Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

Một số giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay.

  Phương thức cầm quyền của Đảng là tổng thể hình thức, phương pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện nội dung cầm quyền. Cốt lõi phương thức cầm quyền của Đảng là cách thức lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Đổi mới phương thức cầm quyền là làm thay đổi hình thức, phương pháp cầm quyền cho phù hợp hơn, hiệu quả hơn và giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng.

Một số nhận thức xuất phát để đổi mới phương thức cầm quyền

Phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam là tổng thể hình thức, phương pháp mà Đảng sử dụng để thực hiện nội dung cầm quyền. Cốt lõi phương thức cầm quyền của Đảng là cách thức mà Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng nhằm xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cầm quyền liên tục gần 80 năm. Từ thực tiễn cầm quyền của Đảng và các kết quả nghiên cứu khoa học gần đây cho thấy, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam thường bao gồm các cách thức chủ yếu sau:

Đảng cầm quyền bằng đường lối, chủ trương thể hiện trong Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng. Có được địa vị cầm quyền là do Đảng có đường lối chính trị đúng đắn và được thực hiện hiệu quả. Khi trở thành đảng cầm quyền thì phương thức cầm quyền hàng đầu vẫn là bằng đường lối chính trị của Đảng. Đường lối, chủ trương, chính sách lớn của Đảng thể hiện trong Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết, chỉ thị, kết luận; qua đó, lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện nội dung cầm quyền của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng pháp luật: Phương thức cầm quyền này gắn liền với phương thức cầm quyền bằng đường lối, chủ trương. Sau khi Đảng đề ra đường lối, chủ trương; với chức năng của mình, Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành pháp luật, chiến lược, kế hoạch để toàn dân, toàn xã hội thực hiện, nhờ đó đường lối, chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống. Bởi vậy, pháp luật không chỉ khẳng định vai trò của Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, mà còn khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của Đảng. Nếu thực hiện tốt phương thức cầm quyền bằng pháp luật thì sẽ giúp bảo đảm tính nghệ thuật của lãnh đạo chính trị và giúp gia tăng sự bền vững địa vị cầm quyền của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng công tác cán bộ: Đây là phương thức cầm quyền phổ biến của tất cả đảng cầm quyền trên thế giới. Khi trở thành đảng cầm quyền, đảng lập tức đưa người của mình vào nắm giữ các vị trí lãnh đạo, quản lý các cơ quan nhà nước, qua đó mà thực thi sự cầm quyền của đảng. Đảng cộng sản cầm quyền nói chung, Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền nói riêng càng đặc biệt chú trọng cầm quyền bằng công tác cán bộ. Đảng thống nhất lãnh đạo trực tiếp, toàn diện công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị. Đảng trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo, xem xét, phân công, giới thiệu cán bộ vào các vị trí lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị và thông qua đội ngũ cán bộ để lãnh đạo thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng công tác tổ chức: Muốn cầm quyền tốt, Đảng phải thiết lập được mô hình tổ chức và các mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, các tổ chức khác trong hệ thống chính trị phù hợp, bảo đảm được vai trò lãnh đạo của Đảng; đồng thời, có cách thức tốt để phân công, bố trí, kiểm tra, giám sát cán bộ của Đảng giữ vị trí chủ chốt của bộ máy nhà nước, các tổ chức trong hệ thống chính trị để tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng. 

Đảng cầm quyền bằng công tác tư tưởng: Các bộ phận cấu thành công tác tư tưởng đều có thể phục vụ cho sự cầm quyền của Đảng. Công tác lý luận giúp xác lập sự thống trị hệ tư tưởng của Đảng đối với xã hội, bảo đảm nền tảng tư tưởng cho sự cầm quyền của Đảng. Công tác tuyên truyền, cổ động, văn hóa, văn nghệ giúp Đảng tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng đến toàn xã hội và bảo vệ địa vị cầm quyền, nền tảng tư tưởng của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của Nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị: Trong các thể chế đa đảng, thường các chính đảng, kể cả đảng cầm quyền không được phép thiết lập tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, thậm chí công chức không được tham gia đảng phái chính trị; vì vậy, cầm quyền bằng tổ chức đảng và đảng viên trong các tổ chức của Nhà nước và các tổ chức khác của hệ thống chính trị là một đặc thù, một thế mạnh trong phương thức cầm quyền của đảng cộng sản với thể chế nhất nguyên chính trị. Phương thức cầm quyền này quan hệ chặt chẽ với phương thức cầm quyền bằng công tác tổ chức, tuy có phạm vi hẹp hơn, chỉ trong phạm vi xây dựng tổ chức của Đảng, nhưng là phương thức cầm quyền rất mạnh, trực tiếp lãnh đạo Nhà nước và xã hội thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng.

Đảng cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát: Đường lối, chủ trương của Đảng có được thực hiện nghiêm túc hay không? Việc thể chế hóa nghị quyết, chủ trương của Đảng có kịp thời, đầy đủ không? Chất lượng, hiệu quả công việc có được đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện tốt không...? Thông qua công tác kiểm tra, giám sát, Đảng sẽ biết được rõ ràng vấn đề này; trên cơ sở đó, điều chỉnh phù hợp nội dung, phương thức cầm quyền. Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà nước, với hệ thống tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên hoạt động trong tất cả cơ quan nhà nước, các tổ chức của hệ thống chính trị nên cần thiết và đủ điều kiện để cầm quyền thông qua công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Quá trình gần 80 năm cầm quyền liên tục, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đúc rút nhiều bài học kinh nghiệm về phương thức lãnh đạo, cầm quyền, về lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Thành công lớn nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam với tư cách là đảng cầm quyền trong gần 80 năm qua là Đảng đã lãnh đạo xây dựng, phát triển Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa từ “con số không” do hệ quả của chiến tranh, của chế độ chính trị thực dân, phong kiến, đến đủ sức quản lý đất nước, tổ chức nhân dân đánh bại hai “đế quốc to”, giành độc lập, thống nhất trọn vẹn cho đất nước; và ngày nay, đang từng bước đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân tộc thực hiện đường lối đổi mới đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, làm cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Bên cạnh những thành công, Đảng Cộng sản Việt Nam cũng thẳng thắn thừa nhận rằng còn có một số hạn chế, khuyết điểm cần khắc phục trong thời gian tới. Đặc biệt, với vị trí, vai trò, trách nhiệm của một đảng cầm quyền duy nhất, Đảng Cộng sản Việt Nam tự nhận thấy, vẫn “Chưa xác định rõ nội dung và phương thức cầm quyền”(1); đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội còn chậm, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị có nội dung còn lúng túng, cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả chưa cao.

