Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

Người ẩn danh: Quyền riêng tư hay kẽ hở lợi dụng?

Trên xã hội số, các dịch vụ và mối quan hệ của những chủ thể có mối quan hệ cơ hữu, gắn kết chặt chẽ với nhau. Một xã hội mới trong không gian ảo trên cơ sở các quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới, dân tộc và quan hệ dân tộc, gia đình và quan hệ gia đình, các tầng lớp xã hội cũng đã dần hình thành trên môi trường này.

Hiểu đúng về “quyền riêng tư” trên mạng xã hội

MXH và dịch vụ MXH trên không gian ảo là một cách điển hình để triển khai các hoạt động giao tiếp, chia sẻ thông tin của các chủ thể trên không gian ảo. Ban đầu, MXH được tạo ra nhằm cung cấp một dịch vụ trên internet để mỗi thành viên kết nối với nhau trên cơ sở cùng sở thích, cùng mối quan tâm và thực hiện nhiều mục đích khác nhau. Dịch vụ MXH tạo nên một môi trường mà trên đó, người tham gia có thể tự do thể hiện quan điểm, chia sẻ về những hoạt động trong cuộc sống hằng ngày.

Ẩn danh-một tính năng cho người sử dụng internet xuất hiện khi không gian số trở thành phổ biến trong đời sống xã hội của con người. Tính năng này cho phép người dùng xuất hiện mà không lưu lại các dấu vết hoạt động trên không gian mạng. Tính năng này hiện nay thường được người dùng sử dụng các dịch vụ MXH để tổ chức, tạo lập và sản xuất những sản phẩm thông tin, truyền thông như tin, bài, video clip, âm thanh dưới sự hỗ trợ của các công cụ sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng công nghiệp như dữ liệu lớn, các phần mềm thông minh nhân tạo... Tính năng ẩn danh tạo ra một dịch vụ cho phép thực hiện các quyền riêng tư, quyền tự do cá nhân... Bên cạnh những thông tin tích cực, nhân văn, vì xã hội và cộng đồng vẫn có các cá nhân, tổ chức lợi dụng các kỹ thuật, công nghệ tạo nên các kênh, cá nhân ẩn danh nhằm phá hoại những thành quả của đất nước, nhân dân, làm suy giảm lòng tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước thông qua việc cung cấp những thông tin sai sự thật, xuyên tạc, bôi nhọ trên MXH...

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người: Bài 1: Người ẩn danh: Quyền riêng tư hay kẽ hở lợi dụng?
Minh họa: NGUYỄN HIẾU 

Về mặt khái niệm, ẩn danh là việc người sử dụng thiết lập các tài khoản trên không gian số như tài khoản trên MXH Facebook; YouTube; Zalo; TikTok; Threads; Instagram... mà thông tin về danh tính thật của người sử dụng không được tiết lộ. Tính năng này cũng cho phép người dùng sử dụng tên giả, hồ sơ cá nhân giả, ảnh giả hoặc không có thật để hạn chế, trốn tránh việc truy vết thông tin, định danh người dùng.

Chính vì lẽ đó, tài khoản ẩn danh ngoài những người dùng sử dụng để thực hiện các hoạt động truyền thông mang nhiều nét nhân văn, tốt đẹp trên cơ sở hài hòa và gìn giữ văn hóa dân tộc thì hiện nay đang bị các đối tượng phản động, cơ hội chính trị thực hiện những hoạt động chống phá, cung cấp thông tin thất thiệt, quấy rối, bắt nạt người khác, thực hiện các hành vi lừa đảo, gian lận thông qua giả mạo thông tin người dùng khác, lợi dụng sự tin tưởng của người khác để trục lợi.

Bên cạnh đó, các tài khoản ẩn danh còn được sử dụng như một cách để xâm phạm quyền riêng tư, cố tình thu thập thông tin, hình ảnh của người khác để sử dụng cho mục đích xấu, gây lo lắng và bất an cho xã hội. Các tài khoản ẩn danh còn sử dụng những kỹ thuật, công nghệ như trí thông minh nhân tạo để tạo ra các sản phẩm truyền thông chứa đựng những thông tin sai lệch, tin giả, tin thất thiệt gây hoang mang và hiểu lầm trong cộng đồng, đặc biệt là bôi nhọ, xuyên tạc lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thành quả của Đảng Cộng sản Việt Nam trong tiến trình xây dựng, phát triển và bảo vệ Tổ quốc.

