Thứ Ba, 12 tháng 11, 2024

THA HÓA QUYỀN LỰC KHÔNG PHẢI BẢN CHẤT CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM!

     Lợi dụng việc một số cán bộ, công chức bị kỷ luật thời gian qua, các thế lực thù địch tiếp tục xuyên tạc rằng sai phạm, nhất là tham nhũng do “tha hóa quyền lực” là bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhận diện, đấu tranh chống luận điệu sai trái trên là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên và cấp bách hiện nay!
Theo cách hiểu thống nhất, tha hóa quyền lực là hành vi một số cán bộ, công chức lạm dụng quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước để làm những việc sai trái, khuất tất nhằm mang lại lợi ích cho cá nhân hay một nhóm người, gây tổn hại đến lợi ích chung của tập thể, lợi ích của quốc gia, dân tộc. Trong xã hội hiện đại thì tha hóa quyền lực càng trở nên tinh vi và biến tướng dưới nhiều hình thức phức tạp.

Gần đây, không ít người nắm giữ, thực thi công quyền đã bị cám dỗ bởi “màu hồng” của quyền lực. Khi có chức quyền trong tay, một số người chỉ lăm le khai thác quyền lợi, bổng lộc nhờ quyền lực mang lại mà không khép mình vào khuôn khổ tổ chức, quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước. Trong giai đoạn 2012-2022, có 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật. Năm 2023 đã thi hành kỷ luật 459 đảng viên do tham nhũng.

Cùng với xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản về kiểm soát quyền lực và phòng, chống suy thoái, tham nhũng, tiêu cực nhằm ngăn chặn kịp thời những “tổ mối” đang đục khoét thể chế, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Tha hóa quyền lực không phải bản chất của Đảng Cộng sản Việt Nam
 Ảnh minh họa: TTXVN
Lợi dụng việc này, các thế lực thù địch tung ra những luận điệu xuyên tạc, cố tình bóp méo sự thật, cho rằng “tha hóa quyền lực” là bản chất của Đảng, hòng hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng và đội ngũ cán bộ. Những thủ đoạn và luận điệu của chúng có thể nhận diện trên một số vấn đề chủ yếu sau:

Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động quy chụp rằng, chế độ “một đảng” là nguyên nhân của tha hóa quyền lực. Chúng rêu rao rằng: Tha hóa quyền lực của cán bộ, công chức bắt nguồn từ chế độ “tập quyền, một đảng”... Cùng với cố tình đổ lỗi cho một đảng là nguyên nhân, mục đích của chúng không gì khác nhằm xóa bỏ vai trò độc tôn lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tha hóa quyền lực được xem là “bóng tối vươn theo quyền lực”, gây suy giảm quyền lực nhà nước, ảnh hưởng trực tiếp đến uy thế, thanh danh của Đảng và Nhà nước, biến bộ máy chính quyền và các tổ chức đảng trở nên quan liêu, xa rời lợi ích của nhân dân. Từ gần 200 năm trước, Karl Marx từng đưa ra những cảnh báo khi ông nghiên cứu về sự tha hóa quyền lực ở các nhà nước phương Tây, nhất là các nước tư bản phát triển.

Ông rút ra một điều: Quyền lực nhà nước càng lớn thì sự tha hóa của nó càng nguy hiểm, nó càng gần với tư cách một lực lượng tự trị thoát khỏi sự kiểm soát của con người. Điều này cho thấy tình trạng tha hóa quyền lực có ở mọi nhà nước, mọi xã hội có giai cấp, nó là một hiện tượng xã hội mà bất cứ chế độ xã hội nào cũng phải giải quyết.

V.I.Lenin cho rằng, “tệ quan liêu, tham nhũng khiến nhiều cán bộ, đảng viên bị tha hóa, trở thành những kẻ chuyên quyền, độc đoán, thậm chí nó có thể phá hủy một chính đảng, làm tiêu vong một chế độ”. Bàn về vấn đề này, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì nguyên nhân sâu xa, gốc rễ dẫn đến tha hóa quyền lực chính là chủ nghĩa cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, “vì cá nhân chủ nghĩa nên đặt lợi ích riêng lên trên lợi ích chung, rồi sinh ra vô kỷ luật, vô tổ chức, tham địa vị, tham danh vọng, bè phái, tham ô, lãng phí, quan liêu”.

Kế thừa, phát triển Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng nhấn mạnh: “Tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực và là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ; thời đại nào, chế độ nào, quốc gia nào cũng có, không thể xóa bỏ tận gốc tham nhũng trong một thời gian ngắn”. Như vậy, cần khẳng định rằng, chính chủ nghĩa cá nhân và sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, công chức, cùng việc chưa có cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả chính là nguyên nhân căn cơ của tha hóa quyền lực. 

 Mặt khác, trên cả phương diện lý luận, các nghiên cứu, phân tích đều đi đến kết luận, tham nhũng là hiện tượng xã hội, tồn tại tất yếu, khách quan trong xã hội có nhà nước (có giai cấp), không phụ thuộc vào chế độ chính trị đa đảng hay một đảng; chế độ nào, quốc gia nào cũng có tham nhũng.

Thực tế ở các quốc gia thực hiện chế độ đa đảng, tham nhũng vẫn là quốc nạn. Báo cáo Chỉ số cảm nhận tham nhũng (CPI) năm 2023 của Tổ chức Minh bạch quốc tế (TI) cho thấy, trên thế giới không có quốc gia nào không có tham nhũng do tha hóa quyền lực. Quốc gia có điểm số thấp nhất (mức độ tham nhũng cao nhất) là Somalia (11 điểm), Nam Sudan (13 điểm); các quốc gia có điểm số cao (mức độ tham nhũng thấp) là Đan Mạch (90 điểm), Phần Lan (87 điểm)... Như vậy, từ báo cáo trên có thể thấy, tham nhũng, tiêu cực do tha hóa quyền lực không phụ thuộc vào chế độ một đảng lãnh đạo hay chế độ đa đảng. Việc các thế lực thù địch rêu rao rằng tha hóa quyền lực do chế độ một đảng gây ra là luận điệu bịa đặt.

Thứ hai, các thế lực thù địch xuyên tạc mục đích phòng, chống tha hóa quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chúng rêu rao rằng, mục đích của phòng, chống tha hóa quyền lực chỉ vì phục vụ "lợi ích phe, nhóm", là “cuộc chiến hay đấu đá quyền lực trong thượng tầng của Đảng”, là bước chuẩn bị cho “con em, vây cánh” tiến thân...

Những luận điệu của các thế lực thù địch rất nguy hiểm và hoàn toàn sai trái. Bởi như phân tích ở trên, tha hóa quyền lực luôn có và không bao giờ mất đi khi trong xã hội có giai cấp. Vì vậy, để ngăn chặn nó, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tìm tòi và thực thi trong thực tiễn giải pháp để kiểm soát quyền lực hiệu quả, phải “nhốt quyền lực trong lồng cơ chế”. Quá trình lãnh đạo cách mạng, nhất là từ khi tiến hành công cuộc đổi mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc rằng phòng, chống tha hóa quyền lực trong một bộ phận cán bộ, công chức là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.

Song song với thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức, kinh tế... Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng việc ngăn ngừa, chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, kịp thời những hành vi tha hóa quyền lực nhằm xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức kỷ cương, liêm chính, vừa “hồng”, vừa “chuyên”.

Trên thực tế, những cán bộ, đảng viên “tha hóa” bị xem xét kỷ luật do sai phạm thời gian qua đều được xử lý một cách nghiêm minh, công bằng, công tâm, minh bạch, đúng người, đúng tội và được thông tin rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân. Đồng thời, thông qua kỷ luật để cảnh tỉnh, răn đe, giúp đội ngũ cán bộ, đảng viên nhất là những người có chức, có quyền “tự soi”, “tự sửa”, không ngừng tu dưỡng, rèn luyện về năng lực, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, phòng ngừa chặt chẽ, ngăn chặn từ gốc.

Chính việc xử lý nghiêm minh những cán bộ, đảng viên tha hóa thời gian qua đã được tuyệt đại đa số ý kiến người dân bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tha hóa quyền lực. Điều đó càng minh chứng rõ ràng cho mục đích của phòng, chống tha hóa quyền lực là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích của nhân dân và được nhân dân đồng tình, ủng hộ, chứ không phải như sự xuyên tạc của kẻ thù. Chính điều này đã gây thiện cảm mạnh mẽ, vun đắp niềm tin to lớn của nhân dân vào sự liêm chính, uy tín, sức mạnh và sự trong sạch của Đảng.

Thứ ba, chúng quy chụp rằng "tha hóa quyền lực" là phổ biến, là bản chất của đội ngũ cán bộ, công chức của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Các thế lực thù địch, phản động xuyên tạc rằng “việc phòng, chống tha hóa quyền lực của Đảng Cộng sản Việt Nam rồi sẽ đi đến thất bại”. Viện dẫn cho những suy diễn đó, chúng chắp vá, xâu chuỗi một số vụ việc tiêu cực đơn lẻ ở một bộ phận cán bộ, công chức rồi quy chụp rằng “sâu mọt ở khắp mọi nơi”, đội ngũ cán bộ, đảng viên “đang rơi vào tình trạng tha hóa, biến chất”.

Những quy chụp của các thế lực thù địch là dối trá, đi ngược lại mục đích tốt đẹp của Đảng ta.

