện pháp phù hợp, hiệu quả bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác những luận điệu sai trái, thù địch có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.

2. Khái niệm nhận diện các thế lực thù địch trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

Hiện nay ở nước ta có nhiều cách hiểu về “các thế lực thù địch”. “Các thế lực thù địch” được hiểu là cá nhân, tổ chức có âm mưu, hành vi gây tổn hại đến chủ quyền, lãnh thổ và các lĩnh vực khác của Việt Nam, trái với những quy định của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế; có âm mưu, hành động chống phá sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN; gây ảnh hưởng đến lợi ích đất nước, nhân dân. Hay, “Các thế lực thù địch là tất cả những ai, cá nhân hay tổ chức, Nhà nước hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ở ngoài nước, người Việt Nam hay người nước ngoài... với mục đích chống Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có hoạt động chống phá Việt Nam trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị đều là thành phần của “các thế lực thù địch”(1)…

Như vậy, “các thế lực thù địch” là cá nhân, nhóm người, tổ chức có xu hướng đối nghịch, chống phá, kìm hãm, cản trở sự phát triển của Việt Nam, có âm mưu, hành vi gây tổn hại đến chủ quyền, lãnh thổ, lợi ích quốc gia dân tộc và nhân dân nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ XHCN.

Trong công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, “các thế lực thù địch” có thể là cá nhân, nhóm người, tổ chức chính phủ hay phi chính phủ, hợp pháp hay bất hợp pháp, ở trong nước hay ngoài nước… có âm mưu, thủ đoạn, luận điệu xuyên tạc, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng; xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng; có âm mưu và hành động đi ngược lại với lợi ích quốc gia, dân tộc nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và chế độ XHCN.


Nhận diện các thế lực thù địch trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh ở nước ta hiện nay là việc nhận thức đúng, hiểu rõ về đặc điểm, bản chất, âm mưu, thủ đoạn, luận điệu của các thế lực thù địch xuyên tạc, phản biện những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tìm ra những biện pháp đấu tranh phù hợp, để phản bác một cách thuyết phục những quan điểm sai trái, thù địch; để chiến thắng, hoặc khuất phục, cảm hóa họ trở thành lực lượng của ta, hoặc có những giải pháp buộc họ phải tôn trọng, thừa nhận giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên những điều kiện có tính nguyên tắc.


“Các thế lực thù địch” trong cuộc đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là cá nhân, tổ chức (ở trong nước hay nước ngoài), quốc gia - dân tộc có sự đối lập về hệ tư tưởng, thù địch về chính trị, có cái nhìn cực đoan, phiến diện, sai lệch về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Với nghĩa này, các thế lực thù địch bao gồm cả những người có ý thức hệ đối lập với chủ nghĩa Mác ở các nước tư bản. Trong đó có một số đối tượng là người gốc Việt sống lưu vong ở nước ngoài; và một bộ phận sinh sống trong nước hoạt động một cách “bí mật”, hoặc núp bóng dưới danh nghĩa tri thức (luật sư, nghệ sĩ…). Một số khác từng là những cán bộ, trí thức nhưng do nhận thức sai lệch, hoặc bị mua chuộc, lôi kéo, bị xuống cấp về đạo đức, thoái hóa, biến chất dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, bị “tha hóa” về ý thức chính trị, lập trường tư tưởng, đạo đức cách mạng và trở thành những kẻ “phản bội” Đảng, đất nước và nhân dân...


3. Thực trạng nhận diện các thế lực thù địch trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng


Về hiệu quả nhận diện


Thứ nhất, chúng ta đã nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn, luận điệu công kích, xuyên tạc, bài xích của các thế lực thù địch


Đối với chủ nghĩa Mác - Lênin, trước hết, các thế lực thù địch ra xuyên tạc, cho rằng những lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, nhất là lý luận về CNXH: đã lỗi thời và là sai lầm. Bởi, theo chúng, chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời từ thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX với điều kiện kinh tế - xã hội ở Châu Âu nên không còn phù hợp với thời đại hiện nay, nhất là ở Việt Nam..;


Hai là, các thế lực thù địch phủ nhận thế giới quan triết học duy vật biện chứng, phép biện chứng duy vật, phủ nhận quan điểm duy vật về lịch sử, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, cho rằng lịch sử không hề có quy luật và con người không thể nắm bắt được quy luật xã hội, nên lý giải về sự vận động phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội là sai lầm và con đường đi lên CNXH không phải là tất yếu lịch sử; phủ nhận quan điểm về giai cấp và đấu tranh giai cấp trong thời đại hiện nay, cho rằng thời đại ngày nay không còn đấu tranh giai cấp và quan điểm về chuyên chính vô sản của Lênin là bạo lực, cực đoan và sai lầm; “quy chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan”…;


Ba là, chúng đưa ra những quan điểm xuyên tạc về CNXH khoa học, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, về lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, như: chúng cho rằng CNXH khoa học chỉ là ảo tưởng; giai cấp công nhân không có vai trò là giai cấp tiên phong, lãnh đạo, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân chỉ là “mị dân”; rằng CNXH là sai lầm của lịch sử, CNXH đã cáo chung, và Việt Nam lựa chọn con đường đi lên CNXH là sai lầm, là đi theo vết xe đổ của Liên Xô…;


Bốn là, chúng phủ nhận các giá trị của kinh tế chính trị học Mác - Lênin, như phủ nhận học thuyết giá trị thặng dư, cho rằng giai cấp tư sản không bóc lột giai cấp công nhân; học thuyết giá trị thặng dư không còn phù hợp trong điều kiện Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; rằng bóc lột giá trị thặng dư làm cho lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng và CNTB chưa giãy chết; rằng lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác cũng đã lỗi thời vì máy móc, tự động hóa đã làm thay đổi tính chất quan hệ giữa lao động quá khứ và lao động sống…


Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch tập trung chĩa mũi nhọn xuyên tạc công lao, cuộc đời, sự nghiệp của Người nhằm bôi nhọ hình ảnh của một lãnh tụ vĩ đại trong đời sống tinh thần, tư tưởng của nhân dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Chúng cho rằng Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin về Việt Nam là khiên cưỡng, là không phù hợp, là một “sai lầm của lịch sử”. Hoặc, chúng đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin; xuyên tạc rằng Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải là chủ nghĩa cộng sản; thậm chí, chúng quy kết rằng Người “có tội với lịch sử dân tộc bởi chính Nguyễn Ái Quốc là người đầu tiên tiếp nhận và phất cao ngọn cờ giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản”(2); rằng “Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin với thuyết đấu tranh giai cấp đã gây ra cảnh “nồi da nấu thịt” suốt mấy chục năm” cho dân tộc Việt Nam(3); rằng Hồ Chí Minh không phải là nhà tư tưởng, nhà văn hóa kiệt xuất; phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH…


Thứ hai, chúng ta đã nhận diện được những cách thức hoạt động của các thế lực thù địch


Các lực lượng chuyên trách của Việt Nam đã nhận diện ngăn chặn, gỡ bỏ kịp thời nhiều nội dung phủ nhận, xuyên tạc giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những tin bài trên vlog, blog, chương trình trên các website đặt ở nước ngoài, trên các trang mạng xã hội của các tổ chức phản động, các đài phát thanh BBC, VOA tiếng Việt, Đài Á Châu tự do RFA…


