Thứ Hai, 11 tháng 11, 2024

TĂNG CƯỜNG TUYÊN TRUYỀN, TẠO ĐỒNG THUẬN XÃ HỘI ĐỂ NGƯỜI DÂN, DOANH NGHIỆP CHUNG TAY XOÁ NHÀ TẠM, NHÀ DỘT NÁT

 Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các cơ quan thông tấn, báo chí có các giải pháp kịp thời tăng cường tuyên truyền, tạo đồng thuận xã hội để người dân, doanh nghiệp ủng hộ, chia sẻ, cộng đồng trách nhiệm, chung tay hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng, xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo.

 

Đây là chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tại Chỉ thị số 42/CT-TTg ngày 9/11/2024 về việc đẩy nhanh triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên địa bàn cả nước.

 

Đồng thời, theo Chỉ thị, Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội chủ trì, phối hợp với các bộ, cơ quan liên quan trình Trưởng ban Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của Ban Chỉ đạo. Cùng với đó, chủ trì, phối hợp Bộ Xây dựng và các Bộ, ngành và địa phương xây dựng, hoàn thiện dự thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo xóa nhà tạm, nhà dột nát, trình Thủ tướng Chính phủ trong tháng 11 năm 2024.

 

Chỉ đạo, hướng dẫn Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương xác định đối tượng người có công với cách mạng, đối tượng được hỗ trợ từ Quỹ cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo theo đúng quy định.

 

Đối với Bộ Xây dựng khẩn trương trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định về mức hỗ trợ xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở đối với người có công với cách mạng, thân nhân liệt sĩ và tỷ lệ phân bổ vốn hỗ trợ từ ngân sách trung ương, tỷ lệ đối ứng vốn hỗ trợ từ ngân sách địa phương giai đoạn 2023 - 2025 ngay trong tháng 11 năm 2024; tổ chức triển khai thực hiện, hoàn thành trong năm 2025.

 

Khẩn trương hướng dẫn, đôn đốc Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương nơi có nhà tạm, nhà dột nát nghiên cứu, thiết kế một số mẫu nhà ở điển hình, đảm bảo yêu cầu về kỹ thuật, chất lượng, hiệu quả, phù hợp với văn hóa, phong tục tập quán và đặc điểm của từng địa phương, vùng miền để các hộ gia đình tham khảo, nghiên cứu áp dụng xây nhà ở phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng hộ, hoàn thành trước ngày 15/12/2024.

 

Trình Quốc hội đề xuất cho phép sử dụng khoản cắt giảm, tiết kiệm 5% chi phí thường xuyên năm 2024 để xóa nhà tạm, nhà dột nát

 

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Bộ Tài chính khẩn trương cân đối, bố trí vốn từ ngân sách nhà nước để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ nhà ở cho người dân từ chương trình mục tiêu quốc gia và hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng để trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

 

Báo cáo Chính phủ trình Quốc hội đề xuất cho phép sử dụng khoản cắt giảm, tiết kiệm 5% chi phí thường xuyên năm 2024 của ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để triển khai hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát cho hộ nghèo, hộ cận nghèo và được chuyển nguồn sang năm 2025 và trình Chính phủ hướng dẫn triển khai thực hiện sau khi được Quốc hội cho phép.

 

Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tiếp tục vận động, tiếp nhận ủng hộ từ các tổ chức, cá nhân để thực hiện hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát thông qua Quỹ do Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam quản lý. Cùng với đó, phối hợp với Chính phủ và cấp ủy, chính quyền các cấp, các thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ trung ương đến địa phương thực hiện chức năng giám sát quá trình triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở đối với hộ nghèo, hộ cận nghèo đảm bảo đúng mục tiêu và yêu cầu.

 

Ủy ban Dân tộc đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các địa phương thực hiện Hỗ trợ nhà ở thuộc Dự án Giải quyết tình trạng thiếu đất ở, nhà ở, đất sản xuất, nước sinh hoạt tại Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I: từ năm 2021 đến năm 2025, đảm bảo hoàn thành hỗ trợ trong năm 2025.

 

Thành lập Ban Chỉ đạo triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát ở địa phương

 

Thủ tướng yêu cầu Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương khẩn trương trình cấp có thẩm quyền thành lập Ban Chỉ đạo triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát ở địa phương phù hợp với tình hình cụ thể (tỉnh, huyện, xã) do Bí thư cấp ủy làm Trưởng ban Ban chỉ đạo, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp làm Phó trưởng Ban Chỉ đạo; thành viên Ban Chỉ đạo là Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các sở, ngành, cơ quan liên quan, hoàn thành trong tháng 11 năm 2024.

 

Chỉ đạo các cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi quản lý thực hiện mục tiêu xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước (bao gồm cả 3 chương trình: (1) Hỗ trợ nhà ở cho người có công với cách mạng; (2) Hỗ trợ nhà ở theo các chương trình mục tiêu quốc gia và (3) Xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người dân; trong đó ưu tiên xóa nhà tạm, nhà dột nát cho người có công từ nguồn ngân sách nhà nước), đảm bảo đúng đối tượng, tiêu chuẩn, định mức, không trùng lặp giữa các Chương trình, các hoạt động hỗ trợ khác từ ngân sách nhà nước, tuân thủ trình tự, thủ tục theo đúng quy định pháp luật, không để xảy ra thất thoát, lãng phí, tham nhũng, tiêu cực.

 

Thủ tướng Chính phủ giao Phó Thủ tướng Thường trực Chính phủ Nguyễn Hòa Bình, Phó Trưởng ban Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước chỉ đạo các bộ, cơ quan, địa phương giải quyết các công việc liên quan đến triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước./.

Tuyên bố chung Chi-lê - Việt Nam.

 Nhận lời mời của Tổng thống nước Cộng hòa Chi-lê Gabriel Boric Font, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Lương Cường đã thực hiện chuyến thăm chính thức tới nước Cộng hòa Chi-lê từ ngày 9-11/11/2024. Kết thúc chuyến thăm, Hai bên đã ra Tuyên bố chung, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu toàn văn bản Tuyên bố chung giữa nước Cộng hòa Chi-lê và nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

1. Nhận lời mời của Tổng thống nước Cộng hòa Chi-lê Gabriel Boric Font, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam Lương Cường đã thực hiện chuyến thăm chính thức tới nước Cộng hòa Chi-lê từ ngày 9-11/11/2024.

2. Trong chuyến thăm, Chủ tịch nước Lương Cường và Tổng thống Gabriel Boric đã cùng Đoàn đại biểu cấp cao hai nước tiến hành hội đàm sâu rộng về mối quan hệ  hữu nghị song phương và trao đổi về các vấn đề khu vực và quốc tế cùng quan tâm. Chủ tịch nước Lương Cường cũng có các cuộc hội kiến với Chủ tịch Thượng viện José Garcia Ruminot, Chủ tịch Hạ viện Karol Cariola, tiếp Thị trưởng Thành phố Santiago de Chile Irací Hassler; phát biểu chính sách tại trường Đại học Chi-lê và gặp gỡ một số lãnh đạo doanh nghiệp tiêu biểu của
Chi-lê.

3. Trong cuộc hội đàm hữu nghị và thẳng thắn, hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của chuyến thăm Chi-lê đầu tiên của Chủ tịch nước Việt Nam sau 15 năm và tái khẳng định cam kết làm sâu sắc hơn nữa quan hệ song phương và tình hữu nghị gắn bó giữa hai nước. Hai Bên cùng nhau nhìn lại các cột mốc lịch sử định hình quan hệ hai nước, nhấn mạnh năm nay là năm kỷ niệm 55 năm cuộc gặp lịch sử giữa ông Salvador Allende và Chủ tịch Hồ Chí Minh vào năm 1969, hai vị lãnh tụ đã đặt nền móng cho việc hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1971.

