Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh

 TCCS - Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm làm việc với các đồng chí trong Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Trị_Ảnh: TTXVN

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và quan điểm “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(1)

Có thể thấy, điều đầu tiên trong Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là những lời căn dặn về xây dựng Đảng cầm quyền: “TRƯỚC HẾT NÓI VỀ ĐẢNG”, Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền”(2), sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng nước ta. Người chỉ rõ Đảng lãnh đạo Nhà nước và xã hội là một nguyên tắc thể hiện vai trò cầm quyền của Đảng. Sở dĩ Đảng có vinh dự giữ trọng trách to lớn đó, là bởi mục đích của Đảng không có gì khác là “lãnh đạo quần chúng lao khổ làm giai cấp tranh đấu để tiêu trừ tư bản đế quốc chủ nghĩa, làm cho thực hiện xã hội cộng sản”(3); vì vậy, “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài”(4). Để ngăn chặn những nguy cơ tha hóa, biến chất và thủ tiêu tư tưởng “làm quan phát tài” trong Đảng, trong các bản Di chúc mà Người viết từ năm 1965 đến trước khi qua đời đều nêu rõ: “Việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng”(5). Công tác chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để làm cho Đảng có đủ năng lực, trí tuệ và đạo đức cách mạng, nhằm giữ vững vai trò lãnh đạo và cầm quyền của Đảng, “làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(6). Muốn thực hiện tốt nhiệm vụ này, trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi. 

Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết tinh, đúc kết cao nhất hệ thống quan điểm, tư tưởng của Người về vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng. Người đặc biệt chú trọng và xem việc thực hành, phát huy dân chủ trong Đảng là một trong những nguyên tắc cốt lõi của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng có nội lực vững vàng, có chỗ dựa vững chắc là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chỉ khi thực hành dân chủ, Đảng mới thực sự xứng đáng là người đại diện cho giai cấp và dân tộc, nhân dân mới thành thật đoàn kết xung quanh Đảng và đi theo sự lãnh đạo của Đảng. Đó cũng là nguyên tắc chi phối mối quan hệ giữa “ý Đảng” và “lòng dân”. Chính vì lẽ đó, Người luôn tỏ rõ sự chân thành, thẳng thắn, cương trực và giàu lòng nhân hậu, bác ái, trọng sự đồng thuận và đoàn kết. Đoàn kết - Dân chủ - Đồng thuận để phát triển, đó là cả một triết lý trong hành động cách mạng, trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thực hành dân chủ là một trong 5 thực hành lớn, tiêu biểu trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là: Thực hành lý luận trong thực tiễn; thực hành dân chủ; thực hành dân vận; thực hành đoàn kết và đại đoàn kết; thực hành đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, suốt đời chống chủ nghĩa cá nhân như chống giặc nội xâm.

Trong lôgíc của mọi thực hành, nhất là thực hành dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhất quán một tư tưởng lớn, nằm ở một chữ “DÂN”: Dân chủ - Dân vận - Dân tộc - Đại đoàn kết toàn dân tộc, để suốt đời vì dân, gắn bó máu thịt với nhân dân(7). Tôn trọng, tin cậy và yêu thương con người là điều căn bản, sâu xa làm nên sự thành công trong thực hành dân chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Thông qua Di chúc, tư tưởng của Người về việc thực hành và phát huy dân chủ trong Đảng được thể hiện ở những nội dung cơ bản sau:

- Về xây dựng tổ chức, bộ máy của Đảng đáp ứng yêu cầu và nhiệm vụ trong mỗi giai đoạn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, việc thực hành dân chủ “để cho mọi người có gì nói hết, cái đúng thì nghe, cái không đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh “thì thầm, thì thào” cũng hết... Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến”(8).

- Về xây dựng sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng để làm tiền đề cho việc thực hành dân chủ trong Đảng, trong di huấn để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình... Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(9).

- Về công tác vận động quần chúng nhân dân, các tổ chức đảng, từng cán bộ, đảng viên phải làm tốt công tác vận động, giúp đỡ nhân dân, tôn trọng quyền lợi của nhân dân, tạo điều kiện cho nhân dân kiểm tra, giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân phải tin dân, biết dựa vào dân, phát huy mọi năng lực tiềm tàng trong dân; “giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn luôn lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(10).

- Về vai trò, trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên và các tổ chức đảng, Người đặt ra yêu cầu là phải tạo điều kiện để nhân dân thực hiện quyền làm chủ. Dân chủ trong quan niệm của Người không chỉ được thực hành trong lĩnh vực chính trị, mà trong tất cả các lĩnh vực khác, như: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng pháp luật,... Ở mỗi lĩnh vực đó đều có trách nhiệm của các tổ chức đảng trong việc thực hành, phát huy dân chủ.

Tư tưởng về dân chủ và thực hành dân chủ trong Đảng và hệ thống chính trị là một trong những tư tưởng rất quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó cũng chính là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho người dân thực hiện quyền làm chủ, đã được thể hiện độc đáo trong các quy định của bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta - Hiến pháp năm 1946 - trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm quan tâm đến vấn đề con người và quyền con người trong thực hành dân chủ. Theo Người, con người là động lực và mục tiêu của chế độ dân chủ. Quyền con người trong chế độ dân chủ trước hết phải mang nội dung tự do, ấm no, hạnh phúc, cơm ăn, áo mặc, học hành. Ngay từ những năm đầu đất nước giành độc lập, Người đã xác định: “Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”(11).

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh, dân chỉ biết đến tự do, dân chủ là khi không chỉ được ăn no, mặc ấm mà còn được học hành. Khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập, hơn 90% dân số còn mù chữ, thất học(12), vì thế, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm Chủ tịch đã ban hành Sắc lệnh số 17, ngày 8-9-1945, về việc đặt ra phong trào bình dân học vụ để giúp toàn dân thanh toán nạn mù chữ. Giặc dốt cũng nguy hiểm như giặc đói và giặc ngoại xâm. Ngay sau phiên họp đầu tiên của Chính phủ (ngày 3-9-1945), Người đã có thông báo về việc tiếp chuyện đại biểu các đoàn thể rằng: “Từ năm nay, tôi sẽ rất vui lòng tiếp chuyện các đại biểu của các đoàn thể”(13). Đó thực sự là Chính phủ dân chủ, trọng dân, tin dân và vì dân. Đó cũng là nội dung thiết thực của thực hành dân chủ mà Người đã rất mẫu mực thực hiện từ ngày đầu thành lập Chính phủ, đến nay vẫn còn nguyên giá trị và ý nghĩa thời sự.

Nhờ có tư tưởng Hồ Chí Minh về gắn kết dân chủ với dân vận và đại đoàn kết toàn dân tộc mà mọi công việc của đất nước đều được giải quyết bằng sức dân, hướng tới phục vụ lợi ích của dân và cho dân. Và đây chính là ngọn nguồn để Người khẳng định “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(14).

Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định thực hành dân chủ trong Đảng là “cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(15)

Trong Di chúc để lại cho các thế hệ mai sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến những vấn đề căn cốt, cơ bản và trọng yếu của cách mạng Việt Nam. Riêng về vấn đề thực hành dân chủ, Người nhận định, đây là “cách tốt nhất” nhằm xây dựng và gia tăng sức mạnh nội lực cũng như sự đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng. Người căn dặn: “Trong Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”(16). Kết hợp điều đó với những huấn thị trong suốt cuộc đời hoạt động của Người về vấn đề dân chủ có thể thấy, thực hành dân chủ trong Đảng chính là thực hành nguyên tắc tập trung dân chủ. Người chỉ rõ: “Đảng tổ chức theo nguyên tắc dân chủ tập trung. Nghĩa là: có Đảng chương thống nhất, kỷ luật thống nhất, cơ quan lãnh đạo thống nhất. Cá nhân phải phục tùng đoàn thể, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương”(17); “Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ. Các cơ quan chính quyền là thống nhất, tập trung. Từ hội đồng nhân dân và ủy ban kháng chiến hành chính xã đến Quốc hội và Chính phủ Trung ương, số ít phải phục tùng số nhiều, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, địa phương phải phục tùng Trung ương. Thế là vừa dân chủ vừa tập trung”(18); “Từ tỉnh, huyện đến chi bộ, phải làm đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách. Nội bộ phải thật đoàn kết. Mọi việc đều bàn bạc một cách dân chủ và tập thể(19). Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng để giải quyết mọi khó khăn”; tuy nhiên, dân chủ phải gắn liền với tập trung, và theo đó, phải thực hiện nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người nhấn mạnh: “Tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách cần phải luôn luôn đi đôi với nhau... Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung(20). Nhận thức đúng và thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ làm cho Đảng ta ngày càng vững mạnh, thống nhất cả về tư tưởng và hành động, để “Đảng ta tuy nhiều người, nhưng khi tiến đánh thì chỉ như một người”(21).

Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lý giải sâu sắc bản chất của tập trung dân chủ và coi đó là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng Đảng; đồng thời nhấn mạnh, tập trung và dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa hai thành tố, luôn luôn đi đôi với nhau; dân chủ phải đi đến tập trung và tập trung phải trên cơ sở dân chủ; tập thể lãnh đạo phải đi đôi với phân công cá nhân phụ trách. Tập trung dân chủ bao hàm tập trung và dân chủ. Hai thành tố đó không mâu thuẫn với nhau mà luôn thống nhất với nhau và tác động, bổ sung cho nhau. Tập trung trên cơ sở dân chủ; dân chủ có sự lãnh đạo, được sự bảo đảm của tập trung. Có giữ vững tập trung mới có thể thực hiện và mở rộng dân chủ. Phát triển và mở rộng dân chủ luôn gắn liền với giữ vững và tăng cường tập trung; trên cơ sở đó, dân chủ càng phát triển thì tập trung càng vững chắc. Theo đó, mọi công việc trong Đảng đều phải được bàn bạc dân chủ. Mọi đảng viên có quyền được nêu ý kiến của mình, nhưng khi quyết định thì thiểu số phải phục tùng đa số, cấp dưới phải phục tùng cấp trên, toàn Đảng phải phục tùng Ban Chấp hành Trung ương và cao nhất là đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân chủ không đối lập với tập trung mà chỉ đối lập với tình trạng độc đoán, chuyên quyền. Tập trung không đối lập với dân chủ mà chỉ đối lập với tình trạng tản mát, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật. Dân chủ là cơ sở của tập trung và tập trung chỉ có thể được thực hiện một cách hiệu quả trên cơ sở phát huy thật sự dân chủ trong Đảng. Tập trung trên cơ sở dân chủ hoàn toàn khác với tập trung quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. Dân chủ có sự bảo đảm của tập trung cũng hoàn toàn khác về bản chất với dân chủ hình thức, dân chủ vô chính phủ, tự do vô tổ chức, vô kỷ luật. Nói cách khác, tập trung và dân chủ là hai mặt thống nhất biện chứng, không thể tách rời. Tập trung hỗ trợ, bảo đảm cho dân chủ được thực hiện trong khuôn khổ, có sự kiểm soát; dân chủ giúp cho tập trung được thực hiện linh hoạt, đạt hiệu quả cao trong lãnh đạo và quản lý. Trên phương diện lãnh đạo, quản lý, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cần thực hành tập trung dân chủ gắn liền với thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Người khẳng định: Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Như thế là, vừa đề cao trách nhiệm của cá nhân, vừa phát huy sức mạnh của trí tuệ tập thể. Cần phải bảo đảm tối đa dân chủ trong thảo luận, tranh luận để tìm tòi chân lý. Khi chân lý đã được tìm thấy thì quyền tự do tư tưởng trở thành quyền tự do phục tùng chân lý.

Thực tiễn lịch sử về sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu là bài học đau xót về việc buông lỏng, xa rời, thực hiện không đúng nguyên tắc tập trung dân chủ của đảng cộng sản, dẫn đến mất dân chủ trong đảng. Theo đó, một số nước xã hội chủ nghĩa nghiêng về tập trung quan liêu, thống nhất cứng nhắc, dẫn đến vi phạm dân chủ trong đảng, xuất hiện hàng loạt các sai lầm: gia trưởng, độc đoán, sùng bái cá nhân. Một số nước xã hội chủ nghĩa khác lại hạ thấp tính tập trung, thống nhất, dẫn đến hỗn loạn, vô chính phủ. Những sai lầm trong nhận thức và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ đã làm tổn hại nghiêm trọng đến vai trò lãnh đạo của đảng cộng sản, cản trở sự phát triển và là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến sự khủng hoảng trầm trọng về chính trị, kinh tế - xã hội, cuối cùng dẫn đến sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa của các nước đó.

Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp cách mạng hơn 94 năm qua, Đảng ta luôn kiên trì quan điểm phải thực hành dân chủ, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, trong mọi mặt của đời sống chính trị đất nước. Đảng coi đây là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng, chỉ đạo toàn bộ việc xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng, bảo đảm sự lãnh đạo tập trung, thống nhất, đồng thời phát huy dân chủ trong Đảng. Kiên trì thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng xuất phát từ bản chất của Đảng, từ yêu cầu, nhiệm vụ lịch sử của Đảng và từ kinh nghiệm của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế. Đảng ta nhiều lần khẳng định: “Sự chặt chẽ về nguyên tắc là vấn đề sống còn của Đảng và bảo đảm quan trọng nhất cho sức sống, sự trong sạch và vững mạnh của Đảng”(23).

Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu rõ: Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản. Điều lệ Đảng được Đại hội lần thứ XI thông qua (năm 2011) xác định: “Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”(24). Điều 9 Điều lệ Đảng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”(25).

Nhờ xác định đúng đắn và thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đặc biệt là nguyên tắc thực hành dân chủ trong Đảng theo tư tưởng và Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng với việc thực hiện nghị quyết, kết luận Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, gắn với đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, trong thời gian qua, công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọngtoàn diện trên tất cả các mặt.

Yêu cầu, nhiệm vụ chính trị của nước ta hiện nay là rất to lớn, nặng nề, đòi hỏi phải nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Muốn vậy, phải nhận diện cho đúng và kịp thời khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, trong đó có việc thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, như Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra: “Việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ ở một số nơi chưa nghiêm, thậm chí còn vi phạm, mất đoàn kết nội bộ, có nơi còn biểu hiện cục bộ, lợi ích nhóm”(26).

Trong giai đoạn phát triển mới của cách mạng Việt Nam, Đảng nêu cao sự thống nhất ý chí và hành động trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thể hiện sự thấm nhuần tư tưởng và di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nguyên tắc thực hành dân chủ trong mọi hoạt động của Đảng. Để Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh, ngang tầm yêu cầu, nhiệm vụ mới, việc vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong mọi hoạt động của Đảng trở nên hết sức quan trọng, cấp thiết, là vấn đề then chốt, có ý nghĩa quyết định đến uy tín và năng lực lãnh đạo của Đảng, quyết định sự thành, bại của sự nghiệp cách mạng.

Có thể nói, thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tình hình hiện nay là một giải pháp quan trọng ở tầm chiến lược để thúc đẩy công tác xây dựng Đảng gắn liền với chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa. Phải làm cho quá trình dân chủ hóa gắn liền với pháp chế hóa, siết chặt trật tự, kỷ cương xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã hội và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đó là một quá trình lâu dài của đổi mới sáng tạo, là trường học thực tiễn để rèn luyện ý thức dân chủ, văn hóa dân chủ và tạo ra bước phát triển mới, sự trưởng thành thực sự về ý thức và năng lực dân chủ của Đảng, của toàn dân ta trong công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

Là lực lượng lãnh đạo, dẫn đường cho dân tộc, Đảng phải nêu gương thực hành dân chủ và thực hiện kỷ luật, kỷ cương. Đó là tiền đề để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội và giữ nghiêm kỷ cương, phép nước. Theo đó, cần đẩy mạnh thực hành dân chủ, tích cực phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý nghiêm minh những cá nhân, tổ chức vi phạm dân chủ, coi thường kỷ cương, phép nước.

Trong thời gian tới, để tăng cường hiệu quả thực hành dân chủ, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Thứ nhất, tiếp tục tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng vững mạnh, toàn diện, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ của mỗi cán bộ, đảng viên về thực hành dân chủ và tập trung dân chủ. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, quán triệt, thống nhất trong toàn Đảng và cho mỗi đảng viên nhận thức đúng đắn về nội dung thực hành dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Tăng cường làm rõ nội hàm về thực hành dân chủ, nguyên tắc tập trung dân chủ gắn với từng lĩnh vực, công việc, hoạt động cụ thể của từng cấp, từng ngành, từng địa phương, đơn vị và công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị ở nước ta.

Nguyên tắc tập trung dân chủ và vấn đề dân chủ là một trong những trọng tâm mà các thế lực thù địch, phản động luôn ra sức tìm cách xuyên tạc, lợi dụng để chống phá nhằm thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Do đó, cần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phòng, chống, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch, xuyên tạc, phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng và các hoạt động lợi dụng vấn đề dân chủ của các thế lực thù địch để chống phá cách mạng Việt Nam. Muốn vậy, phải nâng tầm tư duy lý luận của Đảng, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ, bảo đảm nền tảng tư tưởng của Đảng được bảo vệ vững chắc.

Thứ hai, hoàn thiện và thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức xây dựng Đảng, các quy định của Đảng về dân chủ và phát huy dân chủ ở cơ sở, bảo đảm phát huy trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân trong xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; bảo đảm sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa, quy chế hóa việc thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong từng lĩnh vực, từng mặt công tác xây dựng Đảng. Cần cụ thể hóa các nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được nêu trong Điều lệ Đảng bằng những văn bản hướng dẫn cụ thể để các tổ chức đảng và đảng viên thực hiện.

Trong thực hiện các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đảng viên phải có dũng khí và bản lĩnh để đưa ra ý kiến với tinh thần xây dựng, ý thức tự phê bình và phê bình thẳng thắn, chân thành, trao đổi dân chủ, để đi đến thống nhất trong nhận thức và hành động trên cơ sở tuân thủ quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Đồng thời, không nên tuyệt đối hóa hay đối lập tập trung với dân chủ. Phải mở rộng dân chủ mới tạo ra sự ổn định và phát triển bền vững của chế độ chính trị; dân chủ phải có tập trung và phải gắn liền với kỷ luật, kỷ cương mới đem lại hiệu quả thiết thực và tạo ra động lực để thúc đẩy sự phát triển xã hội; dân chủ càng mở rộng, thì tập trung cũng càng phải cao.