Lực lượng chức năng của Việt Nam nhận diện, cấm lưu hành và thu hồi không ít các ấn phẩm như sách, truyện, hồi ký… mà các thế lực thù địch xuất bản với nội dung phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin; phủ nhận lý luận về CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH hiện thực; ca ngợi, thổi phồng các giá trị của CNTB, coi đó là kiểu mẫu, tuyệt đối hóa những ưu điểm, cố tình bỏ qua, hoặc “làm ngơ” với những hạn chế, khuyết điểm mang tính bản chất, cố hữu của CNTB… Thí dụ, cuốn sách dịch "Đường về nô lệ" có nội dung đánh đồng CNXH ở Liên Xô với chủ nghĩa phátxít; và hai tác phẩm thể hiện rõ tư tưởng, thái độ “chống cộng” quyết liệt, đó là tiểu thuyết “Những năm tháng cuồng nộ” của Khuất Đẩu và 1984 của George Orwell (tác giả của tiểu thuyết “Trại súc vật” ám chỉ, vu cáo chủ nghĩa xã hội)…


Ngoài ra, trong nhiều cuốn sách, chúng ta đã nhận diện được nhiều luận điểm thể hiện rõ sự xuyên tạc, phủ nhận những giá trị nền tảng của tư tưởng Hồ Chí Minh, với những nội dung xuyên tạc, xúc phạm lãnh tụ Hồ Chí Minh bằng những từ ngữ ác ý, cay độc; các ấn phẩm, tài liệu chứa đựng những thông tin sai lệch về Hồ Chí Minh, phủ nhận tư tưởng, đạo đức, công lao, xuyên tạc đời tư của Người.


Thứ ba, chúng ta đã có những phương thức, biện pháp tích cực, chủ động xuất bản nhiều sách, báo, tạp chí, hội thảo, tọa đàm vạch trần các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch


Những năm qua, các cấp ủy Đảng, các chuyên gia, các nhà nghiên cứu lý luận đã tích cực viết bài, thực hiện các đề tài, xuất bản sách nghiên cứu lý luận và tổ chức các hội thảo, tọa đàm vạch trần các âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Đồng thời, phát huy vai trò cán bộ, giảng viên, nhà khoa học của cơ quan, đơn vị, nhà trường, viện nghiên cứu… trong nhận diện các thế lực thù địch, đấu tranh bảo vệ những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới.


Báo chí cũng là phương tiện chủ lực góp phần nhận diện các thế lực thù địch, những âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Hiện nay, hầu hết các tạp chí khoa học xã hội, lý luận chính trị, các báo đều có các chuyên trang, chuyên mục về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ các giá trị khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh… như Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Lý luận chính trị, Tạp chí Tuyên giáo, Lịch sử Đảng, Quốc phòng toàn dân; báo Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, Nhân Dân, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, v.v.. thường xuyên đăng tải những bài viết có nội dung phân tích, luận giải, làm rõ những giá trị bền vững, tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh với số lượng tin, bài ngày càng tăng, nhất là từ khi thực hiện Nghị quyết 35 của Bộ Chính trị. Đây là kênh thông tin chủ lực trong việc nhận diện, chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn, luận điệu của các thế lực thù địch phủ định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.


Một số khó khăn, hạn chế của việc nhận diện các thế lực thù địch


Thứ nhất, vẫn còn bị động, lúng túng, chưa kịp thời nhận diện trước một số nội dung, luận điệu xuyên tạc về những giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch


Những âm mưu, luận điệu phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác- Lênin, xuyên tạc, bác bỏ lý luận về CNXH của các thế lực thù địch rất đa dạng, phức tạp, thường ít thể hiện một cách công khai, trực tiếp mà có sự che đậy rất tinh vi, xảo quyệt, gây khó khăn trong nhận diện. Trong đó, việc “đan cài” những quan điểm đúng - sai, thật - giả, hay thổi phồng tính hợp lý của các luận điệu lên khiến nhiều người không nhận thức được hoặc nhận thức chưa đầy đủ về nội dung này.


Các thế lực thù địch thường lồng ghép, “ẩn giấu” phía sau ngôn ngữ văn học, thơ ca bằng những câu chuyện phản ánh cuộc sống bình thường, những sự kiện, vấn đề trong đời sống xã hội… là cách nhìn tiêu cực, phiến diện, cực đoan, định kiến và tư tưởng phản động, chống đối chế độ, phủ nhận những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin và CNXH hiện thực, thổi phồng những giá trị của CNTB. Nếu không có một “nhãn quan” chính trị nhạy bén, trình độ nhận thức cao thì khó có thể nhận diện ngay được những âm mưu, thủ đoạn phản động, thù địch này. Chính vì vậy, có những tư tưởng sai trái, thù địch không được nhận diện, ngăn chặn kịp thời. Thí dụ như, cuốn sách “Đường về nô lệ” của F.A.Hayek đã “thổi phồng các mặt hạn chế của chủ nghĩa xã hội, đánh đồng CNXH ở Liên Xô với chủ nghĩa phát xít; đề cao các giá trị dân chủ của CNTB, phủ nhận hoàn toàn hệ thống triết học, chính trị, kinh tế, văn hóa của CNXH, phủ định chủ nghĩa Mác, gắn mô hình kinh tế của Liên Xô trước đây với mô hình của chủ nghĩa phát xít, cho rằng tất yếu mô hình đó sẽ dẫn đến nô lệ”(4).


Lại có quan điểm dựa vào những nghiên cứu về một vài hiện tượng có thực trong đời sống xã hội khiến không ít người ngộ nhận vào tính khoa học của chúng. Thí dụ, cuốn sách “Sự kết thúc của lịch sử” của F.Fukuyama cho rằng, chế độ XHCN ở Liên xô bị tan rã chứng tỏ lịch sử loài người không vận động theo các quy luật mà các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin tiên đoán và luận giải. Ông ta kết luận, lịch sử nhân loại đã dừng lại, CNTB là giai đoạn phát triển tột cùng của lịch sử và sẽ tồn tại vĩnh viễn. Sau khi cuốn sách của F.Fukuyama được xuất bản, hàng loạt công trình thể hiện quan điểm của nhiều trường phái tư tưởng, triết học, xã hội học tư sản hiện đại đã được công bố nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phê phán CNXH hiện thực... Tương tự, cuốn sách “Sự đụng độ giữa các nền văn minh” của S.Huntington đã biện giải cho rằng nền văn minh phương Tây là “độc nhất vô nhị”, “vô giá”…


Ở một số nội dung, luận điệu xuyên tạc về Hồ Chí Minh, chúng ta còn không nhận diện, đấu tranh kịp thời. Chẳng hạn tháng 2-1983, các thế lực thù địch tung ra 2 bức thư được cho là của Nguyễn Tất Thành gửi đến Tổng thống nước Cộng hòa Pháp xin vào học trường Thuộc Địa năm 1911 và 1912. Trong đó xuyên tạc mục đích sang Pháp năm 1911 của Hồ Chí Minh không phải cứu nước, cứu dân mà chỉ là mưu cầu hạnh phúc cá nhân. Bức thư này xuất hiện vào năm 1983 nhưng phải đến năm 1987, mới có bài viết phản bác lại đăng trên Tạp chí Cộng sản của tác giả Đinh Xuân Lâm với nhan đề “Cần làm sáng tỏ một số điểm xung quanh lá đơn xin thôi học của Nguyễn Tất Thành”. Chúng ta chủ yếu mới nhận diện, đấu tranh với một số luận điệu trong nghiên cứu và xã hội. Còn nhiều luận điệu cần nhận diện để đấu tranh trực diện chưa được quan tâm đúng mức.


