Thứ Tư, 13 tháng 11, 2024

 

Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật

Tình trạng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để viết, gửi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật đã và đang gây ra nhiều hệ lụy. Mục đích của việc làm này không phải nhằm góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, tổ chức tốt đẹp hơn mà để bôi nhọ, hạ thấp uy tín lãnh đạo, gây mất đoàn kết nội bộ, gây rối tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Hệ lụy của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật rất nặng nề, làm xáo trộn tư tưởng, gây dư luận xấu trong xã hội, tiến tới bôi nhọ, phá hoại Đảng, chống đối chính quyền...

Thực chất của đơn thư nặc danh khi tố cáo

Điều 22 Luật Tố cáo quy định: Việc tố cáo sẽ được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tại khoản 1, Điều 23 Luật Tố cáo cũng nêu rõ nguyên tắc tố cáo bằng đơn thư như sau: Trường hợp tố cáo mà được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo sẽ phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức để liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp có nhiều người cùng thực hiện tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo.

Khái niệm đơn thư nặc danh là để dùng chung cho các loại đơn thư không xác định được người tố cáo. Mục đích thường là để tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật hoặc một vấn đề nào đó mà người gửi muốn “đưa ra ánh sáng”, nhưng lại không muốn công khai danh tính của mình. Đơn thư nặc danh, mạo danh gồm: Đơn thư không có tên người tố cáo hoặc có tên nhưng đó là tên giả, không có thật, chỉ mang tên người khác và mạo danh; hoặc đơn thư có tên nhưng không có địa chỉ cụ thể hoặc địa chỉ không rõ ràng, chính xác.

Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật
Ảnh minh họa: thanhnien.vn

Nguyên nhân chủ yếu của người viết đơn thư nặc danh: Người tố cáo lo sợ việc mình tố cáo có thể bị trả thù, trù dập nên mặc dù rất muốn thông tin cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi mà họ cho là vi phạm pháp luật để cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn và xử lý nhưng họ buộc phải giấu tên. Người gửi đơn thư nặc danh, tố cáo có thể muốn bảo vệ người khác mà không muốn người đó bị liên lụy. Nhưng đặc biệt nguy hiểm là trường hợp người tố cáo với dụng ý không tốt, muốn đưa tin thất thiệt hay thậm chí bịa ra những bằng chứng giả mạo để vu cáo, vu khống người khác, có thể do thù hận cá nhân mà triệt hạ người khác, cũng có thể vì mục đích tư lợi-những hành vi này được xác định là tố cáo sai sự thật.

Đối với đảng viên, được quy định rõ trong Điều 6 Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm: “Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt; cùng người khác viết, ký tên trong đơn tố cáo; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên”.

Những hậu quả khôn lường

Thực tế cho thấy, tình trạng lợi dụng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật khá phổ biến, nhằm vu khống, hãm hại người khác và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân; gây mất đoàn kết nội bộ, mất ổn định trong các tổ chức, cơ quan; gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong giải quyết công việc. Ngoài ra, tình trạng này còn gây phức tạp trong xã hội và ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nghiêm trọng hơn, khi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật nhằm vào cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị làm hạ thấp uy tín, mất niềm tin.

Các hình thức khiếu nại, tố cáo không chỉ đơn thuần là gửi đơn thư nặc danh mà còn lợi dụng nhiều chiêu trò kết hợp như cắt ghép hình ảnh, dàn dựng video clip, ghi âm giọng nói giả... Nếu không kiên quyết, kịp thời, xử lý nghiêm minh tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật thì tình hình chính trị, tư tưởng, mất đoàn kết nội bộ sẽ ngày càng nghiêm trọng, kéo dài, gây nên những hậu quả khó lường. Rõ ràng, viết đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật, hạ uy tín lãnh đạo, tổ chức là hành vi gây rối, nhằm phá hoại Đảng, Nhà nước và nhân dân, phá hoại tổ chức, cần kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh, thích đáng.

Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật

Hệ thống pháp luật của Việt Nam có chế tài xử lý hành vi vu khống, đơn thư mạo danh, nặc danh, tố cáo sai sự thật đã đủ sức răn đe đối với các công dân có hành vi này. Tuy nhiên, một số cơ quan, địa phương, đơn vị trong thời gian qua còn lúng túng, chậm xử lý đơn thư nặc danh, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân. Vì vậy, để kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật hiện nay cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, nghiêm minh.