Thứ ba, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng phải gắn với yêu cầu tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách theo đúng quy định của Điều lệ Đảng và các nghị quyết của Đảng đã ban hành. Chỉ có tập thể lãnh đạo mới khơi dậy được tinh thần dân chủ trong Đảng, mới huy động được toàn bộ trí tuệ đội tiên phong. Cá nhân phải gắn liền và ở trong tập thể, luôn có ý thức chịu trách nhiệm trước Đảng và trước nhân dân; tránh tình trạng “phớt lờ” tổ chức, vi phạm kỷ luật, kỷ cương của Đảng và lợi dụng nguyên tắc tập trung dân chủ để lấn át tập thể, chuyên quyền, độc đoán, đi ngược lại lợi ích chung của tập thể, của nhân dân.

Mặt khác, cần tiếp tục đề cao, phát huy vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong việc tổ chức thực hiện dân chủ và áp dụng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Làm rõ và tăng cường trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt trong thực hành dân chủ và  thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, đẩy mạnh tự phê bình và phê bình.

Thứ tư, thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng. Dân chủ trong sinh hoạt của tổ chức đảng phải tránh được tính hình thức hoặc tiến hành qua loa, chiếu lệ. Thực hiện đúng đắn và đầy đủ quy định mọi đảng viên chấp hành nghiêm chỉnh nghị quyết của Đảng, phát ngôn và hành động đúng tinh thần trách nhiệm của người đảng viên. Trong điều kiện mới, nhiều vấn đề quan trọng, mới và phức tạp, thậm chí chưa có tiền lệ đang đặt ra, đòi hỏi phải xử lý. Mọi quyết định chủ quan, độc đoán, duy ý chí đều không tránh khỏi sai lầm, đặc biệt là trong những bước ngoặt của cách mạng. Để đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn, việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh, các chủ trương quan trọng đều phải được bàn bạc và quyết định tập thể, tuân thủ nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, nhưng cho phép bảo lưu ý kiến. Do vậy, trong hoạt động lãnh đạo của Đảng, cần định kỳ xem xét lại ý kiến bảo lưu và coi đây là việc làm thường xuyên để bảo đảm tính đúng đắn của quá trình thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ; từ đó, giảm thiểu những sai sót, lệch lạc, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động của tổ chức đảng và đảng viên.

Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Xử lý nghiêm, kịp thời những tổ chức đảng và đảng viên không chấp hành nghiêm các quy định, quy chế về thực hành dân chủ hoặc vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, vi phạm Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là các tổ chức đảng và người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, bộ, ngành, địa phương…

Thực hành dân chủ và tập trung dân chủ đã trở thành một nguyên tắc tổ chức và hoạt động cơ bản của Đảng và hệ thống chính trị. Vì vậy, sự tồn tại và phát triển của Đảng và cả hệ thống chính trị gắn bó mật thiết, hữu cơ với việc tuân thủ, củng cố, phát triển nguyên tắc đó. Điều đó cũng có nghĩa, nếu xa rời hoặc buông lỏng nguyên tắc ấy sẽ làm cho Đảng mất dần sinh khí, sức mạnh, dẫn tới tha hóa, biến chất, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Do vậy, cần tuân thủ, bảo đảm thực hành dân chủ rộng rãi và nguyên tắc tập trung dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng ta; kiên quyết, kiên trì đấu tranh không khoan nhượng chống mọi biểu hiện xa rời, buông lỏng, xem nhẹ nguyên tắc tập trung dân chủ là biểu hiện rõ ràng nhất của tính đảng, phẩm chất đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên trong điều kiện hiện nay.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng là di huấn quý báu, là ngọn đèn pha soi đường, trở thành nền tảng tư tưởng, quan điểm chỉ đạo cho công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh hiện nay./.

----------------------

Vị trí, vai trò của dân chủ trong hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới

 TCCS - Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo được bắt đầu từ đổi mới tư duy; trong đó, hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” ngày càng được nhận thức sáng tỏ hơn. Các thành tố trong hệ mục tiêu của chủ nghĩa xã hội Việt Nam có quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nền tảng và sự bảo đảm cho đất nước phát triển nhanh, bền vững. Trong đó, dân chủ luôn được Đảng ta xác định có vị trí, vai trò hết sức quan trọng: vừa là mục tiêu, vừa là động lực; tiền đề, điều kiện để hiện thực hóa các mục tiêu còn lại trong hệ mục tiêu tổng quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm hỏi nhân dân xã Long Hưng, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên, ngày 17-10-2024_Ảnh: TTXVN

Vị trí, vai trò của dân chủ trong quan hệ với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”

Thứ nhất, dân chủ là mục tiêu và động lực để hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”

Ở Việt Nam, trong tất cả các chặng đường của gần 40 năm đổi mới, “dân giàu” luôn được Đảng ta xác định là thành tố đứng ở vị trí hàng đầu trong hệ mục tiêu phát triển đất nước. Nó cũng là khởi đầu cho tư duy mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội (CNXH) Việt Nam - một chế độ xã hội dựa trên sự giàu có, phồn vinh. “Dân giàu”, theo quan niệm của Đảng trong thời kỳ đổi mới, không chỉ giàu có về của cải vật chất mà còn giàu cả về trí tuệ, văn hóa, tinh thần, đạo đức; cũng không chỉ đơn thuần là gia tăng thu nhập và tài sản của cá nhân, mà còn bao hàm việc cải thiện chất lượng cuộc sống và công bằng xã hội. Gắn liền với “dân giàu” là “nước mạnh”. Dân có giàu thì nước mới mạnh và nước mạnh sẽ tạo điều kiện cho dân giàu có một cách chính đáng. Sức mạnh của đất nước bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân. Đối với CNXH Việt Nam, “nước mạnh” dựa trên nền tảng kinh tế phát triển cao, chế độ chính trị tiến bộ, dân chủ, ổn định, quốc phòng, an ninh vững mạnh, xã hội đoàn kết, đồng thuận, tăng cường đoàn kết quốc tế để tạo ra môi trường “trong ấm ngoài êm”, tạo thuận lợi cho đất nước phát triển nhanh, bền vững. Nước mạnh còn thể hiện ở ý chí độc lập, tự lực, tự cường, ở bản lĩnh vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức. Mối quan hệ giữa “dân giàu” và “nước mạnh” gắn bó hữu cơ, là tiền đề, điều kiện cho nhau và hai thành tố này luôn đứng ở vị trí hàng đầu trong hệ mục tiêu CNXH Việt Nam.

Chủ nghĩa xã hội chỉ trở thành hiện thực khi chủ thể xã hội là người dân giàu có, sung túc về vật chất, là cơ sở để thỏa mãn nhu cầu tinh thần ngày càng đa dạng, phong phú. Thành tố thứ nhất trong đặc trưng này cũng là sự bác bỏ các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch khi họ cho rằng, CNXH “chia đều sự nghèo khổ cho người dân”. Việc xác định trên cũng là sự vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về mục tiêu của CNXH trong bối cảnh mới của thời đại. Vấn đề này, chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng đề cập, khi Người cho rằng, “… nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(1). Bác chỉ rõ: “Mục đích của chủ nghĩa xã hội là gì? Nói một cách giản đơn và dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”(2); “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu nước mạnh”(3).

Đảng ta xác định, muốn đạt được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” thì chủ thể, lực lượng đóng góp chính là nhân dân; do vậy, phải phát huy sức mạnh của nhân dân và dân chủ phải được coi là một trong những thành tố quan trọng hàng đầu. Dân chủ là động lực thúc đẩy sự giàu có của người dân, sự phồn thịnh của quốc gia. Nó tạo ra một môi trường chính trị và kinh tế ổn định, khuyến khích sự đổi mới và đầu tư, đồng thời giảm thiểu bất bình đẳng và tăng cường sự tham gia của người dân vào đời sống kinh tế - xã hội. Về điều này, trước đây đã có nhà tư tưởng cho rằng, trong ba điều cần của phép trị nước: “Túc thực”, “túc binh” và “dân tín” (lương thực phải đầy đủ, binh lực phải sung túc và được trăm họ tin cậy), thì “dân tín” có vai trò quan trọng hàng đầu. Dân tín sẽ tạo ra thực túc, binh cường. Còn nếu dân không tin, không theo, bỏ đi nơi khác hoặc nổi loạn thì triều đình tất sẽ đổ nát. Thiên thời địa lợi chẳng bằng nhân hòa. Lương thực đủ, binh lực đủ, chẳng bằng được dân tin cậy(4).

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(5). Theo Người, “dân là chủ, dân làm chủ” nghĩa là “dân là sức mạnh của Nhà nước”, “là sức mạnh của Đảng”. Cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cho rằng: “… làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”(6).

Thực hiện dân chủ tức là sử dụng tất cả quyền hành và lực lư­ợng to lớn của nhân dân để hoàn thành các nhiệm vụ vì lợi ích của nhân dân. Nhờ có dân chủ hóa mà Đảng ta đã tìm tòi, sáng tạo, thử nghiệm, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Cũng do xác định được vai trò của dân chủ trong thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” mà nhân dân ta đã đồng lòng hưởng ứng và tham gia ngày càng tích cực vào công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng, mà trước hết là tham gia tích cực vào tăng trưởng kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Nhiệm vụ đầu tiên trong đổi mới tư duy của Đảng là đột phá trong đổi mới tư duy về phát triển kinh tế, trọng tâm là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển sang nền sản xuất hàng hóa; kiên quyết xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp; thực hiện cả nước là một thị trường thống nhất, thừa nhận nhiều thành phần kinh tế... Chính quá trình dân chủ hóa đã tạo nên động lực to lớn, giải phóng lực lượng sản xuất, phát huy các tiềm năng, nội lực của đất nước, vực dậy nền kinh tế đang suy yếu trong khủng hoảng. Nhân dân được tham gia vào phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng và hoàn thiện quan hệ sản xuất trên cả ba phương diện: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, góp phần quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.