4. Chủ tịch nước Lương Cường đánh giá cao những thành tựu của chính phủ Chi-lê đạt được trong thời gian qua, cả về kinh tế, xã hội và đối ngoại, không ngừng nâng cao vai trò và sự hiện diện của Chi-lê tại khu vực và trên thế giới. Về phần mình, Tổng thống Gabriel Boric bày tỏ ngưỡng mộ những thành tựu to lớn mà Việt Nam đã đạt được trong gần 40 năm Đổi mới và hội nhập quốc tế cũng như những kết quả phát triển kinh tế-xã hội thời gian qua.

5. Chủ tịch nước Lương Cường và Tổng thống Gabriel Boric bày tỏ hài lòng và đánh giá cao mức độ quan hệ hữu nghị và hợp tác tốt đẹp giữa hai nước hiện nay. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tiếp tục tăng cường làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác toàn diện, đã được thiết lập từ năm 2007, và tái khẳng định cam kết nỗ lực vì hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển bền vững tại khu vực Châu Á-Thái Bình Dương và trên thế giới.

6. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí đẩy mạnh các hoạt động cấp cao nhằm định hướng phát triển quan hệ Việt Nam - Chi-lê thông qua các chuyến thăm song phương và tiếp xúc cấp cao tại các hội nghị quốc tế và diễn đàn đa phương. Đồng thời, hai Bên nhấn mạnh vai trò quan trọng của tăng cường hợp tác giữa các cơ quan lập pháp, chính quyền địa phương, tổ chức học thuật và giao lưu nhân dân đối với việc làm sâu sắc hơn nữa quan hệ Đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Chi-lê.…

7. Hai nhà Lãnh đạo ghi nhận sự gia tăng trao đổi kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Chi-lê , nhất trí về tầm quan trọng của việc thúc đẩy quan hệ thương mại và đầu tư đối với sự phát triển và thịnh vượng của hai nước. Trên tinh thần đó, hai nhà Lãnh đạo nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Chi-lê, nhân dịp kỷ niệm 10 năm Hiệp định đi vào hiệu lực (2014-2024), cũng như của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) mà hai nước là thành viên đối với quan hệ thương mại song phương. Hai nhà Lãnh đạo nhất trí tiếp tục tăng cường phối hợp nhằm nâng cao hiệu quả triển khai các hiệp định quan trọng nêu trên.

8. Lãnh đạo hai nước cam kết mở rộng hợp tác song phương trong các lĩnh vực mà hai Bên cùng quan tâm như quốc phòng, an ninh, nông nghiệp, phát triển bền vững, năng lượng tái tạo, khoa học, giáo dục, văn hóa và du lịch. Hai Bên chia sẻ sự cần thiết mở cửa thị trường hơn nữa cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam và Chi-lê nhằm đa dạng hóa quan hệ thương mại song phương cũng như góp phần vào việc tăng cường an ninh lương thực tại mỗi nước. Hai Bên bày tỏ quan tâm đến việc tiếp tục xử lý các thủ tục để mở cửa thị trường đối với các sản phẩm nông sản và thủy sản của hai nước.

9. Hai nhà Lãnh đạo đánh giá cao việc gần đây Chính phủ Việt Nam đã mở Văn phòng Tùy viên quốc phòng tại Chi-lê và Chính phủ Chi-lê đã mở Văn phòng tùy viên nông nghiệp tại Việt Nam. Hai Bên tin tưởng những sáng kiến này sẽ góp phần mở rộng và làm phong phú thêm mối quan hệ song phương.

10. Hai nước tái khẳng định cam kết thúc đẩy chủ nghĩa đa phương và tăng cường hợp tác trong các cơ chế đa phương như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Diễn đàn Hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), Diễn đàn Hợp tác Đông Á-Mỹ Latinh (FEALAC) và hợp tác Nam-Nam, trên cơ sở tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc, luật pháp quốc tế, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ các quốc gia. Chi-lê bày tỏ ủng hộ và hỗ trợ tích cực Việt Nam tổ chức thành công Năm APEC 2027.

11.Chi-lê nhấn mạnh mong muốn được gia nhập Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) nhằm tăng cường và thắt chặt quan hệ với các nước thành viên của hiệp định này. Việt Nam hoan nghênh đề nghị của Chi-lê và sẽ tiếp tục tích cực thúc đẩy thảo luận giữa các nước thành viên về vấn đề này.

12. Hai nhà Lãnh đạo khẳng định Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc 1982 (UNCLOS 1982) là khuôn khổ pháp lý điều chỉnh mọi hoạt động trên biển và đại dương, có tầm quan trọng chiến lược và là cơ sở pháp lý cho mọi hành động và hợp tác ở cấp độ quốc gia, khu vực và toàn cầu. Hai Bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giải quyết các tranh chấp biển bằng các biện pháp hòa bình phù hợp với luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước về Luật biển của Liên hợp quốc 1982.

13. Việt Nam chúc mừng Chi-lê nhân dịp kỷ niệm 5 năm quan hệ Đối tác phát triển ASEAN-Chi-lê (2019-2024). Hai nước bày tỏ mong muốn thúc đẩy triển khai hiệu quả các lĩnh vực hợp tác thiết thực trong khuôn khổ Quan hệ đối tác phát triển ASEAN-Chi-lê giai đoạn 2021-2026, đặc biệt nhấn mạnh các lĩnh vực phát triển bền vững, thương mại và đầu tư, khoáng sản, kinh tế số.

14. Thay mặt Nhà nước và nhân dân Việt Nam, Chủ tịch nước Lương Cường cảm ơn Tổng thống Chi-lê Gabriel Boric về sự đón tiếp nồng hậu mà đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam đã nhận được trong chuyến thăm. Hai nhà Lãnh đạo bày tỏ hài lòng với kết quả của chuyến thăm, tạo động lực quan trọng cho việc phát triển và làm sâu sắc hơn nữa quan hệ hai nước trong thời gian tới. Nhân dịp này, Chủ tịch nước Lương Cường trân trọng mời Tổng thống Gabriel Boric thăm Việt Nam trong năm 2025; Tổng thống Gabriel Boric đã vui vẻ nhận lời, thời điểm chuyến thăm sẽ được thống nhất qua kênh ngoại giao.

Tuyên bố chung được ký tại thành phố Santiago, Cộng hòa Chi-lê ngày 11 tháng 11 năm 2024, thành hai bản chính, bằng tiếng Việt và tiếng Tây Ban Nha, cả hai bản có giá trị như nhau./.

Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng và thi hành pháp luật để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới.

 Để không bỏ lỡ những cơ hội phát triển, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, bám sát những chỉ đạo sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước thời gian gần đây, có thể thấy, đã rất chín muồi để thúc đẩy việc đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi hành pháp luật.

Đó là nhận định trong bài viết "Đổi mới mạnh mẽ công tác xây dựng và thi hành pháp luật để đất nước vững bước tiến vào kỷ nguyên mới" của TS. Nguyễn Hải Ninh - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Ban Cán sự Đảng, Bộ trưởng Bộ Tư pháp. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam trân trọng giới thiệu bài viết của Bộ trưởng:

1. Trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, ông cha ta đã dày công xây dựng nền pháp luật mang bản sắc riêng, đáng tự hào với những bộ luật nổi tiếng thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn. Cùng với “khoan thư sức dân”, “trọng pháp”, “trọng kỷ luật, kỷ cương”, “trọng hiền tài” đã trở thành những kế sách trị quốc được lưu truyền mãi.