Các cơ quan, tổ chức cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan; đặc biệt là quy định về tố cáo trong Đảng, Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Bằng nhiều kênh, hình thức thông tin khác nhau để tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền khiếu nại, tố cáo, trình tự thực hiện quyền này trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Từ đó thúc đẩy cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, viết đơn thư nặc danh, mạo danh.

Song song với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có biểu hiện hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật, kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài trợ, kích động hoạt động khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp.

Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, khiếu kiện phức tạp về an ninh trật tự ngay tại cơ sở, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Cấp ủy các cấp cần tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên; phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong tham gia ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng viết đơn thư nặc danh, mạo danh, khiếu nại, tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân; phát huy vai trò của các đoàn thể, chính quyền trong gắn bó với quần chúng nhân dân, đi sâu, đi sát với nhân dân, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc của người dân.

Đối với cá nhân, cán bộ, đảng viên, cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tác hại của hành vi gửi đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật, vu khống; không tùy tiện tin vào những thông tin từ đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật. Tìm hiểu kỹ thông tin trước khi đưa ra nhận xét, đánh giá.

Nếu bị vu khống, cần tích cực thu thập bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của bản thân; báo cáo sự việc ra cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để xử lý, giải quyết. Tuyệt đối chấp hành và thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh, phê phán những hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật; bảo vệ danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị.

 

Các đại biểu bày tỏ tán thành sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam

Tiếp tục chương trình Phiên họp thứ 39, sáng 14-11 tại Nhà Quốc hội, dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân (QĐND) Việt Nam. Phó chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành nội dung phiên họp.

Báo cáo một số nội dung lớn tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội Lê Tấn Tới cho biết, ngày 28-10 và ngày 5-11-2024, các đại biểu Quốc hội đã thảo luận tại tổ và hội trường về dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam với 93 lượt ý kiến (trong đó có 75 ý kiến phát biểu tại tổ và 12 ý kiến phát biểu tại Hội trường, 4 ý kiến tranh luận, 2 đại biểu Quốc hội gửi ý kiến bằng văn bản).

Các đại biểu bày tỏ tán thành sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam
 Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn chủ trì, Phó chủ tịch Quốc hội Trần Quang Phương điều hành nội dung phiên họp. Ảnh: PHẠM THẮNG

Trên cơ sở ý kiến của các đại biểu Quốc hội, thực hiện chỉ đạo của Chủ tịch Quốc hội về việc đổi mới tư duy trong xây dựng pháp luật và việc tiếp tục quán triệt thực hiện đồng bộ các giải pháp đổi mới trong quá trình tiếp thu, chỉnh lý dự thảo luật, nghị quyết tại Kỳ họp thứ tám, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội đã chủ trì, phối hợp với Ban soạn thảo dự án Luật và các cơ quan hữu quan tổ chức nghiên cứu, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Luật; đồng thời phối hợp với Thường trực Ủy ban Pháp luật của Quốc hội rà soát kỹ lưỡng nội dung và kỹ thuật lập pháp của dự thảo Luật.

Theo đó, Thường trực Ủy ban Quốc phòng và An ninh của Quốc hội đã thống nhất với Cơ quan soạn thảo một số nội dung lớn tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật liên quan đến khoản 13 Điều 1 (Bổ sung khoản 5 vào sau khoản 4 Điều 47 - Trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp); việc sửa đổi quy định tại Điều 25 Luật Công an nhân dân trong Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam và hiệu lực thi hành.

Thảo luận tại phiên họp, các đại biểu bày tỏ tán thành sự cần thiết ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sĩ quan QĐND Việt Nam, việc ban hành luật nhằm thể chế hóa đầy đủ chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước về xây dựng đội ngũ sĩ quan QĐND Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu đến năm 2025 cơ bản xây dựng QĐND Việt Nam tinh, gọn, mạnh; tạo tiền đề vững chắc phấn đấu năm 2030 xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; thu hút, trọng dụng nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ QĐND Việt Nam. Bên cạnh đó, các đại biểu cũng góp ý, hoàn thiện dự thảo luật trước khi trình Quốc hội xem xét, thông qua tại Đợt 2, Kỳ họp thứ tám, Quốc hội khóa XV.