Trong quá trình dân chủ hóa các lĩnh vực đời sống xã hội, Đảng ta đã hình thành quan niệm về kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). Việc đổi mới cơ chế, cải cách thể chế KTTT định hướng XHCN được tiến hành liên tục, mạnh mẽ với những bước đột phá quan trọng nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”; đồng thời, làm cơ sở kinh tế cho đổi mới chính trị và hệ thống chính trị đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Cử tri và nhân dân phấn khởi và càng thêm tin tưởng trước những thành tựu đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta trong mấy thập kỷ qua; đã góp phần đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước nghèo kém phát triển, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình, bảo đảm an sinh xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái, củng cố quốc phòng, an ninh, nâng cao hiệu quả đối ngoại, hội nhập sâu rộng và toàn diện với thế giới. Dân chủ đồng thời cũng là giải pháp hữu hiệu để tạo nên sự nhất trí căn bản về lợi ích của các thành phần kinh tế, các giai tầng và các cộng đồng dân tộc trong xã hội n­ước ta. Nhờ đó, mức độ đồng thuận, đoàn kết trong nhân dân, giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước ngày càng được sâu sắc, tạo cơ sở cho ổn định chính trị, sức mạnh để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, động lực để xử lý các vấn đề xã hội tốt hơn, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Cũng chính từ thực tiễn phát triển mô hình KTTT định hướng XHCN đã đem lại những thay đổi to lớn, rất tốt đẹp cho đất nước trong tiến trình đổi mới. Nền kinh tế bắt đầu phát triển và tăng trưởng liên tục với tốc độ tương đối cao trong suốt 40 năm qua với mức tăng trưởng trung bình gần 7% mỗi năm. “Quy mô GDP không ngừng được mở rộng, năm 2023 đạt khoảng 430 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ 5 trong ASEAN và thứ 35 trong 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới. GDP bình quân đầu người tăng 58 lần, lên mức khoảng 4.300 USD năm 2023; Việt Nam đã ra khỏi nhóm các nước có thu nhập thấp từ năm 2008 và sẽ trở thành nước có thu nhập trung bình cao vào năm 2030 (khoảng 7.500 USD)”(7). Mức tăng trưởng trung bình khoảng 7% mỗi năm; thu nhập bình quân đầu người tăng 17 lần. Năm 2022, chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam đạt mức 0,737, thuộc nhóm nước có HDI cao của thế giới, nhất là so với các nước có trình độ phát triển cao hơn. “Chỉ số hạnh phúc của Việt Nam năm 2023 được các tổ chức xếp thứ 65/137 quốc gia được xếp hạng”(8). Đời sống nhân dân được nâng cao; hộ nghèo giảm đáng kể; trình độ dân trí tăng cao; tuổi thọ trung bình của người dân tăng lên 73,7 tuổi. Dân chủ trở thành động lực phát triển kinh tế để hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”.

Vai trò của dân chủ với tư cách là “động lực” của “dân giàu, nước mạnh” còn được thể hiện ở chỗ, dân chủ chính là một trong những tiền đề chính trị - tư tưởng quan trọng để Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam ra đời. Đó là nhà nước mà tất cả quyền lực thuộc về nhân dân, mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đồng thời, “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”(9).

Những năm qua, Nhà nước pháp quyền XHCN đã thực sự là thiết chế có vai trò “bà đỡ”, “nhạc trưởng” cho thị trường hình thành và phát triển; từng bước xác định giới hạn, phạm vi, nội dung và phương thức quản lý nhà nước cho phù hợp với nền KTTT; đổi mới phương thức quản lý từ chỗ Nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường sang Nhà nước quản lý vĩ mô, kiến tạo phát triển… nhằm đạt hiệu quả kinh tế - xã hội cao nhất, tạo điều kiện quan trọng bậc nhất để định hướng XHCN cho nền KTTT nước ta đi đúng hướng và việc bảo đảm cho tất cả quyền lực thực sự thuộc về nhân dân ngày càng đi vào thực chất(10). Trong điều kiện xã hội hiện đại, nếu không có dân chủ và pháp chế thì không thể thực hiện được mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”. Chỉ có thực hiện dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng có sáng kiến, mới tin, mới dám nói, mới có sự sáng tạo và mới dám làm. Quyền chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội của nhân dân phải được bảo đảm thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật; quyền lực của Nhà nước phải phục vụ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân, nếu không vì lợi ích nhân dân, thì dân chủ chỉ mang tính hình thức.

Thành công của công cuộc đổi mới 40 năm qua, xét tới cội nguồn, cũng được khởi đầu bằng quá trình dân chủ hóa trong các lĩnh vực, trước hết là kinh tế, đã tạo nên động lực mạnh mẽ đ­ưa đất n­ước ta v­ượt qua thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trong thập niên 80 của thế kỷ XX. Đây lại là một hiện thực sinh động, minh chứng về tầm quan trọng và sự vững bền của động lực dân chủ đối với quá trình hiện thực hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh” nói riêng, và hệ mục tiêu phát triển đất nước nói chung.

Thứ hai, “dân giàu, nước mạnh” là điều kiện để phát triển dân chủ

“Dân giàu, nước mạnh” được nhiều nước xem chính là sự thịnh vượng của quốc gia; trong đó, mỗi người dân là một các chủ thể trong mối quan hệ chặt chẽ với nhà nước và toàn xã hội. Chỉ số Thịnh vượng (Prosperity index) được Tổ chức phát triển của Liên hợp quốc đo bằng: Tăng trưởng kinh tế, mức độ tự do cá nhân, học vấn, sức khỏe, an ninh, tuổi thọ và tỷ lệ thỏa mãn với cuộc sống của người dân. Như vậy, các chỉ báo này không chỉ nói đến sự giàu có mà còn phản ánh giá trị của con người về những quyền cơ bản, nó gần trùng khớp với quan niệm của Việt Nam về “dân giàu, nước mạnh” và “dân chủ”.

Thực tế cho thấy rằng, phát triển kinh tế bền vững, sự thịnh vượng dẫn tới sự xuất hiện các thiết chế dân chủ, và chính các thiết chế dân chủ này đã củng cố bản thân nền dân chủ. Một mặt, khi nền kinh tế phát triển sẽ làm xuất hiện một cơ cấu xã hội mới, trong đó hình thành một bộ phận người giàu và tầng lớp trung lưu - là lực lượng có sự trưởng thành về ý thức dân chủ, là cơ sở để bảo đảm cho dân chủ được thực hành thực chất. Mặt khác, sự phát triển kinh tế ngày càng tạo điều kiện để con người tham gia tích cực hơn vào các hoạt động chính trị, sự lựa chọn và quyền tự do cá nhân, trình độ học vấn cũng có điều kiện nâng lên; công dân có sự trưởng thành hơn về ý thức chính trị, nhận thức tốt hơn các quyền lợi của mình. Họ sẽ bảo vệ quyền của mình và tất nhiên sẽ có phương tiện để bảo vệ và thực hiện quyền đó. Xét theo góc độ này, sự thịnh vượng có tác động đáng kể đối với nền dân chủ. Mức độ thịnh vượng gia tăng có thể không làm tăng dân chủ, nhưng khi sự thịnh vượng đạt trên một mức nào đó thì tác động của nó đối với mức bền vững dân chủ lại rất rõ ràng. Tuy nhiên, điều này không phải đối với mọi quốc gia, vì bản chất của thể chế chính trị - xã hội, văn hóa khác nhau cũng sẽ tác động tới mức độ cao, thấp của dân chủ.

Tiềm lực kinh tế của quốc gia tự nó không minh chứng cho tính chất và trình độ dân chủ của quốc gia đó; tuy nhiên, nó có vai trò rất quan trọng trong việc bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của người dân. Với tiềm lực kinh tế đủ mạnh, nhà nước có thể sử dụng các nguồn lực kinh tế đầu tư cho giáo dục, đào tạo, an sinh xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, góp phần bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội trong từng bước phát triển. Hơn nữa, khi tiềm lực kinh tế của quốc gia dồi dào thì mới có đủ khả năng ngân sách chi trả cho hoạt động của tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức trong hệ thống chính trị mới toàn tâm phục vụ lợi ích của nhân dân; đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hạ tầng kinh tế - xã hội, hạ tầng thông tin ở các địa phương miền núi, hải đảo, vùng cao, vùng sâu, vùng xa, phục vụ cho cho nhu cầu đời sống kinh tế - xã hội của nhân dân, tạo cơ hội phát triển bình đẳng giữa các dân tộc. Điều này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhiều lần lưu ý, người dân chỉ biết đến giá trị của độc lập, tự do khi được no ấm; người dân chỉ thực sự trở thành người làm chủ khi họ nhận thức được rõ ràng đâu là quyền lợi họ được hưởng, đâu là nghĩa vụ họ phải thực hiện, nếu không thì dân chủ chỉ là hình thức, dân chủ trên giấy mà thôi. Do vậy, điều kiện để thực hành dân chủ, theo Người, trước hết phải bảo đảm đời sống kinh tế; trên cơ sở đó, nâng cao dân trí, văn hóa, ý thức dân chủ… cho người dân. Người khẳng định: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”(11); vì vậy, nếu nhân dân không được giáo dục để nâng cao dân trí thì mãi mãi không thể thực hiện được vai trò làm chủ. Phải có học thức người dân mới hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức thì người dân mới có ý chí vươn lên thực hiện quyền, trách nhiệm của mình để tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà trong điều kiện mới.

