Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

Đóng góp của phụ nữ Việt Nam qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới

Trải qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, phụ nữ Việt Nam đã phát huy truyền thống tốt đẹp, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, đóng góp to lớn vào sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, từ đó khẳng định vai trò, vị trí ngày càng quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đóng góp bền bỉ, to lớn của các thế hệ phụ nữ ngày càng tô thắm thêm truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam và tiếp tục khẳng định lời khen tặng của Bác Hồ kính yêu: “Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt đẹp, rực rỡ”.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị trực tuyến Thủ tướng Chính phủ đối thoại với phụ nữ Việt Nam với chủ đề: “Thúc đẩy bình đẳng giới và phát huy vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội”. (Ảnh: TTXVN)

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính dự Hội nghị trực tuyến Thủ tướng Chính phủ đối thoại với phụ nữ Việt Nam với chủ đề: “Thúc đẩy bình đẳng giới và phát huy vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh tế - xã hội”. (Ảnh: TTXVN)

PHỤ NỮ VIỆT NAM KHÔNG NGỪNG NỖ LỰC, ĐÓNG GÓP TOÀN DIỆN VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC

Chiếm hơn 50% dân số và 46,8% lực lượng lao động xã hội, phụ nữ Việt Nam có mặt và chủ động tham gia trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội, ở mọi vùng, miền của Tổ quốc. Các tầng lớp phụ nữ đã phát huy truyền thống đoàn kết, sáng tạo trong học tập, lao động và công tác; đạt nhiều thành tích xuất sắc trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại...

Trong lĩnh vực chính trị, phụ nữ ngày càng tích cực, chủ động thực hiện quyền công dân, nghĩa vụ đối với đất nước; đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nữ ngày càng được tăng cường và nâng cao về chất lượng. Tỷ lệ đại biểu Quốc hội nữ đã tăng từ 18% (giai đoạn 1986 - 1991) lên 30,26% (giai đoạn 2021 - 2025), vượt chỉ tiêu đặt ra và cao hơn mức trung bình của thế giới. Ở cấp địa phương, tỷ lệ nữ đại biểu hội đồng nhân dân cấp tỉnh là 29%, cấp huyện là 29,2% và cấp xã là 28,98%. Tỷ lệ nữ lãnh đạo chủ chốt tại ủy ban nhân dân các cấp cũng tăng: từ 32,14% lên 37,7% ở cấp tỉnh và từ 21,95% lên 24,94% ở cấp xã so với nhiệm kỳ trước. Đặc biệt, tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo quan trọng trong các bộ, ngành và cơ quan thuộc Chính phủ đạt 46,67% vào năm 2023. Theo đánh giá của Diễn đàn Kinh tế thế giới, Việt Nam đứng thứ 96 trong 146 quốc gia trên thế giới tham gia xếp hạng về bình đẳng giới trong tham chính.

Phụ nữ Việt Nam có nhiều đóng góp quan trọng trong việc tham gia xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Phụ nữ tham gia đóng góp ý kiến vào văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, tham gia các cuộc tham vấn chính sách, hăng hái tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội và hội đồng nhân dân các cấp. Sự tham gia này không chỉ nâng cao vai trò của phụ nữ trong hệ thống chính trị, mà còn góp phần xây dựng, hoàn thiện pháp luật và chính sách, đặc biệt là chính sách liên quan đến phụ nữ và trẻ em. Phụ nữ cũng chủ động đề xuất và thực hiện nhiều chính sách quan trọng, như xóa đói, giảm nghèo, chăm sóc y tế và giáo dục ở vùng sâu, vùng xa; đồng thời, thúc đẩy chương trình khởi nghiệp và sáng tạo, khẳng định vai trò quan trọng trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và đất nước.

Trong lĩnh vực kinh tế, Việt Nam là một trong số ít quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất thế giới, khi chiếm hơn 46,7% tổng số lao động từ 15 tuổi trở lên của cả nước. Trong nhiều ngành, như nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ, tỷ lệ này còn cao hơn.

Trong gần 40 năm qua, lao động nữ có mặt ở nhiều lĩnh vực, từ nông nghiệp, công nghiệp đến dịch vụ và đang mở rộng sang các lĩnh vực mới, như công nghệ thông tin và tài chính. Họ tham gia tích cực vào nền kinh tế quốc gia, đặc biệt là trong giai đoạn hội nhập và phát triển. Trong đó, điển hình là đóng góp quan trọng của phụ nữ vào phong trào “Quốc gia khởi nghiệp” và phát triển bền vững với tỷ lệ sở hữu doanh nghiệp lên tới 26,5% tổng số doanh nghiệp Việt Nam. Tỷ lệ này là tương đối cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới, như Thụy Điển (20%), Indonesia (21%), Pháp (24%),...

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, hiện nay phụ nữ đang sở hữu và điều hành khoảng 20% doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam. Đặc biệt, trong giai đoạn 2010 - 2020, số lượng doanh nghiệp do phụ nữ làm chủ đã tăng gần gấp đôi, từ 21% lên 40%. Tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí quản lý, lãnh đạo tại doanh nghiệp đã tăng lên đáng kể, nhất là những năm gần đây. Năm 2010, tỷ lệ này chỉ chiếm 20%, đến năm 2023 đã tăng lên 28%. Việt Nam đạt được tỷ lệ khá cao so với nhiều quốc gia khác về nữ giới giữ vị trí lãnh đạo cấp cao tại doanh nghiệp, hiện nay là 33%. Trong doanh nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao, phụ nữ chiếm 15% vị trí lãnh đạo, một con số khá ấn tượng so với tỷ lệ trung bình toàn cầu là 9%. Điều này không chỉ khẳng định vai trò của phụ nữ trong phát triển kinh doanh, mà còn cho thấy tiềm năng lớn của họ trong việc thúc đẩy kinh tế quốc gia. Hiện nay, Việt Nam xếp thứ 6 toàn cầu về tỷ lệ nữ doanh nhân và là đại diện châu Á duy nhất trong tốp 10 quốc gia có tỷ lệ doanh nghiệp do phụ nữ lãnh đạo cao nhất. Nhiều phụ nữ đã khởi nghiệp thành công, xây dựng thương hiệu và đưa sản phẩm ra thị trường quốc tế, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên bản đồ kinh doanh toàn cầu.

Các mô hình kinh doanh do phụ nữ lãnh đạo đã tạo việc làm cho hàng triệu người, đóng góp đáng kể vào GDP và quá trình chuyển đổi số, phát triển kinh tế bền vững của đất nước. Theo báo cáo của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam năm 2023, nhiều hoạt động thúc đẩy phụ nữ khởi nghiệp do Hội khởi xướng đã giúp hơn 200.000 phụ nữ có cơ hội kinh doanh, cải thiện thu nhập và điều kiện sống của gia đình, thành lập gần 12.000 mô hình kinh tế tập thể và gần 800 hợp tác xã, huy động gần 164 nghìn tỷ đồng cho 73 nghìn phụ nữ khởi sự kinh doanh.

Phụ nữ là lực lượng chính trong các ngành xuất khẩu chủ lực, như dệt may, thủy sản. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2022, ngành dệt may với phụ nữ chiếm hơn 75% lao động đã mang về hơn 40 tỷ USD giá trị xuất khẩu. Trong ngành công nghiệp chế biến, dệt may, da giày, điện tử, phụ nữ không ngừng nâng cao kỹ năng, thích ứng với công nghệ mới, góp phần vào tăng trưởng xuất khẩu và nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam trên thị trường thế giới.

Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội, thể thao và du lịch, phụ nữ đóng vai trò then chốt trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, giữ gìn phong tục, ẩm thực, nghệ thuật dân gian và giáo dục thế hệ trẻ về bản sắc dân tộc. Họ cũng tích cực phát triển du lịch cộng đồng, đặc biệt là gắn với di sản văn hóa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) công nhận, góp phần đưa Việt Nam trở thành điểm đến văn hóa, di sản hàng đầu châu Á và thế giới. Phong trào văn hóa, thể thao thu hút đông đảo phụ nữ tham gia, như phong trào dân vũ, phong trào thi đua “Xây dựng người phụ nữ Việt Nam thời đại mới”, “Áo dài - Di sản văn hóa Việt Nam” góp phần làm phong phú đời sống tinh thần và nâng cao sức khỏe thể chất. Các vận động viên nữ Việt Nam đạt nhiều thành tích cao ở cả cấp quốc gia và quốc tế, như Đội tuyển bóng đá nữ quốc gia đã giành liên tiếp hai Huy chương Vàng tại SEA Games. Phụ nữ cũng chiếm tỷ lệ cao trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật, âm nhạc, múa và văn học, với nhiều tác phẩm được giải thưởng trong nước và quốc tế.