 

Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật

Tình trạng lợi dụng dân chủ, nhân quyền để viết, gửi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật đã và đang gây ra nhiều hệ lụy. Mục đích của việc làm này không phải nhằm góp phần xây dựng Đảng, Nhà nước, tổ chức tốt đẹp hơn mà để bôi nhọ, hạ thấp uy tín lãnh đạo, gây mất đoàn kết nội bộ, gây rối tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Hệ lụy của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật rất nặng nề, làm xáo trộn tư tưởng, gây dư luận xấu trong xã hội, tiến tới bôi nhọ, phá hoại Đảng, chống đối chính quyền...

Thực chất của đơn thư nặc danh khi tố cáo

Điều 22 Luật Tố cáo quy định: Việc tố cáo sẽ được thực hiện bằng đơn hoặc được trình bày trực tiếp tại cơ quan, tổ chức có thẩm quyền. Tại khoản 1, Điều 23 Luật Tố cáo cũng nêu rõ nguyên tắc tố cáo bằng đơn thư như sau: Trường hợp tố cáo mà được thực hiện bằng đơn thì trong đơn tố cáo sẽ phải ghi rõ ngày, tháng, năm tố cáo; họ tên, địa chỉ của người tố cáo, cách thức để liên hệ với người tố cáo; hành vi vi phạm pháp luật của người bị tố cáo; người bị tố cáo và các thông tin khác có liên quan. Trường hợp có nhiều người cùng thực hiện tố cáo về cùng một nội dung thì trong đơn tố cáo còn phải ghi rõ họ tên, địa chỉ, cách thức liên hệ với từng người tố cáo; họ tên của người đại diện cho những người tố cáo.

Khái niệm đơn thư nặc danh là để dùng chung cho các loại đơn thư không xác định được người tố cáo. Mục đích thường là để tố cáo một hành vi vi phạm pháp luật hoặc một vấn đề nào đó mà người gửi muốn “đưa ra ánh sáng”, nhưng lại không muốn công khai danh tính của mình. Đơn thư nặc danh, mạo danh gồm: Đơn thư không có tên người tố cáo hoặc có tên nhưng đó là tên giả, không có thật, chỉ mang tên người khác và mạo danh; hoặc đơn thư có tên nhưng không có địa chỉ cụ thể hoặc địa chỉ không rõ ràng, chính xác.

Xử lý nghiêm hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật
Ảnh minh họa: thanhnien.vn

Nguyên nhân chủ yếu của người viết đơn thư nặc danh: Người tố cáo lo sợ việc mình tố cáo có thể bị trả thù, trù dập nên mặc dù rất muốn thông tin cho cơ quan có thẩm quyền về hành vi mà họ cho là vi phạm pháp luật để cơ quan có thẩm quyền ngăn chặn và xử lý nhưng họ buộc phải giấu tên. Người gửi đơn thư nặc danh, tố cáo có thể muốn bảo vệ người khác mà không muốn người đó bị liên lụy. Nhưng đặc biệt nguy hiểm là trường hợp người tố cáo với dụng ý không tốt, muốn đưa tin thất thiệt hay thậm chí bịa ra những bằng chứng giả mạo để vu cáo, vu khống người khác, có thể do thù hận cá nhân mà triệt hạ người khác, cũng có thể vì mục đích tư lợi-những hành vi này được xác định là tố cáo sai sự thật.

Đối với đảng viên, được quy định rõ trong Điều 6 Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm: “Tố cáo có nội dung mang tính bịa đặt; cùng người khác viết, ký tên trong đơn tố cáo; viết đơn tố cáo giấu tên, mạo tên”.

Những hậu quả khôn lường

Thực tế cho thấy, tình trạng lợi dụng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật khá phổ biến, nhằm vu khống, hãm hại người khác và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả của đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật làm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm của cá nhân; gây mất đoàn kết nội bộ, mất ổn định trong các tổ chức, cơ quan; gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong giải quyết công việc. Ngoài ra, tình trạng này còn gây phức tạp trong xã hội và ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Nghiêm trọng hơn, khi đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật nhằm vào cán bộ chủ chốt, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, đơn vị làm hạ thấp uy tín, mất niềm tin.