Các tài khoản này cũng thường được sử dụng để kích động bạo lực, thù hận và kỳ thị như phân biệt vùng miền, phá hoại tinh thần đoàn kết toàn dân tộc, gây nên những tổn thương tâm lý, sự hoang mang, phân hóa và mất niềm tin trong cộng đồng cũng như toàn xã hội, gây xung đột và căng thẳng không đáng có.

Hành lang pháp lý về trách nhiệm hành vi trên mạng xã hội

Internet đã tạo ra một không gian ảo, hình thành xã hội ảo trên cơ sở quan hệ giai cấp với tính chất và quy mô mới, lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất mới-phương thức sản xuất số-mà ở đó, các mối quan hệ như quan hệ giai cấp, mối quan hệ giữa con người với con người đã có những thay đổi, người dân có thể tiếp cận thế giới một cách dễ dàng hơn.

Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, năm 2024, Việt Nam có hơn 100 triệu dân với hơn 70 triệu người sử dụng internet. Lợi dụng những điều kiện thuận lợi được pháp luật quy định, các đối tượng đã lợi dụng sự bùng nổ về công nghệ thông tin, những tiện ích mà công nghệ thông tin mang lại (như dùng các kỹ thuật để ẩn danh tương tác, lừa đảo qua MXH, các ứng dụng nhắn tin qua mạng (OTT)...) để thực hiện nhiều vụ lừa đảo trực tuyến, chiếm đoạt tài sản có giá trị cao, gây hoang mang dư luận, mất an toàn xã hội.

Ứng phó với những vấn đề trên, theo thống kê của Cục An toàn thông tin (Bộ Thông tin và Truyền thông), tính đến tháng 6-2024, thông qua triển khai Hệ thống cảnh báo, ngăn chặn tên miền độc hại quốc gia (DNS Shinkhole quốc gia), cơ quan chức năng đã ngăn chặn 12.818 web/blog vi phạm, trong đó có 3.170 website lừa đảo trực tuyến. Bảo vệ hơn 10,981 triệu người dân không truy cập vào các website lừa đảo, vi phạm pháp luật). Tuy nhiên vẫn còn đó những khó khăn, thách thức về hành lang pháp lý, về kỹ thuật công nghệ, về nhận thức của người dân cần được tiếp tục rà soát, hoàn thiện và thúc đẩy.

Những tài khoản ẩn danh trên MXH mang lại nhiều nguy cơ, thách thức, đặc biệt trong bối cảnh đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới, đòi hỏi chúng ta cần có các phương án, giải pháp mang tính định hướng để bảo đảm quyền riêng tư, hạn chế các hoạt động ẩn danh mang mục đích xấu thông qua tăng cường các hoạt động bảo đảm bảo mật thông tin, sử dụng các biện pháp nhằm xác thực danh tính, hoàn thiện hành lang pháp lý theo hướng quy định trách nhiệm hành vi khi sử dụng MXH, tiến tới xử lý nghiêm minh các vi phạm liên quan đến tài khoản ẩn danh.

Cùng với đó, người dân cần nhận diện các hoạt động lợi dụng ẩn danh để quấy rối, bắt nạt, lừa đảo, xâm phạm quyền riêng tư, tán phát thông tin sai lệch và bôi nhọ, cung cấp các thông tin thất thiệt, các quan điểm sai trái, thù địch nhằm chống phá thành quả của cách mạng Việt Nam, chống phá sự nghiệp cách mạng của Đảng và Nhà nước ta./.

ST.