Trong điều kiện mới hiện nay, muốn thực hiện tốt nội dung cầm quyền, giữ vững vai trò lãnh đạo, cầm quyền đòi hỏi Đảng Cộng sản Việt Nam đổi mới phương thức cầm quyền. Nhiệm vụ trọng tâm thứ nhất của nhiệm kỳ do Đại hội XIII của Đảng nêu rõ phải: “Đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng(2). Tuy nhiên, đổi mới không phải là phủ định sạch trơn cách làm và thành tựu trước đây, mà là khẳng định những gì đã hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai, làm sai; những gì trước kia đúng, nhưng do tình hình và điều kiện đã thay đổi, trở nên không phù hợp nữa, cần bổ sung nhận thức mới và cách làm mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới. Đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng cũng phải theo tinh thần chỉ đạo như vậy, nghĩa là không phủ định các phương thức cầm quyền đã và đang vận hành, mà trước hết và chủ yếu là bổ sung nhận thức mới và thay đổi cách làm cụ thể trong mỗi phương thức cầm quyền cơ bản.iaiia

Giải pháp đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay

Đổi mới phương thức cầm quyền là làm thay đổi các hình thức, phương pháp cầm quyền, làm cho phương thức cầm quyền của Đảng phù hợp hơn, hiệu quả hơn, đáp ứng yêu cầu thực hiện tốt nội dung cầm quyền và giữ vững vai trò cầm quyền của Đảng. Để thực hiện đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay, cần thực hiện tốt các giải pháp sau:

Một làđổi mới phương thức cầm quyền bằng Cương lĩnh, chiến lược, nghị quyết và định hướng chủ trương, chính sách lớn.

Với vị trí, vai trò là phương thức cầm quyền cơ bản của Đảng và từ thực trạng ban hành, tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, để đổi mới phương thức cầm quyền của Đảng hiện nay, nhiệm vụ hàng đầu là phải đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện nghị quyết của Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Đại hội XIII của Đảng yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng. Ban hành nghị quyết khi thật sự cần thiết, hợp lý, thiết thực, ngắn gọn, khả thi”(3).

Đồng thời với tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng, ban hành nghị quyết của Đảng, phải đổi mới việc tổ chức triển khai, thực hiện nghị quyết của Đảng để nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, cầm quyền. Tiếp tục đổi mới việc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, giám sát chặt chẽ việc cụ thể hóa, thể chế hóa, tổ chức thực hiện nghị quyết; coi trọng kiểm tra, giám sát, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết, quy định, chỉ thị, kết luận của Đảng, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.

Hai làđổi mới phương thức cầm quyền bằng pháp luật.

Đổi mới phương thức cầm quyền bằng pháp luật đòi hỏi tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng xây dựng pháp luật, bảo đảm thể chế hóa nhanh, đầy đủ, chất lượng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát của Đảng.

Xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững. Gắn kết chặt chẽ giữa xây dựng pháp luật với tổ chức thi hành pháp luật. Tập trung chỉ đạo quyết liệt, đầu tư hợp lý nguồn lực và điều kiện để thực hiện tốt các nhiệm vụ nâng cao hiệu lực, hiệu quả tổ chức thi hành pháp luật, thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm pháp luật.

Đẩy mạnh xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, với vai trò là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị. 

Ba là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác tư tưởng.

Để đổi mới phương thức cầm quyền, công tác tư tưởng của Đảng phải tiếp tục tăng cường đổi mới toàn diện trên các mặt công tác lý luận, tuyên truyền, cổ động nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả; từ đó, thực hiện vai trò lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, định hướng tư tưởng cho toàn Đảng, toàn dân.

Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm sự lãnh đạo xã hội bởi những giá trị của nền tảng tư tưởng của Đảng; sự thấu suốt đường lối, chủ trương của Đảng.

Công tác tư tưởng phải nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội; nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội. Phải đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam để bảo đảm vai trò, sứ mệnh tiên phong về lý luận của Đảng lãnh đạo, cầm quyền.

Đổi mới phương thức lãnh đạo, cơ chế quản lý lĩnh vực văn hóa, văn nghệ, tạo môi trường tự do sáng tạo, phát huy tài năng của các văn nghệ sĩ, để thúc đẩy xây dựng nền văn hóa Việt Nam mới tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Bốn làđổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác tổ chức.

Công tác tổ chức của Đảng phải thiết lập, hoàn thiện hệ thống tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống chính trị bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền chặt chẽ, thông suốt đối với hệ thống chính trị, các lĩnh vực và xã hội trong điều kiện mới; đồng thời, hệ thống tổ chức bộ máy đó phải giúp tháo gỡ ách tắc, trì trệ, thúc đẩy sự phát triển. Khâu nào, chỗ nào tổ chức chưa hợp lý, chưa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, kìm hãm sự phát triển, thì phải được rà soát, sửa chữa, kiện toàn, khắc phục kịp thời.

Công tác tổ chức phải bảo đảm thực hiện nghiêm túc nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo việc đổi mới, sắp xếp và quản lý tổ chức bộ máy, biên chế của hệ thống chính trị; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung thống nhất của Trung ương, đồng thời phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của từng cấp, từng ngành, từng địa phương; xác định rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân, nhất là người đứng đầu.

Phương hướng, mục tiêu đổi mới công tác tổ chức là tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, đồng bộ với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội, con người..., đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện mô hình tổ chức của hệ thống chính trị. Tổng kết các mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị, khắc phục sự chồng chéo và điểm bất hợp lý trong tổ chức của Đảng và tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị. Đẩy mạnh thực hiện tinh giản biên chế gắn với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức theo vị trí việc làm.

Năm là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác cán bộ.

Công tác cán bộ của Đảng phải quán triệt và nghiêm túc thực hiện quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đi đôi với phát huy quyền và trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị về công tác cán bộ, trong đó có Quy định số 142-QĐ/TW, ngày 23-4-2024, về “Thí điểm giao quyền, trách nhiệm cho người đứng đầu trong công tác cán bộ”.