Trong giáo dục, y tế và khoa học - công nghệ, phụ nữ ngày càng thể hiện vai trò quan trọng trong phát triển nguồn nhân lực, dịch vụ công cộng, nghiên cứu khoa học. Trong y tế, phụ nữ chiếm hơn 70% lực lượng lao động, bao gồm bác sĩ, y tá và nhân viên y tế khác. Giai đoạn dịch bệnh COVID-19 diễn ra, nhiều phụ nữ đi đầu trong hoạt động phòng, chống dịch, chăm sóc bệnh nhân và hỗ trợ cộng đồng, nêu gương sáng về tinh thần kiên cường, tận tụy, hết mình trên tuyến đầu chống dịch. Với phương châm “sáng y đức, giỏi chuyên môn”, phụ nữ chủ động nghiên cứu, tích cực tiếp cận kỹ thuật mới, nâng cao chất lượng điều trị và phục vụ bệnh nhân. Trong tiến bộ của y học nước nhà cùng với chất lượng cuộc sống được nâng lên, sức khỏe của phụ nữ được cải thiện đáng kể. Hiện nay, tuổi thọ trung bình của phụ nữ đạt 77,2 tuổi.

Trong giáo dục, phụ nữ chiếm đa số (hơn 76%) lực lượng giáo viên. Dù ở cương vị nào, phụ nữ đều không ngừng rèn luyện đạo đức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp giảng dạy, ứng dụng công nghệ thông tin, đóng góp tích cực trong phong trào thi đua đổi mới sáng tạo trong quản lý, giảng dạy và học tập. Nhiều nhà khoa học nữ đạt được thành tựu lớn với các công trình khoa học giá trị. Cán bộ nữ phát huy hiệu quả vai trò nòng cốt, tiên phong trong truyền thông nâng cao nhận thức của phụ nữ và xã hội về bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ. Theo báo cáo năm 2023 của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, thông qua việc đẩy mạnh công tác giáo dục, xóa mù chữ, cung cấp học bổng, nâng cao nhận thức về quyền của phụ nữ và bình đẳng giới, đặc biệt là ở vùng khó khăn, hơn 25 triệu hội viên phụ nữ đã được trang bị kiến thức về pháp luật và các vấn đề xã hội.

Thành tựu này minh chứng rõ ràng cho vai trò quan trọng của phụ nữ trong sự phát triển văn hóa, xã hội của đất nước. Phụ nữ không chỉ là lực lượng nòng cốt, mà còn tiên phong trong việc duy trì và phát triển các giá trị văn hóa, xã hội Việt Nam.

Trong lĩnh vực an ninh - quốc phòng và đối ngoại, phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, tích cực tham gia phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”, xây dựng “thế trận lòng dân”, nền quốc phòng toàn dân vững chắc và là hậu phương tin cậy cho những người đang ngày đêm bảo vệ Tổ quốc. Ở vùng biên giới, phụ nữ chủ động tự quản, bảo vệ đường biên, cột mốc và hợp tác với phụ nữ nước bạn xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị.

Trong lực lượng vũ trang, phụ nữ thể hiện ý chí kiên cường, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và phòng, chống tội phạm nguy hiểm. Đặc biệt, nữ quân nhân Việt Nam tham gia sứ mệnh gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc chiếm 16% lực lượng, cao hơn mức trung bình toàn cầu (10%), để lại ấn tượng tốt đẹp về Việt Nam trong lòng bạn bè quốc tế. Những năm qua, phụ nữ Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động đối ngoại, góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam, thúc đẩy hòa bình, phát triển và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

Kết quả này chứng minh thành công và hiệu quả của công cuộc đổi mới tại Việt Nam cũng như đóng góp to lớn của phụ nữ trong suốt gần 40 năm qua, tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững trong tương lai. Trong thành công này, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đóng vai trò chủ đạo, là đầu tàu thúc đẩy và góp phần phát huy nỗ lực của phụ nữ Việt Nam vào sự phát triển của đất nước, thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.

Thời gian qua, phụ nữ Việt Nam đã không ngừng nỗ lực, đạt được nhiều thành tựu nổi bật, quan trọng, nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức, như: 1) Mặc dù chiếm tỷ lệ lớn trong lực lượng lao động, phụ nữ vẫn gặp khó khăn về thu nhập và cơ hội thăng tiến. Tỷ lệ phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao và tại doanh nghiệp lớn còn thấp so với số lượng và tiềm năng của lực lượng lao động nữ cũng như yêu cầu phát triển của đất nước. Tỷ lệ lao động nữ qua đào tạo của Việt Nam chưa được cải thiện nhiều. Chỉ khoảng 25% phụ nữ có cơ hội thăng tiến so với 45% ở nam giới và chỉ 25% phụ nữ làm việc trong ngành có thu nhập cao so với 40% ở nam giới. Trong các ngành khoa học, công nghệ, kỹ thuật, toán học (STEM), tỷ lệ phụ nữ còn thấp, hạn chế tiềm năng của phụ nữ trong phát triển khoa học và công nghệ của đất nước. Chỉ 15% phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo trong doanh nghiệp lớn và tổ chức chính phủ. 2) Mặc dù phụ nữ tham gia tích cực vào hoạt động chính trị, tỷ lệ phụ nữ trong các cơ quan lãnh đạo chính trị vẫn chưa đạt mức cân bằng giới, phần nào làm hạn chế tiếng nói của phụ nữ trong quyết định chính sách. 3) Phụ nữ dường như vẫn gặp khó khăn khi tham gia các lĩnh vực văn hóa, thể thao và nghệ thuật, đặc biệt là ở nông thôn, nơi họ bị giới hạn trong các vai trò truyền thống và ít có cơ hội tiếp cận giáo dục và đào tạo chuyên môn cao.

Thách thức đối với việc thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới có thể phân tích từ nhiều góc độ:

Một là, từ chính sách và cơ chế: 1) Chính sách hỗ trợ phụ nữ chưa đủ mạnh và thiếu cơ chế thực thi hiệu quả. Một số chính sách chưa đáp ứng đủ yêu cầu về thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vai trò của phụ nữ; 2) Thiếu cơ chế giám sát và đánh giá hiệu quả các chương trình và chính sách hỗ trợ phụ nữ, dẫn đến việc triển khai còn hạn chế và thiếu đồng bộ, kém bền vững.

Hai là, từ xã hội và văn hóa: Định kiến giới vẫn còn hiện hữu, phần nào cản trở phụ nữ tiếp cận cơ hội giáo dục, việc làm và thăng tiến. Điều này cũng phần nào dẫn đến sự thiếu ủng hộ từ gia đình, đặc biệt là trong các lĩnh vực dường như chưa có nhiều sự tham gia của phụ nữ, như công nghệ và lãnh đạo chính trị. Ngoài ra, thách thức từ môi trường xã hội và kinh tế, như khủng hoảng kinh tế, biến đổi khí hậu và thay đổi chính sách cũng làm tăng áp lực lên phụ nữ, gây khó khăn trong việc duy trì và phát triển sự nghiệp; 3- Nhiều vấn đề xã hội tiếp diễn ảnh hưởng tiêu cực tới phụ nữ, như nghèo đói, biến đổi chức năng gia đình, vấn đề an ninh trật tự, đạo đức xã hội liên quan đến an toàn của phụ nữ, trẻ em...

Ba là, từ bản thân phụ nữ: 1) Thiếu tự tin và kỹ năng lãnh đạo, với 40% phụ nữ cảm thấy thiếu kỹ năng quản lý và kỹ năng mềm, do định kiến xã hội; 2) Gánh nặng gia đình hạn chế thời gian và cơ hội phát triển sự nghiệp, khi phụ nữ trung bình dành thời gian mỗi tuần cho công việc gia đình cao hơn so với nam giới; 3) Thiếu tiếp cận giáo dục và đào tạo, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và các nhóm dân tộc thiểu số, làm hạn chế khả năng cạnh tranh và cơ hội thăng tiến.