Các hình thức khiếu nại, tố cáo không chỉ đơn thuần là gửi đơn thư nặc danh mà còn lợi dụng nhiều chiêu trò kết hợp như cắt ghép hình ảnh, dàn dựng video clip, ghi âm giọng nói giả... Nếu không kiên quyết, kịp thời, xử lý nghiêm minh tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật thì tình hình chính trị, tư tưởng, mất đoàn kết nội bộ sẽ ngày càng nghiêm trọng, kéo dài, gây nên những hậu quả khó lường. Rõ ràng, viết đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật, hạ uy tín lãnh đạo, tổ chức là hành vi gây rối, nhằm phá hoại Đảng, Nhà nước và nhân dân, phá hoại tổ chức, cần kiên quyết đấu tranh, xử lý nghiêm minh, thích đáng.

Kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật

Hệ thống pháp luật của Việt Nam có chế tài xử lý hành vi vu khống, đơn thư mạo danh, nặc danh, tố cáo sai sự thật đã đủ sức răn đe đối với các công dân có hành vi này. Tuy nhiên, một số cơ quan, địa phương, đơn vị trong thời gian qua còn lúng túng, chậm xử lý đơn thư nặc danh, ảnh hưởng đến hiệu quả thực hiện nhiệm vụ của tổ chức và cá nhân. Vì vậy, để kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng đơn thư nặc danh, mạo danh, tố cáo sai sự thật hiện nay cần thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, nghiêm minh.

Các cơ quan, tổ chức cần tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nhằm nâng cao nhận thức đầy đủ, sâu sắc cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về Luật Tố cáo; Luật Khiếu nại; Luật Phòng, chống tham nhũng; Luật Cán bộ, công chức và pháp luật có liên quan; đặc biệt là quy định về tố cáo trong Đảng, Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về những điều đảng viên không được làm, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Bằng nhiều kênh, hình thức thông tin khác nhau để tăng cường tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân về quyền khiếu nại, tố cáo, trình tự thực hiện quyền này trên cơ sở thượng tôn pháp luật. Từ đó thúc đẩy cán bộ, đảng viên và nhân dân tự giác tham gia phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, viết đơn thư nặc danh, mạo danh.

Song song với đó, cấp ủy, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra các cấp cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên có biểu hiện hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; chủ động phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn hoạt động lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo vi phạm pháp luật, kích động, lôi kéo người dân tham gia các hoạt động xâm phạm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội hoặc tài trợ, kích động hoạt động khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp.

Kịp thời giải quyết các mâu thuẫn, xung đột, khiếu kiện phức tạp về an ninh trật tự ngay tại cơ sở, không để lây lan, kéo dài, vượt cấp. Cấp ủy các cấp cần tăng cường quản lý cán bộ, đảng viên; phát huy mạnh mẽ vai trò của các tổ chức, các lực lượng trong tham gia ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng viết đơn thư nặc danh, mạo danh, khiếu nại, tố cáo sai sự thật của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Không ngừng chăm lo, xây dựng, củng cố khối đoàn kết toàn dân; phát huy vai trò của các đoàn thể, chính quyền trong gắn bó với quần chúng nhân dân, đi sâu, đi sát với nhân dân, kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân; giải quyết hiệu quả những khó khăn, vướng mắc của người dân.

Đối với cá nhân, cán bộ, đảng viên, cần tiếp tục tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về tác hại của hành vi gửi đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật, vu khống; không tùy tiện tin vào những thông tin từ đơn thư nặc danh, tố cáo sai sự thật. Tìm hiểu kỹ thông tin trước khi đưa ra nhận xét, đánh giá.

Nếu bị vu khống, cần tích cực thu thập bằng chứng để bảo vệ quyền lợi của bản thân; báo cáo sự việc ra cơ quan, tổ chức có thẩm quyền để xử lý, giải quyết. Tuyệt đối chấp hành và thực hiện nghiêm các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong đấu tranh, phê phán những hành vi lợi dụng đơn thư nặc danh để tố cáo sai sự thật; bảo vệ danh dự, uy tín của cá nhân, tổ chức, cơ quan, đơn vị.