Trong quá trình lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam đã phải đối mặt với sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, đặc biệt là đối mặt với nguy cơ, thách thức từ tệ nạn tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, quan liêu, làm liên lụy đến sinh mệnh của Đảng, sự tồn vong của chế độ, hạnh phúc của nhân dân. Đảng đã thẳng thắn thừa nhận những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh đạo công cuộc đổi mới; đồng thời, kiên quyết đấu tranh vạch mặt những kẻ mang danh Đảng, đội lốt đảng viên để phá Đảng, hại nước, hại dân.

Việc ra sức xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh không những thể hiện quyết tâm chính trị lớn lao của Đảng mà còn chứng tỏ Đảng luôn luôn cầu thị, sẵn sàng sửa chữa sai lầm, hạn chế, khuyết điểm để đưa đất nước vươn lên, trở nên tốt đẹp hơn. Nguyên nhân sâu xa dẫn đến tha hóa quyền lực của một bộ phận cán bộ, đảng viên là rơi vào chủ nghĩa cá nhân... cùng với sự thiếu kiểm soát, kiểm tra, giám sát của các cấp. Những con sâu đó chỉ là số ít trong tổng số hơn 5 triệu đảng viên, cần phải được loại bỏ để hàng ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch hơn. Như vậy, từ việc xử lý một số cán bộ, công chức bị thoái hóa mà đánh đồng, quy chụp đó là bản chất của đội ngũ cán bộ, công chức là sự nhìn nhận lệch lạc, cực đoan của một số ít người chỉ với mục đích hạ thấp uy tín của Đảng.

Những luận điệu xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam thời gian qua là vô căn cứ, phiến diện, phản khoa học, nhưng sẽ vô cùng nguy hiểm nếu không nhận diện và đấu tranh kịp thời. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải quán triệt và thực hiện nhất quán nguyên tắc lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ, đi đôi với phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu trong thực hiện công tác cán bộ.

Mỗi cán bộ, đảng viên và quần chúng cần đề cao cảnh giác cách mạng, nhận diện, vạch trần những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch để kiên quyết đấu tranh bác bỏ những luận điệu sai trái, phản động đó.

Đồng thời, mỗi cán bộ, đảng viên cần không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, tư tưởng, trau dồi đạo đức cách mạng, phương pháp, tác phong công tác; luôn “tự soi, tự sửa” để không ngừng tiến bộ; biết đặt lợi ích của cách mạng, của nhân dân, của tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Qua đó, góp phần quan trọng xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, vì khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
Môi trường ST.

 Làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội

Chiều 7/11, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương tổ chức Hội nghị quán triệt, triển khai Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương về đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng. Hội nghị được tổ chức trực tiếp kết hợp trực tuyến với các điểm cầu trong toàn quân. Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng chủ trì hội nghị.

Đại tướng Phan Văn Giang phát biểu tại hội nghị.

Dự hội nghị có các đồng chí: Thượng tướng Trịnh Văn Quyết, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị (TCCT) Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam; Đại tướng Nguyễn Tân Cương, Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; các đồng chí Ủy viên Trung ương Đảng, lãnh đạo Bộ Quốc phòng, TCCT QĐND Việt Nam, Bộ Tổng Tham mưu QĐND Việt Nam; cán bộ chủ chốt các cơ quan, đơn vị từ cấp cơ sở đến cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng.

Phát biểu khai mạc hội nghị, Đại tướng Phan Văn Giang cho biết, các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội đã chủ động quán triệt sâu sắc, nghiêm túc chỉ thị, quy định, hướng dẫn của Trung ương, Quân ủy Trung ương và TCCT; đồng thời, cụ thể hóa để phù hợp với đặc điểm, thực tiễn Quân đội; chủ động xây dựng các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai một số công việc chủ yếu bảo đảm đồng bộ, thống nhất, đạt chất lượng tốt.  

Đại tướng Phan Văn Giang nhấn mạnh, Đại hội đảng các cấp nhiệm kỳ 2025-2030 tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng là đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng trong toàn Đảng; đối với Đảng bộ Quân đội và toàn quân, đây là dấu mốc quan trọng về sự phát triển, tiếp tục khẳng định sự đoàn kết, thống nhất, bản lĩnh, trí tuệ, truyền thống tốt đẹp của Quân đội qua 80 năm xây dựng, chiến đấu, trưởng thành dưới lá cờ vẻ vang của Đảng; thể hiện quyết tâm thực hiện mục tiêu đến năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, luôn là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kết quả đại hội đảng các cấp trong toàn quân là tiền đề rất quan trọng bảo đảm cho thành công của Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Theo Đại tướng Phan Văn Giang, để các cấp ủy, tổ chức đảng có cơ sở triển khai làm tốt công tác chuẩn bị và tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương tổ chức Hội nghị trực tiếp kết hợp trực tuyến quán triệt, triển khai Chỉ thị của Bộ Chính trị, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương về đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Các đại biểu dự hội nghị tại điểm cầu trung tâm.

Để hội nghị đạt mục đích, yêu cầu đề ra, Đại tướng Phan Văn Giang yêu cầu các cơ quan chức năng của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, TCCT, Ủy ban Kiểm tra Quân ủy Trung ương quán triệt, triển khai đầy đủ các nội dung trong chỉ thị, hướng dẫn của Trung ương, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương và TCCT; trọng tâm là những vấn đề mới so với nhiệm kỳ trước, vấn đề quan trọng, cốt lõi của các văn bản để các cấp ủy, tổ chức đảng trong toàn quân quán triệt, triển khai thực hiện, nhất là những vấn đề có tính nguyên tắc, về yêu cầu của đại hội; xây dựng đoàn kết, thống nhất cao trong cấp ủy, tổ chức đảng và cơ quan, đơn vị.

Các đại biểu nêu cao tinh thần trách nhiệm, quán triệt, lĩnh hội đầy đủ nội dung các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo đại hội của Trung ương, Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương và Hướng dẫn của TCCT, nhất là những yêu cầu, nội dung mới, trọng tâm. Quá trình nghiên cứu, quán triệt, làm công tác chuẩn bị đại hội, nếu có vấn đề khó khăn, vướng mắc, cần trao đổi, kiến nghị, đề xuất với các cơ quan chức năng để được giải đáp, thống nhất tổ chức thực hiện. Sau hội nghị, cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì và cơ quan chức năng các cấp trong toàn quân quán triệt sâu sắc yêu cầu, nội dung của hội nghị; rà soát, bổ sung các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo đại hội cấp mình; tổ chức đại hội đảng nhiệm kỳ 2025-2030 thành công tốt đẹp, góp phần vào thành công Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Tại hội nghị, Thượng tướng Trịnh Văn Quyết thay mặt Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương quán triệt những nội dung cơ bản của Chỉ thị số 35-CT/TW ngày 14/6/2024 của Bộ Chính trị, Chỉ thị số 2960-CT/QUTW ngày 18/7/2024 của Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương về đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội tiến tới Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng và Quy chế bầu cử trong Đảng. Bên cạnh đó, các đại biểu nghe lãnh đạo TCCT hướng dẫn những nội dung cụ thể về công tác chuẩn bị, tổ chức đại hội đảng các cấp trong Đảng bộ Quân đội.

Thay mặt Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thượng tướng Trịnh Văn Quyết yêu cầu các cấp ủy, tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội đề cao trách nhiệm, tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội đảng các cấp. Trong đó tập trung tổ chức chặt chẽ, nghiêm túc việc quán triệt, triển khai, học tập Chỉ thị 35 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 2960 của Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương và các quy định, hướng dẫn của cấp trên; nghiên cứu, cụ thể hóa phù hợp với đặc điểm, thực tiễn của đảng bộ, cơ quan, đơn vị. Làm tốt công tác thông tin, tuyên truyền, thi đua hướng về đại hội. Cấp ủy, tổ chức đảng và từng đảng viên trong Đảng bộ Quân đội phải xác định đại hội đảng là dịp để chỉnh đốn đội ngũ, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, tinh thần sáng tạo và trách nhiệm, phát huy tốt truyền thống, bản chất Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới.

Cùng với đó, chủ động làm tốt công tác chuẩn bị văn kiện, nhân sự và mọi mặt công tác bảo đảm, phục vụ đại hội. Báo cáo chính trị phải là văn kiện trung tâm của đại hội, sự kết tinh trí tuệ, tâm huyết, trách nhiệm, sự sáng tạo, đoàn kết, thống nhất và tầm nhìn của đảng bộ trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị trọng tâm. Đồng thời phải có tính kế thừa và đổi mới, bám sát nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và công tác xây dựng Đảng; quán triệt đầy đủ, sâu sắc các nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định của Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, đặc biệt là những quan điểm, chủ trương, mục tiêu được đề cập trong dự thảo Báo cáo chính trị của Quân ủy Trung ương trình Đại hội Đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII.