Các nguyên nhân này đòi hỏi có sự can thiệp đồng bộ từ chính sách, xã hội và từ bản thân phụ nữ để khắc phục và tạo điều kiện cho phụ nữ phát huy hết tiềm năng của mình trong mọi lĩnh vực của đời sống.

Tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phát huy tối đa tiềm năng của mình và bảo đảm cho phụ nữ đều có cơ hội đóng góp và thụ hưởng công bằng từ sự phát triển chung. (Nguồn: nhieepanhdoisong.vn)

TIẾP TỤC THÚC ĐẨY SỰ THAM GIA CỦA PHỤ NỮ VÀO CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐẤT NƯỚC HIỆN NAY

Để thúc đẩy sự tham gia của phụ nữ vào việc xây dựng và phát triển đất nước, cần thiết kế và triển khai một loạt giải pháp toàn diện, đồng bộ và hiệu quả với sự cam kết từ các cấp chính quyền, doanh nghiệp, xã hội và bản thân phụ nữ. Các giải pháp này không chỉ nhằm khắc phục hạn chế đã được xác định, mà còn mở ra cơ hội mới, tạo điều kiện thuận lợi để phụ nữ phát huy tối đa tiềm năng của mình và bảo đảm cho phụ nữ đều có cơ hội đóng góp và thụ hưởng công bằng từ sự phát triển chung.

Một là, tiếp tục tăng cường, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng trong công tác phụ nữ, hoàn thiện chính sách bình đẳng giới theo hướng thống nhất với các văn bản của Đảng, Nhà nước, xây dựng đề án phát triển nguồn nhân lực nữ chất lượng cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng và phát triển nhanh, bền vững đất nước; bổ sung các cấu phần còn khuyết thiếu hoặc còn yếu trong việc thúc đẩy phụ nữ khởi nghiệp, phát triển kinh tế, như xây dựng văn hóa khởi nghiệp, tạo các nhân tố điển hình tiên tiến, đề xuất chính sách, đào tạo nguồn lao động nữ có trình độ, tay nghề phù hợp với thị hiếu thị trường,... Tăng cường nguồn lực và hợp tác quốc tế, cung cấp chính sách làm việc linh hoạt, thúc đẩy bình đẳng giới để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều hơn vào hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội.

Hai là, hoàn thiện và thực thi hiệu quả hoạt động của Ban Vì sự tiến bộ của phụ nữ quốc gia và các cấp, nâng cao hiệu quả và chất lượng của Ban để tăng cường về thực chất sự bình đẳng cho phụ nữ trên các phương diện. Đây là vấn đề cốt lõi tạo nền tảng cho việc phát huy tiềm năng, sức sáng tạo của người phụ nữ Việt Nam.

Ba là, khuyến khích các tầng lớp phụ nữ chủ động học tập, nâng cao năng lực, trình độ mọi mặt, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ trên thế giới và tiến trình hội nhập quốc tế sâu rộng. Xây dựng và triển khai chương trình đào tạo nâng cao năng lực ứng dụng công nghệ thông tin cho phụ nữ, tiếp cận Chính phủ số và công cuộc chuyển đổi số hiện nay. Đẩy mạnh đào tạo và nâng cao năng lực phụ nữ trong hợp tác quốc tế, đối ngoại và an ninh, quốc phòng.

Bốn là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, trong đó chú trọng giáo dục nâng cao nhận thức, phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp của phụ nữ Việt Nam, thúc đẩy bình đẳng giới và sự tham gia của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội. Tiếp tục chú trọng công tác cán bộ nữ đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Nghiên cứu thiết lập chỉ tiêu về giới và giải pháp thúc đẩy phụ nữ tham gia nhiều hơn vào hoạt động chính trị, bảo đảm tiếng nói và quyền của phụ nữ trong các quyết định quan trọng. Quan tâm việc đào tạo, phát triển kỹ năng lãnh đạo, đàm phán và xây dựng chính sách để tăng tỷ lệ đại biểu nữ trong cơ quan dân cử, tăng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào hệ thống chính trị, cơ quan lập pháp. Tạo cơ chế khuyến khích phụ nữ tham gia bầu cử và ứng cử vào vị trí lãnh đạo. Xây dựng mạng lưới kết nối phụ nữ giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, giúp họ chia sẻ kinh nghiệm và hỗ trợ lẫn nhau. Tạo cơ hội cho phụ nữ kết nối với tổ chức quốc tế và mạng lưới chuyên môn để mở rộng ảnh hưởng và cơ hội thăng tiến của họ.

Năm là, phát huy vai trò, trách nhiệm của hội liên hiệp phụ nữ các cấp, trong đó quan tâm đẩy mạnh và phát huy vai trò của tổ chức hội trong công tác giám sát, phản biện xã hội, đề xuất chính sách cho phụ nữ. Hội liên hiệp phụ nữ các cấp cần tiếp tục tuyên truyền, nâng cao nhận thức và trách nhiệm, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đồng thời xây dựng đội ngũ cán bộ hội chuyên nghiệp, hiệu quả, đủ khả năng hội nhập quốc tế. Quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động hỗ trợ cán bộ, hội viên, phụ nữ tiếp cận và thụ hưởng chính sách an sinh xã hội, tạo lập môi trường thuận lợi để phụ nữ được bảo vệ quyền lợi, nâng cao năng lực, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.

Trong gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, phong trào phụ nữ và bình đẳng giới ở nước ta đã đạt nhiều thành tựu đáng kể. Phụ nữ Việt Nam đã tích cực tham gia và đóng góp vào mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, chính trị và văn hóa, trở thành nhân tố quan trọng trong việc xây dựng gia đình hạnh phúc và gìn giữ, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc. Phụ nữ Việt Nam không chỉ khẳng định vai trò của mình trong nước, mà còn góp phần nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.

Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã đóng vai trò dẫn dắt, thúc đẩy các phong trào và chính sách nhằm nâng cao vị thế của phụ nữ trong xã hội. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam không chỉ là tổ chức tiên phong trong việc bảo vệ quyền lợi của phụ nữ, mà còn là cầu nối quan trọng giữa phụ nữ và cơ quan, tổ chức. Với tầm nhìn chiến lược, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam cam kết tiếp tục phát huy vai trò của phụ nữ, thúc đẩy bình đẳng giới và đóng góp tích cực vào sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước. Sự nỗ lực không ngừng của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam sẽ là động lực mạnh mẽ, hỗ trợ phụ nữ hiện thực hóa các mục tiêu cá nhân và xã hội, đóng góp vào sự thịnh vượng chung của quốc gia - dân tộc và đất nước./.

ST.

Nguyễn Ái Quốc - Những năm tháng ở Quảng Châu

Trên hành trình tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sống và hoạt động cách mạng ở nhiều nơi, nhiều nước, trong đó có Quảng Châu, Trung Quốc (1924 - 1927). Đây là nơi Người đã sống và hoạt động trong thời kỳ Quốc - Cộng hợp tác lần thứ nhất và đó cũng là địa bàn gần Tổ quốc mà Người đã lựa chọn trở về hoạt động để chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng Cộng sản - đội tiền phong của giai cấp và dân tộc Việt Nam.

Nguyễn Ái Quốc đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, Trung Quốc (Tranh tư liệu)

Nguyễn Ái Quốc đào tạo cán bộ ở Quảng Châu, Trung Quốc (Tranh tư liệu)

LỰA CHỌN QUẢNG CHÂU LÀ MỘT BƯỚC ĐI QUAN TRỌNG

Trên hành trình tìm đường cứu nước để giải phóng dân tộc khỏi áp bức, bất công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước trong thời đại mới - con đường mà Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 đã giành thắng lợi và Người đã trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, một trong những người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp. Một chặng đường mới trên hành trình hoạt động cách mạng của Người - khi rời Pháp đến nước Nga Xô Viết để học tập, trau dồi lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; khi tiến hành các hoạt động thực tiễn phong phú đã giúp Người hiểu rõ cần phải đi về đâu và làm thế nào để tiến hành sự nghiệp giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản.