Đổi mới việc Đảng giới thiệu đảng viên vào hoạt động trong các cơ quan lãnh đạo của hệ thống chính trị bảo đảm thật sự là đảng viên ưu tú, có đủ đức, đủ tài. Tiếp tục ban hành và thực hiện các quy định, quy chế, cơ chế trong công tác cán bộ bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ và chặt chẽ giữa các khâu, liên thông giữa các cấp; trong đó, có quy chế về việc đánh giá đúng đắn, khách quan đối với cán bộ, để có cơ sở sử dụng, bố trí cán bộ, ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy quyền.

Đổi mới phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ để lựa chọn người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung giữ vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu. Theo đó, cần thực hiện nghiêm Kết luận số 14-KL/TW, ngày 22-9-2021, của Bộ Chính trị, “Về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung”. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực và phẩm chất, ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài cả trong và ngoài Đảng.

Sáu làđổi mới phương thức cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị và vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên.

Việc đổi mới phương thức cầm quyền thông qua các tổ chức đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị đòi hỏi tiếp tục đổi mới, hoàn thiện tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của đảng bộ, chi bộ, đảng đoàn, ban cán sự đảng trong các tổ chức của hệ thống chính trị. Rà soát, sửa đổi, bổ sung chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm, mối quan hệ công tác của các loại hình tổ chức đảng phù hợp với tiến trình đổi mới, sắp xếp tinh gọn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, sinh hoạt của chi bộ.

Thực hiện chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là thủ trưởng cơ quan, đơn vị, cơ bản thực hiện mô hình bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch hội đồng nhân dân các cấp, bí thư cấp ủy là chủ tịch ủy ban nhân dân, bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, tổ trưởng dân phố hoặc trưởng ban công tác mặt trận ở nơi có đủ điều kiện.

Nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc giáo dục, quản lý, rèn luyện, kiểm tra, giám sát đảng viên. Phát hiện, quy hoạch, bồi dưỡng, phát huy vai trò đảng viên ưu tú, có triển vọng, chuẩn bị nguồn cán bộ chủ chốt các cấp. Coi trọng công tác phát triển đảng viên để tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp. Sàng lọc, kiên quyết đưa những đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức không đủ tư cách ra khỏi Đảng.

Bảy là, đổi mới phương thức cầm quyền bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.

Nội dung này yêu cầu đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện quy định, quy chế nhằm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát. Cải tiến, đổi mới phương pháp, quy trình, kỹ năng công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng bảo đảm khách quan, dân chủ, khoa học, đồng bộ, thống nhất, thận trọng, chặt chẽ, khả thi; trong đó, tập trung vào cơ chế, biện pháp chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên; có biện pháp phòng ngừa, xử lý nghiêm minh hành vi vi phạm kỷ luật đảng.

Tập trung kiểm tra, giám sát tổ chức đảng, người đứng đầu, cán bộ chủ chốt ở nơi dễ xảy ra vi phạm, nơi có nhiều bức xúc nổi cộm, dư luận quan tâm; xử lý kịp thời, kiên quyết, triệt để, đồng bộ, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm. Tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt các cấp để kịp thời phát hiện, ngăn chặn từ xa, từ đầu, giải quyết từ sớm, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng./.

Chủ Nhật, 10 tháng 11, 2024

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống Ngành Tổ chức xây dựng Ðảng

 


Cùng với lịch sử của Đảng, trong suốt chặng đường 94 năm xây dựng và trưởng thành (14/10/1930 – 14/10/2024), Ngành Tổ chức xây dựng Đảng luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Đội ngũ những người làm công tác tổ chức của Đảng qua các thời kỳ không ngừng nỗ lực phấn đấu, xây dựng nên truyền thống tốt đẹp của Ngành, góp phần vào những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Trong suốt 94 năm xây dựng và trưởng thành, Ngành Tổ chức xây dựng Đảng không ngừng khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của mình, xứng đáng là cơ quan tham mưu đắc lực, tin cậy và trọng yếu của Đảng trong suốt các thời kỳ, giai đoạn cách mạng. Những nỗ lực phấn đấu, cống hiến của Ngành đã góp phần to lớn vào sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và của dân tộc; góp phần xây dựng Đảng ta thực sự là một chính đảng cách mạng, có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân, để đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Thực hiện công cuộc đổi mới, nhất là trong những năm gần đây, Ngành Tổ chức xây dựng Đảng đã làm tốt vai trò tham mưu về công tác tổ chức xây dựng đảng, góp phần rất quan trọng vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong xây dựng Đảng và phát triển đất nước.

Nổi bật là, công tác xây dựng Đảng về chính trị khẳng định Đảng luôn vững vàng, kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; đồng thời vận dụng, phát triển sáng tạo, phù hợp với thực tiễn Việt Nam; kiên định đường lối đổi mới và những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Đảng. Năng lực dự báo, hoạch định đường lối, chủ trương của Đảng được nâng lên rõ rệt. Mục tiêu độc lập dân tộc gắn viền với chủ nghĩa xã hội từng bước được hiện thực hóa. Bản lĩnh chính trị, trình độ, trí tuệ, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng ngày càng được nâng lên.

Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng được chú trọng và tăng cường, góp phần nâng cao nhận thức, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển, hoàn thiện sáng rõ hơn. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đạt kết quả cao.

Xây dựng Đảng về đạo đức là điểm mới, điểm nhấn rất quan trọng được Đại hội XII của Đảng bổ sung và khẳng định, quyết định sức sống, sức chiến đấu của Đảng. Mục tiêu “xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ” trở nên sáng rõ, hài hòa và bền vững, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền hiện nay. Đảng đã bổ sung nhiệm vụ xây dựng Đảng về đạo đức với tư cách là một mặt của công tác xây dựng Đảng nhằm nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.

Công tác xây dựng tổ chức bộ máy của Đảng và hệ thống chính trị từng bước được hoàn thiện. Công tác sắp xếp tổ chức bộ máy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị đạt được kết quả quan trọng, rõ nét, có nhiều đổi mới, triển khai thực hiện đồng bộ, bài bản với quyết tâm chính trị cao, có trọng tâm, trọng điểm. Một số mô hình tổ chức mới được thực hiện thí điểm đã góp phần tinh gọn bộ máy, đổi mới cơ chế hoạt động, phương thức lãnh đạo theo hướng hiệu lực, hiệu quả.