Thứ hai, phương thức tuyên truyền, cảnh báo, ngăn chặn các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đã được nhận diện còn chưa đa đạng, sâu sắc


Tuyên truyền, cảnh báo những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch để mỗi người cảnh giác, phòng ngừa và bảo vệ giá trị của các nguyên lý, học thuyết khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mới sử dụng chủ yếu phương thức tuyên truyền, giáo dục, phổ biến trong công tác nghiên cứu, giảng dạy lý luận chính trị; trên các sách lý luận; báo của Đảng; các tạp chí lý luận chính trị, khoa học xã hội và trên các website, các trang thông tin điện tử của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể… Đây chủ yếu là những kiến thức khoa học mang tính lý luận, nghiên cứu chuyên sâu, hàn lâm, đòi hỏi người đọc phải là những người có trình độ lý luận nhất định, do đó số lượng độc giả không nhiều.


Còn thiếu những sản phẩm phổ biến cảnh báo với hình thức đa dạng, đại chúng, sinh động, thu hút, bắt mắt, dễ đọc, dễ nhớ, dễ tiếp cận cho mọi tầng lớp nhân dân. Còn ít những sản phẩm dưới dạng sách thường thức; chưa có ấn phẩm dưới dạng thơ ca, clip, vlog, hình ảnh, bài viết, các “slogan” trích dẫn câu nói, tư tưởng kinh điển của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin và Hồ Chí Minh trên các trang mạng xã hội… để thu hút sự quan tâm của công chúng và dễ dàng thâm nhập rộng rãi trong đời sống của đông đảo quần chúng nhân dân.


Cách thức tuyên truyền, giáo dục, cảnh báo, phòng ngừa các thế lực thù địch; những âm mưu, thủ đoạn đã được nhận diện còn đơn điệu, thuần lý luận, kén độc giả, khó thu hút bạn đọc, hiệu quả tuyên truyền chưa cao. Do đó, lượng người đọc, tiếp cận còn rất hạn chế, dẫn tới những nội dung tri thức mà các chủ thể cần truyền tải để có thể nhận diện rõ “bạn” - “thù” cũng không đến được rộng rãi các đối tượng công chúng…


Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên là công tác tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh còn bất cập, “chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả, nội dung, phương pháp giáo dục, truyền đạt chậm đổi mới…”(5). Trong nhiều năm gần đây, nội dung, chương trình giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh liên tục bị rút ngắn, thậm chí có tư tưởng xem nhẹ các môn khoa học này ở các cấp học. Đảng ta chỉ rõ: “Hệ thống, chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị còn nhiều bất hợp lý. Phương pháp giảng dạy, học tập lý luận chính trị còn lạc hậu”(6), chưa thoát khỏi tình trạng “tầm chương trích cú”. Nhiều nội dung còn chồng chéo, thiếu liên hệ, minh họa thực tiễn, thiếu tính thời sự, chậm cập nhật, bổ sung tri thức, những sự kiện mới, dẫn đến thiếu hấp dẫn với người học. Do đó, lập trường tư tưởng, hiểu biết chính trị, nhận thức về giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và kỹ năng nhận diện âm mưu, thủ đoạn, luận điệu và “đối tượng thù” ở nội dung này còn yếu.


4. Giải pháp nâng cao khả năng lực nhận diện các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng


Một là, nâng cao hơn nữa nhận thức của đội ngũ cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân về sự cần thiết của việc nhận diện các thế lực thù địch trong đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Tăng cường quán triệt sâu rộng để mọi cán bộ, đảng viên và người dân nâng cao nhận thức, nhận diện rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch hòng phủ nhận giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; từ đó, cảnh giác đấu tranh, ngăn chặn, làm thất bại những âm mưu và hành động xuyên tạc, phủ nhận những giá trị trong nền tảng tư tưởng của Đảng.


Hai là, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị, nâng cao nhận thức, hiểu biết về giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên được trau dồi lý luận và phương pháp luận khoa học nhằm tạo ra “sức đề kháng tự nhiên”, có khả năng nhận diện, đấu tranh những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về những giá trị khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.


Ba là, đa dạng hóa các hình thức, phương thức, sử dụng mọi phương tiện cả áp phíc, pano, hình vẽ, tranh biếm họa, tranh cổ động, slogan trên các phương tiện thông tin đại chúng, tiến hành nhiều hình thức sinh động như sáng tác, phổ biến những bài thơ, bài hát,… có ý nghĩa ca ngợi, phổ biến giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách mới mẻ, dễ tiếp cận, dễ hiểu, dễ nhớ hơn. Phát huy hơn nữa vai trò, lợi thế của các ấn phẩm sách, báo, tạp chí, phát thanh, truyền hình, mạng xã hội, diễn đàn, phim ảnh… trong khẳng định giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, giá trị nhân văn, ý nghĩa thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Mở các cuộc thi sáng tác truyện ngắn, thơ ca, âm nhạc… để ca ngợi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường viết sách, tạp chí nhằm phổ thông hóa, truyền bá tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh một cách đơn giản, dễ hiểu cho mọi người dân Việt Nam có thể hiểu và nhớ … Qua đó góp phần nâng cao khả năng nhận diện, ngăn chặn các thế lực thù địch, đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.


Bốn là, phát huy vai trò của các cơ quan truyền thông báo chí, internet, mạng xã hội để phổ biến, tuyên truyền nâng cao khả năng nhận diện, “điểm mặt, chỉ tên” những tổ, cá nhân phản động thù địch; phổ biến các nội dung, cách thức nhận diện, phát hiện, ngăn chặn, xử lý các đối tượng thù địch nhằm phủ nhận giá trị nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.


Các cơ quan báo chí, truyền thông cần gia tăng những chuyên mục, thông tin phản bác những thông tin xấu, độc, những thông tin không chính xác, bôi nhọ, xuyên tạc quan điểm của Đảng, bôi xấu, hạ thấp uy tín của Đảng, phủ nhận những giá trị trong nền tảng tư tưởng của Đảng.


Năm là, phát huy vai trò của các tổ chức, lực lượng tuyên truyền viên, báo cáo viên để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, giác ngộ quần chúng, định hướng đúng dư luận xã hội về những giá trị của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về tính đúng đắn của các nguyên lý như: lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH, học thuyết giá trị thặng dư, lý luận về thời kỳ quá độ, về nhà nước…


Nhận diện các thế lực thù địch trên mặt trận tư tưởng, những thế lực chống phá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là việc khó khăn, phức tạp bởi các chủ thể chống phá đa dạng, xuất phát từ nhiều lợi ích, lại tiến hành những cách thức, thủ đoạn ngày càng tinh vi, nham hiểm, khó lường. Vì vậy, cần có sự tham gia của cả hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân để nhận diện trúng, xử lý kịp thời bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng./.