Thượng tướng Trịnh Văn Quyết cho rằng, báo cáo kiểm điểm của cấp ủy phải thể hiện tính chiến đấu cao, đề cao tự phê bình và phê bình, không nể nang, né tránh; nội dung kiểm điểm phải bám sát quy chế làm việc, kết quả lãnh đạo tổ chức thực hiện nghị quyết của đảng bộ và trách nhiệm của tập thể, cá nhân được phân công với thái độ nghiêm túc, khách quan, đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, hạn chế công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, chỉ huy, điều hành và tổ chức thực hiện gắn với trách nhiệm cá nhân trên từng cương vị, chức trách, nhiệm vụ được giao trong nhiệm kỳ qua; đề ra biện pháp khắc phục, sửa chữa khả thi. Công tác nhân sự đại hội phải được thực hiện chặt chẽ cả trước, trong và sau đại hội; nội dung cụ thể đã được đề cập trong Chỉ thị của Bộ Chính trị và Chỉ thị của Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương.

Đồng chí Chủ nhiệm TCCT QĐND Việt Nam lưu ý, việc tổ chức đại hội ở từng cấp bảo đảm trang trọng, ý nghĩa, thiết thực, an toàn, tiết kiệm, tránh phô trương, hình thức, đúng lộ trình và thời gian theo quy định. Các đảng bộ được Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương lựa chọn tổ chức đại hội trước ở các cấp, phải quán triệt, làm tốt công tác chuẩn bị về mọi mặt, bám sát chỉ đạo của các cơ quan chức năng Quân ủy Trung ương và TCCT, tổ chức đại hội thực sự tiêu biểu, mẫu mực về nguyên tắc, thủ tục, làm cơ sở rút kinh nghiệm chung trong Đảng bộ Quân đội. Các tổ chức đảng trong Đảng bộ Quân đội tiến hành đại hội đúng kế hoạch, nội dung, chất lượng tốt. Cùng với công tác chuẩn bị và tổ chức đại hội, cấp ủy các cấp cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo rà soát hoàn thành toàn diện những chỉ tiêu được xác định trong nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 2020-2025; trước mắt, tập trung hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm của năm 2024.

Tin, ảnh: HỒNG THẠNH - PHẠM HƯNG

Nguồn: qdnd.vn


Lực lượng vũ trang tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu phát huy vai trò nòng cốt trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh

Bà Rịa - Vũng Tàu là tỉnh ven biển, nằm trong Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có ngư trường khai thác hải sản lớn và có trữ lượng dầu mỏ, khí thiên nhiên lớn nhất nước ta, trở thành một trong những trung tâm năng lượng, công nghiệp nặng, du lịch, dịch vụ cảng biển quốc gia và quốc tế. Đây là lợi thế để Tỉnh phát triển kinh tế - xã hội với tốc độ cao trong nhóm dẫn đầu cả nước. Song, đi liền với đó cũng tiềm ẩn không ít nguy cơ mất ổn định, phức tạp về quốc phòng, an ninh, nhất là trên hướng biển, đảo. Ý thức rõ thuận lợi, khó khăn, thách thức và chức năng, nhiệm vụ được giao, những năm qua, lực lượng vũ trang Tỉnh đã chủ động phối hợp với các sở, ban, ngành và các lực lượng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân vững chắc, tạo môi trường thuận lợi để Tỉnh phát triển nhanh, bền vững.

Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh hỗ trợ nhu yếu phẩm cho đồng bào dân tộc thiểu số có hoàn cảnh khó khăn.

Trên cơ sở quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng, trực tiếp là Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, Đảng ủy Quân sự, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh chú trọng tham mưu cho cho Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân Tỉnh nâng cao hiệu quả lãnh đạo, quản lý nhà nước về quốc phòng. Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh xây dựng, ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, đề án về thực hiện công tác quốc phòng, quân sự địa phương với mục tiêu, chủ trương, bước đi cụ thể, tạo cơ sở pháp lý để các địa phương, đơn vị tổ chức thực hiện. Trong đó xác định, tập trung đẩy mạnh kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân; xây dựng tiềm lực, thế trận khu vực phòng thủ, cốt lõi là xây dựng “thế trận lòng dân”; quy hoạch, đầu tư xây dựng thế trận quân sự khu vực phòng thủ phù hợp với yêu cầu và đặc thù của Tỉnh. Với phương châm “đổi mới, sáng tạo”, “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” trong từng công việc, từng nhiệm vụ, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh và cơ quan quân sự các cấp đã nắm chắc tình hình, chủ động tham mưu, đề xuất và sâu sát, quyết liệt trong chỉ đạo, đôn đốc thực hiện nên đã huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và các lực lượng, tạo bước chuyển tích cực trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý của cấp ủy, chính quyền các cấp, người đứng đầu cơ quan, sở, ban, ngành đối với công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Cùng với đó, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh tích cực nghiên cứu, tham mưu hoàn thiện cơ chế, quy chế xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ; củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các ban chỉ đạo, các hội đồng về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ, nhất là ban chỉ đạo xây dựng khu vực phòng thủ, phòng không nhân dân, hội đồng nghĩa vụ quân sự, hội đồng giáo dục quốc phòng và an ninh,... đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Nhờ đó, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, năng lực quản lý nhà nước của cấp ủy, chính quyền các cấp đối với công tác quốc phòng, quân sự địa phương được tăng cường, đi vào chiều sâu.

Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tạo “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố nền tảng để xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh. Ý thức rõ điều đó, lực lượng vũ trang Tỉnh tích cực tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng. Chú trọng đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục trong toàn Đảng bộ, nhân dân và lực lượng vũ trang về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Quá trình triển khai, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh phát huy vai trò là cơ quan thường trực Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh, chủ trì phối hợp với các sở, ban, ngành tham mưu có nhiều đổi mới trong thực hiện Luật Giáo dục quốc phòng và an ninh. Trong đó, tập trung vào bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng, nhất là cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị. Đồng thời, tích cực mở rộng đối tượng bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho chức sắc, chức việc tôn giáo, chủ phương tiện tàu, thuyền, công nhân các khu công nghiệp trên địa bàn. Nhiều năm qua, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh phối hợp các sở, ban, ngành triển khai có hiệu quả mô hình “Phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho chức sắc, chức việc, tu sỹ và tu tập sinh”, được Tỉnh và Hội đồng Giáo dục quốc phòng và an ninh Quân khu 7 đánh giá cao. Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân cũng được đẩy mạnh với nhiều đổi mới về nội dung, hình thức. Qua đó, nhận thức, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, nhân dân về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân ở địa phương, cơ sở.

Lực lượng vũ trang Tỉnh cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân vùng bị hạn hán.

Kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ vững chắc là nội dung cốt lõi trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân. Theo đó, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh phát triển các lĩnh vực kinh tế có thế mạnh, tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng,... tạo nguồn lực vật chất cho xây dựng khu vực phòng thủ ở từng khu vực và trên toàn địa bàn. Điểm nổi bật là, các chủ trương, nội dung, giải pháp kết hợp được Tỉnh cụ thể hóa trong nhiệm kỳ và từng năm, trong từng quy hoạch, kế hoạch, đề án với phương châm: hài hòa, hiệu quả, kiên quyết không chạy theo lợi ích kinh tế, không phát triển kinh tế bằng mọi giá. Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh và cơ quan quân sự các cấp đã chủ động phối hợp với các ngành tổ chức thẩm định hàng trăm dự án, công trình trọng điểm phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, như: các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, cảng Cái Mép, đường cao tốc Biên Hoà - Vũng Tàu, đường Vành đai 4 đoạn thuộc Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cầu Phước An, tuyến đường ven biển Vũng Tàu - Bình Châu,... đảm bảo chặt chẽ, có tính lưỡng dụng cao, vừa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế địa phương, vừa sẵn sàng bảo đảm các tình huống quốc phòng, an ninh. Song song với đó, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh tham mưu xây dựng, hoàn thiện Quy hoạch thế trận quân sự khu vực phòng thủ cấp Tỉnh, Quy hoạch sử dụng đất và đầu tư xây dựng căn cứ chiến đấu, căn cứ hậu cần - kỹ thuật; quy hoạch quản lý các khu vực ven biển, địa hình có giá trị chiến thuật, các công trình đô thị. Chỉ đạo các địa phương lập quy hoạch thế trận quân sự cấp huyện, gắn xây dựng khu vực phòng thủ với phòng thủ dân sự. Đồng thời, tích cực huy động các nguồn lực từng bước đầu tư xây dựng theo quy hoạch. Từ tham mưu của cơ quan quân sự, những năm qua, Tỉnh đã đầu tư hàng trăm tỉ đồng xây dựng được nhiều công trình phòng thủ quan trọng, điều chỉnh bố trí sắp xếp lại một số khu dân cư, trạm, đài quan sát trên các hướng, địa bàn trọng điểm, bước đầu hình thành thế trận liên hoàn giữa các cấp; được đánh giá là địa phương trong nhóm đầu của Quân khu 7. Cơ quan quân sự các cấp cũng tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và phối hợp với các ban, ngành xây dựng hệ thống văn kiện, kế hoạch tác chiến, động viên quốc phòng, phòng không nhân dân, phòng, chống lụt, bão, cứu hộ, cứu nạn, phòng, chống cháy nổ, cháy rừng, v.v. Để nâng cao chất lượng, hiệu quả vận hành cơ chế hoạt động khu vực phòng thủ, Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã tham mưu, giúp Tỉnh xây dựng đề án, tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ Tỉnh và chỉ đạo các địa phương, cơ sở tổ chức diễn tập khu vực phòng thủ, diễn tập phòng thủ dân sự; phòng, chống biểu tình, bạo loạn, khủng bố, nội dung sát với tình hình thực tế của địa phương. Thông qua diễn tập đã kịp thời bổ sung, hoàn thiện nội dung vận hành cơ chế, nâng cao năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các cấp, trình độ tham mưu, phối hợp, hiệp đồng xử trí các tình huống của các lực lượng, ban, ngành, đoàn thể. Trong diễn tập, lực lượng vũ trang Tỉnh đã thực hiện một số tình huống, nội dung mới, như: chống khủng bố trên biển, tiếp nhận người từ nước ngoài,… để lại nhiều kinh nghiệm quý.

Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh đã tham mưu cho Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân Tỉnh phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, tập trung xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, đủ khả năng làm nòng cốt trong công tác quốc phòng, quân sự địa phương. Thời gian qua, Tỉnh đã triển khai nhiều biện pháp tập trung xây dựng lực lượng bộ đội thường trực theo hướng tinh, gọn, mạnh; ưu tiên bảo đảm quân số cho các đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, trên tuyến biên giới biển, địa bàn trọng điểm về quốc phòng, an ninh. Xây dựng lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ bảo đảm đúng đủ biên chế, vững mạnh về chính trị tư tưởng, phù hợp với từng địa bàn. Đồng thời,  triển khai thực hiện có hiệu quả Đề án 2930/ĐA-UBND, ngày 23/12/2020 của Ủy ban nhân dân Tỉnh về tổ chức xây dựng lực lượng, huấn luyện và hoạt động của dân quân tự vệ giai đoạn 2021 - 2025; hoàn thành chỉ tiêu xây dựng “Hải đội dân quân thường trực tham gia bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới” giai đoạn 1 theo Đề án 10609/ĐA-BQP, ngày 24/9/2018 của Bộ Quốc phòng. Tham mưu cho Tỉnh chỉ đạo các cơ quan, địa phương thực hiện tốt công tác tạo nguồn, phúc tra, rà soát, quản lý và tổ chức huấn luyện lực lượng dự bị động viên; giữ vững ổn định nguồn động viên trước mắt, lâu dài. Hiện nay, Tỉnh đã phối hợp với các đơn vị nhận nguồn sắp xếp các đơn vị dự bị động viên đạt 100% theo chỉ tiêu được giao; tỷ lệ đúng và gần đúng chuyên nghiệp quân sự đạt 93,25% (trong đó đúng chuyên nghiệp quân sự đạt 79,09%); đảng viên chiếm 15,02%, bảo đảm sẵn sàng động viên khi có tình huống.

Cùng với xây dựng lực lượng, các đơn vị lực lượng vũ trang Tỉnh thường xuyên duy trì nghiêm nền nếp, chế độ sẵn sàng chiến đấu; chủ động xây dựng, hoàn thiện và tăng cường luyện tập theo quyết tâm, phương án tác chiến khu vực phòng thủ, kế hoạch phòng thủ dân sự, ứng phó, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ cứu nạn. Đồng thời, phối hợp, hiệp đồng chặt chẽ với lực lượng Công an theo Nghị định số 03/2019/NĐ-CP ngày 05/9/2019 của Chính phủ và với Bộ đội Biên phòng Tỉnh, Vùng 2 Hải quân, Vùng Cảnh sát biển 3 trong phối hợp hoạt động, trao đổi tình hình, quản lý địa bàn, nhất là trên các địa bàn trọng điểm, trên biển và tuyến biên giới biển; xây dựng và sẵn sàng triển khai các phương án phòng, chống bạo loạn, gây rối, khủng bố, đấu tranh ngăn chặn các loại tội phạm, giữ vững an ninh, trật tự không để bị động, bất ngờ.

Kết quả đã đạt được là động lực để lực lượng vũ trang Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục phát huy tốt hơn nữa vai trò nòng cốt, cùng cấp ủy, chính quyền và nhân dân trên địa bàn xây dựng nền quốc phòng toàn dân ngày càng vững chắc, đáp ứng yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Nguồn: Đại tá TRẦN VĂN CƯ, Chỉ huy trưởng Bộ Chỉ huy Quân sự Tỉnh

 Vận dụng tư tưởng “cốt tinh, không cốt đông” trong xây dựng Quân đội hiện nay

Từ thực tiễn xây dựng quân đội và kinh nghiệm tổ chức kháng chiến, các nhà nước quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã đúc kết được nhiều bài học giữ nước, trong đó có quan điểm xây dựng quân đội thường trực của quốc gia “cốt tinh, không cốt đông”, làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc, giải phóng dân tộc, bảo vệ vững chắc nền độc lập và vẹn toàn cương vực quốc gia. Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng xây dựng quân đội của các triều đại quân chủ trong xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam “tinh, gọn, mạnh” hiện nay là việc làm cần thiết, có ý nghĩa sâu sắc cả về lý luận và thực tiễn.

Xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh” tiến lên hiện đại là chủ trương nhất quán, đúng đắn, thể hiện tầm nhìn, tư duy chiến lược của Đảng, Nhà nước ta đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Ngoài việc kiên định nguyên tắc quản lý, lãnh đạo, coi trọng xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tinh thần; gắn với đổi mới công tác huấn luyện-đào tạo; tập trung xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng đáp ứng yêu cầu hiện đại hóa vũ khí, trang bị kỹ thuật; thường xuyên quan tâm, chăm lo xây dựng nguồn nhân lực dự bị chất lượng cao... thì một trong những vấn đề quan trọng là phải gắn xây dựng lực lượng tinh nhuệ với điều chỉnh và hoàn thiện cơ cấu tổ chức, biên chế LLVT phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong bối cảnh lịch sử cụ thể.

Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng duyệt đội danh dự trong Lễ thành lập Quân đoàn 12 ngày 2/12/2023 tại Ninh Bình. Ảnh: qdnd.vn

Để tiến hành thắng lợi khởi nghĩa vũ trang và đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đã sớm có tư tưởng xây dựng LLVT có tổ chức chặt chẽ, cơ cấu nhiều thứ quân, trong đó quân triều đình quản lý giữ vai trò quyết định. LLVT triều Lý, Trần bao gồm quân chủ lực của triều đình, quân của quý tộc (vương hầu, tôn thất), quân của các lộ, phủ, châu (quân địa phương) và dân binh làng, xã, động, bản. Quân chủ lực của triều đình do nhà nước trực tiếp quản lý, chỉ huy, gồm các thành phần cấm quân và sương quân. Cấm quân là công cụ bạo lực chủ yếu, chỗ dựa quan trọng nhất của chính quyền quân chủ, là trụ cột của quốc phòng, an ninh và là lực lượng chủ lực trong các cuộc chiến tranh giữ nước.

Đến triều Vua Lê Thánh Tông, cùng với việc cải cách hành chính, chia cả nước thành 13 đạo, tổ chức quân đội cũng được cải tổ một cách toàn diện tạo sự thống nhất với hệ thống tổ chức chặt chẽ, quy củ. Lực lượng quân đội được chia thành hai bộ phận: Quân triều đình và quân các địa phương. Quân triều đình gồm cấm binh (còn gọi là cấm vệ quân) và quân ngũ phủ. Cấm binh được chia thành vệ, sở, vẫn làm nhiệm vụ bảo vệ vua, hoàng cung và kinh thành. Quân ngũ phủ được nhà nước xác định rõ là bộ phận quan trọng của quân đội do triều đình trực tiếp quản lý, thường trực đóng giữ trên các địa bàn trọng yếu của đất nước.

Để phù hợp với cách tác chiến (nhanh, mạnh, thần tốc), kể từ khi trở thành Bắc Bình vương, Nguyễn Huệ quyết định biên chế quân đội thành hệ thống gồm đội, cơ, đạo và doanh. Trong những trường hợp cần thiết, quân đội Tây Sơn còn được tổ chức thành các đơn vị quy mô lớn gọi là đại quân gồm 2-3 doanh do một đại đô đốc chỉ huy. Để tạo nên sức mạnh tổng hợp, tượng binh, kỵ binh, pháo binh và thủy binh được Vua Quang Trung quan tâm chú trọng phát triển và ngày càng hoàn thiện theo hướng gọn, tinh nhuệ, là lực lượng nòng cốt trong củng cố quốc phòng và bảo vệ nền độc lập...

Tiếp thu truyền thống quân sự dân tộc và tinh hoa quân sự thế giới, Đảng Cộng sản Việt Nam, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải quyết sáng tạo trên bình diện tư tưởng, lý luận cũng như trong thực tiễn xây dựng LLVT. Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức chăm lo xây dựng LLVT ba thứ quân làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc. Tháng 3/1947, lực lượng dân quân du kích được thống nhất về tổ chức, xây dựng thành một bộ phận đông đảo của LLVT nhân dân, đặt dưới sự chỉ huy trực tiếp của cấp xã đội, huyện đội, tỉnh đội với quy mô phổ biến là tiểu đội, trung đội, đại đội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu ngay tại địa phương bằng các thứ vũ khí có trong tay với hình thức tác chiến linh hoạt, sáng tạo.