Công tác cán bộ tiếp tục được đổi mới. Dấu ấn trong thời gian qua là công tác cán bộ được tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn diện, đồng bộ. Đã đẩy mạnh đổi mới đánh giá cán bộ; thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn trong sử dụng cán bộ. Từng bước hoàn thiện thể chế về công tác cán bộ; xây dựng, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới nhiều quy định, quy chế về đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử và kiểm soát quyền lực, chống chạy chức, chạy quyền. Đội ngũ cán bộ đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đạt được những kết quả quan trọng. Hệ thống các văn bản quy định về công tác bảo vệ chính trị nội bộ được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện dần phù hợp với yêu cầu của tình hình mới. Từ đó góp phần quan trọng bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chế độ, giữ vững an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Công tác rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định, kết luận về tiêu chuẩn chính trị, nhất là vấn đề chính trị hiện nay đối với cán bộ, đảng viên được thực hiện chặt chẽ, chủ động, bài bản, khoa học và hiệu quả hơn; kịp thời phát hiện, xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong toàn Đảng và củng cố niềm tin của Nhân dân với Đảng.

Để hoàn thành trọng trách trong giai đoạn mới, Ban Tổ chức Trung ương đang thực hiện nhiều giải pháp xây dựng Ngành Tổ chức xây dựng Đảng vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Trong đó, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy của các cơ quan tổ chức cấp ủy các cấp tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Xây dựng quy định cụ thể chức trách, nhiệm vụ từng chức danh cán bộ, công chức nhằm phát huy tính chủ động, sáng tạo và nêu cao trách nhiệm cá nhân. Nâng cao chất lượng đội ngũ làm công tác cán bộ “trung thành, trung thực, gương mẫu, trong sáng, tinh thông” đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, bám sát Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Chương trình làm việc toàn khoá của Ban Chấp hành Trung ương, Chương trình làm việc của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, tập thể cán bộ, công chức, viên chức của Ban Tổ chức Trung ương đã có nhiều nỗ lực, chủ động, nêu cao trách nhiệm, phát huy tinh thần đoàn kết, nỗ lực phấn đấu, khắc phục khó khăn, tham mưu hoàn thành một khối lượng lớn công việc với chất lượng ngày càng được nâng lên, trong đó có nhiều nhiệm vụ hoàn thành tốt và xuất sắc, không ngừng nâng cao chất lượng công tác tham mưu chiến lược.

Cùng với đó là tăng cường hơn nữa công tác nghiên cứu, tham mưu chiến lược về công tác tổ chức xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ trong tình hình mới; tham mưu hoàn thành các đề án, nhiệm vụ theo Chương trình công tác năm 2024; triển khai đẩy mạnh cải cách hành chính trong Đảng, nhất là chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin… Tiếp tục xây dựng Ngành Tổ chức xây dựng Đảng vững mạnh, bảo đảm “tinh gọn, chất lượng, hiệu lực, hiệu quả” để đáp ứng tốt yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Phát huy truyền thống vẻ vang, Ngành Tổ chức xây dựng Đảng tiếp tục tham mưu, đề xuất với Đảng xây dựng, củng cố, phát triển tổ chức của hệ thống chính trị và tuyển chọn được những cán bộ, đảng viên, những chiến sĩ ưu tú, trung kiên cho Đảng, cho cách mạng; góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng.

Kỷ niệm 94 năm Ngày truyền thống Ngành Tổ chức xây dựng Ðảng, chúng ta tự hào ôn lại truyền thống, thấm nhuần sâu sắc hơn ý nghĩa và những bài học kinh nghiệm trong công tác tổ chức xây dựng đảng. Các thế hệ cán bộ Ngành Tổ chức xây dựng Đảng luôn nêu cao tinh thần trách nhiệm, tận tụy, sáng tạo, nỗ lực phấn đấu, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong thời kỳ mới./.

Giọng điệu của đám "đạo đức giả"

 


Nhân dịp kỷ niệm 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô (10/10/1954-10/10/2024) và 25 năm Hà Nội được UNESCO trao danh hiệu “Thành phố vì hòa bình” (16/7/1999-16/7/2024), Ủy ban Nhân dân thành phố Hà Nội tổ chức chương trình ý nghĩa nhằm tôn vinh truyền thống lịch sử của Hà Nội đồng thời quảng bá hình ảnh Thủ đô yêu chuộng hòa bình đến toàn thể người dân và bạn bè quốc tế.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của bão số 3, vừa qua Hà Nội đã quyết định dừng, điều chỉnh quy mô 1 số hoạt động để tập trung nguồn lực khắc phục hậu quả sau bão. Đặc biệt, Hà Nội cũng là địa phương huy động được nhiều nguồn lực lớn để hỗ trợ đồng bào bị thiệt hại.

Thế nhưng, nhằm bôi nhọ tập thể lãnh đạo Thành ủy Hà Nội, đám kền kền "việt tân" lật lọng, cho rằng Hà Nội lãng quên đồng bào bị thiệt hại, tổ chức các hoạt động lãng phí, tốn kém cho sự kiện 70 năm Ngày Giải phóng Thủ đô.

Đúng là giọng điệu của đám "đạo đức giả", từ khi miền Bắc gánh chịu hậu quả của cơn bão Yagi, đám kền kền "việt tân" và đồng đảng đã không có động thái nào giúp đỡ đồng bào, nhưng lại luôn miệng xỉa xoáy, bỉ bôi than vãn, khóc lóc, dùng miệng lưỡi diều hâu bôi nhọ Đảng, Nhà nước, chính quyền địa phương, lực lượng vũ trang tham gia cứu hộ, cứu nạn... Sự trơ trẽn này khiến cho đám kền kền trở nên đáng khinh hơn bao giờ hết.

Và nay, khi Hà Nội đã rút ngắn mọi hoạt động cho lễ Kỷ niệm, dành nguồn lực tổ chức hỗ trợ đồng bào bị thiệt hại do cơn bão số 3, một lần nữa chúng tìm cách phủ nhận, bồi bút, xuyên tạc, "tát bùn sang ao", tuyên truyền những nội dung sai sự thật nhằm phá hoại Ngày hội của Thủ đô, bôi lem uy tín, danh dự của lãnh đạo Thành ủy Hà Nội.