 Tạp chí Lý luận Chính trị

 NÂNG CAO VAI TRÒ KINH TẾ NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở NƯỚC TA

Sáng 10/11, tại Hà Nội, Bộ Biên tập Tạp chí Cộng sản, Ủy ban Quản lý vốn Nhà nước tại doanh nghiệp và Đảng ủy Khối Doanh nghiệp Trung ương phối hợp tổ chức Hội thảo “Nâng cao vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam - thực tiễn Tổng Công ty Hàng không Việt Nam - Vietnam Airlines”.

Đồng chí Lê Hải Bình, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng Biên tập Tạp chí Cộng sản, chủ trì hội thảo. Cùng dự, có đại diện lãnh đạo nhiều ban, bộ, ngành, cơ quan Trung ương, tập đoàn, tổng công ty, đông đảo các chuyên gia, nhà khoa học.

Đề dẫn hội thảo nêu rõ, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo;..

Các tham luận, ý kiến gửi đến trình bày tại hội thảo, từ nhiều góc độ, cùng làm rõ vị trí, vai trò của kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; khẳng định tính cấp bách, cần thiết phải nâng cao hiệu quả doanh nghiệp Nhà nước để góp phần bảo đảm tính chủ đạo của kinh tế nhà nước trong bối cảnh mới, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu, rộng.

Hội thảo cũng tập trung phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động, làm rõ thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra của doanh nghiệp Nhà nước, của Tổng Công ty Hàng không Việt Nam thời gian qua.

Nhiều đại biểu nêu giải pháp cho đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, cho Tổng Công ty Hàng không Việt Nam thời gian tới. Trong đó, Nhà nước cần thực hiện tốt vai trò kiến tạo một cách đồng bộ, toàn diện thể chế, chính sách cho việc phát triển các doanh nghiệp Nhà nước phù hợp nguyên tắc thị trường, bảo đảm kiểm soát độc quyền trong nước và nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Các cơ chế, chính sách nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước cần được xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện đồng bộ, hiệu quả.


Nhiều ý kiến đề xuất, Nhà nước cần hoàn thiện chính sách sở hữu đối với các doanh nghiệp Nhà nước; tiếp tục hoàn thiện cơ quan quản lý, làm đại diện chủ sở hữu Nhà nước tại các doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế Nhà nước. Hoàn thiện việc giám sát, đánh giá các doanh nghiệp Nhà nước; thiết lập hệ thống các tiêu chí đánh giá hiệu quả của doanh nghiệp Nhà nước. Việc giám sát và đánh giá các doanh nghiệp nhà nước phải đặt trong kết cấu chặt chẽ của hệ thống giám sát thực hiện chức năng chủ sở hữu Nhà nước. Luôn bảo đảm tính minh bạch, công khai của doanh nghiệp Nhà nước và trách nhiệm giải trình của người quản lý doanh nghiệp Nhà nước và cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn Nhà nước.


Đối với việc xây dựng Vietnam Airlines thành thương hiệu quốc gia, có năng lực cạnh tranh quốc tế cao để hội nhập và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu, nhiều ý kiến cho rằng trước hết, cần tiếp tục khẳng định vị thế chủ lực của hãng hàng không quốc gia Việt Nam tại thị trường Việt nam, coi trọng hiệu quả kinh tế bảo đảm lợi ích của các cổ đông đi đôi thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị được Nhà nước giao.


Các tham luận cũng nêu bật những giải pháp trọng tâm để đạt mục tiêu trở thành hãng hàng không tiên tiến, thuộc nhóm hãng hàng không đứng đầu khu vực ASEAN và Vietnam Airlines thành thương hiệu có uy tín trên thị trường khu vực và quốc tế.


Theo đó, Nhà nước cần đẩy mạnh công tác hoàn thiện khung pháp lý, tiếp tục hỗ trợ, có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho hoạt động của ngành hàng không Việt Nam phát triển bền vững. Giải quyết những điểm nghẽn, cản trở phát triển đối với Tổng Công ty Hàng không Việt Nam. Hỗ trợ mở rộng thị trường và nâng cao năng lực cạnh tranh. Đồng thời, đánh giá một cách toàn diện cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước trong ngành và những tác động đến sự phát triển của ngành cũng như của nền kinh tế quốc dân, từ đó xác định những trọng tâm cần hoàn thiện trong giai đoạn tới. Nghiên cứu cơ chế giao nhiệm vụ cho các tập đoàn kinh tế, tổng công ty quy mô lớn thực hiện những dự án đầu tư quy mô lớn, có sức lan tỏa, tạo động lực phát triển kinh tế-xã hội đất nước,…/.


Nhân dân

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG THỨC CẦM QUYỀN CỦA ĐẢNG HIỆN NAY!

         Phương thức cầm quyền của Đảng là tổng thể hình thức, phương pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện nội dung cầm quyền. Cốt lõi phương thức cầm quyền của Đảng là cách thức lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đổi mới phương thức cầm quyền là làm thay đổi hình thức, phương pháp cầm quyền cho phù hợp hơn, hiệu quả hơn và giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng.

Một số nhận thức xuất phát để đổi mới phương thức cầm quyền
Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổng thể hình thức, phương pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện nội dung cầm quyền. Cốt lõi phương thức cầm quyền của Đảng là cách thức mà Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cầm quyền liên tục gần 80 năm. Từ thực tiễn cầm quyền của Đảng và các kết quả nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam thường bao gồm các cách thức chủ yếu sau:

Đảng cầm quyền bằng đường lối, chủ trương thể hiện trong Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng. Có được địa vị cầm quyền là do Đảng có đường lối chính trị đúng đắn và được thực hiện hiệu quả. Khi trở thành đảng cầm quyền thì phương thức cầm quyền hàng đầu vẫn là bằng đường lối chính trị của Đảng. Đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng thể hiện trong Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận; qua đó, lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện nội dung cầm quyền của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng pháp luật: Phương thức cầm quyền này gắn liền với phương thức cầm quyền bằng đường lối, chủ trương. Sau khi Đảng đề ra đường lối, chủ trương; với chức năng của mình, Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành pháp luật, chiến lược, kế hoạch để toàn dân, toàn xã hội thực hiện, nhờ đó đường lối, chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống. Bởi vậy, pháp luật không chỉ khẳng định vai trò của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng. Nếu thực hiện tốt phương thức cầm quyền bằng pháp luật thì sẽ giúp bảo đảm tính nghệ thuật của lãnh đạo chính trị và giúp gia tăng sự bền vững địa vị cầm quyền của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng công tác cán bộ: Đây là phương thức cầm quyền phổ biến của tất cả đảng cầm quyền trên thế giới. Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng lập tức đưa người của mình vào nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý các cơ quan nhà nước, qua đó mà thực thi sự cầm quyền của đảng. Đảng cộng sản cầm quyền nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền nói riêng càng đặc biệt chú trọng cầm quyền bằng công tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, xem xét, phân công, giới thiệu cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và thông qua đội ngũ cán bộ để lãnh đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng công tác tổ chức: Muốn cầm quyền tốt, Đảng phải thiết lập được mô hình tổ chức và các mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị phù hợp, bảo đảm được vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng thời, có cách thức tốt để phân công, bố trí, kiểm tra, giám sát cán bộ của Đảng giữ vị trí chủ chốt của bộ máy nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị để tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. 