Tháng 4/1949, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh thành lập bộ đội địa phương có quy mô đại đội hoặc tiểu đoàn, được cấp ủy đảng lãnh đạo, cơ quan quân sự địa phương chỉ huy; có khả năng tác chiến độc lập, làm nòng cốt phát triển chiến tranh nhân dân địa phương. Cùng với việc xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, Đảng ta rất chú trọng tới việc xây dựng các đơn vị chủ lực và chuẩn bị các điều kiện tiến tới xây dựng các đơn vị cơ động cấp đại đoàn. Trong giai đoạn 1949-1952, các đại đoàn bộ binh chủ lực (Đại đoàn 308, 304, 312, 316, 320, 325) và Đại đoàn Công pháo 351 lần lượt được thành lập.

Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thực hiện chủ trương của Đảng, Quân chủng Hải quân, Quân chủng Phòng không-Không quân, các binh chủng: Thông tin liên lạc, Đặc công... được thành lập và nhanh chóng trưởng thành. Đặc biệt, các đơn vị chủ lực của bộ binh có bước phát triển mạnh về tổ chức với quy mô từ cấp sư đoàn phát triển thành quân đoàn binh chủng hợp thành (Quân đoàn 1, 2, 3, 4, Đoàn 232) vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến. Đây là lực lượng cơ động chiến lược hoạt động trên địa bàn cả nước, hoặc trên từng chiến trường theo yêu cầu, nhiệm vụ để tiến hành tác chiến tập trung, thực hành các trận quyết chiến chiến lược, giành thắng lợi quyết định trong chiến tranh cách mạng.

Phương thức tổ chức ba thứ quân thể hiện đậm nét tính nhân dân của LLVT do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh xây dựng, lãnh đạo. Thành công trong việc xây dựng LLVT ba thứ quân, nòng cốt là Quân đội nhân dân, là cơ sở quan trọng để Đảng phát huy thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân vững mạnh. Thế trận đó cho phép chúng ta thực hiện chiến tranh chính quy bằng các binh đoàn chủ lực kết hợp chặt chẽ với các hoạt động tác chiến của lực lượng tại chỗ thuộc bộ đội địa phương và dân quân du kích, với chiến tranh nhân dân địa phương, phong trào toàn dân đánh giặc và phong trào đấu tranh chính trị của đông đảo quần chúng, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong thực tiễn, do yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng và yêu cầu xây dựng Quân đội đặt ra trong từng thời kỳ, Đảng ta đã nhiều lần điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ. Đặc biệt, hiện nay, trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng; yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ đặt ra ngày càng cao; cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư tác động tới tất cả lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh ngày càng sâu sắc thì việc kiện toàn tổ chức, biên chế của các cơ quan, đơn vị nói riêng, điều chỉnh tổ chức lực lượng Quân đội nói chung là vấn đề khách quan, cấp thiết, góp phần xây dựng Quân đội “tinh, gọn, mạnh”, tiến lên hiện đại, là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng BVTQ.

Từng cấp cần chủ động làm tốt việc rà soát, điều chỉnh, kiện toàn tổ chức, biên chế, bảo đảm trang bị phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, vũ khí, trang bị hiện có và nghệ thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới. Trước hết, triển khai thực hiện có hiệu quả đề án tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021-2030 và những năm tiếp theo. Đối với khối cơ quan cấp chiến dịch, chiến lược, tập trung rà soát, điều chỉnh tổ chức, biên chế theo hướng giảm đầu mối trung gian và quân số phục vụ, bảo đảm; bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan, khắc phục sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ để tăng cường quân số cho các đơn vị thành lập mới, đơn vị làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, huấn luyện trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo.

Đối với khối đơn vị chiến đấu, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của từng đơn vị để điều chỉnh tổ chức theo hướng tăng cường sức mạnh chiến đấu, khả năng cơ động. Sắp xếp lại các nhà máy sản xuất, cơ sở sản xuất quốc phòng và điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, biên chế các nhà trường Quân đội phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ. Quá trình rà soát, điều chỉnh phải bảo đảm tính khách quan, toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm, theo hướng có giảm, có tăng, trên cơ sở yêu cầu, nhiệm vụ của từng loại hình cơ quan, đơn vị và lực lượng. Qua đó, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về tổ chức, biên chế, trang bị của Quân đội, với cơ cấu hợp lý, số lượng phù hợp, chất lượng ngày càng cao, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ BVTQ trong tình hình mới.

Thiếu tướng, TS. NGUYỄN HOÀNG NHIÊN, Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự

Nguồn: qdnd.vn

 Quân đội nhân dân Việt Nam phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới



TCCS - Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự là vấn đề chiến lược và hệ trọng; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trong đó Quân đội nhân dân là nòng cốt. Phát huy kết quả đạt được, Quân đội tiếp tục thực hiện đồng bộ chủ trương, giải pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành, các tầng lớp nhân dân nhằm xây dựng tiềm lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp quốc gia, trọng tâm là tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự vững mạnh, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm, Bí thư Quân ủy Trung ương thăm và làm việc với Ban Thường vụ Quân ủy Trung ương _Nguồn: qdnd.vn

Tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng căn dặn: “Mọi người đều có trách nhiệm làm cho dân giàu nước mạnh, quốc phòng vững mạnh”(1). Thực hiện lời dạy của Người, Đảng và Nhà nước ta luôn coi xây dựng nền quốc phòng toàn dân nói chung, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự nói riêng là chủ trương chiến lược, quan trọng, xuyên suốt; không chỉ góp phần nâng cao sức mạnh quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy, mà còn tạo sự ổn định, góp phần phát triển kinh tế, xã hội trên từng địa bàn và cả nước. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định: “Tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh...; xây dựng và củng cố vững chắc thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân”(2); “có cơ chế huy động nguồn lực từ địa phương và nguồn lực xã hội cho xây dựng tiềm lực quốc phòng, an ninh tại các khu vực phòng thủ”(3).

Tiềm lực chính trị, tinh thần “là thành tố cơ bản của tiềm lực quốc phòng, chứa đựng trong tố chất con người, truyền thống lịch sử, văn hóa dân tộc và trong hệ thống chính trị; là khả năng tiềm tàng về chính trị có thể huy động nhằm tạo ra sức mạnh để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng”(4). Tiềm lực đó không phải là vấn đề trừu tượng, mà thể hiện trước hết ở sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, đường lối cách mạng đúng đắn, hợp lòng dân. Đồng thời, được biểu hiện ở nhận thức, niềm tin, tâm lý, tình cảm, trách nhiệm, ý chí của nhân dân và lực lượng vũ trang đối với nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc; sự giác ngộ sâu sắc mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, lòng yêu nước nồng nàn, khát vọng hòa bình, độc lập, tự do, kiên quyết đấu tranh để giải phóng dân tộc, với chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; sự đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại,...

Tiềm lực chính trị, tinh thần là “linh hồn”, “kết dính” mọi lực lượng, hội tụ mọi nguồn lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc để chiến thắng mọi kẻ thù và để xây dựng đất nước. Thực tiễn đã chứng minh, nhờ có sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng; tình cảm cách mạng, niềm tin và ý chí quyết tâm, quân và dân ta đã phát huy cao độ chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sức mạnh của các phương tiện vật chất, vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có, chiến thắng kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự mạnh hơn ta nhiều lần. Đúng như V.I. Lê-nin từng khẳng định: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào tinh thần của quần chúng đang đổ máu trên chiến trường”(5). Vì vậy, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần sẽ quyết định khả năng huy động các tiềm lực khác của nền quốc phòng.

Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần phải bảo đảm toàn diện cả về nhận thức, tư tưởng, tâm lý, tình cảm, niềm tin, thái độ, trách nhiệm chính trị đối với Tổ quốc và nhân dân. Trước hết, đó là xây dựng niềm tin và sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; coi trọng bồi dưỡng đạo đức cách mạng, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự tôn dân tộc. Tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc; thực hiện chính sách tự do tôn giáo và bình đẳng giữa các dân tộc; phát huy dân chủ rộng rãi theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; thực hiện chính sách ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo, tạo sự phát triển bền vững, xây dựng nước ta ngày càng phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Tiềm lực quân sự “là khả năng về sức mạnh chiến đấu của Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ và khả năng huy động nhân lực, vật lực phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng”(6). Tiềm lực quân sự bao gồm các yếu tố: con người, vũ khí, trang bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật, nghệ thuật quân sự, thế trận quân sự..., trong đó con người là nhân tố quyết định. Tiềm lực quân sự có hai dạng: hiện có và tiềm tàng. Dạng hiện có là số lượng, chất lượng của lực lượng vũ trang và lực lượng, phương tiện dự bị thường xuyên, được duy trì, không ngừng phát triển, bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Dạng tiềm tàng là nguồn dự trữ về sức người, sức của trên các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, khoa học, kỹ thuật, giao thông vận tải và các ngành dịch vụ khác..., sẵn sàng được huy động để phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và chiến tranh khi có tình huống xảy ra.

Tiềm lực quân sự là bộ phận nòng cốt của tiềm lực quốc phòng, được xây dựng trên các nền tảng chính trị, tinh thần, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học, công nghệ,... của đất nước, theo chiến lược thống nhất, phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Các nền tảng này phát triển vững mạnh sẽ là cơ sở quan trọng để tạo nên sức mạnh quân sự bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, không phải cứ có các nền tảng này là có tiềm lực quân sự mạnh, mà còn phụ thuộc vào cơ chế, chính sách, khả năng huy động và phát huy tối đa các yếu tố đó cho nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Do đó, đòi hỏi có sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước, cơ sở pháp lý, kế hoạch, sự đồng thuận của các tầng lớp nhân dân,...; đồng thời, lực lượng vũ trang nhân dân phải được xây dựng, huấn luyện có chất lượng cao, số lượng và cơ cấu hợp lý, có đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ huy giỏi, có nghệ thuật quân sự độc đáo, sáng tạo,...

Tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự là các thành tố cốt lõi, cơ bản nhất của tiềm lực, sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự là xây dựng tổng hợp các nhân tố, trước hết là xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nòng cốt là Quân đội nhân dân có chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu cao; là lực lượng tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân. Xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả để củng cố niềm tin, tăng cường sự đồng thuận của mọi tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước. Xây dựng và phát huy nguồn lực con người có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức cách mạng trong sáng, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển khoa học, công nghệ; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới.

Trong quá trình xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự phải quán triệt, nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy sức mạnh tổng hợp, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của các cấp, các ngành, các địa phương; khai thác tốt khả năng, nguồn lực của đất nước để xây dựng và củng cố các tiềm lực. Đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại với tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh; bảo đảm hài hòa giữa tăng cường tiềm lực quốc phòng với nâng cao đời sống của bộ đội và nhân dân. Thực hiện tốt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hóa, đa phương hóa; kiến tạo, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để phát triển bền vững đất nước.

Đại tướng Phan Văn Giang, Ủy viên Bộ Chính trị, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng động viên các lực lượng tham gia diễu binh, diễu hành tại lễ kỷ niệm 70 năm chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5-1954 - 7-5-2024) _Ảnh: tuoitre.vn

Quân đội phát huy sức mạnh tổng hợp, tăng cường xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự trong tình hình mới

Dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, sự quản lý, điều hành tập trung, thống nhất của Nhà nước, Quân đội nhân dân đã phát huy vai trò nòng cốt, sức mạnh tổng hợp, cùng toàn dân xây dựng và củng cố tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự vững mạnh, góp phần to lớn vào thực hiện mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội, với nhiều thành tựu nổi bật. Quân đội đã chủ động nghiên cứu, tham mưu với Đảng, Nhà nước xây dựng, ban hành các nghị quyết, chính sách, pháp luật về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, nhất là “thế trận lòng dân” vững chắc; tích cực thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng trong lĩnh vực quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc(7). Coi trọng và tổ chức tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ và toàn dân về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Nỗ lực phấn đấu thực hiện mục tiêu xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc năm 2030 xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Trong thời gian tới, cùng với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển, việc các nước lớn tiếp tục vừa hợp tác, vừa cạnh tranh, đấu tranh, kiềm chế lẫn nhau, tranh thủ tập hợp lực lượng để can dự, chi phối nội bộ nước khác đang đặt ra thách thức nghiêm trọng. Ở trong nước, ngoài “Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn”(8), chúng ta còn phải đối mặt với mâu thuẫn phát sinh trong quá trình phát triển; các mối đe dọa về an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống luôn thường trực và hiện hữu; các thế lực thù địch đẩy mạnh chống phá quyết liệt trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội,...

Tình hình đó đặt ra yêu cầu Quân đội nhân dân tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng và các lĩnh vực, tập trung xây dựng tiềm lực và sức mạnh tổng hợp của quốc gia, của nền quốc phòng toàn dân; trọng tâm là tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự với nội dung chủ yếu sau:

Một là, chủ động, tích cực phát huy vai trò tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước ban hành, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật về phát huy sức mạnh tổng hợp, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự.

Đường lối, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh là cơ sở để Nhà nước thể chế hóa, cụ thể hóa thành chính sách, pháp luật nhằm thực hiện hiệu quả chức năng quản lý nhà nước; điều chỉnh quan hệ xã hội trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Theo đó, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương tham mưu, đề xuất với Đảng tiếp tục hoàn thiện đường lối lãnh đạo sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, làm cơ sở để Nhà nước thể chế hóa, hoàn thiện chính sách, pháp luật về lĩnh vực quân sự, quốc phòng. Kịp thời tháo gỡ khó khăn, vướng mắc về cơ chế, chính sách, tạo cơ sở chính trị - pháp lý để cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền các cấp lãnh đạo, tổ chức phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Các cơ quan, đơn vị Quân đội cần chủ động phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương nắm chắc tình hình thực tiễn, thực hiện tốt việc sơ kết, tổng kết, đánh giá đúng thành tựu, kết quả đạt được, hạn chế, khuyết điểm, xác định rõ nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, trên cơ sở đó, tham mưu, đề xuất hoàn thiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý tập trung, thống nhất của Nhà nước trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Hai là, đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức quốc phòng, an ninh cho các tầng lớp nhân dân, tạo sự đồng thuận xã hội trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Nâng cao ý thức quốc phòng cho toàn dân, nhất là thế hệ trẻ, học sinh, sinh viên và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cho cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành là vấn đề quan trọng để phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự.

Tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt của Quân đội trong phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương, cấp ủy, chính quyền các địa phương, người đứng đầu các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai chặt chẽ, toàn diện công tác giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh cho các đối tượng được giáo dục, bồi dưỡng về kiến thức quốc phòng và an ninh. Việc tổ chức giáo dục và bồi dưỡng kiến thức quốc phòng và an ninh cần phù hợp với trình độ nhận thức của từng đối tượng và không ngừng đổi mới, đi vào chiều sâu, với nội dung, hình thức, phương pháp sáng tạo, hiệu quả. Chú trọng giáo dục, thống nhất, nâng cao nhận thức về “đối tác” và “đối tượng”, nắm vững đường lối, quan điểm, yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Coi trọng giáo dục kiến thức quốc phòng và an ninh kết hợp với giáo dục chính trị, đạo đức cách mạng cho thế hệ trẻ trong hệ thống giáo dục quốc dân. Đồng thời, tiếp tục đẩy mạnh công tác phổ biến kiến thức quốc phòng và an ninh cho toàn dân cả về bề rộng và chiều sâu, với nội dung, hình thức đa dạng, phong phú, phù hợp với nhận thức, đặc điểm địa bàn, dân cư và từng đối tượng.

Tiếp tục đổi mới cơ chế, nâng cao hiệu quả phối hợp giữa Quân đội với các ban, ngành, đoàn thể từ Trung ương đến cơ sở, lực lượng có liên quan cùng các cơ quan báo chí và truyền thông trong tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức quốc phòng, an ninh cho các tầng lớp nhân dân. Cơ quan, đơn vị quân đội cần chú trọng tổ chức các tổ, đội công tác và thông qua hoạt động kết nghĩa, giao lưu văn nghệ, thể thao, các ngày lễ, tết, sự kiện quan trọng,... để tuyên truyền, giáo dục về chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, làm cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân hiểu rõ mục tiêu, quan điểm, yêu cầu, nội dung, biện pháp và giải pháp xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự; phát huy truyền thống yêu nước, sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chung sức, đồng lòng, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới, biển, đảo của Tổ quốc, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị và địa phương.

Chiến sĩ pháo thủ trên chiến hạmhuấn luyện sẵn sàng chiến đấu _Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, thuyết phục với kiên quyết đấu tranh phản bác các luận điệu xuyên tạc, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, qua đó, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình”, chống phá của các thế lực thù địch. Bồi đắp lòng yêu nước, yêu chế độ xã hội chủ nghĩa, niềm tự hào, tự tôn dân tộc và truyền thống cách mạng, xây dựng ý chí quyết tâm bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; nâng cao kiến thức về quốc phòng, an ninh cùng kỹ năng quân sự cần thiết để mỗi công dân sẵn sàng tham gia, thực hiện tốt nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Ba là, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân; quy tụ, tập hợp và phát huy vai trò của nhân dân, để nhân dân tự nguyện, tự giác tham gia xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự, bảo vệ Tổ quốc.

Cùng với sự phát triển của đất nước, hiện nay đời sống của các tầng lớp nhân dân được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, đời sống của một bộ phận nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn, nhất là đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, một số địa bàn chiến lược. Vì vậy, cơ quan, đơn vị quân đội tiếp tục quán triệt, nắm vững các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tình hình và nhiệm vụ của địa phương; phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương tham mưu, đề xuất với cấp ủy, chính quyền các cấp chủ trương, biện pháp phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân. Đẩy mạnh các mô hình, chương trình ứng dụng khoa học, kỹ thuật và công nghệ để nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất; đào tạo nghề cho quân nhân xuất ngũ và các đối tượng khác. Tích cực tham gia các chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, các cuộc vận động, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh”, “Quân đội chung sức xây dựng nông thôn mới”, “Quân đội chung tay vì sức khỏe cộng đồng”, “Quân đội chung tay vì người nghèo - Không để ai bị bỏ lại phía sau”... Thực hiện tốt chế độ, chính sách đối với Quân đội và hậu phương Quân đội, các phong trào, hoạt động “Đền ơn đáp nghĩa”, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà đại đoàn kết, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam anh hùng, tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ; giải quyết chế độ, chính sách tồn đọng đối với đối tượng có cống hiến trong các cuộc kháng chiến bảo vệ Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế. Tuyên truyền, vận động nhân dân phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, xóa bỏ tập tục lạc hậu, thực hiện “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”,...