Lại thêm những luận điệu xuyên tạc việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân

Những ngày này, khi các địa phương trên cả nước đang tích cực triển khai công tác khám sức khỏe (từ ngày 1-11 đến 31-12), gọi thanh niên nhập ngũ thì trên không gian mạng lại xuất hiện các thông tin, luận điệu sai trái, xuyên tạc việc tham gia thực hiện nghĩa vụ quân sự (NVQS), đả kích môi trường quân ngũ. Đây là luận điệu nhằm bôi nhọ hình ảnh, truyền thống của người chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam, xuyên tạc việc thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc, tạo dư luận xấu, gieo rắc tư tưởng thoái thác về trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân với Tổ quốc, nhất là những người trong độ tuổi thực hiện NVQS.

Những luận điệu sai trái, xuyên tạc

Trên không gian mạng, mạng xã hội, các thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị đang rêu rao, tuyên truyền các bài viết, đăng status, dòng trạng thái sai sự thật như: “Trong khi các nước phát triển quan tâm chăm lo đào tạo cho thanh niên lập nghiệp, làm ăn kinh tế thì chỉ có Việt Nam mới bắt ép người dân đi NVQS, nghĩa vụ công an”, “hãy để thanh niên lập nghiệp, làm giàu, đừng bắt đi NVQS”, “mất 2 năm đi NVQS về chẳng được gì”, “chỉ con nhà nghèo mới bị bắt đi nghĩa vụ”...

Lại thêm những luận điệu xuyên tạc việc thực hiện nghĩa vụ quân sự của công dân

Thanh niên huyện Pác Nặm, tỉnh Bắc Kạn hăng hái lên đường thực hiện nghĩa vụ quân sự. 

Trong khi sự thật là, nhiều nước trên thế giới vẫn đang áp dụng bắt buộc nghĩa vụ quân sự, không thực hiện miễn, hoãn-kể cả các ngôi sao nghệ thuật. Nguy hiểm hơn, các thế lực thù địch, phản động còn đăng tải các cảnh bạo lực, quân phiệt của quân đội nước ngoài với lời bình xuyên tạc là ở Việt Nam; họ cắt ghép, dàn dựng hình ảnh, video để bóp méo sự thật, xuyên tạc về đạo đức, tác phong và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ trong Quân đội... nhằm kích động một số người nhẹ dạ, cả tin, thiếu hiểu biết chia sẻ, lan tỏa trên mạng xã hội, làm nóng vấn đề.

Mục đích của họ là bôi nhọ hình ảnh tốt đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, bản chất, truyền thống, uy tín của Quân đội, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Quân đội, với Đảng, Nhà nước. Từ đó, khiến cho công dân đến độ tuổi nhập ngũ và gia đình, người thân “tự diễn biến”, dao động tư tưởng, hoài nghi, thiếu niềm tin, trốn tránh thực hiện NVQS, chống đối việc thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc. Hệ quả là rơi vào âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, gây mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, tham gia biểu tình, chống phá, kích động các quân nhân đào ngũ, bỏ ngũ.

Trách nhiệm và nghĩa vụ thiêng liêng của mọi công dân

Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật trường tồn của dân tộc Việt Nam. Lịch sử minh chứng, biết bao thế hệ ông cha đã ngã xuống cho nền độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, “Quyết tử để Tổ quốc quyết sinh”, “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, hàng triệu thanh niên Việt Nam đã xung phong “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, trở thành những chiến sĩ kiên trung, bất khuất.

Những anh hùng liệt sĩ như: Võ Thị Sáu, Lý Tự Trọng, Bế Văn Đàn, Cù Chính Lan, Tô Vĩnh Diện, Nguyễn Văn Trỗi, Nguyễn Viết Xuân, Nguyễn Văn Thạc, Đặng Thùy Trâm, 10 nữ thanh niên xung phong tại Ngã ba Đồng Lộc... là biểu tượng sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, niềm tự hào của các thế hệ thanh niên Việt Nam học tập, noi theo: “Con đường của thanh niên chỉ là con đường cách mạng, không thể là con đường nào khác”-câu nói đanh thép của Anh hùng Lý Tự Trọng đã trở thành lời hiệu triệu, động lực thôi thúc hàng triệu thế hệ thanh niên Việt Nam mong muốn được cống hiến, hy sinh cho Tổ quốc.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc là quyền lợi và trách nhiệm cao cả của mỗi công dân Việt Nam để bảo vệ nền độc lập, tự do, hòa bình cho Tổ quốc, bảo vệ sự bình yên cho chính quê hương, gia đình, người thân của mình. Thực hiện NVQS đã được hiến định trong Hiến pháp, pháp luật Nhà nước. Điều 45, Chương II, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và quyền cao quý của công dân.