Những việc làm đó của "việt tân" một lần nữa chứng tỏ cho bàn dân thiện hạ thấy rõ hơn bộ mặt "giả nhân giả nghĩa", lật lọng, lươn lẹo của những kẻ "nô lệ" của đồng đô la nhơ bẩn, sẵn sàng bán rẻ lương tâm, lòng tự trọng chống phá điên cuồng như "con thiêu thân".


Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên

 

ĐỔI MỚI, TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ, TƯ TƯỞNG, RÈN LUYỆN, NÂNG CAO BẢN LĨNH CHÍNH TRỊ CHO ĐẢNG VIÊN

 Theo quy định tại điềm 2.1 tiểu mục 2 Mục III Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành quy định về đổi mới, tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị cho đảng viên cụ thể như sau:

 

- Đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đảng viên. Chủ động nắm tình hình, diễn biến tư tưởng, kịp thời định hướng cho đảng viên trước những vấn đề phát sinh; tăng cường trách nhiệm của đảng viên trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác quan điểm sai trái, thù địch.

 

- Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới và truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, làm cơ sở cho cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện. Đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng, nâng cao ý thức tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, "tự soi", "tự sửa", đề cao danh dự, lòng tự trọng của đảng viên. Phát huy vai trò của cơ quan thông tấn, báo chí trong công tác thông tin, tuyên truyền, giới thiệu tấm gương đảng viên tiêu biểu.

 

Tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách

 

Đối với quy định về tăng cường công tác quản lý đảng viên; kịp thời rà soát, sàng lọc đưa ra khỏi Đảng những đảng viên không đủ tư cách thì tại điểm 2.2 tiểu mục 2 Mục III Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành quy định cụ thể như sau:

 

- Cấp uỷ cơ sở phải làm tốt công tác quản lý đảng viên; thường xuyên kiểm tra chi bộ, đảng viên thực hiện chế độ sinh hoạt đảng, công tác quản lý đảng viên của chi bộ.

 

- Cấp uỷ, chi bộ phân công nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên, tạo điều kiện và kiểm tra, giám sát việc thực hiện của đảng viên. Mỗi đảng viên phải xây dựng kế hoạch phấn đấu, rèn luyện để chi uỷ, chi bộ kiểm tra, giám sát, làm cơ sở để kiểm điểm, đánh giá, xếp loại cuối năm.

 

- Đổi mới công tác đánh giá, xếp loại chất lượng đảng viên; phát hiện, khen thưởng, nhân rộng những tấm gương đảng viên xuất sắc, tiêu biểu trên các lĩnh vực; kịp thời nhắc nhở, giáo dục, giúp đỡ đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ hoặc khi có khuyết điểm, vi phạm.

 

- Tăng cường công tác quản lý đảng viên, nhất là về chính trị tư tưởng, về việc lập và sử dụng các trang thông tin trên Internet, mạng xã hội, đảng viên ở ngoài nước và đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập, lao động...; tạo điều kiện thuận lợi trong sinh hoạt đảng đối với đảng viên là sinh viên tốt nghiệp, bộ đội xuất ngũ, đảng viên đi làm ăn xa nơi đăng ký thường trú. Thực hiện nghiêm quy định về sinh hoạt đảng đối với đảng viên nghỉ chế độ hưu trí, khắc phục tình trạng tuỳ tiện, buông lỏng quản lý và thực hiện không đúng quy định về nộp hồ sơ đảng viên khi chuyển sinh hoạt đảng; miễn sinh hoạt đảng đối với đảng viên tuổi cao, sức khoẻ yếu không thể tham gia sinh hoạt đảng. Thường xuyên rà soát, sàng lọc, kiên quyết đưa đảng viên không đủ tư cách ra khỏi Đảng; kịp thời chấn chỉnh đối với đảng viên không hoàn thành nhiệm vụ, đảng viên không thực hiện đúng quy định về chuyển sinh hoạt đảng; đảng viên vi phạm kỷ luật đảng, pháp luật nhà nước; đảng viên thiếu gương mẫu, uy tín thấp. Thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm của đảng viên đang công tác thường xuyên giữ mối liên hệ với tổ chức đảng và nhân dân nơi cư trú. Khắc phục triệt để tình trạng nể nang, né tránh trong kiểm điểm tự phê bình và phê bình, đánh giá, xếp loại đảng viên.

 

- Tăng cường cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác đảng, công tác quản lý đảng viên và sinh hoạt đảng phù hợp với tình hình thực tiễn. Hoàn thành cơ sở dữ liệu tổ chức cơ sở đảng, đảng viên bảo đảm đồng bộ, liên thông trong toàn Đảng.

 

Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên

 

Căn cứ theo quy định tại điểm 2.3 tiểu mục 2 Mục III Nghị quyết 21-NQ/TW năm 2022 về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới do Ban Chấp hành Trung ương ban hành quy định về việc đẩy mạnh và nâng cao chất lượng công tác kết nạp đảng viên cụ thể như sau:

 

- Nâng cao trách nhiệm của các cấp uỷ trong công tác phát triển Đảng; xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch phát triển đảng viên của cả nhiệm kỳ và hằng năm; tạo môi trường thuận lợi để quần chúng giác ngộ lý tưởng, có động cơ trong sáng, rèn luyện, phấn đấu vào Đảng. Tiếp tục tăng số lượng, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng phát triển đảng viên; đẩy mạnh bồi dưỡng, kết nạp vào Đảng những đoàn viên, hội viên ưu tú, trưởng thành trong lao động, học tập, trong lực lượng vũ trang; quan tâm phát triển đảng viên trong công nhân, cán bộ quản lý trong doanh nghiệp, khu vực ngoài nhà nước, nông dân, trí thức, thanh niên, sinh viên, người có tôn giáo, ở nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số theo phương châm "Ở đâu có dân thì ở đó có đảng viên", nhằm tạo nguồn cán bộ cho hệ thống chính trị các cấp trước mắt và lâu dài.

 

- Tập trung củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, tổ chức công đoàn và các tổ chức chính trị - xã hội khác ở địa bàn, tổ chức, đơn vị chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên để tập hợp quần chúng, tạo nguồn, giới thiệu đoàn viên, hội viên ưu tú, xây dựng lực lượng cho Đảng. Cấp uỷ cấp trên trực tiếp của tổ chức cơ sở đảng phân công cấp uỷ viên phụ trách, cấp uỷ cơ sở giao nhiệm vụ cụ thể cho chi bộ trong việc phát hiện, bồi dưỡng, giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào Đảng.