2. Trên hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - Lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc ta đã ý thức rất rõ tầm quan trọng của Hiến pháp, pháp luật, của “thần linh pháp quyền” đối với việc “bảo toàn lãnh thổ”, “kiến thiết quốc gia”. Ngay sau khi giành độc lập, trong điều kiện cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn ưu tiên hàng đầu cho việc tiến hành tổng tuyển cử để Nhân dân được hưởng quyền tự do, dân chủ, lập nên chính quyền của dân và ban hành bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ vào ngày 9 tháng 11 năm 1946, cũng là ngày sau này được lựa chọn là “Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

3. Trải qua cuộc trường chinh gian khổ, năm 1975 nước nhà thống nhất và đến năm 1986, Đảng ta phát động công cuộc đổi mới vĩ đại, từng bước hoàn thiện mô hình phát triển phù hợp hơn với thực tiễn đất nước. Nhu cầu xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ, chuyển phương thức quản lý, điều hành từ chủ yếu dựa trên mệnh lệnh hành chính, quan liêu sang dựa trên luật lệ và tuân thủ quy luật thị trường ngày càng trở nên cấp thiết. Từ đó đến nay, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách quan trọng về xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung, xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật nói riêng, nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật, được thể hiện tập trung trong: Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ năm 1994; Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991 (bổ sung, phát triển năm 2011); Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, đặc biệt là Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Trên cơ sở đó, với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, chúng ta đã xây dựng được hệ thống pháp luật điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo nền tảng pháp lý để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân. Trong thành quả chung của quá trình Đổi mới, có đóng góp quan trọng của công tác xây dựng và thi hành pháp luật.

4. Mặc dù vậy, thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta thời gian qua cho thấy còn những hạn chế, bất cập và những “điểm nghẽn” về thể chế như đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ ra. Chẳng hạn: Chất lượng xây dựng, hoàn thiện pháp luật chưa đáp ứng nhu cầu của thực tiễn, một số luật mới ban hành đã phải sửa đổi, nhiều quy định còn gây khó khăn, cản trở việc thực thi, chưa tạo môi trường thật sự thuận lợi để thu hút các nguồn lực của các nhà đầu tư trong và ngoài nước, khơi thông nguồn lực trong dân; thủ tục hành chính còn rườm rà; tổ chức thực thi pháp luật, chính sách vẫn là khâu yếu…

5. Để không bỏ lỡ những cơ hội phát triển, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam, phấn đấu hoàn thành thắng lợi mục tiêu của đất nước 100 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng, 100 năm thành lập nước, đưa nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở những định hướng chỉ đạo của Đảng trong Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 9/11/2022 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, bám sát những chỉ đạo sâu sắc của đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí Lãnh đạo Đảng và Nhà nước thời gian gần đây, có thể thấy, đã rất chín muồi để thúc đẩy việc đổi mới căn bản công tác xây dựng và thi hành pháp luật, trong đó, cần chú trọng một số giải pháp trọng tâm sau đây:

Một là, cần đổi mới căn bản tư duy xây dựng pháp luật, coi đây là “đột phá của đột phá” trong hoàn thiện thể chế phát triển. Trong kỷ nguyên mới, pháp luật phải thật sự là nền tảng của phát triển, phục vụ phát triển và thúc đẩy phát triển; “lấy người dân, doanh nghiệp làm trung tâm, chủ thể”. Công tác xây dựng pháp luật phải áp dụng cách tiếp cận thực tế và thực tiễn; bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước, giải đáp các vướng mắc của cuộc sống và tìm ra con đường phát triển từ thực tiễn. Đồng thời, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế về xây dựng và tổ chức thi hành pháp luật, bắt kịp xu thế thời đại. Để đáp ứng yêu cầu này, pháp luật phải: (i) tháo gỡ các “điểm nghẽn” pháp lý, khẩn trương đưa nguồn lực xã hội bị đình trệ hoạt động trở lại; (ii) vừa bảo đảm yêu cầu quản lý nhà nước, vừa khuyến khích đổi mới sáng tạo, giải phóng toàn bộ sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực phát triển đất nước; (iii) tạo cơ sở pháp lý hình thành các động lực tăng trưởng mới, các quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất mới, các ngành dịch vụ mới, các ngành công nghiệp mới.

Chuyển đổi tư duy xây dựng pháp luật phải bắt đầu từ việc kiên quyết thay đổi nhận thức, phá bỏ mọi rào cản, lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ của ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân trong xây dựng pháp luật. Tập trung cắt giảm, đơn giản hóa thủ tục hành chính, tiết giảm chi phí tuân thủ, xóa bỏ cơ chế “xin - cho”; tạo môi trường đầu tư kinh doanh lành mạnh, thuận lợi. Dứt khoát từ bỏ tư duy “không quản được thì cấm”, thực hiện tốt nguyên tắc “công dân được làm tất cả những gì pháp luật không cấm”, cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức thực hiện đúng chức trách theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước; thực hiện nghiêm yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”.

Hai là, đổi mới mạnh mẽ quy trình xây dựng pháp luật gắn với nâng cao chất lượng văn bản pháp luật. Quy trình xây dựng pháp luật phải bảo đảm chuyên nghiệp, khoa học, kịp thời, khả thi và hiệu quả, gắn với phân công rành mạch, trách nhiệm rõ ràng của từng chủ thể trong từng khâu của quy trình xây dựng văn bản pháp luật. Quy định rõ hơn quy trình xây dựng chính sách, gắn với trách nhiệm của cơ quan chủ trì hoạch định chính sách, nhất là người đứng đầu. Chính sách phải cụ thể, rõ ràng, tránh chung chung, tránh việc nhầm lẫn giữa chính sách của Nhà nước và chủ trương của Đảng. Các hoạt động tổng kết, khảo sát thực tiễn, nghiên cứu kinh nghiệm nước ngoài, thu thập thông tin, đánh giá tác động chính sách, lựa chọn chính sách cần được thực hiện kỹ lưỡng, nghiêm túc. Phân định rõ khâu xây dựng chính sách và quy phạm hóa chính sách; nghiên cứu tổ chức cơ quan soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật tập trung, bảo đảm tính chuyên nghiệp, khoa học và sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp luật. Phân định rõ quy trình lập pháp và quy trình xây dựng văn bản dưới luật. Chú trọng đánh giá tác động chính sách thực chất; xây dựng cơ chế hiệu quả để tiếp thu, giải trình ý kiến góp ý của các đối tượng chịu tác động, nhất là đối với người dân, doanh nghiệp; không đẩy khó khăn cho người dân, doanh nghiệp trong thiết kế chính sách và các quy định pháp luật. Thẩm quyền của chủ thể ban hành pháp luật phải căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được quy định trong Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy; nghiên cứu việc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản quy phạm pháp luật về cơ chế đặc thù, thí điểm tháo gỡ, giải quyết triệt để, kịp thời những khó khăn, vướng mắc và những vấn đề mới phát sinh trong thực tiễn.

Ba là, tập trung hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với sắp xếp lại bộ máy trong hệ thống chính trị, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền với phương châm “địa phương quyết, địa phương làm, địa phương chịu trách nhiệm”. Trung ương, Chính phủ, Quốc hội tăng cường hoàn thiện thể chế, giữ vai trò kiến tạo và tăng cường kiểm tra, giám sát. Hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm vận hành tốt nhất mối quan hệ giữa “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”. Phát huy vai trò và hiệu lực của pháp luật để góp phần quản lý xã hội, giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế, hội nhập quốc tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Khẩn trương xây dựng khuôn khổ pháp lý cho những vấn đề mới, xu hướng mới, nhất là những vấn đề liên quan đến trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh… Có cơ chế đột phá thu hút nhân tài trong và ngoài nước. Đẩy mạnh nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế trong công tác xây dựng pháp luật trên cơ sở các định hướng nguyên tắc của Đảng, phục vụ việc hội nhập quốc tế sâu rộng. Tập trung kiểm soát quyền lực, siết chặt kỷ cương, kỷ luật, kiên quyết chống tiêu cực, lợi ích nhóm trong xây dựng pháp luật. Pháp luật phải thể chế hóa đầy đủ, đúng đắn và kịp thời các chủ trương, đường lối của Đảng, là cầu nối đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống. Coi việc lãnh đạo thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng.