Công dân phải thực hiện NVQS và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” và Điều 64, Chương IV quy định: “Bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn dân... Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an ninh”. Thể chế hóa Hiến pháp, khoản 1, khoản 2, Điều 4 và khoản 1, Điều 59 Luật NVQS năm 2015 quy định: “NVQS là nghĩa vụ vẻ vang của công dân phục vụ trong Quân đội nhân dân; công dân trong độ tuổi thực hiện NVQS, không phân biệt dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ học vấn, nghề nghiệp, nơi cư trú phải thực hiện NVQS theo quy định.

Tổ chức, cá nhân có hành vi trốn tránh, chống đối, cản trở việc thực hiện NVQS thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự”. Theo đó, công dân đến tuổi tham gia NVQS không thể đưa ra để bàn luận, so đo, tính toán “đi hay không đi”, “dám hay không dám”. Việc trốn tránh NVQS, trốn tránh trách nhiệm công dân không những vi phạm pháp luật mà còn là tội lớn với thế hệ cha anh đi trước, với Tổ quốc và dân tộc.

Trường học lớn để thanh niên phấn đấu

Cần khẳng định, Quân đội là trường học lớn để lớp lớp thế hệ thanh niên phấn đấu rèn luyện, trưởng thành. Được phục vụ trong môi trường Quân đội, cống hiến sức trẻ bảo vệ Tổ quốc là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân. Với kỷ luật tự giác và nghiêm minh, môi trường văn hóa quân sự là cơ hội để thanh niên học tập, rèn luyện, trưởng thành và cống hiến.

Cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống vật chất, tinh thần, chế độ, chính sách đối với quân nhân ngày càng được quan tâm, bảo đảm tốt. Quá trình thực hiện NVQS, thanh niên được học tập, tiếp thu những kiến thức về chính trị, quân sự, văn hóa, khoa học kỹ thuật, nghiệp vụ hữu ích cho bản thân. Trong môi trường quân ngũ, họ được học tập, quán triệt đầy đủ đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực, nhất là về quốc phòng, an ninh, chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; được giáo dục chính trị, truyền thống, giáo dục pháp luật...

Thông qua đó, thanh niên trưởng thành về nhận thức chính trị, hình thành thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nhận diện rõ, đúng những vấn đề thời sự, chính trị diễn ra trong nước và thế giới; đồng thời, nâng cao tinh thần yêu nước, nhận thức, ý thức cảnh giác cách mạng, có lập trường chính trị vững vàng, có khả năng “miễn dịch” trước những luận điệu xuyên tạc, kích động, chống phá của các thế lực thù địch.

Môi trường quân ngũ còn giúp thanh niên được rèn luyện sức khỏe, thể lực dẻo dai; tác phong chững chạc, có trách nhiệm cao với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật nghiêm; giao tiếp, ứng xử đúng mực, có văn hóa. Quân đội cũng chính là môi trường giáo dục tốt nhất về tình đồng chí, đồng đội; tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái; cán bộ, chiến sĩ đồng sức, đồng lòng cùng nhau hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là nơi mà thanh niên thấm nhuần sâu sắc tình đoàn kết, gắn bó máu thịt quân dân, tình yêu quê hương, đất nước trong quá khứ, hiện tại và tương lai.

Bên cạnh đó, sau khi huấn luyện, những quân nhân có đủ điều kiện sẽ được tuyển chọn, bố trí công việc phù hợp với khả năng hoặc cử đi đào tạo để trở thành sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp (nếu có nguyện vọng phục vụ lâu dài trong Quân đội). Những quân nhân hoàn thành NVQS, khi xuất ngũ sẽ được hưởng chính sách ưu đãi như cộng điểm khi thi tuyển sinh vào các trường đại học, học viện, hỗ trợ đào tạo học nghề, tạo công ăn việc làm...