Thực tiễn gần 40 đổi mới đã chứng minh, từ khi đất nước bước vào thực hiện nền KTTT định hướng XHCN, nhân dân ta ngày càng khá giả và đất nước ngày càng giàu mạnh hơn, thể hiện rõ mức độ dân chủ ngày càng phát triển khi kinh tế phát triển. Bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam là thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ quyền sở hữu của tất cả mọi người và quyền tự do sản xuất, kinh doanh; chống độc quyền, dỡ bỏ rào cản và những phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế, bảo đảm cho các thành phần kinh tế đều bình đẳng trước pháp luật. Tính dân chủ, bình đẳng này đã tạo ra động lực vật chất, kinh tế thúc đẩy các chủ thể kinh tế khai thác và phát huy mọi tiềm năng phát triển kinh tế của cá nhân. Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam thừa nhận, tôn trọng nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức sở hữu, nhiều hình thức phân phối chính là thừa nhận và tôn trọng tính đa dạng về lợi ích của các giai cấp, tầng lớp, các tập đoàn, nhóm và cá nhân người lao động trong xã hội.

Nền KTTT ở nước ta đã dần làm cho quyền tự do, tự chủ trong sản xuất, kinh doanh của cá nhân, tập thể lao động, các đơn vị kinh tế, các doanh nghiệp được thực hiện ngày càng tốt hơn. Các chủ thể kinh tế được giải phóng khỏi sự ràng buộc của các cơ chế không hợp lý, phát huy được quyền làm chủ và tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh, trong hội nhập kinh tế quốc tế. Người dân có điều kiện tạo việc làm, tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập, lựa chọn cơ hội học tập, lập nghiệp, tạo ra động lực to lớn để mọi người sáng tạo và phát triển kinh tế vì lợi ích của chính mình và đóng góp cho xã hội. Trên cơ sở đó, từng bước hình thành những doanh nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh, những người lao động linh hoạt, năng động, tự chủ, có trách nhiệm cao với bản thân, với công việc, với đơn vị, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội. Đó cũng là phẩm chất cần có của con người trong một nền sản xuất công nghiệp hiện đại và một xã hội dân chủ, văn minh.

Nhờ có đổi mới mà nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, đã góp phần cải thiện đời sống của nhân dân; phát triển y tế, giáo dục; có điều kiện để thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội theo nguyên tắc “không ai bị bỏ lại phía sau”; đời sống văn hóa của nhân dân được cải thiện; trên 70% dân số sử dụng internet… Với những thành tựu trên, Việt Nam được Liên hiệp quốc công nhận là một trong những quốc gia đi đầu trong việc hiện thực hóa các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ. Những quyền cơ bản của con người theo Hiến pháp 2013 ngày càng được thực hiện có hiệu quả.

Lễ cưới tập thể dành cho công nhân, người lao động có hoàn cảnh khó khăn được Trung tâm Hỗ trợ thanh niên công nhân Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức_Nguồn: tuoitre.vn

Vị trí, vai trò của dân chủ trong mối quan hệ với mục tiêu “công bằng, văn minh”

Thứ nhất, dân chủ là điều kiện, tiền đề để thực hiện công bằng, văn minh

Trong bất kỳ một chế độ xã hội nào, hết thảy mọi cá nhân đều kỳ vọng được sống trong một xã hội công bằng. Trong đó, các cá nhân đều được bảo vệ, con người cảm giác thỏa mãn và hạnh phúc; vì vậy, công bằng là một trong những giá trị của xã hội văn minh, nơi mà những quyền dân chủ cơ bản của con người được bảo đảm và ngày càng phát triển.

Ở Việt Nam, dân chủ là điều kiện, tiền đề để thực hiện công bằng, văn minh đã được khẳng định cả về lý luận và về thực tiễn. Một mặt, dân chủ được thực hiện rộng rãi là điều kiện để thực hiện công bằng, văn minh; mặt khác, dân chủ XHCN là nền dân chủ nhằm mục tiêu giải phóng triệt để con người khỏi mọi áp bức, bất công để tạo dựng một xã hội tốt đẹp. Chính vì vậy, trong hệ mục tiêu phát triển đất nước, từ Đại hội IX, Đảng ta đã điều chỉnh thứ tự giữa “công bằng” và “dân chủ”. Sự điều chỉnh này về thực chất phản ánh chính xác hơn bản chất của chế độ ta, bởi chế độ đó là chế độ dân chủ. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(12). Sự điều chỉnh trên cũng là phù hợp thực tế trong bối cảnh mới của đất nước và thời đại, dân chủ là một trong những giá trị lớn mà nhân loại theo đuổi, dân chủ trở thành tiền đề, điều kiện, động lực phát triển của xã hội công bằng, văn minh.

Thực tế lịch sử đã minh chứng, dân giàu, nước mạnh mà thiếu công bằng thì sẽ gây ra bất công xã hội và bất bình xã hội; từ đó, xã hội sẽ rất dễ rơi vào hỗn loạn, xung đột và hậu quả là khó có thể trở thành một nước giàu mạnh thực sự. Hơn nữa, nếu một xã hội không có công bằng, thì chắc chắn sẽ khó có dân chủ thực sự. Dân chủ chỉ có thể hình thành trong một môi trường xã hội công bằng và bình đẳng. Chính vì lẽ đó, công cuộc xây dựng CNXH chính là xây dựng một môi trường xã hội công bằng, dân chủ và tiến bộ.

Thứ hai, công bằng, văn minh là mục tiêu, động lực của dân chủ

Công bằng, về phương diện xã hội, là bảo đảm sự “ngang nhau” giữa người với người trong mối quan hệ giữa cống hiến với hưởng thụ, quyền lợi và nghĩa vụ, vinh dự với trách nhiệm. Nội dung cơ bản nhất của công bằng xã hội là xử lý hợp lý nhất quan hệ giữa quyền lợi và nghĩa vụ trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định(13). Tuy nhiên, cũng như dân chủ, công bằng luôn mang tính giai cấp và tính lịch sử, được quy định bởi chế độ xã hội cụ thể.

Ở Việt Nam, trong thời kỳ đổi mới, nội hàm của khái niệm “công bằng” được hiểu khác nhiều so với thời kỳ trước đổi mới. Công bằng không phải là cào bằng, chia đều, bình quân, dẫn tới sự triệt tiêu động lực phát triển đối với những người có năng lực, có trách nhiệm với đất nước, làm nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các nhóm xã hội, ảnh hưởng xấu đến bản chất tốt đẹp của CNXH. “Công bằng” hiện nay được hiểu là sự công bằng trong phân phối sản phẩm lao động, công bằng về cơ hội và điều kiện phát triển. Mọi thành viên trong cộng đồng đều nhận được những cơ hội như nhau do chính đổi mới tạo ra để phát triển, không phân biệt, không có định kiến. Đây chính là cơ sở để thực hiện mục tiêu bình đẳng (ở giai đoạn phát triển cao) khi công bằng đã đạt được kết quả cao(14).

Với nội hàm diễn đạt trên, “công bằng” là một động lực, một giá trị cơ bản của CNXH Việt Nam, trong đó có giá trị về dân chủ. Khi đất nước phát triển kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh gay gắt sẽ không tránh khỏi sự phân hóa trên nhiều góc độ, trong đó có phân hóa giàu - nghèo. Do vậy, thấm nhuần tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(15), Đảng ta đã nhận thức rõ muốn thực hiện công bằng phải bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân theo phương châm gắn tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng chính sách phát triển. Khuyến khích làm giàu chính đáng, Nhà nước phải có các chính sách điều tiết, ưu đãi để chăm nom cho các đối tượng chính sách, yếu thế, bị thua thiệt trong phát triển…

Nội hàm cốt lõi của công bằng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là công bằng về cơ hội phát triển, thực chất là bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, là một mục tiêu của sự nghiệp xây dựng chế độ xã hội mới. Mục tiêu của chế độ xã hội mới là không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân, là phấn đấu: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu/ Người khá giàu thì giàu thêm”(16). Điều này một lần nữa cho thấy, việc thực hiện bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, mang ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của đất nước; thông qua việc phát huy cao nhất khả năng, sức mạnh của mỗi người, cùng tham gia xây dựng một cuộc sống mới, từng bước vươn tới xã hội cộng sản - mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, công bằng và dân chủ là điều kiện tiền đề của nhau, có sự thống nhất hữu cơ, không tách rời nhau. Nếu như công bằng xã hội là hệ giá trị văn hóa bao gồm nhiều giá trị khác nhau thì dân chủ, quyền con người chiếm một vị trí đặc biệt. Cũng như công bằng, dân chủ cũng là động lực chủ yếu của sự phát triển xã hội. Đồng thời, tính giai cấp và tính lịch sử cụ thể của khái niệm “công bằng xã hội” cũng tương đồng với khái niệm “dân chủ”. Thực hiện công bằng xã hội đầu tiên và quan trọng nhất là thực hiện ở trong lĩnh vực kinh tế. Muốn đạt được một nền dân chủ ngày càng hoàn thiện thì đầu tiên phải không ngừng phát triển trong lĩnh vực kinh tế để đạt tới một xã hội mới tiến bộ.