Tháng 6/1923, Nguyễn Ái Quốc đã viết trong Thư gửi các bạn cùng hoạt động ở Pháp: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về Tổ quốc, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. Đến nước Nga, khi trả lời phỏng vấn Giôvanni Giécmanto - Phóng viên báo L’Unità, cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Italia, ngày 15/3/1924: “Khi học xong, anh dự định làm gì?”, Nguyễn Ái Quốc đã trả lời: “Dĩ nhiên là tôi sẽ trở về Tổ quốc để đấu tranh cho sự nghiệp của chúng tôi. Ở bên chúng tôi còn nhiều việc phải làm lắm”. Tuy nhiên, từ những hoạt động lý luận và thực tiễn ở Liên Xô, nhận thức của Người về cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, mối quan hệ giữa cách mạng ở thuộc địa với cách mạng ở chính quốc… đã giúp Người xác định được con đường để giải phóng dân tộc, vì thế kế hoạch “trở về Tổ quốc” của Người đã thay đổi. Điều này thể hiện rõ trong Thư gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ngày 11/4/1924 của Nguyễn Ái Quốc: “Trước hết tôi phải đi Trung Quốc. Tiếp đó sẽ hướng sự hoạt động theo những khả năng sẽ xuất hiện” - Đó chính là thiết lập những quan hệ giữa Đông Dương và Quốc tế Cộng sản; thông báo tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của thuộc địa này; tiếp xúc với các tổ chức đang tồn tại ở đó; tổ chức một cơ sở thông tin và tuyên truyền…

Trong khi đó, ở Trung Quốc, tình hình Quốc - Cộng hợp tác có chiều hướng phát triển tốt đã thúc đẩy sự phát triển của cách mạng Trung Quốc, nhất là ở Quảng Châu. Vì thế, để tăng cường cán bộ cho phái bộ M. M. Bôrôđin giúp đỡ cách mạng Trung Quốc, ngày 25/9/1924, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản đã quyết định: “Đồng chí Nguyễn Ái Quốc cần đi Quảng Châu. Chi phí do Ban Phương Đông chịu”(4) theo đề nghị của Người. Vì thế, Người đã rời nước Nga và ngày 11/11/1924, về đến Quảng Châu, Trung Quốc (trên cương vị phái viên của Quốc tế Cộng sản; trong Phái bộ của Cố vấn Bôrôđin, bên cạnh Chính phủ Tôn Trung Sơn), với tên gọi Lý Thụy để triển khai kế hoạch hoạt động của mình. Từ những “ưu thế” không thể phủ nhận của Quảng Châu, có thể hiểu được vì sao Nguyễn Ái Quốc lại chọn địa bàn chiến lược này làm điểm “dừng chân” để xây dựng “căn cứ địa” và triển khai những hoạt động quan trọng trong lộ trình giải phóng dân tộc.

Thứ nhất, Quảng Châu khi đó đang là trung tâm phong trào cách mạng của Trung Quốc. Năm 1924, được Đảng Cộng sản Trung Quốc giúp đỡ, Tôn Trung Sơn đã cải tổ thành công Quốc Dân Đảng, thành lập Chính phủ Cách mạng tại Quảng Châu và với vị thế Tổng thống, Tôn Trung Sơn đã tiến hành công cuộc hợp tác giữa Quốc Dân Đảng với Đảng Cộng sản lần đầu tiên; đã tiếp nhận sự trợ giúp của Đảng Cộng sản Trung Quốc và Đảng Cộng sản Liên Xô (với sự giúp đỡ của Đoàn cố vấn do Liên Xô và Quốc tế Cộng sản cử tới); đồng thời triển khai thực hiện 3 chính sách lớn “Liên Nga, liên Cộng, phù trợ công nông”.

Thứ hai, Quảng Châu khi đó đang được mệnh danh là “Mátxcơva của phương Đông”. Khi ấy, những người cộng sản Trung Quốc như Chu Ân Lai, Lý Phú Xuân, Trương Thái Lôi... mà Nguyễn Ái Quốc từng gặp gỡ, cùng hoạt động cách mạng khi còn ở Paris và được Người giới thiệu vào Đảng Cộng sản Pháp thập niên 1920 cũng đã có mặt tại Quảng Châu, nên nơi đây đã thu hút nhiều nhà cách mạng từ những nước thuộc địa và phụ thuộc đến hoạt động.

Thứ ba, Quảng Châu khi đó vừa gần Việt Nam, vừa là địa bàn đang có nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước, đầy nhiệt huyết sang hoạt động, trong đó có tổ chức Tâm Tâm Xã. Dù là một tổ chức yêu nước, nhưng Cương lĩnh của tổ chức này vừa chưa rõ ràng, vừa phần nào chịu ảnh hưởng của một số tổ chức cánh tả ở Trung Quốc, nên đây cũng vừa là mảnh đất tốt, vừa có những hạt giống tốt để Nguyễn Ái Quốc có thể gieo mầm con đường cách mạng vô sản theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Hơn nữa, Quảng Châu còn có những điều kiện tương đối thuận lợi về giao thông, dễ thực hiện việc chuyển tài liệu, sách báo bí mật cũng như đưa người sang và đưa người về nước để phát triển phong trào cách mạng…

Thực tế là Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn Quảng Châu để thực hiện “lộ trình” giải phóng dân tộc Người đã ấp ủ, mà Người còn triển khai lộ trình đó vừa đúng đắn vừa phù hợp điều kiện cụ thể của Việt Nam để tiến hành thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc trong những thập niên sau.

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm Khu di tích lịch sử Cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, tháng 8/2024. (Ảnh: TTXVN)

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm thăm Khu di tích lịch sử Cách mạng Việt Nam tại Quảng Châu, Trung Quốc, tháng 8/2024. (Ảnh: TTXVN)

DẤU ẤN CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC Ở QUẢNG CHÂU

Được về hoạt động tại một địa bàn gần Tổ quốc, Nguyễn Ái Quốc không chỉ kịp thời báo cáo tình hình của Người về Mátxcơva (thông qua 3 bức thư gửi cho Quốc tế Cộng sản; cho đồng chí Đômban - Tổng thư ký Quốc tế Nông dân và cho Ban biên tập Tạp chí Rabốtnhítxa), mà còn nhanh chóng bắt liên lạc với những người Việt Nam yêu nước, trong đó có những thanh niên hăng hái nhất trong tổ chức Tâm Tâm xã để mở rộng địa bàn hoạt động. Với công việc này, Người đã báo cáo cán bộ phụ trách Ban Phương Đông là “đã tìm thấy ở đây một vài người Đông Dương mà với họ, tôi hy vọng làm được việc gì đó”(5).

Tiếp đó, từ những thanh niên yêu nước này, Người thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (6/1925) - một tổ chức có tính chất quần chúng “có khuynh hướng mácxít”, với hạt nhân là Cộng sản đoàn gồm 9 đồng chí (Lê Hồng Sơn tức Lê Văn Phan; Lê Hồng Phong tức Lê Huy Doãn; Hồ Tùng Mậu tức Hồ Bá Cự; Lê Quảng Đạt tức Lê Doạt; Vương Thúc Oánh; Trương Vân Lĩnh tức Lệnh; Lưu Quốc Long tức Quý; Lý Quý tức Trần Phú; Lâm Đức Thụ tức Nguyễn Chí Viễn).

Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số; thực hiện nguyên tắc tự phê bình và phê bình; yêu cầu tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt động của Hội... Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên đã thu hút nhiều thanh niên Việt Nam yêu nước đến Quảng Châu dù thực dân Pháp khủng bố gắt gao.

Có thể nói, Hội Việt Nam Cách mạng thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc, bởi “trong tư tưởng của những người đứng ra tổ chức thì Hội này sẽ là cơ sở cho một đảng lớn hơn và tương lai đã chứng minh điều đó”(6) . Thông qua những hội viên của Hội này và qua hoạt động của phong trào vô sản hoá, chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ được truyền bá về trong nước, xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, mà còn thúc đẩy, làm thay đổi tính chất, chiều hướng phát triển của phong trào cách mạng trong nước, làm cho khuynh hướng vô sản lan tỏa, phổ rộng và phong trào công nhân chuyển dần từ tự phát sang tự giác…

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa thăm di tích lưu niệm Trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu, Trung Quốc, ngày 15/6/2024. (Nguồn: VOV).

Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương Nguyễn Trọng Nghĩa thăm di tích lưu niệm Trụ sở Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu, Trung Quốc, ngày 15/6/2024. (Nguồn: VOV).

Không chỉ dừng ở việc sáng lập và tổ chức hoạt động Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Nguyễn Ái Quốc còn tiến hành đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán “thời dựng Đảng” cho cách mạng Việt Nam bằng việc mở các Lớp huấn luyện chính trị tại số nhà 13 và 13/1 đường Văn Minh (nay là số nhà 248 và 250). Nguyễn Ái Quốc là người trực tiếp phụ trách lớp và là giảng viên chính của các khóa học. Ngoài ra còn có Hồ Tùng Mâu, Lê Hồng Sơn; một số cán bộ trong Đoàn cố vấn của Liên Xô và một số cán bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Các bài giảng tập trung vào 3 loại vấn đề “cách mạng thế giới, cách mạng Việt Nam và phương pháp vận động cách mạng” gắn với hoạt động ra “bích báo” của học viên; tổ chức các vở diễn “kịch cương”, sinh hoạt văn nghệ hoặc tham quan Trường Quân sự Hoàng Phố… đã giúp cho các học viên sự liên hệ lý luận với thực tiễn. Với 3 khóa huấn luyện (từ đầu năm 1926 - 4/1927), đã có khoảng 75 học viên học xong đã trở về nước và đến Xiêm hoạt động. Đó chính là những “hạt giống đỏ”, những người tuyên truyền, tổ chức phong trào cách mạng ở Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Nam Kỳ và Việt kiều ở Xiêm.

Đặc biệt, ngay từ thời gian này, để thực hiện sự kế tục trong xây dựng và đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc không chỉ lựa chọn một số thanh niên Việt Nam để gửi đi học ở Trường Đại học Phương Đông và Trường Quân sự Hoàng Phố, mà còn viết thư gửi Uỷ banTrung ương thiếu nhi Liên xô, gửi thư cho đại diện đoàn Thanh niên cộng sản Pháp tại Quốc tế Thanh niên cộng sản đề nghị giúp đỡ, để gửi một số thiếu niên Việt Nam sang Liên Xô học tập. Mục đích của Người là “để các em được tiếp thu một nền giáo dục cộng sản chủ nghĩa tốt đẹp, trở thành những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam”- “những chiến sĩ Lêninnít tí hon chân chính” - hạt nhân vừa hồng vừa chuyên của Đoàn Thanh niên Cộng sản sau này. Đó cũng chính là thế hệ “rường cột” đảm đương vai trò kế tục sự nghiệp cách mạng của cha anh.

Cùng với việc đào tạo cán bộ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách, báo chí làm phương tiện tuyên truyền. Đầu tiên, báo Thanh Niên ra đời, số 1 ra ngày 21/6/1925. Trong tổng số 202 số báo Thanh Niên, thì có có 88 số báo được xuất bản từ 21/6/1925 - 17/4/1927 do Nguyễn Ái Quốc trực tiếp biên soạn, sửa chữa. Từ việc xác định rõ mục đích của báo là “gửi về nước để tuyên truyền cho nhân dân”, Người chọn lối viết ngắn gọn, dễ hiểu thể hiện qua tranh vẽ, ca dao, thơ ca, khẩu hiệu đăng tải trong các chuyên mục Tin tức trong nước, Thế giới, Phụ nữ, Từ điển cách mạng,v.v.. để tuyên truyền về chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa cộng sản, Đảng Cộng sản. Nội dung của các bài báo không chỉ khơi dậy truyền thống yêu nước, ý chí đấu tranh chống giặc ngoại xâm, mà còn kêu gọi tinh thần đoàn kết của mọi người dân để thực hiện mục tiêu giải phóng dân tộc.

Dù số lượng phát hành không nhiều (100 bản), nhưng báo Thanh Niên có hình thức nhỏ, gọn được chuyển về trong nước, được người dân truyền đọc và ghi chép lại đã góp phần mang hơi thở của thời đại đến với phong trào công nhân, phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam; đồng thời đưa ý thức hệ vô sản lan tỏa trong đời sống xã hội Việt Nam, góp phần quan trọng vào việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mácxít Lêninnít kiểu mới của giai cấp công nhân Việt Nam.

Sau báo Thanh Niên, Người cho xuất bản báo Công nông (từ 12/1926 - đầu năm 1928), Bán nguyệt san Lính Cách mệnh (đầu năm 1927 - đầu năm 1928); Việt Nam tiền phong cho những đối tượng hẹp hơn…

Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc dành thời tập hợp và hoàn thiện những bài giảng của mình tại các Lớp huấn luyện chính trị để xuất bản thành cuốn sách Đường Kách mệnh. Sách được Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông xuất bản đầu năm 1927, làm tài liệu học tập và truyên truyền. Đường Kách mệnh được bí mật được chuyển về trong nước không chỉ là một trong những tác phẩm lý luận quan trọng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối cách mạng Việt Nam, mà còn góp phần trang bị lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin cho nhân dân/đưa thế giới đương đại hội nhập với Việt Nam và đưa cách mạng Việt Nam hội cùng dòng chảy của cách mạng thế giới.

Những năm tháng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc còn cùng với các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến Điện… vận động thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9/7/1925) nhằm đoàn kết, liên lạc với các dân tộc bị áp bức cùng làm cách mạng nhằm đánh đổ đế quốc, bởi “con đường thoát duy nhất để xóa bỏ sự áp bức chỉ có thể là liên hiệp các dân tộc nhỏ yếu bị áp bức và giai cấp vô sản toàn thế giới”(7).

Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức mở rộng hơn Hội Liên hiệp thuộc địa (1922) không chỉ “đánh dấu sự thức tỉnh của các dân tộc châu Á”, mà còn nhanh chóng thu hút đông đảo sự tham gia của chi hội Nông dân Quảng Đông, Hội Phụ nữ Quảng Đông,v.v.. Với Hội này, Nguyễn Ái Quốc “mang tên Lý Thụy là một trong những người lãnh đạo của Hội, được bầu làm Bí thư kiêm phụ trách công việc tài chính của Hội, đồng thời cũng là người trực tiếp phụ trách chi bộ Việt Nam của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức”(8).

Cũng ở Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã quan tâm, nghiên cứu tình hình nông dân Trung Quốc (bài viết “Tình cảnh nông dân Trung Quốc” ngày 4/1/1924; “Nông dân Trung Quốc” ngày 19 - 21/3/1925); đã tham gia tổ chức Đại hội lần thứ nhất của nông dân tỉnh Quảng Đông (1/5/1925); đã tham gia tổ chức Hội nghị đại biểu đầu tiên của 20 vạn nông dân tỉnh Quảng Đông và Hội nghị đại biểu lần thứ hai của công nhân Trung Quốc (đầu tháng 5/1925) nhằm “thành lập một Mặt trận thống nhất giữa những người bị bóc lột ở thành thị và nông thôn”; đã tham gia đội diễn thuyết, ủng hộ cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân Trung Quốc…

Thực tế là sau ngày 12/4/1927, mặc dù Tưởng Giới Thạch đã tiến hành đảo chính phản cách mạng và đàn áp khủng bố các lực lượng cách mạng, nhưng Nguyễn Ái Quốc “vẫn tiếp tục ở lại Quảng Châu để bí mật liên lạc với các đồng chí Trung Quốc và duy trì công việc của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên”(9), thể hiện rõ tinh thần, trách nhiệm của một người chiến sĩ cộng sản quốc tế…

Tháng 6/1927, trước khi rời Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc đã viết gửi Ban Phương Đông kết quả công tác của mình: “Mặc dù thiếu thời gian và tiền, nhờ sự giúp đỡ của các đồng chí người Nga và Annam, chúng tôi đã có thể: 1) Đưa 75 thanh niên Annam đến học ở Trường tuyên truyền do chúng tôi tổ chức ở Quảng Châu, 2) Xuất bản ba tờ tuần báo nhỏ, 3) Phái những người tuyên truyền vừa mới được đào tạo về Xiêm, Trung Kỳ, Bắc Kỳ và Nam Kỳ, 4) Thành lập một liên đoàn cách mạng do một uỷ ban gồm 5 uỷ viên ở Quảng Châu lãnh đạo, liên đoàn đã bắt rễ khắp nơi trong tất cả các xứ Đông Dương đó”(10). Những nội dung ngắn gọn trong báo cáo này là kết quả thực hiện kế hoạch mà Nguyễn Ái Quốc đã đề ra trong những năm tháng hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (11/11/1924 - 5/1927). Những kết quả này không chỉ có ý nghĩa vô cùng to lớn, góp phần quan trọng dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam; con đường và tiến trình cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng sau đó, mà còn tác động đến phong trào cách mạng Trung Quốc nói riêng và Quốc tế Cộng sản nói chung.