Khi xuất ngũ được hưởng trợ cấp xuất ngũ, trợ cấp việc làm, trợ cấp bảo hiểm, thanh toán nghỉ phép, quà Tết, phụ cấp, thẻ học nghề giúp thanh niên lập thân, lập nghiệp và ổn định cuộc sống sau này. Điều đó minh chứng, môi trường Quân đội không những không “xấu” như sự bịa đặt, xuyên tạc của các thế lực thù địch mà còn là nơi có điều kiện tốt để thanh niên rèn luyện, phấn đấu, trưởng thành về mọi mặt.

Thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc không chỉ là nghĩa vụ, trách nhiệm mà trên hết đó còn là niềm vinh dự, tự hào của mỗi công dân Việt Nam, góp phần bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng, giữ gìn bản sắc, truyền thống dân tộc, hội nhập quốc tế. Đồng thời, đây cũng là cơ hội để các thế hệ thanh niên được tu dưỡng, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường “Quân đội anh hùng của dân tộc anh hùng”. Thực tiễn sinh động đó là minh chứng bác bỏ, phê phán các luận điệu xuyên tạc về thực hiện NVQS, bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.

ST.

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Những điều căn cốt, thời sự

Như đã luận giải ở bài viết trước, trong các nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn tới sự sụp đổ của Liên Xô thì xét đến cùng là do nguyên nhân chủ quan quyết định. Sự sụp đổ đó là của mô hình cụ thể, chứ tuyệt nhiên không phải sự sụp đổ hay cáo chung của chủ nghĩa xã hội (CNXH) như thế lực thù địch, phản động thường xuyên tạc. Nhận diện đầy đủ và đúng bản chất vấn đề này là những điều có ý nghĩa căn cốt và thời sự với sự nghiệp đổi mới, xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng của Việt Nam hiện nay.

Trong bài viết với tiêu đề “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã?” đăng trên Tạp chí Cộng sản năm 1992, GS, TS Nguyễn Phú Trọng (từ năm 2011 đến tháng 7-2024 là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chỉ ra nguyên nhân có ý nghĩa quyết định làm tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô là quá trình “vận động” của chính đảng này. Về sau, Đảng ta khái quát quá trình “vận động” này và gọi đó là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được thể hiện trên nhiều bình diện.

Theo GS, TS Nguyễn Phú Trọng, có 5 biểu hiện của sự “vận động” đó. Một là, không xác lập đúng đắn vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Hai là, phủ nhận Chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng của Đảng. Ba là, coi nhẹ hoặc phủ nhận nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng Cộng sản. Bốn là, xa rời quần chúng, mất uy tín nghiêm trọng trước nhân dân, không được nhân dân ủng hộ. Năm là, từ bỏ chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân, thổi lên ngọn lửa kỳ thị dân tộc, dân tộc hẹp hòi.

Từ thực tiễn và lý luận cơ bản được Đảng ta tổng kết trong nhiều văn kiện, chúng ta có thể rút ra những bài học lớn với Việt Nam từ quá trình “tự diễn biến” trong nội bộ Đảng Cộng sản Liên Xô dẫn tới hậu quả tan rã Liên bang Xô viết-cường quốc xã hội chủ nghĩa (XHCN) đầu tiên trên thế giới, như sau:

Thứ nhất, Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”. Từ khẳng định này, Đảng ta kiên định và quyết tâm đưa Việt Nam tiếp tục phát triển đi lên CNXH trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. 

Với quyết tâm chính trị đó, Đại hội lần thứ VI (1986) của Đảng ta đã thông qua đường lối đổi mới đất nước. Tiếp đến, Đại hội lần thứ VII (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, thể hiện lập trường kiên định của Đảng ta về mục tiêu và định hướng phát triển đi lên CNXH ở Việt Nam. Đường lối đổi mới của Đảng ta được thông qua tại Đại hội lần thứ VI trên cơ sở kế thừa sáng tạo Chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin với nội dung cốt lõi là phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thành công của gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới của Việt Nam kể từ Đại hội lần thứ VI của Đảng chứng tỏ giá trị trường tồn của Cách mạng Tháng Mười, mở ra kỷ nguyên quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) phát triển đi lên CNXH.