Muốn thực hiện được công bằng xã hội, biện pháp quan trọng nhất là chống được tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước và những tổ chức có quyền lực trong xã hội. Để chống được tham nhũng, tiêu cực, thì người dân cần tham gia giám sát, phản biện hiệu quả. Mặt khác, mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật - không chỉ được khẳng định mà còn được thực hiện trên thực tế, được bảo đảm sự tự chủ về đời sống kinh tế của mình, từ sở hữu đến nghề nghiệp. Để đạt được những tiêu chí đó, công bằng xã hội đòi hỏi một chế độ dân chủ thực sự. Do vậy, không thể có một nhóm người hay một tổ chức nào, dưới bất cứ danh nghĩa gì, tự coi mình đứng lên trên xã hội và luật pháp để áp đặt ý chí của mình cho những người khác.

Ở nước ta, nói tới công bằng là nói tới quyền lợi công bằng, cơ hội công bằng, quy tắc công bằng. Xây dựng quyền lợi công bằng, cơ hội công bằng, quy tắc công bằng làm nội dung chủ yếu của hệ thống bảo đảm công bằng xã hội chính là tạo ra môi trường xã hội công bằng, bảo đảm cho quyền lợi tham dự dân chủ và phát triển bình đẳng của nhân dân. Các nguyên tắc thực hiện công bằng ở nước ta hiện nay đã thể hiện rất rõ những giá trị của dân chủ - những quyền cơ bản của con người.

Công bằng là một yêu cầu tất yếu của CNXH Việt Nam mà Đảng ta đang lãnh đạo toàn thể nhân dân hướng đến xây dựng. Thực hiện công bằng là một trong những giá trị cốt lõi của CNXH. Trong bối cảnh đổi mới, hội nhập quốc tế và thúc đẩy phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, công bằng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển toàn diện, lành mạnh và hài hòa. Nó giúp sắp xếp các chế độ và dựa trên sự sáng tạo xã hội mới, trở thành nguyên tắc cơ bản điều chỉnh mối quan hệ giữa các tầng lớp xã hội; đồng thời, củng cố sức mạnh đoàn kết xã hội và là biểu tượng quan trọng để tập hợp và kêu gọi xã hội. Chỉ khi thực hiện được công bằng, người dân mới có điều kiện phát triển, các mối quan hệ xã hội mới được điều chỉnh hợp lý, tinh thần tích cực, chủ động, sáng tạo của người dân mới được phát huy; từ đó, xã hội mới đạt được sự ổn định và hài hòa, toàn thể nhân dân mới cùng đồng lòng xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng XHCN.

Thứ ba, dân chủ là một trong những tiêu chí, thước đo trình độ văn minh

Văn minh là tiêu chí quan trọng của một xã hội tiến bộ. Theo nghĩa rộng, văn minh bao gồm văn minh vật chất, văn minh thần, văn minh chính trị, văn minh xã hội, văn minh sinh thái… Theo nghĩa hẹp, văn minh có nội dung về phương diện tinh thần, về tư tưởng, lý luận, đạo đức, văn học, nghệ thuật, giáo dục và khoa học, những sinh hoạt xã hội của nhân loại. Xét cho cùng, tiêu chí của văn minh là sự tiến bộ ở đỉnh cao(17).

Ở Việt Nam, “văn minh” được Đảng ta xác định là một trong những mục tiêu cao nhất trong hệ mục tiêu của CNXH Việt Nam, là tiêu chí phản ánh trình độ phát triển cao nhất của các mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng”. Nội hàm “văn minh” của CNXH Việt Nam thể hiện ở việc không ngừng phát triển nền kinh tế theo hướng hiện đại đi liền với thực hiện tiến bộ và công bằng, xoá bỏ áp bức, bất công về mặt xã hội, không ngừng phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nếp sống và lối sống văn minh. Đó là nền văn minh toàn diện và nhân bản, không chỉ là văn minh vật chất - kỹ thuật, mà còn là văn minh tinh thần, không chỉ văn minh trong quan hệ giữa người với thiên nhiên, mà còn là văn minh trong quan hệ giữa người với người, văn minh trong tổ chức xã hội, văn minh trong chất lượng cuộc sống và lối sống. Đó là nền văn minh của một xã hội “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ”, nền văn minh của một xã hội do nhân dân làm chủ. 

Dân chủ là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh mức độ văn minh tiến bộ của xã hội, vì văn minh là mục tiêu nhằm tạo một môi trường tốt nhất cho phát triển con người, phản ánh trình độ phát triển của một xã hội. Một xã hội văn minh là một xã hội có sự tôn trọng các giá trị nhân văn, tự do, bình đẳng, và pháp quyền, nơi mà mọi người đều có cơ hội phát triển và sống trong một môi trường lành mạnh và công bằng. Dân chủ, với các nguyên tắc như quyền tham gia chính trị, tự do ngôn luận và minh bạch, đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu văn minh. Do đó, một xã hội thiếu dân chủ là một xã hội phản tiến bộ, thiếu văn minh. Chính vì vậy, thành tố “văn minh” được xác định ngay từ nhiệm kỳ đầu của đổi mới, là một trong những thành tố quan trọng trong hệ mục tiêu phát triển đất nước.

Dân chủ là thước đo trình độ văn minh của một chế độ xã hội. Bởi lẽ, để đạt được mục tiêu văn minh, vai trò của nhà nước vô cùng quan trọng. Trước hết, nhà nước phải trong sạch, hiện đại, thường xuyên đổi mới, trong đó đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức khi thực thi nhiệm vụ không có thói hách dịch, cửa quyền với người dân, không lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chỉ lo làm lợi cho cá nhân mình; tính nghiêm minh của pháp luật phải được bảo đảm; nhà nước phải thừa nhận sự tồn tại, đầy đủ, khách quan của cả 3 yếu tố trụ cột là nhà nước pháp quyền, KTTT và xã hội dân chủ.

Dân chủ khuyến khích sự tham gia của người dân vào các vấn đề chính trị và xã hội; từ đó, nâng cao nhận thức và giáo dục lý luận chính trị. Người dân trong một xã hội dân chủ thường có kiến thức tốt hơn về quyền lợi và nghĩa vụ của mình, cũng như các vấn đề xã hội quan trọng. Điều này giúp xây dựng một xã hội có nền tảng văn minh hơn, nơi mà công dân không chỉ được giáo dục về các giá trị cơ bản, mà còn về các quyền và nghĩa vụ của mình trong xã hội.

Với quan điểm trên, trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền trên thế giới, thực tiễn của đất nước để tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, Đảng ta đã thông qua Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới”, trong đó quán triệt sâu sắc việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; coi đây “là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”(18) ở nước ta; được tiến hành đồng bộ với thực hiện dân chủ xã hội chủ nghĩa và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

So với các nghị quyết về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong các hội nghị trung ương trước đây và các văn kiện Đại hội Đảng từ khóa VI đến khóa XIII, Nghị quyết số 27-NQ/TW khóa XIII đã thể hiện rõ tư duy mới, đột phá, toàn diện của Đảng ta về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trong đó, nhận thức của Đảng ta về các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam sáng tỏ, đầy đủ và toàn diện hơn: “Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân; quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ theo Hiến pháp và pháp luật; Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán; độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế”(19)

Quan điểm chỉ đạo trong xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của Đảng là phải hướng đến mục tiêu, động lực hoạt động của Nhà nước; tất cả để phục vụ nhân dân, vì lợi ích và hạnh phúc, ấm no của nhân dân, xây dựng xã hội văn minh. Đây là sợi chỉ đỏ xuyên suốt mọi thể chế, thiết chế vận hành của Nhà nước và “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu”(20). Thiết kế tổ chức, hoạt động của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam phải thể hiện được mục tiêu, động lực vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân, thể hiện được khát vọng phát triển đất nước và quan trọng hơn, điều này không chỉ thể hiện trên văn bản mà pháp luật phải được thực thi trên thực tế bởi nhà nước pháp quyền.

Theo chiều ngược lại, văn minh là kết quả của trình độ phát triển dân chủ cao. Một xã hội văn minh sẽ tạo điều kiện, hỗ trợ cho sự phát triển của dân chủ. Một nền tảng văn hóa và xã hội vững chắc, với các giá trị như tôn trọng quyền con người, sự khoan dung và hợp tác, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện dân chủ. Các quy chuẩn văn hóa và đạo đức có thể giúp nâng cao nhận thức của người dân về quyền lợi và nghĩa vụ của họ; qua đó, tăng cường sự tham gia và trách nhiệm trong các hoạt động chính trị. Mặt khác, một nền kinh tế văn minh thường đi kèm với các kết cấu hạ tầng phát triển, hệ thống giáo dục và đào tạo chất lượng cao và các dịch vụ xã hội tốt. Những yếu tố này không chỉ hỗ trợ sự phát triển kinh tế, mà còn nâng cao chất lượng cuộc sống và tạo ra một môi trường thuận lợi cho sự phát triển của dân chủ.