Bốn là, xây dựng cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán, bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nâng cao hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật; xây dựng văn hóa tuân thủ pháp luật, đưa tuân thủ pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của xã hội. Thường xuyên theo dõi, rà soát, đánh giá hiệu quả pháp luật sau ban hành, ứng dụng công nghệ trong tiếp nhận, phản hồi và xử lý các phản ánh, kiến nghị của người dân, doanh nghiệp liên quan đến việc thực hiện pháp luật, xác định lỗi của văn bản pháp luật để kịp thời hoàn thiện. Sớm hoàn thiện pháp luật về tổ chức thi hành pháp luật; hoàn thiện quy định, cơ chế hướng dẫn, giải thích, áp dụng pháp luật theo hướng ban hành các nguyên tắc, tiêu chí, cơ sở giải thích, áp dụng pháp luật, để bảo đảm sức sống của quy định pháp luật thay vì thường xuyên thay đổi pháp luật. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và bảo đảm nguồn lực tài chính cho tuyên truyền, phổ biến và thực thi pháp luật.

Năm là, quan tâm phát triển nguồn lực cho công tác pháp luật, tương xứng với tính chất là một trong ba khâu đột phá chiến lược. Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực làm công tác tham mưu xây dựng pháp luật có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư cách đạo đức tốt, thành thạo chuyên môn, có kinh nghiệm thực tiễn, trong đó, một bộ phận cán bộ sẵn sàng tham gia các thiết chế đa phương, tổ chức quốc tế để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc và doanh nghiệp Việt Nam. Nghiên cứu, ban hành cơ chế tài chính đặc thù cho công tác xây dựng pháp luật, chế độ chính sách phù hợp để đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác xây dựng pháp luật, pháp chế yên tâm công tác, tận tâm cống hiến. Quan tâm đầu tư nguồn lực thực hiện chuyển đổi số mạnh mẽ, ứng dụng các nền tảng số, trí tuệ nhân tạo trong công tác xây dựng, thi hành pháp luật và xây dựng các cơ sở dữ liệu chuyên ngành để kết nối, liên thông, làm giàu cho Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư

6. Bám sát các chủ trương của Đảng, thực hiện nghiêm những chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư và các đồng chí Lãnh đạo Đảng, Nhà nước với tinh thần khẩn trương bằng quyết tâm, nỗ lực lớn, sự cố gắng vượt bậc, công tác xây dựng, thi hành pháp luật sẽ và phải đổi mới mạnh mẽ để đóng góp vào sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam.

CÔNG TÁC ĐẢNG, CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ GÓP PHẦN LAN TỎA HÌNH ẢNH BỘ ĐỘI CỤ HỒ RA THẾ GIỚI

 Hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị (CTĐ, CTCT) đã thể hiện và phát huy vai trò như thế nào trong suốt chiều dài lịch sử của Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam 80 năm qua; vai trò, nhiệm vụ đặt ra đối với CTĐ, CTCT trong giai đoạn hiện nay cùng những đề xuất trong việc phối hợp tuyên truyền chủ trương của Đảng về quân sự, quốc phòng…

 

Đây là những ý kiến phát biểu tâm huyết của PGS, TS Lê Hải Bình, Ủy viên dự khuyết Trung ương Đảng, Tổng biên tập Tạp chí Cộng sản tại Tọa đàm 80 năm “Linh hồn, mạch sống của Quân đội cách mạng” do Báo QĐND tổ chức ngày 5-11 vừa qua. Báo QĐND lược trích bài phát biểu của PGS, TS Lê Hải Bình tại tọa đàm.

 

Thứ nhất, liên quan đến đánh giá về hoạt động CTĐ, CTCT, khi đi ra thế giới, chúng ta tự hào về dân tộc, về Đảng ta như một trong những điều rất đặc biệt và tự hào về QĐND ta. Tuy ra đời vào năm 1944, thời điểm non nửa của thế kỷ XX, nhưng QĐND Việt Nam đã khẳng định trong cả thế kỷ XX ấy, đối với nhân dân là Bộ đội Cụ Hồ; đối với bạn bè quốc tế là một biểu tượng, sự cổ vũ; đối với thế giới là một đội quân bách chiến bách thắng.

 

Ví dụ, Vovinam là môn võ được các bạn bè ở châu Phi tập rất nhiều, thậm chí ở Algeria, võ Vovinam còn được đưa vào hệ thống giáo dục và nhân dân Algeria tập luyện phổ biến.

 

Với tư cách Phó chủ tịch Liên đoàn Vovinam thế giới, tôi hỏi các bạn Algeria: Tại sao người Trung Quốc, người Nhật Bản, người Hàn Quốc vận động tập võ dân tộc của nước họ mà các bạn lại chọn tập Vovinam? Tôi nhận được câu trả lời: “Bởi vì năm 1954, sau khi thông tin về thắng lợi Điện Biên Phủ đến Algeria, chỉ 6 tháng sau, người Algeria bắt đầu công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Suy nghĩ của chúng tôi lúc đó là người Việt Nam làm được thì người Algeria ắt phải làm được. Trên trận tuyến chống Pháp, chúng tôi không hô tiếng “xung phong” bằng tiếng Pháp (ngôn ngữ tại Algeria do thực dân Pháp truyền dạy), cũng không hô tiếng “xung phong” bằng tiếng bản địa Algeria, mà chúng tôi hô “Hồ Chí Minh”, “Điện Biên Phủ”, “Võ Nguyên Giáp”, lấy đó là niềm động viên cho chúng tôi thắng thực dân Pháp. Đến năm 1962, chúng tôi thành công. Vì vậy, chúng tôi muốn học môn võ của một dân tộc đã cổ vũ chúng tôi trên con đường giành độc lập, tự do cho dân tộc Algeria”. Như vậy, chúng ta khẳng định được câu chuyện về CTĐ, CTCT là một biểu tượng của sự động viên, cổ vũ đối với các dân tộc thuộc địa.

 

Thứ hai, cùng sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng và nền tảng truyền thống của ông cha ta để lại, phải khẳng định CTĐ, CTCT có vai trò hết sức to lớn trong quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của QĐND Việt Nam. Đó là sự độc đáo, đặc sắc ngay trong việc phối hợp hài hòa hữu cơ giữa công tác chính trị và công tác quân sự. Bác Hồ từng nói chính trị trọng hơn quân sự, nhưng không coi nhẹ công tác quân sự. Việc xuất bản báo chí trong những lúc cam go, thách thức nhất, ngay ở tiền phương như ở mặt trận Điện Biên Phủ thể hiện sự độc đáo trong CTĐ, CTCT của QĐND ta. Cùng với báo chí, thơ ca, văn nghệ và cả công tác hậu phương Quân đội đã cho thấy một cách hết sức độc đáo của hoạt động CTĐ, CTCT trong Quân đội.

 

Chủ nghĩa Mác - Lênin và đặc biệt Lênin cũng đã có tư tưởng quan trọng về công tác chính trị trong Quân đội. Ví dụ, Lênin nói: Không có chính ủy thì không có Hồng quân. Lênin cũng nói: Các chính ủy (ý nói về CTĐ, CTCT trong Quân đội), trước hết là người mang tinh thần của Đảng, mang kỷ luật của Đảng, mang tính kiên nghị và lòng dũng cảm của Đảng vào trong cuộc đấu tranh quân sự. Đảng ta, Bác Hồ và các thế hệ nối tiếp của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam đã làm cho tư tưởng về chính trị trong quân sự của Chủ nghĩa Mác - Lênin đậm chất Việt Nam.

 

Thứ ba, CTĐ, CTCT còn đóng vai trò lớn, vượt ra khỏi khuôn khổ công tác quân sự. Ví dụ phân tích thêm về những giai đoạn cam go, đầy thách thức. Khi mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, lúc đó sự vững mạnh của Quân đội, tính Đảng và tính chính trị trong Quân đội đã góp thêm phần củng cố sự vững vàng của Đảng ta. Nhắc đến Liên Xô, phải nhớ đến câu chuyện phi chính trị hóa quân đội đã khiến quân đội xa rời Đảng, một trong những nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của Đảng Cộng sản Liên Xô.