Thứ hai, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Ở Liên Xô, trong giai đoạn “cải tổ” đã đồng nhất việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường với việc xóa bỏ chế độ XHCN và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Còn Đảng ta vận dụng chính sách kinh tế mới của V.I.Lenin để phát triển kinh tế thị trường nhằm giải phóng nguồn lực và phát triển sức sản xuất trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đảng ta cho rằng, việc áp dụng cơ chế kinh tế thị trường phải có chọn lọc trên quan điểm khoa học và phát triển, không đồng nhất kinh tế thị trường với CNTB. Trên cơ sở đó, Đảng ta đề ra chủ trương xây dựng ở Việt Nam nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Ba là, giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, coi đó là yếu tố có ý nghĩa quyết định thắng lợi của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Cương lĩnh của Đảng ta về xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH đã xác định rõ, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của cách mạng ở nước ta. Vai trò lãnh đạo của Đảng ta đối với cách mạng Việt Nam đã được xác định tại Điều 4 Hiến pháp năm 2013.

Bốn là, kiên quyết và kiên trì đấu tranh nhằm ngăn chặn các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, kết hợp với việc cảnh giác và làm thất bại âm mưu“diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch. Rút kinh nghiệm từ tác động phá hoại hết sức nguy hiểm của âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch kết hợp với quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, Đảng ta đặc biệt chú ý đấu tranh ngăn chặn tình trạng tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống đang diễn ra trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa V trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã sớm cảnh báo hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, hành vi lộng quyền, tham nhũng của một số cán bộ và nhân viên nhà nước chưa bị trừng trị nghiêm khắc và kịp thời. Từ giữa nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta tiếp tục cảnh báo tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống là một trong những nguyên nhân cản trở sự phát triển, là hiểm họa đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ XHCN. Với quyết tâm chính trị cao và các giải pháp đồng bộ, Đảng ta đã bước đầu ngăn chặn được hiểm họa này.

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 2: Những điều căn cốt, thời sự
Lễ mít-tinh kỷ niệm 106 năm Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moskva
(Ngày 7-11-2023). Ảnh: nhandan.vn

Tổng kết thành tựu và kinh nghiệm 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, ngày 30-10-2016, thay mặt Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ký ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TW về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Nghị quyết đã chỉ rõ nguyên nhân, biểu hiện và biện pháp phòng, chống hiểm họa này. 

Trong số các nguyên nhân, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ nguyên nhân khách quan do tác động từ khủng hoảng của CNXH trên thế giới sau sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu; từ mặt trái của kinh tế thị trường; tác động tiêu cực từ toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế; những khó khăn, thách thức của các nước đi theo con đường XHCN trong bối cảnh quốc tế hiện nay; các thế lực thù địch, phản động đẩy mạnh thực hiện âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hòa bình".

Trong số các nguyên nhân chủ quan, Nghị quyết số 04-NQ/TW chỉ rõ tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên; công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên về Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa được coi trọng đúng mức, kém hiệu quả; một số nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nội dung chưa sát thực tiễn; một số cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tiên phong, gương mẫu; cơ chế kiểm soát quyền lực chậm được hoàn thiện, còn nhiều sơ hở; chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"; đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ còn nể nang, cục bộ; việc thực hiện kỷ cương, kỷ luật của Đảng chưa nghiêm; chưa chủ động và thiếu giải pháp phù hợp để định hướng thông tin trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng; việc phát huy vai trò, trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội, các cơ quan truyền thông và nhân dân trong đấu tranh, ngăn chặn suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên còn hạn chế, hiệu quả chưa cao.

Nghị quyết số 04-NQ/TW đã chỉ ra 9 biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị; 9 biểu hiện về suy thoái đạo đức, lối sống và 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nghị quyết xác định phải thực hiện nghiêm các yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã được đề ra tại Đại hội XII với 10 giải pháp cơ bản, trong đó nhấn mạnh phải kiên quyết, kiên trì tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI), với trọng tâm là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi quá trình "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ Đảng.