Sự phát triển của dân chủ đi đôi với sự phát triển của văn minh xã hội, khi mà các giá trị nhân quyền, tự do ngôn luận và tôn trọng sự khác biệt được đề cao. Một xã hội dân chủ là môi trường lý tưởng cho sự phát triển văn hóa và đạo đức xã hội. Văn minh là mục tiêu nhằm tạo dựng một môi trường tốt nhất cho phát triển con người; dân chủ là một trong những tiêu chí cơ bản phản ánh văn minh, tiến bộ của xã hội. Dân chủ đã tạo ra địa bàn để phát huy mọi tiềm lực, tập hợp các xu h­ướng lành mạnh trong dân tộc làm gia tăng và phát huy thế và lực của đất n­ước và cũng vì thế, vai trò động lực của dân chủ có giá trị to lớn và bền vững. Nền văn minh XHCN ở Việt Nam là kết quả của sự kế thừa những thành tựu của văn minh nhân loại, kết hợp với sự kết tinh, phát triển những giá trị tốt đẹp của truyền thống dân tộc. Theo đó, xã hội XHCN Việt Nam mà toàn Đảng, toàn dân ta phấn đấu xây dựng sẽ phải là một xã hội hiện đại, văn minh, tiến bộ, mang đậm giá trị bản sắc dân tộc; trong đó, con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển; phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu; bảo vệ môi trường là một trong những vấn đề sống còn, là tiêu chí để phát triển bền vững; xây dựng gia đình hạnh phúc, tiến bộ làm tế bào lành mạnh, vững chắc của xã hội, thực hiện bình đẳng giới là tiêu chí của tiến bộ, văn minh./.

----------------------------------

Nâng cao chất lượng quản lý đảng viên ở ngoài nước trong giai đoạn mới: Thực trạng và giải pháp

 TCCS - Những năm qua, công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước luôn được Đảng ta quan tâm lãnh đạo và đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại, để đưa Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng. Trong giai đoạn mới, để tiếp tục nâng cao chất lượng công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước, đòi hỏi cần có sự phối hợp nhịp nhàng, trách nhiệm, đúng quy định của các cấp, các ngành, với những giải pháp đồng bộ, toàn diện.

 Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm và đại biểu với các đại sứ Việt Nam mới nhận quyết định bổ nhiệm, ngày 14-10-2024_Ảnh: TTXVN  

Công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước luôn được coi trọng

Những năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các hoạt động đối ngoại, như ngoại giao nhà nước, ngoại giao nhân dân, ngoại giao song phương, ngoại giao đa phương; các hoạt động đầu tư, thương mại… khiến cho số lượt cán bộ, đảng viên ra ngoài nước ngày càng tăng, trải rộng khắp các châu lục. Mỗi năm có hàng nghìn lượt ra ngoài nước với mục đích công tác, học tập, chuyên gia, lao động, làm ăn, sinh sống… Số đảng viên ra ngoài nước ngắn hạn theo chương trình công tác, học tập theo các đề án của các bộ, ngành và số đảng viên đi du lịch, thăm thân tiếp tục tăng lên đáng kể. Hằng năm, Đảng ủy Bộ Ngoại giao tiếp nhận và chuyển sinh hoạt đảng với lưu lượng đảng viên biến động khoảng 30% mỗi năm. Nhìn chung, đảng viên ra ngoài nước đã phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu, có bản lĩnh chính trị tốt, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, góp phần thúc đẩy quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước và các tổ chức quốc tế.

Sự phát triển nhanh chóng số lượng đảng viên ra nước ngoài và trải rộng trên nhiều châu lục, nhiều địa bàn, tới tất cả các nước, các vùng, các tổ chức quốc tế mà Việt Nam có quan hệ ngoại giao, quan hệ đầu tư, thương mại, đã góp phần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại, mở rộng các địa bàn, làm tốt các khâu trong công tác quản lý đảng viên, công tác vận động quần chúng ngày càng hiệu quả; phát huy tốt vai trò của đảng viên trong triển khai đường lối đối ngoại của Đảng, đưa Việt Nam hội nhập quốc tế sâu rộng với thế giới, thực hiện thành công ngoại giao chính trị, ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa và công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài, góp phần đưa nước ta vươn mình, xây dựng cơ đồ, vị thế vững chắc trên trường quốc tế; góp phần vào sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học - công nghệ, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý các ngành, các cấp “vừa hồng, vừa chuyên” cho đất nước. Sau khi hoàn thành nhiệm vụ công tác, học tập ở ngoài nước, nhiều cán bộ, đảng viên về nước công tác trở thành cán bộ lãnh đạo các cấp và có những đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng đất nước. Bên cạnh đó, hình thành, mở rộng các tổ chức quần chúng, tích cực nắm tình hình tư tưởng đảng viên, chống những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị, suy thoái đạo đức, lối sống; chống tham ô, tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên ở ngoài nước, góp phần bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước.

Các tổ chức đảng, đảng viên ở ngoài nước đã và đang tiếp tục giữ vững vai trò nòng cốt trong lãnh đạo, tập hợp, đoàn kết quần chúng, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài. Từng bước xây dựng cộng đồng người Việt Nam ổn định, hội nhập, phát triển, điển hình như chính quyền Czech Republic, Slovakia công nhận cộng đồng người Việt Nam là dân tộc thiểu số của nước mình. Người Việt Nam ở nước ngoài đã đóng góp cho quê hương qua đầu tư sản xuất, kinh doanh, lượng kiều hối gửi về nước ngày càng tăng, tham gia ủng hộ đồng bào ở những vùng bị thiên tai, bão lụt…

Mặt khác, việc đảng viên ra nước ngoài ngày càng nhiều, địa bàn ngày càng rộng, dẫn đến nhiều vấn đề phức tạp phát sinh, đã đặt ra nhiều thách thức mới trong công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước. Trước hết, khi đảng viên ra ngoài nước từ nhiều cơ quan, bộ, ngành, địa phương, chủ yếu đi riêng lẻ, không đi theo đoàn, nhóm, nên việc tổ chức phổ biến, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng và nhiệm vụ của đảng viên ở nước ngoài còn gặp nhiều khó khăn, chưa tổ chức được thường xuyên, đầy đủ cho đảng viên trước khi ra nước ngoài.

Số lượng đảng viên đông, biến động lớn, phạm vi hoạt động rộng, chịu tác động rất lớn bởi chính sách, luật pháp nước sở tại cũng như sự xa cách về địa lý gây khó khăn cho thông tin chỉ đạo từ trong nước; vì vậy, việc triển khai đầy đủ, đúng quy trình các nội dung về công tác quản lý đảng viên còn có những hạn chế nhất định.

Việc thực hiện kiểm tra, giám sát đảng viên ở ngoài nước, nhất là với đảng viên ngoài cơ quan đại diện gặp nhiều khó khăn. Điều kiện thực hiện đầy đủ quy trình công tác kiểm tra, giám sát còn hạn chế, bên cạnh đó cơ sở vật chất còn eo hẹp, kinh phí hoạt động của các tổ chức đảng rất hạn chế.

Nhiều đảng bộ có số lượng đảng viên lớn, phân tán, thiếu cán bộ chuyên trách, lại đối mặt với nhiều vấn đề phát sinh, như đảng viên kết hôn với người nước ngoài,... Bên cạnh đó, các thế lực thù địch liên tục móc nối, lôi kéo, cài cắm để chống phá ta với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt trên các phương tiện thông tin đại chúng, các nền tảng phương tiện truyền thông xã hội; thậm chí, dùng tiền, vật chất,... để mua bán, trao đổi, thao túng,...

Để làm tốt công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước, những năm qua, Đảng ta đã có nhiều văn bản cụ thể hóa công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước(1). Việc ban hành các quy định này đã góp phần tháo gỡ nhiều vướng mắc trong việc xét, làm thẻ đảng viên khi đảng viên được công nhận chính thức tại tổ chức đảng ở ngoài nước; trách nhiệm quản lý thẻ đảng khi đảng viên chuyển sinh hoạt đảng ra ngoài nước hoặc trở về nước, tạo thêm cơ sở pháp lý trong bố trí sinh hoạt đảng, quản lý đảng viên và phát huy vai trò của tổ chức đảng ở ngoài nước; xác định rõ trách nhiệm của các cấp ủy trong triển khai thực hiện những nhiệm vụ quản lý đảng viên.

Công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước được Ban cán sự đảng, Đảng ủy Bộ Ngoại giao xác định là một nhiệm vụ trọng tâm. Đảng viên ở ngoài nước được bố trí sinh hoạt đảng trong các chi bộ, số ít bố trí sinh hoạt lẻ. Cấp ủy giao nhiệm vụ cụ thể cho đảng viên, đề cao việc đảng viên tự giác phát huy vai trò nòng cốt, gương mẫu chấp hành các quy định, quy chế, kỷ luật làm việc, học tập, lao động, chống các biểu hiện suy thoái, tiêu cực, vi phạm pháp luật của nước sở tại; đồng thời, giữ quan hệ với nhân dân nước sở tại và bạn bè quốc tế.

Công tác tạo nguồn, bồi dưỡng kết nạp đảng viên được các cấp ủy quan tâm triển khai chặt chẽ, đúng quy trình, quy định, đủ điều kiện, tiêu chuẩn. Hằng năm, các cấp ủy kết nạp hàng trăm quần chúng ưu tú vào Đảng, chủ yếu là lưu học sinh, sinh viên đạt thành tích cao trong học tập, tích cực tham gia các hoạt động, phong trào đoàn, hội, cộng đồng, không vi phạm pháp luật nước ta và nước sở tại. Vấn đề bảo vệ chính trị nội bộ hiện nay đối với đảng viên ở ngoài nước được các cấp ủy thực hiện chặt chẽ, chủ động, hiệu quả. Các cấp ủy chú trọng rà soát, thẩm tra, xác minh, thẩm định tiêu chuẩn chính trị, kịp thời phát hiện, xử lý những vi phạm về chính trị nội bộ; kiên quyết đấu tranh chống những biểu hiện lệch lạc, làm trái với đường lối, quan điểm, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Công tác kiểm tra, giám sát đảng viên ở ngoài nước được chú trọng, thường xuyên kiện toàn đội ngũ các ủy viên ủy ban kiểm tra các cấp, phân công ủy viên phụ trách công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng. Các cấp ủy, ủy ban kiểm tra đã xây dựng và tiến hành công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện công tác quản lý đảng viên. Kiểm tra, giám sát đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành kỷ luật của tổ chức đảng và đảng viên, góp phần răn đe, phòng ngừa vi phạm, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng.