 

- Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng./.

Kinh nghiệm trong đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch

 

NHẬN DIỆN, ĐẤU TRANH CÁC LUẬN ĐIỆU CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH LỢI DỤNG VẤN ĐỀ “DÂN CHỦ”, “NHÂN QUYỀN” CHỐNG PHÁ ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY


Những luận điệu chống phá của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng và Nhà nước ta hiện nay thường được biểu hiện với cách thức khác nhau, có lúc “lặng lẽ, âm thầm”, lẩn khuất; có lúc công khai, trắng trợn, rầm rộ và thường tập trung vào thời điểm diễn ra các sự kiện chính trị trong nước, hoặc thời điểm xảy ra các vụ việc phức tạp, nhạy cảm.

Chúng triệt để lợi dụng internet, mạng xã hội… để tuyên truyền chống phá; tán dương, cổ vũ lẫn nhau trong một “thế trận” có “kịch bản”, đánh vào nhận thức, tâm lý “đám đông” theo kiểu “mưa dầm thấm lâu”, “góp gió thành bão”. Chúng tận dụng tối đa hệ thống phát thanh, báo chí, xuất bản ở nước ngoài; sử dụng một số Website, Blog, Facebook, Youtube… “nhào nặn”, “vá víu” các sự kiện, đánh tráo khái niệm, suy diễn méo mó... để tung thông tin xấu, độc dưới dạng “thật như giả”, “giả như thật”. Chúng dựng lên các video clip, phóng sự giống như của Đài Truyền hình Việt Nam và một số báo, đài chính thống để đưa tin. Mánh lới của chúng là giật tít, “câu view” nhằm đánh trúng tâm lý tò mò của nhiều người.

Có thể nhận diện khái quát những luận điểm của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng và Nhà nước ta hiện nay trên một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, xuyên tạc, vu cáo Việt Nam không có dân chủ, mất dân chủ, vi phạm và hạn chế các quyền tự do, dân chủ của người dân.

Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng “Quyền tự do, dân chủ trong xã hội Việt Nam không được thực hiện”, hay “Xã hội Việt Nam là “ngục tù”, “không có dân chủ”. Bên cạnh đó, chúng còn vu cáo rằng “Hiện nay ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước can thiệp, quản lý quá nhiều lĩnh vực, nên thiếu đi tính độc lập để phát huy dân chủ của người dân”, nên “Muốn Việt Nam thực sự dân chủ và phát triển cần thực hiện “đa nguyên, đa đảng””.  

Hai là, xuyên tạc tình hình thực thi và đảm bảo nhân quyền ở Việt Nam, vu cáo Việt Nam vi phạm nhân quyền.

Các thế lực thù địch, phản động cố tình xuyên tạc, vu cáo rằng “Tình hình nhân quyền ở Việt Nam là hết sức tồi tệ”, “Việt Nam “triệt tiêu nhân quyền” và ở Việt Nam thì “nhân quyền chỉ còn ở trên giấy””, hay “Nhà nước Việt Nam vi phạm trắng trợn các quyền con người, quyền công dân”. Mới đây trong bản “Phúc trình Toàn cầu về tình hình nhân quyền năm 2023” của Tổ chức Theo dõi Nhân quyền (HRW), các thế lực thù địch, phản động đã xuyên tạc rằng: “Trong năm 2023, Việt Nam tiếp tục vi phạm các quyền dân sự và chính trị cơ bản một cách có hệ thống”.

Ba là, tuyệt đối hóa các giá trị pháp lý phổ quát về quyền con người của phương Tây với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”.

Các thế lực thù địch, phản động ra sức tuyên truyền, tung hô, cổ vũ, cường điệu hóa các giá trị dân chủ tư sản “kiểu Mỹ” và phương Tây; tuyệt đối hóa tính toàn cầu, tính phổ cập của quyền con người với luận điểm “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “lợi ích cá nhân cao hơn lợi ích cộng đồng, quốc gia”. Chúng chỉ trích nội dung các điều Nhà nước ta xác lập về quyền tự do tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo; về quyền tự do ngôn luận, báo chí; về quyền hội họp hòa bình, quyền lập hội… là vi phạm quyền con người trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị mà Việt Nam đã ký kết. Nhưng, chúng lại cố tình lờ đi quyền rất quan trọng như: “Mọi dân tộc đều có quyền tự quyết. Xuất phát từ quyền đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị của mình và tự do phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá”; hay “... các quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng”.

Bốn là, xuyên tạc, vu khống Việt Nam vi phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do bày tỏ chính kiến, tự do hội họp.

Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng “Nhà nước độc Đảng ở Việt Nam đã vi phạm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí”, “Việt Nam ngăn cản tự do ngôn luận, tự do bày tỏ chính kiến, là kẻ thù của tự do báo chí trên mạng”, hay “Nhà nước Việt Nam hạn chế nghiêm trọng quyền tự do biểu đạt, tự do báo chí, tự do Internet của công dân”.  

Năm là, xuyên tạc, vu cáo Đảng và Nhà nước ta gia tăng đàn áp “những người bất đồng chính kiến”, “bắt giam những nhà hoạt động nhân quyền”.

Các thế lực thù địch, phản động thường xuyên đưa ra các luận điệu để xuyên tạc, vu cáo như: “Việt Nam bắt bớ, đàn áp cái gọi là “tù nhân lương tâm”, “nhà hoạt động nhân quyền”, “người bất đồng chính kiến”. Chúng ra sức công kích, vu cáo Nhà nước ta “Thực hiện chính sách “bỏ tù” hoặc giam giữ với cá nhân bày tỏ ý kiến bất bình với chính sách của Đảng, Nhà nước”; hay “Chính quyền Việt Nam áp dụng các biện pháp nhằm giam lỏng, hoặc cản trở việc đi lại của những nhà hoạt động nhân quyền, hay những người bất đồng chính kiến”…

Có thể khẳng định, những luận điểm trên của các thế lực thù địch, phản động là những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt nhằm phủ nhận những thành quả về dân chủ, nhân quyền ở nước tatạo dựng nhận thức sai lệch, mơ hồ, hoài nghi, gây “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; gây mất ổn định chính trị - xã hội.