Đảng cầm quyền bằng công tác tư tưởng: Các bộ phận cấu thành công tác tư tưởng đều có thể phục vụ cho sự cầm quyền của Đảng. Công tác lý luận giúp xác lập sự thống trị hệ tư tưởng của Đảng đối với xã hội, bảo đảm nền tảng tư tưởng cho sự cầm quyền của Đảng. Công tác tuyên truyền, cổ động, văn hóa, văn nghệ giúp Đảng tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng đến toàn xã hội và bảo vệ địa vị cầm quyền, nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của Nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị: Trong các thể chế đa đảng, thường các chính đảng, kể cả đảng cầm quyền không được phép thiết lập tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, thậm chí công chức không được tham gia đảng phái chính trị; vì vậy, cầm quyền bằng tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của Nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị là một đặc thù, một thế mạnh trong phương thức cầm quyền của đảng cộng sản với thể chế nhất nguyên chính trị. Phương thức cầm quyền này quan hệ chặt chẽ với phương thức cầm quyền bằng công tác tổ chức, tuy có phạm vi hẹp hơn, chỉ trong phạm vi xây dựng tổ chức của Đảng, nhưng là phương thức cầm quyền rất mạnh, trực tiếp lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát: Đường lối, chủ trương của Đảng có được thực hiện nghiêm túc hay không? Việc thể chế hóa nghị quyết, chủ trương của Đảng có kịp thời, đầy đủ không? Chất lượng, hiệu quả công việc có được đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện tốt không...? Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, Đảng sẽ biết được rõ ràng vấn đề này; trên cơ sở đó, điều chỉnh phù hợp nội dung, phương thức cầm quyền. Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước, với hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên hoạt động trong tất cả cơ quan nhà nước, các tổ chức của hệ thống chính trị nên cần thiết và đủ điều kiện để cầm quyền thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Quá trình gần 80 năm cầm quyền liên tục, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc rút nhiều bài học kinh nghiệm về phương thức lãnh đạo, cầm quyền, về lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thành công lớn nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền trong gần 80 năm qua là Đảng đã lãnh đạo xây dựng, phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa từ “con số không” do hệ quả của chiến tranh, của chế độ chính trị thực dân, phong kiến, đến đủ sức quản lý đất nước, tổ chức nhân dân đánh bại hai “đế quốc to”, giành độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất nước; và ngày nay, đang từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân tộc thực hiện đường lối đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Bên cạnh những thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thẳng thắn thừa nhận rằng còn có một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục trong thời gian tới. Đặc biệt, với vị trí, vai trò, trách nhiệm của một đảng cầm quyền duy nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận thấy, vẫn “Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền”(1); đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có nội dung còn lúng túng, cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.

Trong điều kiện mới hiện nay, muốn thực hiện tốt nội dung cầm quyền, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới phương thức cầm quyền. Nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất của nhiệm kỳ do Đại hội XIII của Đảng nêu rõ phải: “Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng”(2). Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn cách làm và thành tựu trước đây, mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai; những gì trước kia đúng, nhưng do tình hình và điều kiện đã thay đổi, trở nên không phù hợp nữa, cần bổ sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng cũng phải theo tinh thần chỉ đạo như vậy, nghĩa là không phủ định các phương thức cầm quyền đã và đang vận hành, mà trước hết và chủ yếu là bổ sung nhận thức mới và thay đổi cách làm cụ thể trong mỗi phương thức cầm quyền cơ bản.

Giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay
Đổi mới phương thức cầm quyền là làm thay đổi các hình thức, phương pháp cầm quyền, làm cho phương thức cầm quyền của Đảng phù hợp hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nội dung cầm quyền và giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng. Để thực hiện đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết và định hướng chủ trương, chính sách lớn.
Với vị trí, vai trò là phương thức cầm quyền cơ bản của Đảng và từ thực trạng ban hành, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, để đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay, nhiệm vụ hàng đầu là phải đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết, hợp lý, thiết thực, ngắn gọn, khả thi”(3).

Đồng thời với tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, phải đổi mới việc tổ chức triển khai, thực hiện nghị quyết của Đảng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.

Hai là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng pháp luật.
Đổi mới phương thức cầm quyền bằng pháp luật đòi hỏi tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, bảo đảm thể chế hóa nhanh, đầy đủ, chất lượng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng.

Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.

Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, với vai trò là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. 

Ba là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác tư tưởng.
Để đổi mới phương thức cầm quyền, công tác tư tưởng của Đảng phải tiếp tục tăng cường đổi mới toàn diện trên các mặt công tác lý luận, tuyên truyền, cổ động nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả; từ đó, thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, định hướng tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân.

Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo xã hội bởi những giá trị của nền tảng tư tưởng của Đảng; sự thấu suốt đường lối, chủ trương của Đảng.

Công tác tư tưởng phải nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội; nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội. Phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để bảo đảm vai trò, sứ mệnh tiên phong về lý luận của Đảng lãnh đạo, cầm quyền.

Đổi mới phương thức lãnh đạo, cơ chế quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, tạo môi trường tự do sáng tạo, phát huy tài năng của các văn nghệ sĩ, để thúc đẩy xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Bốn là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác tổ chức.
Công tác tổ chức của Đảng phải thiết lập, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền chặt chẽ, thông suốt đối với hệ thống chính trị, các lĩnh vực và xã hội trong điều kiện mới; đồng thời, hệ thống tổ chức bộ máy đó phải giúp tháo gỡ ách tắc, trì trệ, thúc đẩy sự phát triển. Khâu nào, chỗ nào tổ chức chưa hợp lý, chưa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, kìm hãm sự phát triển, thì phải được rà soát, sửa chữa, kiện toàn, khắc phục kịp thời.

Công tác tổ chức phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.

Phương hướng, mục tiêu đổi mới công tác tổ chức là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị. Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và điểm bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.

Năm là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác cán bộ.
Công tác cán bộ của Đảng phải quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ, trong đó có Quy định số 142-QĐ/TW, ngày 23-4-2024, về “Thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ”.

Đổi mới việc Đảng giới thiệu đảng viên vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị bảo đảm thật sự là đảng viên ưu tú, có đủ đức, đủ tài. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó, có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền.

Đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ để lựa chọn người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung giữ vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Theo đó, cần thực hiện nghiêm Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, của Bộ Chính trị, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài Đảng.

Sáu là, đổi mới phương thức cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên.
Việc đổi mới phương thức cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị đòi hỏi tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ, chi bộ, đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức đảng phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sinh hoạt của chi bộ.

Thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp, bí thư cấp ủy là chủ tịch ủy ban nhân dân, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận ở nơi có đủ điều kiện.

Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đảng viên. Phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, phát huy vai trò đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ chủ chốt các cấp. Coi trọng công tác phát triển đảng viên để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức không đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Bảy là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Nội dung này yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi; trong đó, tập trung vào cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; có biện pháp phòng ngừa, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm kỷ luật đảng.

Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng./.
------------------------
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 197
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 200
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. I, tr. 84.

Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TRUNG TƯỚNG, PGS, TS NGUYỄN VĂN BẠO, GIÁM ĐỐC HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ “NHẬN THỨC ĐÚNG ĐẮN VAI TRÒ, TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ”!

         Qua lịch sử 80 năm cho thấy, công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) có vai trò rất to lớn và không thể thiếu trong hoạt động của Quân đội. CTĐ, CTCT là “linh hồn” trong mọi mặt hoạt động của Quân đội, bảo đảm cho Quân đội luôn đi đúng “con đường chính trị” đã chọn - con đường chiến đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân.
 
Đồng thời, CTĐ, CTCT còn là sự sống, là mạch nguồn của “cơ thể Quân đội”. “Dưỡng chất” mà hoạt động CTĐ, CTCT chuyển dẫn đến các tế bào của “cơ thể Quân đội” chính là lý tưởng của Đảng, mục tiêu chiến đấu của Quân đội; là Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; nhiệm vụ của cách mạng, của Quân đội, truyền thống yêu nước, ý chí quyết tâm chiến đấu chống ngoại xâm của dân tộc Việt Nam… đạo đức, lối sống, tinh thần đoàn kết, kỷ luật, phẩm chất cao đẹp Bộ đội Cụ Hồ của mỗi quân nhân cách mạng.

Thực tiễn cho thấy, CTĐ, CTCT đã thâm nhập sâu vào từng tổ chức, lực lượng, đơn vị và trong từng nhiệm vụ. Ở đâu có bộ đội, ở đó có hoạt động CTĐ, CTCT, nhằm giữ vững định hướng chính trị cho mọi hoạt động của Quân đội - vấn đề “làm gốc cho mọi vấn đề khác, cho tất cả các mặt khác, các ngành khác của hoạt động quân sự”. Chính vì vậy, bài học lịch sử đúc kết từ thực tiễn hoạt động CTĐ, CTCT trong Quân đội khẳng định, mọi tổ chức, cá nhân trong Quân đội phải nhận thức đúng vai trò, tầm quan trọng của CTĐ, CTCT. Từ đó, thường xuyên coi trọng và không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động CTĐ, CTCT, bảo đảm cho CTĐ, CTCT là “linh hồn”, “mạch sống”của Quân đội./.
Theo QĐND
Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: RA MẮT CUỐN SÁCH “TIẾP TỤC XÂY DỰNG VÀ HOÀN THIỆN NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM”!

     Sáng 8-11, tại Hà Nội, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật và Ban Nội chính Trung ương tổ chức Lễ ra mắt cuốn sách “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” do Ban Nội chính Trung ương chủ trì biên soạn.

Cuốn sách tổng hợp kết quả nghiên cứu của Đề án “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” và 27 chuyên đề nghiên cứu công phu, chuyên sâu về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của các cơ quan, tổ chức nghiên cứu lớn trong cả nước thực hiện.

Phát biểu tại buổi lễ, PGS, TS Vũ Trọng Lâm, Giám đốc, Tổng Biên tập Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật nhấn mạnh: Trên cơ sở yêu cầu rất cao đối với cuốn sách về tính chính xác, tính khoa học, tính chính trị, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Sự thật đã khẩn trương biên tập nội dung, để vừa bảo đảm tiến độ xuất bản sách, vừa bảo đảm tính chặt chẽ về kết cấu, bố cục, thống nhất về nội dung và hình thức, nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong thời gian qua và hệ thống các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Cuốn sách có dung lượng 480 trang, chia làm 3 chương: Chương 1: “Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước pháp quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; chương 2: “Thực tiễn xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”; chương 3: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”.
Đồng chí Nguyễn Thanh Hải, Phó trưởng Ban Nội chính Trung ương, nhấn mạnh: Cuốn sách khẳng định lập trường, tư tưởng, quan điểm xuyên suốt, nhất quán, kiên định và sự phát triển sáng tạo, hoàn thiện tư duy lý luận, nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Đảng, Nhà nước ta. Cuốn sách khẳng định những giá trị lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền, khẳng định tính đúng đắn về chủ trương, đường lối của Đảng; giúp cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu rõ, quán triệt, tin tưởng, tổ chức thực hiện thành công quá trình tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng và Nhân dân ta đã lựa chọn, xây dựng đất nước ta ngày càng giàu đẹp, văn minh./.
Môi trường ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: CHỦ TỊCH NƯỚC LƯƠNG CƯỜNG ĐẾN SANTIAGO, BẮT ĐẦU THĂM CHILE!

         Đón Chủ tịch nước Lương Cường cùng đoàn đại biểu Việt Nam tại sân bay Arturo M.Benitez về phía Chile có Bộ trưởng Ngoại giao Alberto van Klaveren Stork, Đại sứ Chile tại Việt Nam Sergio Narea và một số quan chức Bộ Ngoại giao Chile!

Về phía Việt Nam có Đại sứ Việt Nam tại Chile Nguyễn Việt Cường cùng các cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Việt Nam tại Chile.

Đây là chuyến thăm Chile của Chủ tịch nước Việt Nam sau 15 năm, đúng vào dịp kỷ niệm 55 năm cuộc gặp lịch sử giữa Chủ tịch Hồ Chí Minh và cố Tổng thống Salvador Allende - sự kiện đặt nền móng cho việc Chile trở thành nước đầu tiên tại Nam Mỹ thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam./.

Môi trường ST.

CẢNH GIÁC ÂM MƯU CHỐNG PHÁ MỐI QUAN HỆ VIỆT NAM - TRUNG QUỐC!

         Với sự nỗ lực của Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Trung Quốc những năm qua luôn được duy trì trên đà phát triển tích cực, đạt được những thành quả đáng khích lệ, đóng góp tích cực cho sự nghiệp phát triển, nâng cao vị thế của mỗi nước và hòa bình, ổn định, thịnh vượng chung của khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, các thế lực thù địch, phản động cố tình xuyên tạc đường lối đối ngoại của mỗi nước, phủ nhận thành quả trong quan hệ giữa hai nước, hòng chia rẽ mối quan hệ truyền thống tốt đẹp giữa Viêt Nam và Trung Quốc, hạ thấp uy tín, vị thế của Việt Nam. Trên các trang mạng xã hội, với góc nhìn chủ quan, phiến diện, suy diễn lệch lạc, ác ý, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã xuyên tạc rằng: “Bắc Kinh tiếp tục biến Việt Nam thành quân bài trên “Con đường tơ lụa mới”, “nếu giao toàn bộ việc thiết kế và xây dựng đường sắt Bắc Nam cho Trung Quốc, thì đó là trao “nỏ thần” cho “đối tượng”… Đây là những luận điệu sai trái, xuyên tạc mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Thứ nhất, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là vì lợi ích quốc gia, dân tộc và hạnh phúc của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực và thế giới.
Sau hơn 30 năm bình thường hóa quan hệ, đặc biệt là gần 20 năm từ khi xác lập quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, quan hệ giữa hai Đảng, hai nước Việt Nam - Trung Quốc không ngừng được mở rộng và đi vào chiều sâu, hợp tác trên các lĩnh vực đạt được nhiều tiến triển tích cực và toàn diện. Trên cơ sở mối quan hệ truyền thống, láng giềng hữu nghị “mối tình thắm thiết Việt - Hoa, vừa là đồng chí, vừa là anh em”, căn cứ vào điều kiện, tình hình, đặc thù của mỗi nước và tình hình thế giới, hai bên đã nhất trí tiếp tục làm sâu sắc và nâng tầm hơn nữa quan hệ Đối tác hợp tác chiến lược toàn diện, xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam - Trung Quốc có ý nghĩa chiến lược”. Hai bên nhất trí nỗ lực vì hạnh phúc của nhân dân hai nước và đất nước giàu mạnh, vì sự hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

Đồng thời, hai bên nhất trí, phát triển quan hệ hai nước cần tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế và chuẩn mực cơ bản của quan hệ quốc tế, kiên trì tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, hợp tác cùng thắng, tôn trọng chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, kiên trì giải quyết các bất đồng thông qua biện pháp hòa bình.