Những thông tin trong các báo cáo, trong những bài viết của Nguyễn Ái Quốc thời kỳ này không những giúp Quốc tế Cộng sản nắm được tình hình phong trào cách mạng ở các nước phương Đông, mà còn phân tích, đánh giá, làm phong phú hơn lý luận của Quốc tế Cộng sản trong lãnh đạo phong trào cách mạng vô sản bởi thực tiễn sinh động ở Trung Quốc và An Nam…

Đặc biệt, từ sự am hiểu tình hình Trung Quốc, phong trào cách mạng Trung Quốc - Nguyễn Ái Quốc đã không chỉ là Người bắc nhịp cầu đoàn kết giữa những người cộng sản Việt Nam và những người cộng sản Trung Quốc, giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng Trung Quốc, mà còn đặt nền móng vững chắc cho mối quan hệ tương hỗ, tương trợ, cùng đấu tranh vì hòa bình, độc lập, tự do giữa nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc “có núi liền núi, sông liền sông” ở những thời kỳ sau./.

ST.

Đưa 'Không gian văn hóa Hồ Chí Minh' đến với đồng bào có đạo

Ở Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất hiện nhiều cách làm sáng tạo trong xây dựng, triển khai hơn 4.500 “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh”.

Ông Lê Thành Trung, Việt kiều Hoa Kỳ quét QR code những tài liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư viện sách nói” song ngữ Việt - Hoa tại "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh" ở Tổ đình Phụng Sơn, Phường 2, Quận 11.

Ông Lê Thành Trung, Việt kiều Hoa Kỳ quét QR code những tài liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh trong “Thư viện sách nói” song ngữ Việt - Hoa tại "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh" ở Tổ đình Phụng Sơn, Phường 2, Quận 11.

Mô hình đổi mới hình thức, nội dung tuyên truyền, khai thác hiệu quả “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” trong đồng bào người Hoa và đồng bào có đạo của Quận 11 là sáng tạo tiêu biểu trong thực hiện Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI về “Xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh”.

Một ngày giữa tháng 11/2024, dù không phải thời gian chính lễ của đồng bào theo đạo Phật, nhưng Tổ đình Phụng Sơn (Phường 2, Quận 11) vẫn có nhiều người đến lễ chùa và vãng cảnh. Tại "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh" được bố trí trang trọng trong Tổ đình Phụng Sơn, rất nhiều du khách đang chăm chú nghe câu chuyện về sự nghiệp Chủ tịch Hồ Chí Minh từ “Thư viện sách nói” song ngữ Việt - Hoa.

Ông Dương Thọ Minh, một cư dân người gốc Hoa tại Phường 2 cho biết, phần lớn cư dân trong khu vực là người Hoa và theo đạo Phật. Mỗi khi đến chùa, người dân đều dành thời gian ghé thăm "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh". Với đồng bào người Hoa, đặc biệt là người lớn tuổi, thường lựa chọn sử dụng “Thư viện sách nói” để nghe bằng tiếng Hoa những câu chuyện về Bác Hồ, để hiểu hơn về cuộc đời của Bác, tư tưởng về tôn giáo, về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Theo ông Huỳnh Quang Vũ, Phó Trưởng Ban Tuyên giáo Quận ủy Quận 11, việc áp dụng “Thư viện sách nói” song ngữ Việt - Hoa trong Không gian văn hóa Hồ Chí Minh, trong đó có các cơ sở tôn giáo với những tài liệu, hình ảnh, clip được chọn lọc về cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chủ tịch cùng các quan điểm, tư tưởng của Bác về tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, là cách làm sáng tạo của địa phương nhằm đổi mới hình thức, nội dung tuyên truyền, lan tỏa giá trị tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh đến với người dân Thành phố, phù hợp với đặc điểm địa phương có nhiều đồng bào người Hoa và nhiều đồng bào có đạo.

Thực tiễn cho thấy, giai đoạn đầu, nội dung trưng bày "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh" tại các cơ sở tôn giáo chủ yếu tập trung giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp, hành trình cứu nước, các tác phẩm lớn của Bác và viết về Bác, nhưng chưa thể hiện rõ nét về nội dung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo. Vì vậy, Quận 11 đã tập trung triển khai mô hình “Hệ thống các quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đoàn kết tôn giáo phục vụ hoạt động cho các không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại các cơ sở tôn giáo trên địa bàn Quận 11”.

Với mô hình này, những tư liệu, infographic, sách, báo, ấn phẩm hay thể hiện bằng chữ, hình ảnh, clip về cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đặc biệt là tinh thần đại đoàn kết dân tộc được lựa chọn, biên tập, giới thiệu rộng rãi đến chức sắc tôn giáo, đồng bào có đạo và người dân qua Không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại cơ sở tôn giáo trên địa bàn quận. Từ đó giúp cán bộ, nhân dân, nhất là đồng bào có đạo thấu hiểu hơn về tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tự do tín ngưỡng, đoàn kết lương giáo, đoàn kết giữa các tôn giáo với nhau trong mối quan hệ đại đoàn kết toàn dân tộc vì sự nghiệp chung của dân tộc.

Lễ sanh Ngô Minh Thế, Trưởng Ban cai quản Họ đạo Trung Minh, Hội thánh truyền giáo Cao Đài tại Thánh thất Trung Minh, Phường 10, Quận 11 cho biết, "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh" tại Thánh thất Trung Minh sau hơn 1 năm hoạt động đã mang lại giá trị rất tốt đẹp cho các đạo hữu Cao Đài mỗi khi đến đây dự lễ đạo. Đặc biệt, giới trẻ rất thích thú tìm hiểu về tài liệu liên quan đến cuộc đời, sự nghiệp và tư tưởng của Hồ Chủ tịch, nhất là về vấn đề tôn giáo, đoàn kết dân tộc, vốn thường rất khó tìm ở các hiệu sách bên ngoài.

“Nhờ không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại đây, đồng bào theo đạo Cao Đài có cơ hội tiếp cận, tìm hiểu để biết rõ hơn, đầy đủ hơn tình cảm của Bác Hồ với đồng bào có đạo, hiểu hơn về quan điểm của Bác, chính sách của Đảng, Nhà nước về vấn đề tôn giáo, về tình đoàn kết giữa người có đạo và người không có đạo. Từ đó, động viên, khuyến khích mọi người học tập và làm theo Bác, nhất là xây dựng tình đoàn kết, cùng nhau vì sự phát triển của dân tộc, của đất nước”, Lễ sanh Ngô Minh Thế chia sẻ.

Lễ sanh Ngô Minh Thế, Trưởng Ban cai quản Họ đạo Trung Minh, Hội thánh truyền giáo Cao Đài là người phụ trách

Lễ sanh Ngô Minh Thế, Trưởng Ban cai quản Họ đạo Trung Minh, Hội thánh truyền giáo Cao Đài là người phụ trách "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh" tại Thánh thất Trung Minh, Phường 10, Quận 11.