 

Về vai trò, nhiệm vụ đặt ra đối với CTĐ, CTCT trong giai đoạn hiện nay, tôi cho rằng, CTĐ, CTCT nói riêng và toàn bộ chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam nói chung càng quan trọng hơn. Trong thời kỳ chiến tranh khó khăn, gian khổ, nhiều thách thức, với lòng yêu nước nồng nàn, dân ta đứng lên đẩy lùi kẻ thù xâm lăng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng với CTĐ, CTCT của Tổng cục Chính trị, ta đã huy động được một đội quân có ý chí thống nhất và vô địch. Còn trong giai đoạn hiện nay, chúng ta luôn bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, song kẻ thù chính trị và tư tưởng lại vô hình lẩn khuất đâu đó.

 

Một là, trên thế giới, cạnh tranh nước lớn cùng những sự chuyển đổi từ các cuộc cách mạng khoa học, những sự va chạm về văn hóa, dẫn đến tình hình tư tưởng chính trị trên thế giới rất phức tạp. Ngoài ra, tác động của phương tiện truyền thông mới khiến tình hình càng khó đoán định. Hai là, ở trong nước, mặt trái của kinh tế thị trường cũng có tác động đến suy nghĩ, tư tưởng của cán bộ, chiến sĩ và cả hậu phương. Ba là các thế lực thù địch. Khi chúng ta càng thành công, càng thắng lợi, các thế lực thù địch càng chống phá, đặc biệt trên không gian mạng. Vì vậy, tình hình hiện nay đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ mới và càng khẳng định thêm vai trò của hoạt động CTĐ, CTCT trong Quân đội.

 

Về đề xuất trong việc phối hợp tuyên truyền chủ trương của Đảng về quân sự, quốc phòng: Qua các công việc của mình, từ người phát ngôn Bộ Ngoại giao, người phụ trách lĩnh vực thông tin đối ngoại, phụ trách Công tác 35 cho đến hiện tại là lý luận chính trị của Đảng, nhiệm vụ của tôi luôn gắn liền với công tác của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam nói chung, Báo QĐND nói riêng. Do đó, đề xuất thứ nhất là tăng cường hơn nữa sự phối hợp chặt chẽ giữa Tổng cục Chính trị với các cơ quan liên quan, trong đó có Tạp chí Cộng sản.

 

Thứ hai, tôi đặc biệt nhấn mạnh đến Công tác 35 về bảo vệ nền tảng chính trị, tư tưởng của Đảng. Trong đó, vai trò của Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam và các cơ quan, đơn vị rất quan trọng. Phải nói rằng, trên mặt trận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong lĩnh vực báo chí, Báo QĐND là lá cờ đầu. Có những vấn đề Báo QĐND đã thông tin rất sớm, nói rất rõ và hiệu quả.

 

Thứ ba, về công tác thông tin đối ngoại. Cho đến nay, có thể khẳng định, hình ảnh QĐND Việt Nam đã ngày càng vang xa trên trường quốc tế, góp phần vào việc khẳng định vị thế, hình ảnh của đất nước Việt Nam chúng ta. Tôi chỉ lấy ra 3 hoạt động tiêu biểu: Đầu tiên là hoạt động gìn giữ hòa bình. Bây giờ, không một video clip giới thiệu về thành tựu Việt Nam nào mà không có hình ảnh các chiến sĩ gìn giữ hòa bình của Việt Nam với lá cờ Tổ quốc. Hình ảnh thứ hai là Bộ đội Cụ Hồ Việt Nam tham gia cứu trợ, cứu nạn, tiêu biểu là hoạt động cứu trợ, cứu nạn sau thảm họa động đất ở Thổ Nhĩ Kỳ. Chúng ta đã khẳng định không chỉ tham gia cứu trợ bằng chuyên môn, mà còn làm tốt công tác dân vận tại đó. Thứ ba là hình ảnh Quân đội tham gia Army Games ở Nga. Tại đó, chúng ta cũng một lần nữa khẳng định không chỉ câu chuyện về chuyên môn đua xe tăng hành tiến, kết hợp bắn mục tiêu, mà còn là công tác dân vận tại chỗ, tuyên truyền tại chỗ. Những hoạt động ấy cho thấy điều rất đặc biệt của CTĐ, CTCT của Quân đội chúng ta.

 

Tôi cũng phải nhấn mạnh: Báo QĐND là đơn vị đi đầu trong việc livestream, thực hiện đổi mới sáng tạo để lan tỏa những hình ảnh cao đẹp, tự hào về Bộ đội Cụ Hồ./.

SỰ CỐ TẤN CÔNG MẠNG VÀO CÁC HỆ THỐNG TẠI VIỆT NAM GIẢM HƠN 57%

 Số cuộc tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam gây ra sự cố được Bộ Thông tin và Truyền thông (TT&TT) ghi nhận, cảnh báo và hướng dẫn xử lý trong 10 tháng đầu năm nay là 4.483, giảm tới 57,4% so với cùng kỳ năm ngoái.

Sự cố tấn công mạng vào hệ thống tại Việt Nam liên tục giảm

 

Hệ thống kỹ thuật của Cục An toàn thông tin (Bộ TT&TT) ghi nhận số sự cố tấn công mạng vào các hệ thống thông tin tại Việt Nam trong tháng 10 là 204, giảm 18,4% so với tháng trước đó và giảm 79,8% so với cùng kỳ năm 2023.

 

Như vậy, 3 tháng gần đây, số sự cố tấn công mạng vào các hệ thống tại Việt Nam đã liên tục giảm, từ 349 sự cố trong tháng 8, xuống 250 sự cố vào tháng 9 và giảm tiếp còn 204 sự cố trong tháng 10. 

 

Lũy kế từ đầu năm 2024 đến hết tháng 10, số sự cố tấn công mạng vào các hệ thống tại Việt Nam là 4.483, giảm hơn 57% so với 10 tháng đầu năm 2023 (10.513 sự cố).

 

Chiều hướng giảm các cuộc tấn công mạng gây ra sự cố vào hệ thống thông tin tại Việt Nam, theo các chuyên gia, đã phần nào cho thấy sự bước chuyển biến trong nhận thức và hành động của các tổ chức, doanh nghiệp tại Việt Nam về sự cần thiết phải đảm bảo an toàn cho các hệ thống thông tin.

 

Trong chia sẻ tại CIO CSO Summit 2024 mới đây, bà Triệu Thị Thu Lan, chuyên gia của KPMG Việt Nam cho hay, qua các sự cố tấn công mạng vào một số đơn vị tại Việt Nam, đến nay nhiều doanh nghiệp, tổ chức trong nước đã nâng mức độ ưu tiên với vấn đề an toàn, bảo mật thông tin lên cao nhiều so với trước.

 

3 giải pháp để các đơn vị chủ động ứng phó với rủi ro

 

Mặc dù số lượng sự cố tấn công mạng vào hệ thống tại Việt Nam giảm, song mức độ tinh vi, nguy hiểm của các chiến dịch tấn công được nhận định là ngày càng có xu hướng gia tăng.

 

Thực tế, các tháng đầu năm nay, không gian mạng Việt Nam cũng đã chứng kiến hệ thống thông tin quan trọng, chứa nhiều dữ liệu của các doanh nghiệp, tổ chức hoạt động trong các lĩnh vực trọng yếu như viễn thông, năng lượng, chứng khoán, logistics bị tấn công bằng mã độc mã hóa dữ liệu tống tiền - ransomware.

 

Các sự cố tấn công ransomware vào các đơn vị tại Việt Nam đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động, tổn thất về kinh tế và uy tín của doanh nghiệp, tổ chức.