Đảng ủy tại Nhật Bản họp mở rộng _Nguồn: baoquocte.vn

Bên cạnh những thuận lợi, những mặt đã làm tốt, công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước vẫn còn bộc lộ những hạn chế, khó khăn. Trước hết, sự phối hợp giữa các bộ, ngành, các địa phương trong triển khai công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước chưa đồng đều, chưa chặt chẽ. Nhận thức của một số cấp ủy và đảng viên về công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước chưa đầy đủ; việc củng cố, kiện toàn tổ chức đảng đôi lúc chưa được quan tâm đúng mức.

Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình quản lý đảng viên, từng bước số hóa bảo đảm thuận tiện cho việc chuyển sinh hoạt đảng cho đảng viên và quản lý hồ sơ đảng viên đến nay vẫn chưa được thông suốt. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng còn gặp nhiều khó khăn, việc nắm diễn biến tư tưởng, quá trình rèn luyện tư cách, đạo đức của đảng viên kết quả còn hạn chế. Công tác kiểm tra, giám sát, nhất là giám sát các chuyên đề về quản lý đảng viên ở ngoài nước chưa triển khai đồng bộ; ở một số tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra và cán bộ phụ trách công tác kiểm tra chưa được kiện toàn, bổ sung kịp thời, nhiều đồng chí tham gia kiêm nhiệm cấp ủy và công tác kiểm tra, giám sát nhưng ít có điều kiện đầu tư cho công tác được phân công; thực hiện kiểm tra, giám sát đảng viên ngoài cơ quan đại diện và đảng viên sinh hoạt lẻ gặp nhiều khó khăn. Sinh hoạt đảng chưa duy trì nền nếp, nhất là đối với các chi bộ ngoài cơ quan đại diện, nhiều đảng viên khi ra nước ngoài thường lấy lý do khoảng cách xa xôi, đi lại khó khăn, tốn kém nên không liên hệ kịp thời với tổ chức đảng, có biểu hiện ngại sinh hoạt đảng. Một số cấp ủy đánh giá, nhận xét đối với đảng viên còn nặng về hình thức, thiếu cụ thể, biểu hiện “dĩ hòa vi quý”, vì vậy chưa đánh giá đúng phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên, chưa giúp đảng viên phấn đấu, rèn luyện tốt đồng thời gây khó khăn cho cấp ủy, cơ quan trong nước tiếp nhận, bố trí sử dụng về sau.

Nguyên nhân dẫn tới những hạn chế, khó khăn trên bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó nguyên nhân chủ quan vẫn là chủ yếu. Trước hết, công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị từ Trung ương, các bộ, ngành, các địa phương, mà thường xuyên, trực tiếp là Đảng ủy Bộ Ngoại giao và cấp ủy các cơ quan đại diện ở ngoài nước, nhưng sự phối hợp giữa các chủ thể này trong triển khai công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước chưa đồng đều, chưa chặt chẽ. Nhận thức của một số cấp ủy và đảng viên về công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước chưa đầy đủ, chưa thấy được hết những khó khăn của công tác này.

Công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước là hoạt động đặc thù, không công khai và chịu sự chi phối bởi luật pháp cũng như thái độ thân thiện hay không thân thiện của chính quyền các nước sở tại; môi trường làm việc, học tập, môi trường sống của họ cũng rất đa dạng, phức tạp…, vì vậy, hiệu quả của công tác này phụ thuộc rất nhiều vào sự tự giác, sự gương mẫu của đảng viên. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch chống phá rất quyết liệt, với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt trên các phương tiện thông tin đại chúng, các nền tảng phương tiện truyền thông xã hội kết hợp với việc móc nối, dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo,... Những khó khăn trên ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước.

Một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước trong thời gian tới

Những năm tới, dự báo tình hình thế giới và khu vực tiếp tục có nhiều thay đổi nhanh, phức tạp, khó lường. Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song cũng đứng trước nhiều trở ngại, khó khăn, thách thức. Đất nước ta có nhiều thuận lợi, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của quốc gia, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được nâng cao, tạo ra những tiền đề quan trọng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Cán bộ, đảng viên ra nước ngoài công tác, học tập và lao động sẽ ngày càng nhiều. Tình hình sẽ có nhiều thuận lợi, nhưng vẫn còn nhiều thách thức tác động nhiều chiều đến công tác đảng ngoài nước nói chung và công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước nói riêng. Trước tình hình đó, để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước, cần tập trung thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy ở trong và ngoài nước về quản lý đảng viên ở ngoài nước, luôn coi đây là nhiệm vụ quan trọng, là trách nhiệm chung của cả hệ thống chính trị. Cần có sự phối hợp nhịp nhàng, trách nhiệm, đúng quy định của các cấp, các ngành, nhất là trong phổ biến, quán triệt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước ta; phổ biến nhiệm vụ cho đảng viên trước khi ra nước ngoài; phối hợp trong giới thiệu sinh hoạt đảng, tiếp nhận, quản lý đảng viên, đánh giá, nhận xét, cũng như trong xem xét, xử lý đảng viên vi phạm.

Hai là, tổ chức đảng, cấp ủy thường xuyên quan tâm giáo dục chính trị tư tưởng, nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng, diễn biến tư tưởng của đảng viên qua thực hiện nhiệm vụ được chi bộ giao, thông qua sinh hoạt đảng, trao đổi, trò chuyện. Từ đó, chú trọng công tác đấu tranh phòng ngừa những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong mỗi đảng viên. Đảng viên sống, làm việc, học tập ở ngoài nước, vì vậy tổ chức đảng phải kịp thời định hướng tư tưởng cho đảng viên trước những thông tin sai lệch của các thế lực thù địch, phản động; nhắc nhở đảng viên giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, thận trọng khi sử dụng các phương tiện truyền thông xã hội để phòng tránh bị thế lực thù địch lôi kéo, mua chuộc.

Ba là, cấp ủy các cấp cần nắm vững nguyên tắc xây dựng Đảng, quy định của Điều lệ Đảng; đồng thời, phải linh hoạt, sáng tạo trong đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo, hình thức sinh hoạt đảng, cách thức quản lý đảng viên phù hợp với điều kiện hoạt động ở ngoài nước. Thực hiện chặt chẽ, đúng quy định về nghiệp vụ công tác quản lý đảng viên, nhất là trong công tác chuyển và tiếp nhận đảng viên sinh hoạt đảng, phối hợp với cấp ủy nơi đến để tiếp nhận, bố trí sinh hoạt đảng; thường xuyên theo dõi, kịp thời nhắc nhở đảng viên thực hiện đúng quy định về chuyển và tham gia sinh hoạt đảng; chỉ đạo cấp ủy cơ sở cần định kỳ (3 tháng, 6 tháng, 1 năm) đối khớp danh sách đảng viên với cấp ủy trực thuộc; thực hiện nghiêm túc các quy trình, thủ tục chuyển sinh hoạt đảng chính thức trong các đảng bộ theo quy định, hướng dẫn của Trung ương. Đẩy mạnh cải cách hành chính đảng nhanh, gọn, nhưng chặt chẽ, ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong các quy trình quản lý đảng viên, chuyển sinh hoạt đảng.

Bốn là, kịp thời rà soát, sàng lọc, đưa những đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng, thường xuyên đối khớp đảng viên, quản lý chặt đảng viên đang sinh hoạt, đảng viên miễn sinh hoạt,…; chuẩn hóa hồ sơ đảng viên, lý lịch đảng viên, phát và quản lý thẻ đảng viên. Ở ngoài nước, đảng viên sống, làm việc phân tán, độc lập; vì vậy, cần chú trọng làm tốt việc phân công, giao nhiệm vụ cho đảng viên, tạo điều kiện để đảng viên nâng cao ý thức, trách nhiệm đối với nhiệm vụ xây dựng tổ chức đảng bằng những việc làm cụ thể, thiết thực; phát huy tinh thần chủ động, sáng tạo và tính tự nguyện, tự giác của người đảng viên trong việc chấp hành quy định của Điều lệ Đảng, phát huy vai trò của đảng viên trong xây dựng tổ chức và tham gia các hoạt động cộng đồng.

Năm là, tăng cường phối hợp với các cấp, các ngành, tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư ban hành những chủ trương về công tác đảng ở ngoài nước nói chung và công tác quản lý đảng viên ở ngoài nước nói riêng; trước mắt, tham mưu để có chủ trương giải quyết vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện. Thực hiện tốt công tác quản lý, đồng thời có biện pháp bảo vệ cán bộ, đảng viên, lưu học sinh có liên quan đến yếu tố nước ngoài, hiện đang công tác, học tập, nghiên cứu, lao động ở nước ngoài, không để các thế lực thù địch, các cơ quan đặc biệt của nước ngoài móc nối, mua chuộc, lôi kéo; đẩy mạnh đấu tranh chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, các quan điểm sai trái, thù địch, chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng. Cấp ủy các cấp xem xét, xử lý số đảng viên vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm, không tuân thủ nghiêm kỷ luật phát ngôn./.

-----------------------------