  Do vậy, nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay là nhiệm vụ thường xuyên, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn và hết sức cấp bách đối với toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta nhằm bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững định hướng XHCN trong sự nghiệp đổi mới. Để chủ động đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay cần tập trung thực hiện đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả một số nội dung cơ bản sau:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân trong nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

 Tập trung tuyên truyền, giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức rõ việc nhận diện, đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay là nhiệm vụ thường xuyên, hệ trọng, có ý nghĩa sống còn và hết sức cấp bách đối với toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta; là trách nhiệm của mọi cán bộ, đảng viên và Nhân dân. Tuyên truyền, giáo dục cho mỗi cán bộ, đảng viên và Nhân dân, đặc biệt là đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu vùng xa, biên giới, hải đảo nắm chắc âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta của các thế lực thù địch, phản động; nhận diện rõ các bài viết, những luận điệu sai trái đăng tải trên các trang mạng xã hội; không để chúng kích động, lôi kéo vào các hoạt động biểu tình, khiếu kiện đông người hoặc vô tình bị chúng lợi dụng để chống phá Đảng và Nhà nước.

  Không ngừng củng cố, nâng cao nhận thức chính trị cho cán bộ, đảng viên và Nhân dân, tích cực tham gia phòng ngừa, đấu tranh, giữ vững “thế trận lòng dân”, có khả năng nhận diện và “tự miễn dịch” trước các thông tin xấu, độc; thực hiện mỗi cán bộ, đảng viên và người dân là chiến sĩ trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng, thực hành phát huy dân chủ, nhân quyền ở nước ta. Phát huy cao vai trò trách nhiệm nòng cốt, chuyên trách của Ban Chỉ đạo 35 các cấp, nhất là Ban Chỉ đạo 35 của Quân ủy Trung ương; Bộ Công an; Bộ Thông tin và Truyền thông; Ban Tuyên giáo Trung ương; Hội đồng Lý luận Trung ương, các cơ quan truyền thông và báo chí, đội ngũ các nhà nghiên cứu khoa học… tạo thành mạng lưới đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta ngày càng đông đảo và hiệu quả.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước trong đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

Đây là nội dung quan trọng nhằm bảo đảm cho việc đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta luôn nhận được sự lãnh đạo, quản lý, điều hành tập trung, thống nhất, toàn diện của Đảng và Nhà nước; đồng thời, khẳng định quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước”.  

Ba là, tích cực đổi mới nội dung, đa dạng các hình thức, biện pháp đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

Tích cực đổi mới, bổ sung nội dung đấu tranh cho phù hợp với tình hình thực tiễn mà các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay, trên cơ sở giữ vững quan điểm và nguyên tắc của Đảng và Nhà nước đó là: mềm dẻo, linh hoạt, nhạy bén, nhân văn trong phương pháp; công khai, minh bạch, dân chủ, góp phần tạo dư luận xã hội lành mạnh, đồng thuận.

Về hình thức, biện pháp cần kết hợp chặt chẽ giữa tuyên truyền đối nội và đối ngoại; tận dụng thế mạnh của các kênh ngoại giao, đối thoại làm cho cộng đồng quốc tế, kiều bào ta ở nước ngoài hiểu đúng quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về dân chủ, nhân quyền; những thành tựu về dân chủ, nhân quyền mà Việt Nam đạt được qua 38 năm đổi mới để Nhân dân và bạn bè quốc tế thấy được chính sách, bản chất ưu việt của chế độ XHCN ở Việt Nam. Chú trọng sử dụng các kênh truyền thông chính thống và các mạng xã hội để tiếp cận đông đảo Nhân dân, vừa tuyên truyền, vừa bóc trần những xuyên tạc vô căn cứ về “dân chủ”, “nhân quyền” của các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng, Nhà nước ta. Cùng với đấu tranh “trực diện” cần không ngừng nâng cao cảnh giác, tăng cường ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Chủ động ngăn chặn, kiên quyết xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, chống phá, gây mất ổn định chính trị - xã hội

Bốn là, thường xuyên nắm chắc tình hình, chủ động đấu tranh làm thất bại các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

 “Dân chủ”, “nhân quyền” là vấn đề hết sức nhạy cảm, phức tạp mà các thế lực thù địch, phản động triệt để lợi dụng để chống phá cách mạng Việt Nam. Do vậy, cần chủ động, nhạy bén, nắm chắc tình hình, nhất là âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá ta “từ trong trứng nước” để có các biện pháp ngăn chặn, phòng ngừa sớm, không để ăn sâu bám rễ trong Nhân dân. Thường xuyên triển khai các biện pháp nắm và phòng ngừa, bảo đảm linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với pháp luật Việt Nam cũng như luật pháp và quy định, thông lệ quốc tế, không để xảy ra sai sót dẫn đến các thế lực thù địch, phản động có thể lợi dụng chống phá.

Quá trình đấu tranh không nên dàn trải mà phải có trọng tâm, trọng điểm, trực diện vào vấn đề phức tạp, điểm nóng, đối tượng cầm đầu, chủ mưu; đồng thời cần tính toán, cân nhắc thời điểm phù hợp, đảm bảo yêu cầu chính trị, pháp luật, đối ngoại theo hướng kiên định về nguyên tắc nhưng khôn khéo, linh hoạt về phương pháp trong xử lý các vấn đề nhạy cảm về “dân chủ”, “nhân quyền”; tranh thủ được sự ủng hộ rộng rãi của Nhân dân trong nước và dư luận quốc tế, cô lập, phân hóa số ngoan cố chống đối. Phân biệt rõ mâu thuẫn địch - ta và mâu thuẫn trong nội bộ Nhân dân để lựa chọn phương thức giải quyết phù hợp, không làm phức tạp thêm tình hình, tạo sơ hở cho địch lợi dụng vu cáo, xuyên tạc.

Năm là, thường xuyên sơ tổng kết, rút kinh nghiệm trong đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta hiện nay.