 

Theo đại diện Cục An toàn thông tin, đây là lời cảnh báo khi tội phạm mạng quốc tế ngày càng quan tâm đến các doanh nghiệp Việt Nam.

 

Đại diện Cục An toàn thông tin cũng nhấn mạnh rằng, trong bối cảnh các mối đe dọa an toàn thông tin mạng liên tục phát triển, gia tăng trên không gian mạng, các cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp phải luôn cảnh giác và không ngừng cải thiện năng lực an toàn thông tin, khả năng phòng, chống các mối đe dọa.

 

Để chủ động ứng phó với nguy cơ, rủi ro an toàn thông tin, 3 nhóm giải pháp Cục An toàn thông tin khuyến nghị các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần quan tâm triển khai gồm: Có kế hoạch ứng phó tốt, đầu tư đúng mức cho an toàn thông tin và thực hành thường xuyên các phương án ứng phó.

 

Cụ thể, các đơn vị cần xây dựng kế hoạch toàn diện về an toàn thông tin cho tổ chức doanh nghiệp mình, bao gồm từ các biện pháp giám sát, phát hiện đến bảo vệ, phản ứng nhanh, phục hồi hệ thống sau sự cố.

 

Kế hoạch cần được xây dựng dựa trên việc tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật về an toàn thông tin, các quy trình khi xảy ra sự cố tấn công mạng để đảm bảo hoạt động ứng cứu sự cố hiệu quả, cũng như 6 giải pháp trọng tâm Bộ TT&TT đã hướng dẫn.

 

“Trong đó, cần đặc biệt quan tâm tới giải pháp sao lưu dữ liệu ngoại tuyến - offline và triển khai giải pháp để phục hồi nhanh khi hệ thống thông tin gặp sự cố trong vòng 24 tiếng. Kế hoạch cũng cần quán triệt, áp dụng nguyên tắc, hệ thống chưa được kết luận bảo đảm an toàn thông tin thì chưa đưa vào sử dụng”, đại diện Cục An toàn thông tin lưu ý thêm.

 

Song song đó, đầu tư cho an toàn thông tin, gồm cả đầu tư công cụ và các chi phí thường xuyên về an toàn thông tin, được khuyến nghị cần chiếm 10% tổng chi cho CNTT, c.h.u.y.ể.n đ.ổ.i s.ố của đơn vị.

 

Đồng thời, cần rèn luyện đội ngũ thường xuyên, định kỳ kiểm tra, đánh giá an toàn thông tin và tổ chức diễn tập an toàn thông tin thực chiến để phát hiện các lỗ hổng bảo mật tồn tại trong hệ thống thông tin./.

THANH XUÂN CỦA NHỮNG NGƯỜI LÍNH ĐÁNG GIÁ BAO NHIÊU?

     Thi thoảng, mình vẫn thấy thường thấy người ta dùng hai chữ “thanh xuân” nói về chuyện này chuyện kia, chuyện gia đình, chuyện yêu đương… Nhưng, đại đa phần chúng ta còn được sống với “thanh xuân”, làm bất cứ điều gì chúng ta thích làm hoặc muốn làm. Còn có những lớp người “thanh xuân” của họ chỉ là hai chữ Tổ Quốc và cũng với rất nhiều người, không hề được trải qua thanh xuân một cách trọn vẹn!
Họ dùng “thanh xuân” của họ để chúng ta có được “thanh xuân”... Có một đoạn thơ rất hay của Thanh Thảo: 
Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình 
(Những tuổi hai mươi làm sao không tiếc) 
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ quốc?
Có một câu nói đầy xúc động trong Mùi Cỏ Cháy: "Mùa hè năm ấy h.y sinh nhiều quá, toàn là lính trẻ". Trong trường Bách Khoa, có Tượng đài Sinh viên lên đường bảo vệ Tổ quốc nhằm tri ân lớp sinh viên lên đường vào mùa hè 1972... 
Trên dãy Trường Sơn có một ngôi đền gọi là Đền Vọng, nơi này dùng để thờ tự cho hương hồn của hơn 13 ngàn người lính, thanh niên xung phong, dân quân đã h.y sinh ở Trường Sơn trong chiến dịch 6000 ngày trên tuyến đường Hồ Chí Minh mà không thể tìm được th.i hài. Lý do mà không thể tìm được có thể do th.ịt x.ương đã hòa tan vào với đất, có thể bị chôn vùi ở nơi đâu, bị l.ũ quét cuốn trôi đi, bị thú rừng đào bới …. Linh h.ồn của những chiến sĩ luôn cần được sưởi ấm. Sự h.y sinh nào cũng là m.áu.
Mình có một người bạn vừa đi viếng Nghĩa trang Quốc gia Đường 9 cùng với gia đình, khi bạn ấy tìm đến khu mộ của tỉnh Hải Dương thì thấy trên bia mộ của một chiến sĩ binh nhất thuộc sư đoàn 308, có ghi năm sinh là 1955 và h.y sinh vào năm 1972, tức là chiến sĩ ấy h.y sinh khi chỉ vừa mới 17. Một độ tuổi còn quá trẻ, quá nhiều hoài bão, quá nhiều khát khao… Một độ tuổi 17 mà với thế hệ hiện nay, nhiều khi còn chưa vững bước được trên cuộc đời mà những con người ấy đã phải gánh vác trên vai sự sinh tồn, tính an nguy của một quốc gia, một dân tộc. 
Có một câu chuyện mà mình nghe được rằng, khi một bà mẹ Việt Nam anh hùng nhận được tiền trợ cấp, bà mẹ “trách” nhẹ rằng: “Tiên sư, nó ch.ết rồi mà vẫn nuôi mẹ”. Chàng trai ấy ra đi vào năm 18 tuổi và h.y sinh ở mặt trận Trị Thiên sau đó một năm. Một bà mẹ khác khóc rơi nước mắt: “Con đi thì tôi dễ m.ất con, giữ con lại thì m.ất nước”... Thanh xuân của những người mẹ, người vợ, người con khi đợi chồng, đợi cha đầy mòm mỏi và ám ảnh, luôn phải trong tình trạng xác định “đi là sẽ h.y sinh”. Và có những người m.ất cả cuộc đời cũng chẳng thể đón được người thân trở về, dù chỉ là một nhánh xư.ơng khô hoặc một nắm tro c.ốt… 
Mình nhớ hồi bé khi đi qua nghĩa trang li.ệt sĩ, có một bà dọa mình và đám bạn rằng: “Vào đó ma bắt đi đấy”. Sau này lớn hơn vào tuổi, học được lịch sử của dân tộc và hiểu những lời dạy của ông bà cha mẹ, mình nghĩ rằng, những người đã nằm xuống đều là những anh hùng, họ đã h.y sinh cho chúng ta thì sẽ không bao giờ bắt hay muốn làm hại chúng ta… Ngược lại, họ luôn sống mãi và che chở cho chúng ta... 
Lịch sử thì vẫn trôi qua từng giây từng phút, cuộc sống vẫn phải tiếp diễn cho dù điều gì đã đang hoặc sẽ diễn ra. Mình biết rằng, những con người ấy đã có một thanh xuân rất đẹp...
Yêu nước ST.

Xóa nhà tạm, dột nát là công việc chung của cả hệ thống chính trị

 Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc, mang lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân, trong đó việc xóa nhà tạm, nhà dột nát là công việc chung của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội, đặc biệt là sức mạnh của toàn dân, với tâm đức của mỗi cán bộ, đảng viên, người dân, doanh nghiệp.

Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì họp Phiên thứ nhất của Ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước. (Ảnh: TTXVN)

Sáng 10/11, tại Trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng ban Chỉ đạo Trung ương triển khai xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước (Ban Chỉ đạo) họp Phiên thứ nhất của Ban Chỉ đạo để đánh giá tình hình, kết quả thực hiện chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và nhiệm vụ thời gian tới.