Đây cũng là tương lai chung mà hai bên chia sẻ và hướng đến, phù hợp với lợi ích của hai nước, vì hạnh phúc, nguyện vọng của nhân dân mỗi nước, góp phần vào xu hướng hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực, cũng như trên thế giới. Điều này cho thấy, quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là phù hợp với lợi ích của cả hai nước trên tinh thần tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng, cùng có lợi, chứ hoàn toàn không phải là “Bắc Kinh tiếp tục biến Việt Nam thành quân bài trên “Con đường tơ lụa mới” như sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị.

Thứ hai, việc triển khai xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam là cần thiết, nhưng Việt Nam chưa quyết định lựa chọn nhà thầu cho dự án này.
Thực tiễn đất nước và trên thế giới cho thấy, sự phát triển của giao thông vận tải đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội. Để đáp ứng nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt giữa hai miền Bắc, Nam, việc xây dựng đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam là rất cần thiết, góp phần rút ngắn thời gian di chuyển giữa Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; giảm tải hệ thống giao thông đường bộ vốn đang quá tải hiện nay; thúc đẩy phát triển kinh tế các vùng, tạo cơ hội cho các địa phương thu hút đầu tư, du lịch; tăng cường kết nối và hội nhập về kinh tế - xã hội giữa các vùng miền đất nước; từng bước hiện đại hóa cơ sở hạ tầng giao thông quốc gia, tạo tiền đề cho phát triển bền vững.

Do vậy, tại Hội nghị lần thứ mười, khóa XIII, Trung ương đã thống nhất chủ trương đầu tư Dự án đường sắt tốc độ cao Bắc - Nam và hiện Báo cáo nghiên cứu tiền khả thi đang được Bộ Giao thông vận tải hoàn tất, chuẩn bị trình tự, hồ sơ thủ tục để trình Quốc hội xem xét cho ý kiến tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khoa XV.

Đây là dự án có ý nghĩa rất quan trọng đối với phát triển đất nước, nhưng còn phải chờ Quốc hội đánh giá, quyết định. Yêu cầu đặt ra, cần chú ý đến khâu tổ chức thực hiện, lựa chọn nhà thầu và giám sát của các cơ quan liên quan. Hiện, chưa có bất kỳ thỏa thuận hay quyết định nào liên quan đến việc lựa chọn nhà thầu; các nhà thầu có năng lực thực sự và đủ uy tín đều được tham gia đấu thầu thực hiện dự án trong đó có các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Chỉ vì có thông tin nhà thầu Trung Quốc muốn tham gia đầu tư vào dự án này mà các thế lực thù địch, phản động đã vội vàng phản đối và xuyên tạc rằng “nếu giao toàn bộ việc thiết kế và xây dựng đường sắt Bắc Nam cho Trung Quốc, thì đó là trao “nỏ thần” cho “đối tượng”. Rõ ràng, đây là luận điệu sai trái, hòng kích động mọi người hình thành tâm lý bài xích Trung Quốc, chia rẽ mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; đồng thời phá hoại các dự án phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; gây nghi kỵ, mâu thuẫn giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.

Để thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước góp phần xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Bên cạnh nhận thức và thực hiện nghiêm đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa của Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nêu cao tinh thần cảnh giác, tỉnh táo, sàng lọc thông tin. Tuyệt đối không nghe, không tin vào những luận điệu xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, nhất là mối quan hệ Việt Nam - Trung Quốc; phá hoại các dự án phát triển kinh tế - xã hội của nước ta; đồng thời tích cực đấu tranh với các luận điệu sai trái này./.
Yêu nước ST.

Đưa công tác Mặt trận hướng đến từng gia đình và mỗi người dân.

 Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long nhấn mạnh, từ nhiều năm nay, việc tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở các khu dân cư nhân dịp kỷ niệm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trở thành nét đẹp truyền thống, đưa công tác Mặt trận về với cộng đồng dân cư, hướng đến từng gia đình và mỗi người dân. Ngày hội nhằm tăng cường sức mạnh khối Đại đoàn kết dân tộc, xây dựng, củng cố, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới.

Ngày 10/11, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long cùng đoàn công tác của Chính phủ và UBND tỉnh Thanh Hóa đã tới dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc năm 2024 tại khu dân cư thôn 1, xã Vân Sơn, huyện Triệu Sơn. Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc năm nay có ý nghĩa to lớn khi toàn dân, toàn quân ta đang đoàn kết, chung sức, đồng lòng, ra sức thi đua lập thành tích chào mừng thành công Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam lần thứ X, nhiệm kỳ 2024-2029, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đảng bộ các cấp, nhiệm kỳ 2020-2025.

Phát biểu tại Ngày hội, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long ôn lại 94 năm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (18/11/1930 - 18/11/2024) và nhấn mạnh, từ nhiều năm nay, việc tổ chức Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc ở các khu dân cư nhân dịp kỷ niệm Ngày truyền thống Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã trở thành nét đẹp truyền thống, đưa công tác Mặt trận về với cộng đồng dân cư, hướng đến từng gia đình và mỗi người dân. Ngày hội nhằm tăng cường sức mạnh khối Đại đoàn kết dân tộc, xây dựng, củng cố, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thời kỳ mới.

Ghi nhận, đánh giá cao những kết quả của tích cực trong phát triển kinh tế - xã hội mà cán bộ, nhân dân thôn 1, xã Vân Sơn đã đạt được, Phó Thủ tướng Chính phủ Lê Thành Long đề nghị, thôn tiếp tục phát huy những kết quả đạt được trong năm 2024, sớm đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết và thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua yêu nước trong năm 2025. Địa phương tiếp tục tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước; tuyên truyền về Đại hội Chi bộ thôn và Đại hội Đảng các cấp nhiệm kỳ 2025-2030, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Đảng viên, nhân dân tích cực hưởng ứng tham gia các phong trào thi đua yêu nước, các cuộc vận động, nhất là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”. Thôn tiếp tục duy trì, nâng cao chất lượng các tiêu chí xây dựng nông thôn mới kiểu mẫu, vận động nhân dân tiếp tục hiến đất, xây dựng khu dân cư ngày càng xanh, sạch, đẹp; tiếp tục tuyên truyền cho nhân dân tham gia đóng góp ủng hộ xây dựng Quỹ vì người nghèo; Quỹ hỗ trợ xây dựng nhà ở cho hộ nghèo, hộ gia đình chính sách, hộ còn khó khăn về nhà ở…

Theo báo cáo của UBND xã Vân Sơn, trong suốt 70 năm thành lập, phát triển, cán bộ và các tầng lớp nhân dân thôn 1 luôn phát huy tinh thần đoàn kết, cần cù, chịu khó, năng động, sáng tạo, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vươn lên xóa đói giảm nghèo. Nhiều hộ đã nhạy bén trong việc phát triển kinh tế có mức thu nhập cao. Tổng giá trị thu nhập toàn thôn sau khi trừ chi phí năm 2024 là trên 40 tỷ đồng, bình quân thu nhập đầu người đạt gần 70 triệu đồng/người/năm.