Các đơn vị quân đội cần làm tốt nhiệm vụ “chiến đấu” trong thời bình, chủ động, không ngại gian khổ, hy sinh, cùng nhân dân phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, hạn chế tối đa thiệt hại về người, tài sản của Nhà nước và nhân dân. Tiếp tục xây dựng, nâng cao chất lượng, hiệu quả các khu kinh tế - quốc phòng, góp phần tổ chức lại dân cư, ổn định sinh kế, cuộc sống của đồng bào. Tổ chức h­­­ướng dẫn người dân ứng dụng khoa học vào sản xuất theo kỹ thuật mới, thay đổi tập quán canh tác lạc hậu nhằm thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế - xã hội, góp phần vào sự phát triển bền vững của địa phương, xây dựng lực l­ượng tại chỗ để bảo vệ địa bàn, bảo vệ biên giới, đáp ứng nhiệm vụ tác chiến khi chiến tranh xảy ra.

Bốn là, tích cực tham gia xây dựng cơ sở, khối đại đoàn kết toàn dân tộc vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc.

Quán triệt chủ trương của Đảng, chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ về xây dựng cơ sở vững mạnh(9), cơ quan, đơn vị quân đội thực hiện tốt chức năng đội quân công tác, tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cấp cơ sở ở địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. Trên từng địa bàn đóng quân, cùng với thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nhân dân, tổ chức hiệu quả hoạt động kết nghĩa, ký kết chương trình phối hợp; chủ động cử tổ, đội công tác phối hợp với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, góp phần cụ thể hóa và thực hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản xuất và tiết kiệm, để cải thiện đời sống của bộ đội và nhân dân, để làm cho dân giàu, nước mạnh. Có như thế nhân dân mới càng thấy Chính phủ hết lòng hết sức phục vụ nhân dân, Chính phủ là Chính phủ của nhân dân. Như thế, nhân dân sẽ càng hăng hái đoàn kết và kháng chiến”(10).

Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác của cán bộ, đảng viên Bộ đội Biên phòng tăng cường cho các xã biên giới, địa bàn đặc biệt khó khăn, tham gia sinh hoạt tại các chi bộ thôn, bản biên giới theo Kết luận số 68-KL/TW, ngày 5-2-2020, của Ban Bí thư. Thực hiện tốt công tác tuyển chọn, gọi công dân nhập ngũ; tạo nguồn, phát triển đảng viên, đào tạo cán bộ quân sự xã, phường, thị trấn, bổ sung lực lượng đảng viên, cán bộ cho các địa phương. Thông qua hoạt động giao lưu, kết nghĩa, tập huấn, giúp cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động, tăng cường quản lý nhà nước về quốc phòng, an ninh, phát huy dân chủ ở cơ sở,...

Cơ quan, đơn vị tăng cường chỉ đạo làm tốt công tác nắm, đánh giá, dự báo đúng tình hình trên từng địa bàn, phối hợp chặt chẽ với lực lượng công an và các lực lượng liên quan đấu tranh phòng, chống âm mưu, thủ đoạn hoạt động “diễn biến hòa bình”, hòng phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc; phòng, chống tội phạm, xử lý kịp thời, hiệu quả tình huống quốc phòng, an ninh, không để bị động, bất ngờ, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tiếp tục quán triệt, thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc, tôn giáo; đấu tranh ngăn chặn hoạt động truyền đạo trái pháp luật, âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo, dân chủ, nhân quyền để chống phá. Tăng cường tuyên truyền, vận động và sát cánh, đồng hành cùng nhân dân vươn khơi, bám ngư trường, bám biển, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc, an ninh biên giới quốc gia...

Năm là, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang; tập trung xây dựng Quân đội nhân dân vững mạnh về chính trị; phát triển nền công nghiệp quốc phòng hiện đại, lưỡng dụng.

 Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại; đến năm 2025, cơ bản xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Đây là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị, trước hết là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, cấp ủy, tổ chức đảng, lãnh đạo, chỉ huy các cấp. Toàn quân tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng, tin tưởng tuyệt đối vào chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vào sự lãnh đạo của Đảng và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Triển khai đồng bộ giải pháp xây dựng Quân đội tinh, gọn, mạnh theo tinh thần Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 17-1-2022, của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 230-NQ/QUTW, ngày 2-4-2022, của Quân ủy Trung ương, về lãnh đạo thực hiện tổ chức Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn 2021 - 2030 và những năm tiếp theo. Tích cực đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo, huấn luyện, diễn tập, trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu, hoạt động công tác đảng, công tác chính trị, xây dựng chính quy, chấp hành kỷ luật; bảo đảm hậu cần, kỹ thuật; nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận; tập trung lãnh đạo, chỉ đạo làm tốt công tác chuẩn bị, tổ chức thành công đại hội đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu Đảng bộ Quân đội lần thứ XII và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng.

Tiếp tục quán triệt, thực hiện nghiêm các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trọng tâm là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI, XII), Kết luận Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, các quy định của Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên và về những điều đảng viên không được làm. Triển khai thực hiện hiệu quả Quy định số 144-QĐ/TW, ngày 9-5-2024, của Bộ Chính trị, về “Chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới”, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết số 847-NQ/QUTW, ngày 28-12-2021, của Quân ủy Trung ương, “Về phát huy phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”, kiên quyết chống chủ nghĩa cá nhân trong tình hình mới”. Chú trọng thực hiện đồng bộ cơ chế, chính sách về thu hút, trọng dụng nhân tài trong Quân đội; chủ động đề xuất và triển khai thực hiện chính sách đặc thù, đột phá. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ theo tinh thần “7 dám” (dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và dám hành động vì lợi ích chung); xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, thực sự là hạt nhân lãnh đạo, đoàn kết ở đơn vị; bảo đảm sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội. Phối hợp với cấp ủy, chính quyền các địa phương, các ngành tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng lực lượng dự bị động viên hùng hậu, chất lượng ngày càng cao, dân quân, tự vệ vững mạnh, rộng khắp; coi trọng lực lượng dân quân, tự vệ biển và dân quân, tự vệ ở các địa bàn trọng điểm.

Quán triệt, thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 21-6-2022, của Bộ Chính trị, “Về đẩy mạnh phát triển công nghiệp quốc phòng đến năm 2030 và những năm tiếp theo”; đẩy mạnh xây dựng nền công nghiệp quốc phòng tự chủ, tự lực, tự cường, lưỡng dụng, hiện đại, trong đó phát huy nội lực là yếu tố quyết định; gắn kết chặt chẽ và trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Phấn đấu để công nghiệp quốc phòng đủ năng lực nghiên cứu, thiết kế, chế tạo, sản xuất vũ khí, trang bị kỹ thuật có tính năng chiến thuật - kỹ thuật cao theo yêu cầu trang bị cho lực lượng vũ trang, đáp ứng nhiệm vụ xây dựng Quân đội hiện đại. Làm chủ được thiết kế, công nghệ nền, đặc biệt là công nghệ lõi, tăng tỷ lệ nội địa hóa sản phẩm; phát triển lĩnh vực mũi nhọn trên cơ sở công nghệ mới, hiện đại, tạo sức cạnh tranh quốc tế, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; từng bước chuyển giao công nghệ phù hợp cho công nghiệp dân sinh. Qua đó, góp phần xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự và hiện thực hóa các tiềm lực thành sức mạnh lực lượng vũ trang của toàn dân, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ quân sự, quốc phòng.

Sáu là, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân trong xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần và tiềm lực quân sự của nền quốc phòng toàn dân.

Với vai trò nòng cốt và chức năng, nhiệm vụ được giao, Quân đội nhân dân tiếp tục phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, lực lượng vũ trang và toàn dân trong xây dựng tiềm lực, lực lượng, thế trận quốc phòng; nâng cao tính bền vững và khả năng huy động đáp ứng yêu cầu trong tình huống quốc phòng. Theo đó, Quân đội tiếp tục phối hợp với các ban, ngành ở Trung ương và địa phương thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 28-NQ/TW, ngày 22-9-2008 và Kết luận số 64-KL/TW, ngày 30-10-2019, của Bộ Chính trị, Nghị định số 21/2019/NĐ-CP, ngày 22-02-2019, của Chính phủ, về nâng cao chất lượng xây dựng và hoạt động khu vực phòng thủ tỉnh, huyện, gắn kết chặt chẽ với thế phòng thủ của quân khu và cả nước. Tập trung xây dựng thế trận, công trình của khu vực phòng thủ; trong đó, xây dựng thế trận quân sự là hạt nhân, quyết định sự vững chắc của khu vực phòng thủ, được liên kết chặt chẽ với các thế trận khác tạo thành thế trận liên hoàn, vững chắc, để chủ động ngăn ngừa, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, hoạt động “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch. Giữ vững ổn định chính trị, môi trường hòa bình để phát triển kinh tế - xã hội; xử lý hiệu quả tình huống về quốc phòng, an ninh, giữ vững chủ quyền, an ninh biên giới; sẵn sàng đánh thắng chiến tranh xâm lược, bảo vệ địa phương, góp phần bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Các ngành, địa phương thực hiện tốt chủ trương kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và đối ngoại trong các lĩnh vực, các vùng kinh tế, các ngành, trong từng dự án, nhất là các vùng kinh tế trọng điểm, các địa bàn chiến lư­ợc, các ngành quan trọng; bảo đảm mỗi bước tăng trưởng kinh tế là mỗi bước tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh, tạo nguồn dự trữ về sức người, sức của phục vụ nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc.

Xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự là nội dung quan trọng để nâng cao sức mạnh quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đây là vấn đề lớn, hệ trọng, chiến lược, thường xuyên; là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị; trong đó, Quân đội nhân dân là nòng cốt. Phát huy truyền thống 80 năm xây dựng, chiến đấu, chiến thắng và trưởng thành, Quân đội nhân dân Việt Nam quyết tâm thực hiện chủ trương, giải pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của các cấp, ngành, các tầng lớp nhân dân, xây dựng tiềm lực chính trị, tinh thần, tiềm lực quân sự vững mạnh, góp phần xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ mới./.

Nguồn: TRỊNH VĂN QUYẾT

Thượng tướng, Bí thư Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam

CÙNG ĐỌC VÀ SUY NGẪM: LÃNH ĐẠO CẦN HIỂU SÂU, NẮM CHẮC NHIỆM VỤ CỦA MÌNH!

         Trong một hội nghị mới đây, đồng chí Chủ tịch UBND TP Hồ Chí Minh nêu vấn đề, đó là hiện nay có lãnh đạo sở và cán bộ chủ trì một số lĩnh vực của thành phố khi được hỏi về nhiệm vụ của ngành mình, cơ quan mình thì báo cáo là không nắm được, vì “đã giao cho cấp phó phụ trách”. Vấn đề này khiến dư luận quan tâm, bàn luận. Có hai lý do cơ bản để giải thích cho hiện tượng này: Thứ nhất, cán bộ có hạn chế về năng lực thực tiễn trong xử lý và giải quyết công việc ở vai trò lãnh đạo, quản lý; thứ hai, cán bộ thiếu trách nhiệm, thờ ơ, đùn đẩy, né tránh, tranh công đổ lỗi!

Cán bộ lãnh đạo cần tầm vượt thoát
Trong thực tế hiện nay, cán bộ rơi vào tình trạng như nêu ở trên đang xuất hiện ở khá nhiều ngành, nhiều cơ quan, đơn vị, lĩnh vực, thế nên một số người đã nói đùa rằng, những lãnh đạo ấy chẳng khác gì “chuyên viên nhận thêm phụ cấp lãnh đạo”. Những cán bộ lãnh đạo trưởng thành từ chuyên môn nhưng lại thiếu tư duy, trình độ quản lý, chỉ huy sẽ dẫn đến hiện tượng làm lãnh đạo nhưng vẫn với tư duy cũ, sa đà vào một số lĩnh vực mà mình giỏi, bỏ qua những lĩnh vực mà mình không giỏi và “giao phó” cho người khác, nhất là đối với những việc khó, việc phức tạp.

Thực tế là, công việc của người lãnh đạo đòi hỏi một năng lực hoàn toàn khác với người làm chuyên môn sâu, nhất là về tư duy tham mưu, chỉ đạo. Họ cần phải có tư duy bao quát, toàn diện, nhưng cũng lại phải cụ thể, tỉ mỉ, vì vậy, cán bộ lãnh đạo, cán bộ chủ trì cần phải có tầm vượt thoát khỏi tư duy của chuyên môn, như vậy mới có thể làm thay đổi mang tính đột phá ở đơn vị mình, ngành mình.

Trong hầu hết quy định phân công nhiệm vụ trong bộ máy lãnh đạo quản lý các cấp, người đứng đầu bao giờ cũng là người chịu trách nhiệm chung về lĩnh vực được giao, đồng thời sẽ đảm nhiệm trực tiếp một số nhóm nhiệm vụ, lĩnh vực cụ thể. Vì vậy, một nguyên tắc bắt buộc đối với cán bộ lãnh đạo là khi đã nhận nhiệm vụ thì phải hiểu sâu và bao quát được toàn bộ lĩnh vực mà ngành mình, đơn vị mình phụ trách.

Do vậy, cán bộ cấp trưởng, chủ trì sẽ khác với công việc của cấp phó hoặc của cán bộ chuyên môn. Bản chất công việc của lãnh đạo quản lý là điều hành trên cơ sở tạo dựng các thể chế, chính sách để huy động, phân bổ nguồn lực sao cho phù hợp. Người đứng đầu có thể không nắm một cách cụ thể, chi tiết tất cả vấn đề, nhưng nhất định phải nắm được mấu chốt, nội dung cốt lõi, cơ bản của lĩnh vực, vấn đề về hệ thống nhiệm vụ mà mình đang được giao.

Hiện nay, trong một số trường hợp, lĩnh vực, việc lựa chọn lãnh đạo quản lý tuy vẫn “đúng quy trình” nhưng kết quả thực hiện nhiệm vụ lại chưa như ý muốn. Thậm chí có người làm việc gì kết quả cũng chỉ “làng nhàng”, nhưng vì nhiều lý do, họ vẫn được cất nhắc làm lãnh đạo, do đó, họ không nắm chắc nhiệm vụ là điều dễ hiểu. Sở dĩ như vậy là vì, việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý hiện nay đôi khi còn chưa thực sự coi trọng năng lực lãnh đạo như một điều kiện cần. Trong khi đó, năng lực lãnh đạo của cán bộ lại chưa được đưa vào quy trình bổ nhiệm như một tiêu chí có tính định lượng, mà hiện nay, đánh giá tiêu chí này cơ bản mang tính định tính. Do vậy sẽ có hiện tượng “lọt lưới” hoặc là “ngồi nhầm ghế” lãnh đạo, chủ trì.

Cán bộ phải biết mình có gì và thiếu gì
Hiện tượng cán bộ chủ trì thiếu năng lực nhưng vẫn lãnh vị trí đứng đầu sẽ dẫn đến không đủ khả năng nắm bắt và làm tròn trách nhiệm trong công tác, từ đó cũng có thể xảy ra sự né tránh, đùn đẩy, đổ thừa trách nhiệm cho cấp dưới, khiến công việc trì trệ, không hiệu quả.

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan, gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ (...). Chớ nên “ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau” (...). Phải "chí công vô tư" và có tinh thần "lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ". Đó là đạo đức của người cộng sản”(*).

Thời phong kiến đã có chuyện mua quan, bán chức. Nghĩa là người mua chức bỏ ra một khoản tiền để mua chức vụ và được làm quan. Họ coi đó là cuộc “đầu tư danh lợi”, vì thế sẽ không sốt sắng chăm lo công việc mà chỉ lo vơ vét, hoàn vốn, kiếm lời và tái đầu tư ở vị trí cao hơn. Ngày nay, nếu lãnh đạo quản lý chỉ chăm lo vun vén cá nhân mà thờ ơ với công việc, thiếu trách nhiệm với vị trí, chức trách được giao thì cũng không khác gì những “ông quan mua chức” ngày xưa.

Bởi vậy, việc lựa chọn, bổ nhiệm cán bộ cần phải làm cho nghiêm, cho đúng, việc giám sát công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cũng phải được tiến hành thường xuyên, liên tục, thành thực ở tất cả các lĩnh vực. Trong thực tế, ở nhiều cơ quan, đơn vị hiện nay, việc đánh giá hiệu quả công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ chủ trì còn chung chung, xuê xoa, xuôi chiều mà chưa mang tính cá nhân hóa. Các báo cáo về công tác lãnh đạo, quản lý còn khá cứng nhắc, hình thức và mang tính tập thể cao. Quy định và thực thi trách nhiệm giải trình trước tập thể, nhân dân cũng còn hạn chế, vẫn rơi vào tình trạng “tốt đẹp phô ra, xấu xa đậy lại”. Thế nên cái yếu, cái hạn chế của một số cán bộ chủ trì chậm được khắc phục, thậm chí có cán bộ còn không biết mình có điểm yếu để tự khắc phục. 

Hệ lụy đầu tiên của hiện tượng trên là công việc trì trệ, không đáp ứng được yêu cầu phát triển, làm mất cơ hội hoặc làm giảm hiệu quả từ nguồn lực đầu tư. Hậu quả lớn hơn là làm suy giảm động lực làm việc của tập thể, làm mất niềm tin của nhân dân.

Khắc phục hiện tượng nêu trên cần tiếp tục rà soát, hoàn chỉnh cơ chế lựa chọn và bổ nhiệm cán bộ để bảo đảm luôn chọn được người đủ tâm, tầm, tài bổ nhiệm vào các vị trí lãnh đạo, quản lý. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu, bổ sung điều kiện về đo lường, đánh giá có tính định lượng năng lực lãnh đạo, phẩm chất đạo đức của cán bộ, coi đó là tiêu chí quan trọng, quyết định của quy trình bổ nhiệm.

Bên cạnh đó, cần tăng cường sự giám sát hoạt động lãnh đạo bảo đảm tính thường xuyên, liên tục qua thực hiện quy chế về trách nhiệm giải trình, qua kênh góp ý và sự hài lòng của người dân đối với hoạt động lãnh đạo, quản lý. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất là người cán bộ lãnh đạo phải biết kiểm soát mình, phải biết mình mạnh gì, yếu gì để tự học tập, bồi dưỡng, không ngừng tự nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành, xứng tầm với công việc, nhiệm vụ mà tổ chức tin tưởng giao phó./.
---------------------
(*) Hồ Chí Minh toàn tập, tập 13, NXB Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.87
Yêu nước ST.