Cùng dự có Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Đỗ Văn Chiến; Phó Thủ tướng Chính phủ Hồ Đức Phớc; lãnh đạo các bộ, ngành, cơ quan Trung ương là thành viên Ban Chỉ đạo.

Khai mạc Phiên họp đúng vào tháng “Vì người nghèo”, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính, Trưởng Ban Chỉ đạo cho biết, Thủ tướng Chính phủ đã có các quyết định thành lập Ban Chỉ đạo và Quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo; nghiên cứu sẽ yêu cầu thành lập Ban Chỉ đạo tới cấp xã để thực hiện đồng bộ từ Trung ương tới cơ sở Chương trình phát động hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước để không chỉ huy động, phân bổ nguồn lực, huy động nhân lực, vật lực tổ chức thực hiện mà còn phải đôn đốc, giám sát, kiểm tra.

Hoàn thành xóa nhà tạm, dột nát trên toàn quốc trong năm 2025 (Nguồn: vtvgo.vn) 

Thủ tướng nêu rõ, với sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Nhà nước và sự vào cuộc của các bộ, các ngành, các địa phương, sự tham gia tích cực của các tổ chức, cộng đồng dân cư, doanh nghiệp và nhân dân, thời gian qua, cả nước đã giúp cho khoảng 340 nghìn hộ người có công với cách mạng và trên 800 nghìn hộ nghèo, hộ cận nghèo khó khăn về nhà ở có chỗ ở ổn định, an toàn, vươn lên thoát nghèo bền vững. Tuy nhiên, đến nay cả nước còn khoảng trên 315 nghìn hộ có khó khăn về nhà ở, trong đó khoảng 106 nghìn hộ người có công, 46 nghìn hộ thuộc chương trình mục tiêu quốc gia và 153 nghìn hộ nghèo, hộ cận nghèo khác.

Để cải thiện ngôi nhà đảm bảo an toàn, ổn định để “an cư, lạc nghiệp”, góp phần thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công, hoàn thành mục tiêu giảm nghèo bền vững, bảo đảm an sinh xã hội; thiết thực chào mừng kỷ niệm 95 năm ngày thành lập Đảng, 80 năm ngày thành lập nước, 50 năm ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, 135 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu và chào mừng Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIV, cả nước quyết tâm phấn đấu thực hiện bằng được mục tiêu: hoàn thành xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước trong năm 2025, sớm hơn 5 năm so với mục tiêu ban đầu đề ra.

Thủ tướng Chính phủ yêu cầu Phiên họp thảo luận, xác định rõ mục tiêu, quan điểm, định hướng chỉ đạo để thực hiện quyết liệt, hiệu quả Chương trình, bảo đảm hoàn thành trong năm 2025; phân tích, xác định cụ thể những khó khăn, vướng mắc và biện pháp khắc phục; nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, kế hoạch, lộ trình thực hiện để hoàn thành mục tiêu vào năm 2025, trong đó lưu ý bảo đảm tinh thần “5 rõ” gồm: rõ người, rõ việc, rõ trách nhiệm, rõ thời gian, rõ kết quả. Đặc biệt, xác định trách nhiệm của các bộ, ngành, địa phương, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp, các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ủng hộ, các hộ gia đình được hỗ trợ. 

Các đại biểu tham dự cuộc họp. (Ảnh: TTXVN) 

Thủ tướng nhấn mạnh, trách nhiệm của Đảng, Nhà nước là giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc, mang lại hạnh phúc, ấm no cho nhân dân, song việc xóa nhà tạm, nhà dột nát không phải công việc riêng của Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc mà là công việc chung của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội, đặc biệt là sức mạnh của toàn dân, với tâm đức của mỗi cán bộ, đảng viên, người dân, doanh nghiệp. Cùng với sự hỗ trợ từ Nhà nước, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp..., người nghèo cần cố gắng, nỗ lực, cộng đồng ở địa phương giúp đỡ, với tinh thần "ai có gì giúp nấy", “ai có công góp công, ai có của góp của, ai có nhiều góp nhiều, ai có ít góp ít”, "tương thân, tương ái", “tình đồng chí, nghĩa đồng bào”, "lá lành đùm lá rách", “lá rách ít đùm lá rách nhiều”, không trông chờ, ỷ lại; tất cả phải chủ động, tích cực.

Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội - Cơ quan thường trực Ban Chỉ đạo, cả nước còn khoảng 106 nghìn hộ người có công có khó khăn về nhà ở. Với mức hỗ trợ xây mới là 60 triệu đồng/nhà và mức hỗ trợ sửa chữa là 30 triệu đồng/nhà, cần khoảng 4 nghìn tỷ đồng. Thường trực Chính phủ đã họp thống nhất chính sách hỗ trợ xây dựng mới hoặc cải tạo, sửa chữa nhà ở đối với người có công với cách mạng, Bộ Xây dựng đang hoàn thiện hồ sơ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo quy định.

Đối với Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, ước tính đến hết năm 2024, tổng số hộ được hỗ trợ nhà ở từ Chương trình là 60 nghìn hộ, ngân sách trung ương đã bố trí hơn 2,3 nghìn tỷ đồng; đề xuất năm 2025 bố trí kinh phí từ nguồn ngân sách trung ương là hơn 1.266 tỷ đồng để xây mới và sửa chữa khoảng gần 40.000 căn còn lại.

Về Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, đến nay, cả nước đã hỗ trợ được khoảng 18.200 căn cho các hộ nghèo vùng dân tộc thiểu số và miền núi; dự kiến năm 2025 sẽ hỗ trợ khoảng 21.800 căn nhà với tổng kinh phí khoảng hơn 673,7 tỷ đồng.

Đáng chú ý, sau Lễ phát động Phong trào thi đua “Cả nước chung tay xóa nhà tạm, nhà dột nát", các địa phương đã tổ chức triển khai, với tổng số kinh phí đã huy động được khoảng hơn 44 tỷ đồng.

Đặc biệt, Chương trình phát động hỗ trợ xóa nhà tạm, nhà dột nát trên phạm vi cả nước vào ngày 5/10/2024 được nhân dân đánh giá cao, thể hiện tính nhân văn sâu sắc, làm lay động lòng người, được các bộ, cơ quan, địa phương, doanh nghiệp, người dân ủng hộ; kết thúc Chương trình, tổng số tiền huy động được là 5.932 tỷ đồng… 

Cách mạng tháng Mười Nga mở ra con đường giải phóng và phát triển trên thế giới ngày nay

 107 năm trước, dưới sự lãnh đạo của chính Đảng tiền phong do V.I. Lênin vĩ đại đứng đầu, quần chúng công - nông Nga đã làm nên một sự kiện làm rung chuyển toàn thế giới: Cách mạng tháng Mười năm 1917 thành công, khai sinh chế độ xã hội chủ nghĩa đầu tiên trong lịch sử loài người.

Lãnh tụ V.I.Lênin diễn thuyết ở Quảng trường Đỏ, Moscow năm 1917 

Bắt đầu từ tháng Mười Nga năm 1917 đã chấm dứt thời đại độc tôn của chủ nghĩa tư bản trong nền kinh tế và chính trị thế giới, mở ra kỷ nguyên mới của phát triển và tiến bộ xã hội. Từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản bộc lộ rõ rệt nhất những hạn chế không thể vượt qua. Nền văn minh vật chất sung mãn do chủ nghĩa tư bản tạo ra đã được xây dựng bằng nước mắt và máu của quần chúng lao động khắp toàn cầu; sự phồn vinh của quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp người này phải được đánh đổi bằng sự bần cùng hoá của nhiều quốc gia, dân tộc, giai cấp, tầng lớp khác; sự hưng thịnh của một số cường quốc phải được đánh đổi bằng hàng loạt cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc, biến hàng trăm quốc gia Á, Phi, Mỹ La tinh thành hệ thống thuộc địa đáng hổ thẹn của chủ nghĩa thực dân... Như kết tinh của mọi tư tưởng giải phóng và phát triển tiến bộ của thời đại, Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 nổ ra, đáp ứng đầy đủ nhất những yêu cầu bức bách của lịch sử là xoá bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, mở ra chân trời mới cho mục tiêu phát triển và tiến bộ xã hội.