Xác định xây dựng “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” là nhiệm vụ chính trị quan trọng, Quận ủy Quận 11 không chỉ đặt ra yêu cầu đổi mới phương thức triển khai một cách sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tế mà còn hướng tới nâng cao hiệu quả trong tuyên truyền, giáo dục cán bộ, nhân dân học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Quận 11 đã xây dựng “Bản đồ số thiết chế không gian văn hóa Hồ Chí Minh - Quận 11” trên Bản đồ số trực tuyến, nhằm giới thiệu, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người dân đến với "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh". Mô hình sáng tạo này cung cấp địa điểm của tất cả hơn 120 thiết chế “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” trên toàn quận đã được phân nhóm (cơ sở tôn giáo, hộ dân, khu vực công cộng, trường học, trụ sở, cơ quan…), định vị tọa độ, các thông tin và hình ảnh trực quan cơ bản của từng điểm thiết chế “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” như địa chỉ, thời gian thành lập và ra mắt, người phụ trách và điện thoại liên lạc…

“Bản đồ số thiết chế Không gian văn hóa Hồ Chí Minh - Quận 11 là một giải pháp sáng tạo nhằm giới thiệu, lan tỏa và khai thác hiệu quả các thiết chế Không gian văn hóa Hồ Chí Minh đến đông đảo các tầng lớp nhân dân, góp phần đưa tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với mọi người, đưa những giá trị nhân văn tốt đẹp của tư tưởng, đạo đức, phong cách của Người trở thành ngọn đuốc soi đường cho cán bộ, nhân dân trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ đất nước trong thời kỳ mới”, ông Huỳnh Quang Vũ cho biết.

Ghi nhận nỗ lực của các cấp ủy thuộc Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh trong triển khai "Xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh" trong những năm vừa qua, ông Nguyễn Hồ Hải, Phó Bí thư Thường trực Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh cho biết, xây dựng "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh" xuất phát từ yêu cầu thực tiễn và mong muốn của nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức về giá trị sống, tình cảm, đạo lý, bổn phận và lòng tự hào của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân Thành phố đối với Tổ quốc, dân tộc, góp phần tạo nguồn lực, sức mạnh nội sinh xây dựng và phát triển Thành phố.

Lãnh đạo Thành phố Hồ Chí Minh khẳng định, Thành phố tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng địa phương trở thành một "Không gian văn hóa Hồ Chí Minh", nơi tư tưởng, đạo đức, phong cách và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiện hữu thường xuyên, trở thành tài sản tinh thần, giá trị văn hóa đặc trưng của người dân, cán bộ, đảng viên của thành phố mang tên Bác./.

ST.

Vững bước theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga

Giá trị lịch sử của một cuộc cách mạng là tự thân ở chính nó và những lan toả tích cực từ nó ra thế giới xung quanh. Giá trị đó không phụ thuộc nhiều vào việc tô vẽ hay bôi nhọ nó. Nhưng chắc chắn rằng, những nhìn nhận, đánh giá khách quan và công bằng về giá trị của một cuộc cách mạng sẽ có ý nghĩa tiếp thêm và làm gia tăng giá trị của cuộc cách mạng đó. Cách mạng tháng Mười Nga cũng không ngoại lệ.

Lãnh tụ V.I.Lênin diễn thuyết ở Quảng trường Đỏ, Moscow năm 1917.

Lãnh tụ V.I.Lênin diễn thuyết ở Quảng trường Đỏ, Moscow năm 1917.

1. Các thế lực thù địch viện đủ mọi lý do để đưa các các luận điệu phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga 1917. Họ cho rằng: “Sự sụp đổ chủ nghĩa xã hội tại cái nôi của Cách mạng tháng Mười là tất yếu, chứng tỏ sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội là sai lầm, ảo tưởng”; do đó, “các dân tộc cần nói “không” với con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Và “Việt Nam không nên đi theo con đường của Cách mạng tháng Mười Nga, bởi đó là con đường không có tương lai”, “đi chệch khỏi quy luật phát triển chung của xã hội loài người”, v.v..

Thực ra, họ công kích, phủ nhận giá trị của cuộc cách mạng vĩ đại nhất, sâu sắc nhất, triệt để nhất nhằm qua đó gián tiếp phủ nhận, xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Luận điệu này tuy không mới, nhưng thủ đoạn thì tinh vi, xảo quyệt hơn, khó nhận diện hơn. Sở dĩ như vậy là vì, trước những thắng lợi vang dội của các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm và những thành công ấn tượng trong công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, các thế lực khó có thể phủ nhận trực tiếp những thành quả cách mạng mà đất nước và nhân dân ta đã đạt được. Do đó, buộc chúng không tấn công trực diện mà phải đánh đường vòng, gián tiếp rất nguy hiểm nếu chúng ta thiếu tỉnh táo, dao động, lơ là, mất cảnh giác trước thủ đoạn này.

Lãnh tụ V.I.Lênin

Lãnh tụ V.I.Lênin

2Những giá trị trường tồn và nổi bật của Cách mạng tháng Mười Nga không thể phủ nhận:

Một là, Cách mạng tháng Mười Nga đã tạo ra bước đột phá thực tiễn quan trọng, tạo bước nhảy vọt về chất của chủ nghĩa xã hội khoa học: từ lý luận khoa học đã trở thành hiện thực sinh động trên thế giới. Trước khi Cách mạng tháng Mười Nga 1917 nổ ra, trên thế giới chưa có cuộc cách mạng nào làm được điều này, kể cả những thử nghiệm đầu tiên và bị thất bại của Công xã Pari (1871). Với Cách mạng tháng Mười Nga, lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học đã đi một bước đột phá mới trong sự phát triển của nó: đột phá vào thực tiễn, dấn thân vào hiện thực của cách mạng, bén rễ vào thực tiễn xã hội. Nhờ có bước đột phá vĩ đại này mà chu trình đi từ chủ nghĩa xã hội không tưởng đến chủ nghĩa xã hội khoa học và cuối cùng đến chủ nghĩa xã hội hiện thực được hoàn thành. Bước đột phá này chứng tỏ tiềm năng, sức sống mãnh liệt và sự sáng tạo của lý luận khoa học và cách mạng. Từ đây, chủ nghĩa xã hội được biết đến không chỉ là một học thuyết khoa học, một phong trào, mà còn là một chế độ xã hội cụ thể, thành hiện thực sinh động, có sức mạnh vô cùng to lớn, mở đường cho các dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh giành độc lập, tự do.

Hai là, giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga còn chỗ biến giai cấp công nhân, từ thân phận nô lệ làm thuê cho giai cấp tư sản trong chủ nghĩa tư bản trở thành giai cấp lãnh đạo cách mạng, chủ nhân của xã hội mới. Đúng như lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ rõ: “Nước Nga có chuyện lạ đời/Biến người nô lệ thành người tự do”. Đây là điều mà tất các các cuộc cách mạng xã hội trước kia, đã đều không thể thực hiện được. Với Cách mạng tháng Mười Nga, lần đầu tiên một cuộc cách mạng không do giai cấp bóc lột, thống trị lãnh đạo, mà do giai cấp công nhân và nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đã tiến hành thành công. Đây là giá trị thực tiễn to lớn và không thể phủ nhận của Cách mạng tháng Mười Nga.

Ba là, thành công của Cách mạng tháng Mười Nga 1917, có giá trị và ý nghĩa khai mở vạch thời đại vô cùng sâu sắc. Từ đây thời đại mới trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại đã mở ra, đó là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Thắng lợi của Cách mạng tháng Mười đã khai sinh ra chủ nghĩa xã hội hiện thực, với chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa và Đảng Cộng sản đã ở vào vị thế đảng cầm quyền. Cho dù lịch sử có biến đổi, thăng trầm, thì dấu mốc mở đầu thời đại mới của Cách mạng tháng Mười Nga mãi mãi không thay đổi. Không ai và không bao giờ có thể phủ nhận giá trị mở đầu, mở đường của Cách mạng tháng Mười Nga. Đó là điều chắc chắn.

Bốn là, ngoài giá trị khai mở thời đại mới, giá trị nêu gương của Cách mạng tháng Mười Nga có sức hấp dẫn và lan toả rất lớn. Cách mạng tháng Mười Nga có ảnh hưởng sâu sắc vạch thời đại đến tất cả các cuộc cách mạng trong thời đại ngày nay, đến quá trình phát triển của thế giới hiện đại. Ở góc độ này, những tư tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga có giá trị đặt nền móng cho việc hiện thực hoá lý tưởng cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn thế giới. Do những ảnh hưởng có tính vạch thời đại, mang tầm nhân loại, được các quốc gia, dân tộc không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo, đã khẳng định sức sống trường tồn, tinh thần bất diệt của Cách mạng tháng Mười Nga.