 

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 2: Những điều căn cốt, thời sự

Như đã luận giải ở bài viết trước, trong các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô thì xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan quyết định. Sự sụp đổ đó là của mô hình cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải sự sụp đổ hay cáo chung của chủ nghĩa xã hội (CNXH) như thế lực thù địch, phản động thường xuyên tạc. Nhận diện đầy đủ và đúng bản chất vấn đề này là những điều có ý nghĩa căn cốt và thời sự với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Việt Nam hiện nay.

Trong bài viết với tiêu đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 1992, GS, TS Nguyễn Phú Trọng (từ năm 2011 đến tháng 7-2024 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chỉ ra nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô là quá trình “vận động” của chính đảng này. Về sau, Đảng ta khái quát quá trình “vận động” này và gọi đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được thể hiện trên nhiều bình diện.

Theo GS, TS Nguyễn Phú Trọng, có 5 biểu hiện của sự “vận động” đó. Một là, không xác lập đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai là, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Ba là, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản. Bốn là, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Năm là, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Từ thực tiễn và lý luận cơ bản được Đảng ta tổng kết trong nhiều văn kiện, chúng ta có thể rút ra những bài học lớn với Việt Nam từ quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn tới hậu quả tan rã Liên bang Xô viết-cường quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới, như sau:

Thứ nhất, Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”. Từ khẳng định này, Đảng ta kiên định và quyết tâm đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Với quyết tâm chính trị đó, Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới đất nước. Tiếp đến, Đại hội lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lập trường kiên định của Đảng ta về mục tiêu và định hướng phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ VI trên cơ sở kế thừa sáng tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin với nội dung cốt lõi là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành công của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng chứng tỏ giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển đi lên CNXH.

Thứ hai, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Ở Liên Xô, trong giai đoạn “cải tổ” đã đồng nhất việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Còn Đảng ta vận dụng chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin để phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng nguồn lực và phát triển sức sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta cho rằng, việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ba là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam đã được xác định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.

Bốn là, kiên quyết và kiên trì đấu tranh nhằm ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kết hợp với việc cảnh giác và làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Rút kinh nghiệm từ tác động phá hoại hết sức nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Đảng ta đặc biệt chú ý đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã sớm cảnh báo hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời. Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục cảnh báo tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, là hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã bước đầu ngăn chặn được hiểm họa này.

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 2: Những điều căn cốt, thời sự
Lễ mít-tinh kỷ niệm 106 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva (Ngày 7-11-2023). Ảnh: nhandan.vn

Tổng kết thành tựu và kinh nghiệm 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 30-10-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nghị quyết đã chỉ rõ nguyên nhân, biểu hiện và biện pháp phòng, chống hiểm họa này. 

Trong số các nguyên nhân, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ nguyên nhân khách quan do tác động từ khủng hoảng của CNXH trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường XHCN trong bối cảnh quốc tế hiện nay; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình".

Trong số các nguyên nhân chủ quan, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả; một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Nghị quyết số 04-NQ/TW đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết xác định phải thực hiện nghiêm các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XII với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng.

Đến nay, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cùng những mục tiêu lớn lao vào thời điểm trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045), xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Với thành tựu trong công cuộc đổi mới và từng bước đạt được các mục tiêu cao cả, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Mười là mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo.

 

Cảnh giác trước âm mưu hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ gốc rễ

An ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cốt lõi của an ninh chính trị, an ninh quốc gia. Trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc tăng cường bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay.

Âm mưu chống phá về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là tổng thể các biện pháp của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị tiến hành, nhằm phát hiện, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh tư tưởng chính trị, bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị, đấu tranh với các thông tin tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, các trào lưu tư tưởng phản động nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; bảo vệ sự đồng thuận, nhất trí về chính trị trong nhân dân.

Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch ra sức chống phá Việt Nam, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị bằng nhiều hình thức, thủ đoạn. Các đối tượng chống phá cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin “đã lỗi thời, chỉ phù hợp với thế kỷ 19”, “đó là sản phẩm ngoại nhập của phương Tây, không thích hợp với điều kiện kinh tế-xã hội ở Việt Nam”. Đặc biệt, các thế lực phản động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luận điệu: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”; họ lấy quan điểm dân chủ, nhân quyền tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân lập; nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân, rồi vu cáo Đảng ta là “độc tài, độc đoán, mất dân chủ”, không thể lãnh đạo đất nước.

Nguy hại là lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các trào lưu tư tưởng tư sản đang thâm nhập vào nước ta thông qua nhiều con đường. Các “giá trị” văn hóa, lối sống tư sản cũng có điều kiện thâm nhập, thẩm thấu, phát triển, làm phai nhạt, mất dần bản sắc văn hóa dân tộc. Các khuynh hướng này cùng với sự tác động hằng ngày của các hình thức, các sản phẩm văn hóa nước ngoài khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân mất phương hướng; các chuẩn mực giá trị có nguy cơ xuống cấp, dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những biến động về chính trị, kinh tế ở các nước luôn tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của Việt Nam, trước hết là lĩnh vực tư tưởng chính trị. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội kéo theo sự khủng hoảng về lý luận, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Biến động chính trị ở các nước trên thế giới vô tình cổ xúy và cung cấp kinh nghiệm cho những phần tử phản động, cơ hội chính trị tiến hành các hoạt động phá hoại nước ta trên các lĩnh vực, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị. Ngoài ra, những mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng chính trị. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hòng gây chia rẽ Đảng với nhân dân, hạ thấp uy tín của Đảng, thậm chí vu khống, bịa đặt, bôi nhọ bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước, gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội.

Cảnh giác trước âm mưu hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ gốc rễ
Ảnh minh họa/cand.vn 

Phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, nhằm giữ vững sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN ở Việt Nam; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng, lý luận, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời khắc phục những tư tưởng, lý luận lạc hậu, chệch hướng trong xã hội; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm, nhất là phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Để tạo nền tảng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị từ gốc rễ, cần làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống; khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đề cao các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh của con người Việt Nam. Tăng cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Đẩy mạnh học tập, thực hiện các nghị quyết của Đảng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ trách nhiệm phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng, nhận thức sai trái, lệch lạc, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị. Tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành; bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Vấn đề mấu chốt là phát huy vai trò tự tu dưỡng, tự học tập, rèn luyện của cán bộ, đảng viên để nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng. Đây là giải pháp căn cơ nhằm phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên, biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng; là con đường tự thân nhằm nâng cao sức đề kháng thông qua khả năng tự nhận biết, tự phân loại, sàng lọc và định hướng thông tin để bảo vệ mình, bảo vệ tổ chức trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự học tập, tự rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, luôn kiên định, vững vàng trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch với những âm mưu, thủ đoạn đa dạng, tinh vi, xảo quyệt; không để kẻ thù lợi dụng mua chuộc, lôi kéo, chống phá.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, chú trọng giải pháp lãnh đạo, quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, nhất là trong việc định hướng chính trị-tư tưởng, phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Củng cố, kiện toàn tổ chức, cán bộ các cơ quan tư tưởng, văn hóa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm nòng cốt trong tuyên truyền, định hướng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng. Phát huy tốt hơn nữa vai trò của truyền thông, báo chí trong định hướng tư tưởng chính trị, định hướng các giá trị, lối sống phù hợp với bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời phải tích cực, chủ động “nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội” như văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Các cơ quan chức năng cần phát huy vai trò nòng cốt trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, đề ra các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. Phối hợp tổ chức tốt cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng-lý luận, chủ động phát hiện các vấn đề phức tạp nảy sinh trong đời sống xã hội ảnh hưởng đến an ninh tư tưởng chính trị để có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu sót, ngăn chặn các nguy cơ tiềm ẩn xâm phạm an ninh trong lĩnh vực tư tưởng chính trị. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng; chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hóa thâm nhập, phá hoại, tác động, chuyển hóa từ bên trong, tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, an ninh về tư tưởng chính trị.

Trước những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị càng trở nên quan trọng. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp và của toàn xã hội, cần được tổ chức, phối kết hợp thống nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong bảo vệ vững chắc an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam.