Từ chiếc nôi nước Nga và Liên Xô, cách mạng vô sản và chế độ xã hội chủ nghĩa đã được tiến hành thắng lợi ở nhiều không gian địa chính trị trọng yếu; chủ nghĩa xã hội trở thành một hệ thống thế giới, đối trọng hữu hiệu trên nhiều lĩnh vực với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Giương cao lá cờ búa liềm thắm hồng sắc màu cách mạng, giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn Nga thực sự nắm quyền làm chủ, xây dựng chính quyền Xô viết, biến chủ nghĩa xã hội từ mơ ước và lý luận thành hiện thực sinh động ở Nga và sau đó trên toàn Liên bang chiếm 1/6 diện tích địa cầu.

Dưới ánh sáng của ngọn hải đăng Tháng Mười Nga, quần chúng lao động và các lực lượng cách mạng khác đã xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở 15 quốc gia thuộc châu Âu, châu Á và cả ở châu Mỹ; cộng với nhiều quốc gia định hướng xã hội chủ nghĩa ở Á, Phi và Mỹ La tinh. Cách mạng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội đã thực sự là lực lượng mở ra và thực thi mục tiêu giải phóng và phát triển cho nhân loại trong những thập kỷ sôi sục đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc và đấu tranh xã hội. Chủ nghĩa tư bản đã buộc phải chung sống hòa bình với chủ nghĩa xã hội, chấp nhận chủ nghĩa xã hội là một trong những lực lượng quyết định xu hướng vận động của thế giới trong thế kỷ XX.

Cách mạng tháng Mười Nga đã mở ra và tạo động lực mạnh mẽ cho phong trào giải phóng dân tộc trong thời đại mới. Trong suốt thế kỷ XX, các dân tộc trên thế giới đã vùng lên giải phóng khỏi các chế độ quân chủ, phát xít, thực dân, đế quốc; xác lập nền cộng hòa với chủ quyền đối nội, đối ngoại không thể bác bỏ; xây dựng chế độ xã hội mới do người lao động làm chủ. Dưới sức công phá của dòng thác cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới do Cách mạng tháng Mười Nga mở ra, hệ thống thuộc địa do chủ nghĩa thực dân đế quốc thiết lập trong suốt 5 thế kỷ (từ 1492) đã hoàn toàn sụp đổ trong vòng chưa đầy 5 thập kỷ. Bản đồ thế giới đã được vẽ lại từ Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917.

Động lực và cảm hứng từ Cách mạng tháng Mười Nga tiếp tục tạo nên xu hướng phê phán, phủ định và thay thế chủ nghĩa tư bản bằng một chế độ xã hội tiến bộ hơn trong bối cảnh thế giới ngày nay. Thế kỷ XXI đặt ra nội dung và yêu cầu mới cho mục tiêu phát triển. Đó là sự phát triển trong hoà bình và tự do; phát triển hài hoà giữa vật chất và tinh thần; phát triển trong công bằng và dân chủ; phát triển bền vững và nhân văn; sự phát triển của mỗi người, mỗi nhóm xã hội, mỗi giai cấp, tập đoàn, mỗi quốc gia, dân tộc phải là điều kiện tích cực cho sự phát triển của những người khác và toàn bộ loài người. Mục tiêu phát triển hiện đại tự nó đặt ra yêu cầu tiếp tục giải phóng, giải phóng triệt để hơn khỏi con đường và chế độ tư bản chủ nghĩa trong mọi biến thái khác nhau của chúng.

Ngay từ chính các trung tâm tư bản chủ nghĩa đã không ngừng cất lên biết bao lời cảnh tỉnh, phê phán rằng chủ nghĩa tư bản là “một thế giới không thể chấp nhận được” (René Dumond), nó “chứa đựng nhiều vết loét không thể cứu chữa” (Henry Kissinger), nó sẽ rơi vào “cuộc khủng hoảng toàn cầu” (George Soros), vì vậy, loài người sẽ phải vận động đến “làn sóng văn minh thứ ba” (Alvin Toffler), đến một “xã hội hậu tư bản” (Peter Drucker),v.v... Chủ nghĩa tư bản, dưới hình thức hiện đại nhất của nó là chủ nghĩa tự do mới, đã bị phê phán quyết liệt ngay từ bên trong và ở quy mô toàn cầu. Lao động toàn thế giới đang năng động đấu tranh vì những phương án thay thế chủ nghĩa tư bản trên phạm vi toàn cầu.

Kiên định theo con đường và phát huy bài học sáng tạo của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội chúng minh sức sống và tính ưu việt của mình thông qua quá trình cải cách, đổi mới và phát triển. Từ cuối thế kỷ XX đến nay, các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng cộng sản thế giới tích cực đổi mới tư duy, nâng cao nhận thức và cải cách chính sách phát triển trên mọi lĩnh vực. Những nguyên lý và các giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin được nhận thức đầy đủ hơn; những kinh nghiệm thành công và những hạn chế, vấp váp của chủ nghĩa xã hội được xác định một cách chân thực hơn; những xu thế vận động của thế giới hiện đại được lĩnh hội kịp thời, khách quan hơn. Nhờ vậy, các quốc gia xã hội chủ nghĩa không những thoát khỏi khủng hoảng, mà còn đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Với tính cách là sản phẩm của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ nghĩa xã hội hiện nay vẫn là một lực lượng chính trị, quân sự, kinh tế, tinh thần không thế lực nào có thể bỏ qua trong những tính toán chiến lược toàn cầu. Chính vì chân lý sáng tỏ này, mà nhiều trí tuệ lớn như Jacques Derrida, Noam Chomsky, Joseph Stiglizt, Dinoviev…, giống như Albert Enstein, Paul Satre, Bertral Roussel…, trước kia, đều biểu thị sự đồng tình không che dấu với chủ nghĩa cộng sản, công khai đánh giá Mác là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI và Cách mạng Tháng Mười Nga là sự kiện vĩ đại nhất trong lịch sử thế giới hiện đại.

Cách mạng tháng Mười Nga như ánh mặt trời soi sáng con đường cách mạng Việt Nam. Đi theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam do Người sáng lập, tổ chức, rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng tháng Tám năm 1945, lật đổ ách thống trị phát xít, thực dân, phong kiến, khai sinh chế độ xã hội mới, mở ra kỷ nguyên độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam. Gần 10 năm sau, quân và dân Việt Nam làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu, mở đầu quá trình phi thực dân hóa trên toàn thế giới; và ngày 30 tháng 4 năm 1975, kỷ nguyên độc lập, tự do của Việt Nam đã được hoàn thành trọn vẹn với thắng lợi mang tầm vóc thời đại trước đế quốc Mỹ và ngụy quân, ngụy quyền, Bắc - Nam thống nhất một nhà. Kiên định lá cờ Cách mạng tháng Mười Nga, Đảng và nhân dân Việt Nam đã giành nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong kỷ nguyên đổi mới và phát triển từ năm 1986 đến nay. Chủ nghĩa xã hội Việt Nam thông qua đổi mới đã trụ vững, ra khỏi khủng hoảng và phát triển đầy sinh lực, đưa đất nước ra khỏi tình trạng chậm phát triển, trở thành nền kinh tế trong tốp 40 và tốp 20 nền thương mại lớn nhất thế giới ngày nay.

Trong kỷ nguyên đang tới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, chắc chắn ánh sáng của Cách mạng tháng Mười Nga sẽ tiếp tục soi sáng, tạo động lực to lớn cho Đảng và nhân dân Việt Nam vượt qua mọi thử thách lịch sử, trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.