Chính vì giá trị, sức hấp dẫn và sự lan toả ảnh hưởng có tính chất toàn cầu ấy mà giai cấp tư sản, chủ nghĩa tư bản và các thế lực thù địch với chủ nghĩa xã hội với Cách mạng tháng Mười Nga đã không thể ngồi yên. Chúng luôn tìm mọi cách chống phá, phủ nhận giá trị to lớn và vĩnh hằng của Cách mạng tháng Mười Nga, của chủ nghĩa xã hội.

Những người lính Bolshevik diễu hành trên đường phố Moscow năm 1917.

Những người lính Bolshevik diễu hành trên đường phố Moscow năm 1917.

3Phê phán thủ đoạn xuyên tạc con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thông qua phủ nhận giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga.

Một là, mối liên hệ mật thiết giữa Cách mạng tháng Mười Nga và cách mạng Việt Nam là tất yếu và không thể phủ nhận. Bởi vì, Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng điển hình, mở đầu cho thời kỳ cách mạng mới trên thế giới, và cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới, có quan hệ chặt chẽ, khăng khít với cách mạng thế giới. Con đường mà cách mạng Việt Nam đang đi hôm nay là con đường mà Cách mạng tháng Mười Nga đã khai mở, vạch ra.

Thực tiễn chứng minh: “nếu không có Cách mạng tháng Mười vĩ đại thì nhân dân Việt Nam không thể hoàn thành được cuộc Cách mạng tháng Tám của mình...”[1]. Đi theo con đường Cách mạng tháng Mười Nga, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã làm nên Cách mạng tháng Tám 1945, mở ra kỷ nguyên mới cho đất nước - kỷ nguyên độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước năm 1975. Hiện nay, tiếp tục kế thừa và lan toả những giá trị của Cách mạng tháng Mười Nga, Việt Nam luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững và đã giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Sự thành công của cách mạng Việt Nam nói chung và sự nghiệp đổi mới nói riêng là sự tiếp nối và lan truyền sâu rộng sức ảnh hưởng, niềm cảm hứng, tinh thần bất diệt và những giá trị trường tồn của Cách mạng tháng Mười Nga. Những thành tựu to lớn, toàn diện mà Việt Nam đạt được sau gần 40 năm đổi mới đã khẳng định rõ tính đúng đắn của việc kiên trì đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, bác bỏ mọi sự xuyên tạc của các thế lực thù địch.

Hai là, mặc dù cách mạng Việt Nam và Cách mạng tháng Mười Nga có mối liên hệ chặt chẽ, song không thể đồng nhất Cách mạng tháng Mười Nga với cách mạng Việt Nam. Hai cuộc cách mạng này, về bản chất, đều là cách mạnh vô sản, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tiến hành. Đều nhằm những mục tiêu cụ thể trước mắt và lâu dài của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như lật đổ chính quyền và ách thống trị của giai cấp tư sản, phong kiến lỗi thời, phản động, thiết lập chính quyền cách mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa ở mỗi nước,… Tuy nhiên, hình thức, bước đi và phương pháp cụ thể của mỗi cuộc cách mạng là không hoàn toàn giống nhau. Điều kiện, hoàn cảnh của mỗi nước cũng khác nhau. Cho nên, không thể đồng nhất thất bại của cuộc cách mạng này cũng là thất bại của cuộc cách mạng kia, và ngược lại. Những lập luận theo kiểu chứng minh “bắc cầu” trong trường hợp này là không đúng về phương pháp luận và không phù hợp với thực tế cách mạng mỗi nước.

Ba là, để chứng minh tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội khoa - một học thuyết khoa học và cách mạng ở tầm toàn nhân loại thì không thể chỉ bằng thực tiễn của một cuộc cách mạng cụ thể, ở một nước cụ thể, mà phải là kết quả kiểm chứng của nhiều cuộc cách mạng ở nhiều nước trên thế giới và trong nhiều giai đoạn lịch sử cách mạng khác nhau. Mỗi cuộc cách mạng đó, từ góc độ thực tiễn của mình chỉ có thể minh chứng tính đúng đắn của chủ nghĩa xã hội khoa học trên từng phương diện thực tiễn cụ thể, sinh động, gắn với hoàn cảnh của nó. Chân lý phải được kiểm tra bằng thực tiễn, nhưng không phải thực tiễn đơn lẻ, mà là thực tiễn phổ biến, của đông đảo nhân dân và được lặp đi, lặp lại nhiều lần. Mặt khác, không phải chỉ có thành công, mà ngay cả thất bại của hoạt động thực tiễn cũng đều là tiêu chí kiểm tra lý luận. Cho nên, thất bại của một cuộc cách mạng cụ thể, không hẳn là thất bại của lý luận, trái lại, nó càng xác thực chính xác hơn tính đúng đắn của lý luận. Vấn đề là phải “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể” không thể quy chụp võ đoán, chủ quan, ngộ nhận.

Bốn là, lịch sử các cách mạng thế giới cho thấy, chủ nghĩa tư bản khi mới ra đời cũng phải trải qua những thất bại đau đớn, trước sự phản công quyết liệt của chủ nghĩa phong kiến và các thế lực thù địch cùng với những sai làm chủ quan của giai cấp tư sản. Chẳng hạn, cuộc cách mạng tư sản đầu tiên nổ ra tại Hà Lan bắt đầu từ tháng 8/1566, nhưng mãi đến 1581 các tỉnh miền Bắc Nê-đéc-lan mới thành lập “các tỉnh liên hiệp” (sau là Cộng hoà Hà Lan), nhưng không được thực dân Tây Ban Nha công nhận và cuộc đấu tranh vẫn tiếp diễn. Mãi tới năm 1648, tức là sau 82 năm đấu tranh bền bỉ, cuối cùng chính quyền Tây Ban Nha công nhận nền độc lập của Hà Lan. Cuộc cách mạng kết thúc, Hà Lan được giải phóng. Hay như cuộc cách mạng dân chủ tư sản điển hình là cách mạng tư sản Pháp cũng phải cần tới ba khởi nghĩa (lần một: 6-1791; lần hai: 10-8-1792; lần ba: 31-5-1793) và một lần đảo chính (7- 1794) mới lật đổ được chế độ phong kiến, đưa giai cấp tư sản lên cầm quyền. Mở ra thời đại thắng lợi và củng cố quyền thống trị của giai cấp tư sản trên phạm vi thế giới. Điều đó cho thấy, thực hiện cách mạng là không dễ dàng, có thể thành, bại bất cứ lúc nào nếu giai cấp cách mạng không sáng suốt và mắc những sai lầm nghiêm trọng.

Cuộc cách mạng vô sản đầu tiên là Công xã Pari (Pháp) nổ ra năm 1871, tuy giành thắng lợi song chỉ tồn tại được 72 ngày; Cách mạng tháng Mười Nga giành thắng lợi và duy trì sự tồn tại được 74 năm (1917 – 1991). Đó là sự thật lịch sử. Nhưng dù có thất bại thì các cuộc các mạng vẫn không làm mất đi giá trị mà nó mang đến cho nhân loại, cho tiến trình phát triển của lịch sử loài người. Đi theo mục tiêu lý tưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, hiện nay, các nước: Trung Quốc, Việt Nam, Cuba, Lào… vẫn vững bước trên con đường chủ nghĩa xã hội, đã và đang gặt hái được những thành công không thể phủ nhận.

Từ những phân tích trên, có thể thấy, mục tiêu cuối cùng mà các thế lực thù địch nhằm tới là làm cho Việt Nam thay đổi chế độ chính trị, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Những chiêu thức mà các đối tượng sử dụng ngày càng tinh vi, khó nhận diện hơn. Hiện nay, chúng ít phủ nhận một cách trực diện, mà thường đan cài, lồng ghép những luận điệu cũ và mới, những thông tin đúng và tin xấu độc,… nhằm gây tâm lý hoài nghi, hoang mang và làm xói mòn niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân ta vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, từ đó, hướng lái cách mạng Việt Nam đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Chính vì vậy, cán bộ, đảng viên và nhân dân cần hết sức tỉnh táo, có nhận thức chính trị đúng đắn, lập trường tư tưởng vững vàng trước những âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, tuyệt đối tin tưởng vào sự lãnh đạo của Ðảng, vào mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; vững bước theo con đường của Cách mạng tháng Mười sẽ bảo đảm chắc chắn cho cách mạng Việt Nam tiếp tục giành được những thắng lợi to lớn hơn nữa./.

ST.