 

Hậu quả khi tin kẻ lưu vong

Thấy mặt ông Tư, Bí thư Chi bộ Tổ dân phố Phú Diễn có vẻ buồn, tranh thủ trước giờ họp dân, Bí thư Chi đoàn Minh và bà Lan, Chi hội trưởng phụ nữ đến hỏi chuyện ông.

- Sao hôm nay thấy chú Tư tâm trạng vậy? Có chuyện gì không vui à chú?

- Ừ, chú định tí nữa họp dân sẽ thông báo cho bà con. Chuyện vừa xảy ra, liên quan đến một thanh niên trong phường ta. Chú mong mọi người hiểu để tránh xa những cạm bẫy tương tự.

- Là chuyện gì vậy chú Tư?

Hậu quả khi tin kẻ lưu vong

Cơ quan An ninh điều tra - Công an TP Hồ Chí Minh lấy lời khai đối tượng Trần Khắc Đức. Ảnh: TTXVN 

- Chuyện của Trần Khắc Đức ở phường ta đấy cháu. Đức trẻ tuổi, học hành giỏi giang, nhưng lại mù quáng, bị tổ chức phản động lưu vong “Tập hợp dân chủ đa nguyên” lôi kéo. Cậu ấy cứ tưởng mình đang làm việc “đúng đắn”, “cao cả”, nhưng không hiểu rằng mình bị lợi dụng phá hoại quê hương, đất nước.

- Sao lại có chuyện thế được? Thanh niên đó bị lôi kéo thế nào, ông Tư?-bà Lan lo lắng hỏi.

- Mấy tháng trước, cậu ấy tiếp xúc với những thông tin, tài liệu xuyên tạc trên mạng. Bị mấy kẻ phản động lưu vong lôi kéo, tiêm nhiễm vào đầu tư tưởng đấu tranh cho tự do, dân chủ. Thậm chí, tổ chức đó còn giao cho Đức quản trị trang mạng chuyên đăng tải bài viết xuyên tạc lịch sử, xúc phạm lãnh tụ, gây chia rẽ đoàn kết trong nhân dân. Nguy hiểm hơn, cậu ta còn tìm kiếm, móc nối, lây lan cách nghĩ xấu này cho những người khác...

- Sao cậu ấy không nhận ra đó là những lời giả dối? Chỉ cần suy xét là thấy rõ mà! Minh bày tỏ quan điểm.

- Cháu nói đúng! Nhưng Đức bị cuốn vào những lời hứa mơ hồ của kẻ phản động; mù quáng cho rằng mình đang “giác ngộ” điều gì đó cao cả mà không biết rằng “Tập hợp dân chủ đa nguyên” kia chỉ là tổ chức phản động lưu vong, chuyên lôi kéo những người nhẹ dạ để lợi dụng họ.

- Đúng là tai họa. Lẽ ra phải cẩn trọng khi tiếp cận thông tin trên mạng. Vậy giờ cậu ấy sao rồi? Bà Lan buông tiếng thở dài, hỏi ông Tư.

- Cậu ấy đã bị tạm giữ và sẽ phải chịu trách nhiệm trước pháp luật. Đó là một cái giá rất đắt, nhưng tôi hy vọng rằng đây sẽ là bài học để cậu ấy tỉnh ngộ. Và cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả chúng ta. Đừng để lòng yêu nước bị lợi dụng, đừng để tương lai phải đánh đổi vì những hành vi mù quáng.

- Vậy lát nữa họp tổ dân phố, chú cần thông báo cho bà con nhé. Cháu và cô Lan sẽ nói thêm để mọi người cùng hiểu, tránh xa cạm bẫy của mấy kẻ lưu vong chú ạ, Minh đề xuất.

- Đúng rồi, để không ai đi vào vết xe đổ của Đức nữa, nhất là thế hệ thanh niên. Thời đại công nghệ hiện đại, internet và mạng xã hội có rất nhiều thông tin bổ ích, nhưng cũng đầy rẫy những cạm bẫy. Những tổ chức phản động lưu vong luôn rình rập, tìm mọi cách lôi kéo những người trẻ, những ai thiếu cảnh giác đấy...

Nói rồi cả ba người cùng bước vào hội trường với bà con