Hưởng ứng phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, nhân dân đã thực hiện các quy định, được UBND huyện công nhận và giữ vững danh hiệu “Thôn văn hóa” 5 năm liên tục.

Hưởng ứng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, thôn đã vận động nhân dân đóng góp xây dựng khuôn viên Nhà văn hóa, mở rộng đường giao thông, lắp đặt đường điện chiếu sáng, xây dựng tường rào, bờ rào xanh, chỉnh trang nhà cửa sân vườn cho các hộ theo phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát và dân thụ hưởng”. Đến nay, thôn đã đầu tư và xây dựng mới và mua sắm cơ sở vật chất Nhà văn hóa, xây và quét vôi 2.500 m tường rào; vận động 54 hộ hiến đất, mở rộng, nâng cấp trên 3 km đường giao thông theo Nghị quyết 12 của UBND huyện Triệu Sơn; 100% các tuyến đường đã được bê tông hóa. Tổng kinh phí huy động các nguồn lực thực hiện xây dựng trên 5 tỷ đồng; trong đó ngân sách xã hỗ trợ gần 300 triệu đồng, nguồn lực huy động trong nhân dân đóng góp trên 4,7 tỷ đồng và hàng trăm ngày công lao động.

Dịp này, thay mặt Chính phủ, Phó Thủ tướng Lê Thành Long đã trao nhiều phần quà tặng các gia đình có hoàn cảnh khó khăn trên địa bàn xã Vân Sơn; tặng 1 nhà Đại đoàn kết trị giá 80 triệu đồng cho hộ khó khăn về nhà ở trên địa bàn xã. UBND tỉnh Thanh Hóa, UBND huyện Triệu Sơn cũng trao nhiều phần quà tặng các gia đình chính sách và gia đình có hoàn cảnh khó khăn…/.

Làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ hữu nghị đặc biệt Việt Nam - Cuba.

 Tiếp Đại sứ Cuba tại Việt Nam Orlando Nicolas Hernandez Guillen, Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định lại chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng và quyết tâm làm tất cả những gì có thể trong khả năng, cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba không ngừng mở rộng và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ đoàn kết truyền thống, hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Cuba.

Chiều ngày 7/11, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã tiếp Đại sứ Cuba tại Việt Nam Orlando Nicolas Hernandez Guillen nhân dịp Đại sứ kết thúc nhiệm kỳ công tác.

Tổng Bí thư Tô Lâm chúc mừng và đánh giá cao những đóng góp tích cực của Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen trong nhiệm kỳ công tác, đặc biệt hoan nghênh và cảm ơn nỗ lực của Đại sứ và cán bộ Đại sứ quán Cuba tại Việt Nam trong hỗ trợ chuyển giao vắc-xin Abdala và cử chuyên gia y tế Cuba sang hỗ trợ Việt Nam vào thời điểm khó khăn nhất của đại dịch COVID-19, thể hiện sự gắn bó và chia sẻ sâu sắc giữa hai dân tộc anh em.

Tổng Bí thư Tô Lâm khẳng định lại chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam hết sức coi trọng và quyết tâm làm tất cả những gì có thể trong khả năng, cùng Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba không ngừng mở rộng và làm sâu sắc hơn nữa mối quan hệ đoàn kết truyền thống, hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Cuba, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển trên thế giới.


Tổng Bí thư Tô Lâm nhắc lại những ấn tượng sâu sắc và kết quả rất quan trọng đạt được trong chuyến thăm cấp Nhà nước đến Cộng hòa Cuba của Tổng Bí thư và Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam; nhấn mạnh sự đồng thuận cấp cao của Lãnh đạo hai Đảng, hai Nhà nước trong về các định hướng và lĩnh vực hợp tác ưu tiên: nông nghiệp, năng lượng, thương mại, công nghệ sinh học, đồng thời thúc đẩy hợp tác chặt chẽ trong các lĩnh vực an ninh, quốc phòng, đối ngoại và các hoạt động giao lưu hợp tác giữa các ngành, các cấp và nhân dân của hai nước. Tổng Bí thư Tô Lâm bày tỏ hài lòng hợp tác giữa các bộ, ngành hữu quan hai nước đang tiến triển tích cực để triển khai sớm và hiệu quả các dự án hợp tác ưu tiên.

Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen cảm ơn Tổng Bí thư Tô Lâm dành thời gian tiếp Đại sứ và đặc biệt là sự quan tâm sâu sắc của cá nhân đồng chí Tổng Bí thư cho việc không ngừng củng cố và thắt chặt quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai đất nước anh em, đồng thời nhấn mạnh vinh dự to lớn được cử sang công tác tại Việt Nam.

Đại sứ vui mừng báo cáo Tổng Bí thư Tô Lâm kết quả chính trong nhiệm kỳ công tác và đóng góp của Đại sứ và cán bộ Đại sứ quán Cuba tại Việt Nam trong củng cố mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa hai Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước, không ngừng thắt chặt quan hệ chính trị tin cậy, thúc đẩy các chuyến thăm cấp cao và các hoạt động hợp tác giữa các bộ, ngành, địa phương hai nước, tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tham mưu và tham gia thúc đẩy các lĩnh vực hợp tác ưu tiên giữa hai nước.

Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen nhấn mạnh ý nghĩa biểu tượng lịch sử của chuyến thăm cấp Nhà nước đến Cuba vừa qua của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm; bày tỏ nhất trí cao với các đánh giá và ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm về các định hướng, lĩnh vực hợp tác ưu tiên giữa hai nước trong thời gian tới. Nhân dịp này, Đại sứ khẳng định lại chủ trương của Đảng, Nhà nước Cuba đặc biệt coi trọng quan hệ tin cậy với Việt Nam, quyết tâm cùng đồng hành, cùng hợp tác, cùng phát triển, tích cực triển khai các thỏa thuận cấp cao và các hoạt động giao lưu hợp tác đa dạng trong Năm Hữu nghị Việt Nam - Cuba 2025.

Nhân dịp này, qua Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen, Tổng Bí thư Tô Lâm gửi lời thăm hỏi anh em thân thiết đến Bí thư thứ nhất, Chủ tịch nước Miguel Diaz Canel Bermudez, Lãnh tụ cách mạng, Đại tướng Raul Castro Ruz và các đồng chí lãnh đạo cấp cao Đảng, Nhà nước Cuba; nhắc lại lời mời Bí thư thứ nhất, Chủ tịch nước Miguel Diaz Canel Bermudez và Lãnh tụ cách mạng, Đại tướng Raul Castro Ruz thăm lại Việt Nam trong năm 2025 để cùng kỷ niệm những sự kiện trọng đại trong quan hệ hai nước.