Các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị theo định kỳ hoặc đột xuất tiến hành nghiêm túc, có chất lượng việc sơ tổng kết nhằm phát huy những ưu điểm, cách làm hay sáng tạo, hiệu quả; qua đó kịp thời khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, rút ra bài học kinh nghiệm trong đấu tranh phản bác các luận điệu của các thế lực thù địch, phản động lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” chống phá Đảng, Nhà nước ta. Đồng thời, chú ý lắng nghe dư luận Nhân dân, tiếp nhận ý kiến giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội để nâng cao hiệu quả đấu tranh. Coi trọng phát hiện các yếu tố tích cực, điển hình tiên tiến, những cán bộ, đảng viên, người có uy tín tiêu biểu… để tuyên dương, rút ra những bài học, kinh nghiệm. Tiếp tục xây dựng cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm đấu tranh có hiệu quả với các luận điệu chống phá của các thế lực, thù địch trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam trong thời gian tới.

 TỈNH TÁO VỚI THÔNG TIN TRÊN INTERNET

          Trong thời đại của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, loài người đang được khai thác và sử dụng một công cụ vô cùng hữu ích đó là Internet. Ở Việt Nam, tỷ lệ người dân tham gia vào không gian mạng đã đạt tới trên 70% dân số. Thời gian truy cập vào Internet của mỗi người dân Việt Nam đã tăng lên thuộc hàng cao trên thế giới. Tuy nhiên, các nguồn thông tin trên mạng là rất nhiều, trong đó không tránh khỏi những nội dung của những thế lực phản động đưa lên mạng với mục đích xấu.

          Những nội dung xấu trên mạng thường được nguỵ trang bằng những tiêu để, hình ảnh rất bắt mắt. Sau khi đăng tải, các bài viếtthường được lan truyền với tốc độ chóng mặt. Tuy nhiên, nếu tinh ý, ngay từ tiêu đề người đọc thông thái sẽ đã thấy sự vô lý. Cũng có một số người tin hoặc bán tín bán nghi nhưng rất nhanh sau đó mọi người hiểu ra ngay chân tướng của sự việc, nhận thấy mưu đồ xấu của các kẻ xấu. Vì thế, hãy cảnh giác trước tin giả, vì tin giả rất dễ hấp thụ vào mỗi con người chúng ta. Các nhà khoa học liệt kê 4 lý do mà tin giả lại hấp dẫn đến thế. Đầu tiên là cách tin giả lan truyền. Phương tiện phổ biến nhất để phát tán tin tức giả là mạng xã hội. Hình thức truyền từ người này sang người khác không chỉ cực kỳ nhanh chóng mà còn tạo ra sự tin cậy do nhiều người tham gia phát tán là những người có uy tín. Thứ hai là định kiến của chính người dùng mạng xã hội. Trên mạng xã hội, người dùng có xu hướng giao tiếp nhiều hơn với những người đồng quan điểm. Như vậy, khi bắt gặp một tin giả lại phù hợp với suy nghĩ của mình (định kiến) thì họ tin ngay. Thêm nữa, tin giả thường không có bằng chứng nhưng lại có cái kết đẹp, một cái gọi là “happy ending” khiến tin giả hấp dẫn và thú vị hơn cũng như thu hút nhiều sự quan tâm của những người dùng mạng xã hội nhiều hơn. Cuối cùng thì tin giả thường giật gân với những câu chuyện gây sốc. So sánh việc “rút ống thở của cha mẹ” trên mạng xã hội và những thông tin đếm ca nhiễm trên báo chí là thấy.

          Mạng xã hội là một sản phẩm văn minh của loài người, lại là công cụ khá hữu hiệu trong thời buổi dịch bệnh này. Tuy nhiên mỗi người chúng ta hãy cần sáng suốt, tỉnh táo khi tiếp nhận những thông tin trên mạng để vừa tiêp thu được những thông tin bổ ích mà lại tránh được những nội dung xấu, độc, có hại của những kẻ xấu trên mạng./.

cẩn thận với sự du nhập văn hóa lai căng

 


          Trong xu thế hòa nhập văn hóa thế giới, các lễ hội du nhập từ nước ngoài ngày càng phổ biến và được đa số người trẻ nhiệt tình hưởng ứng. Thế nhưng, dựa trên thực trạng của sự hóa trang quá đà tôn sùng ma quỷ đã diễn ra, chúng ta chỉ vừa “hòa nhập” đã vội “hòa tan”. Những sự học đòi vô tội vạ, không giới hạn trong văn hóa đã tạo ra những biến tướng khủng khiếp.

          Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. Trong đó “lễ” là hệ thống những nghi thức, hành vi, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống. “Hội” là sinh hoạt văn hóa tôn giáo nghệ thuật của cộng đồng bao gồm các trò chơi hay tập tục tạo nên sự hấp dẫn mang tính vui vẻ náo nhiệt. Lễ hội thuộc các nền văn hóa khác nhau thì mang những đặc trưng khác nhau, mọi sự du nhập đều trở nên lạc lõng và khập khiễng.

          Ngay cả phần lễ và phần hội thì Halloween đều không phù hợp với văn hóa Việt. Một số cá nhân đánh đồng sự giao thoa văn hóa giữa Halloween và tháng 7 cô hồn trong tập tục người Việt, nhưng điều đó không có cơ sở. Trọng tâm của chúng ta vẫn là Lễ Vu Lan báo hiếu, câu chuyện ma quỷ và địa ngục trong đó cũng chỉ để nhắc nhau câu hiếu đạo phải tròn. Người Việt ta với văn hóa trọng tình, đề cao lễ nghĩa và nhân sinh không thể dung nạp văn hóa ngoại lai dễ biến tướng như Halloween được. Một đất nước nghìn năm văn hiến với hơn 8.000 lễ hội từ bắc chí nam sẽ không thiếu sót gì nếu Halloween không được tổ chức.

          Điều đáng sợ nhất là các bạn trẻ khá nóng vội hưởng ứng lễ hội này để rồi từ việc Halloween xua đuổi ma quỷ thành lễ hội tôn vinh sùng bái ma quỷ. Tư duy cứ thấy lạ là thích là chạy theo rồi thể hiện biến tướng quá đà thật sự rất nguy hiểm. Có rất nhiều kiến nghị từ những nhà giáo tâm huyết cần dẹp bỏ ngay việc tổ chức Halloween trong trường học. Trẻ em học được gì từ những hình tượng ma quỷ ghê rợn máu me ấy?

          Dù mang thông điệp ý nghĩa đến cùng văn hóa phương Tây đi chăng nữa thì không có lý do nào để Halloween được tổ chức ở Việt Nam. Đặc biệt, trong môi trường giáo dục, tuyệt đối không nên được nhân rộng trước những thực trạng đầy biến tướng vượt quá tầm kiểm soát ấy.