Đến nay, công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, phòng, chống "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã đạt nhiều kết quả rất quan trọng, góp phần đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khát vọng xây dựng đất nước hùng cường, thịnh vượng cùng những mục tiêu lớn lao vào thời điểm trọng đại kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng (2030) và 100 năm thành lập nước (2045), xây dựng thành công nước Việt Nam XHCN, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, sánh vai với các cường quốc năm châu.

Với thành tựu trong công cuộc đổi mới và từng bước đạt được các mục tiêu cao cả, Đảng ta đã tiếp tục khẳng định giá trị bất biến của Cách mạng Tháng Mười là mở đầu một thời đại mới trong lịch sử, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên toàn thế giới như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dự báo./.

ST.

Mặt trời chói lọi" và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô

Trong những năm “cải tổ” ở Liên Xô (1985-1991) lan truyền luận điệu Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, do đó cần xóa bỏ Đảng Cộng sản Liên Xô và chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) để “sửa chữa sai lầm lịch sử” đó!?

Luận điệu này là một trong những biểu hiện tập trung của quá trình “tự diễn biến”, "tự chuyển hóa" dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước XHCN đầu tiên trên thế giới. Tuy nhiên, thực tế lịch sử chứng minh Liên Xô tan rã không phải do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”.

Nhân kỷ niệm 107 năm Ngày Cách mạng Tháng Mười Nga (7-11-1917 / 7-11-2024), chúng ta cùng nhìn lại vai trò, ý nghĩa lịch sử của cuộc cách mạng vĩ đại và nguyên nhân nội tại, có ý nghĩa quyết định dẫn tới sự tan rã Liên Xô, những bài học vẫn nguyên tính thời sự đối với sự nghiệp cách mạng của Việt Nam hiện nay.

Hơn 30 năm kể từ khi Liên Xô - cường quốc XHCN đầu tiên trên thế giới sụp đổ, đã có hàng nghìn công trình nghiên cứu, chuyên khảo, hồi ký, chuyên luận và điều tra đi tìm lời giải về thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20 này. Tựu trung trong nhiều nghiên cứu chỉ ra, một trong những nguyên nhân có ý nghĩa quyết định dẫn tới thảm họa này là quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng Cộng sản Liên Xô.

Cuộc cách mạng mở đầu một thời đại mới

Nói về ý nghĩa của Cách mạng Tháng Mười, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Giống như mặt trời chói lọi, Cách mạng Tháng Mười chiếu sáng khắp năm châu, thức tỉnh hàng triệu hàng triệu người bị áp bức, bóc lột trên trái đất. Trong lịch sử loài người chưa từng có cuộc cách mạng nào có ý nghĩa to lớn và sâu xa như thế”.

Không thể phủ nhận sự thật lịch sử là nhà nước Xô viết ra đời từ cuộc Cách mạng Tháng Mười đã đạt được những thành tựu kỳ vĩ trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội (CNXH) dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô. Sinh thời, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Đảng Cộng sản Liên Xô có lịch sử vô cùng oanh liệt và vẻ vang.

Được V.I.Lênin sáng lập và rèn luyện, Đảng đã từng là một trong những đảng mác-xít, lê-nin-nít hùng mạnh nhất và kiên cường nhất. Đảng đã từng lãnh đạo nhân dân làm nên Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại, đánh thắng chủ nghĩa phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, xây dựng những cơ sở vật chất - kỹ thuật quan trọng của CNXH, mở ra một giai đoạn phát triển mới trong lịch sử nhân loại. Đó thật sự là những công việc kinh thiên động địa, những sự tích thần kỳ, được cả loài người tiến bộ cảm phục và kính trọng”. 

Liên Xô tan rã và luận điệu do Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử” - Bài 1: "Mặt trời chói lọi" và quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của Đảng Cộng sản Liên Xô
 Các thành viên Đảng Cộng sản Nga tại lễ kỷ niệm 100 năm Cách mạng Tháng 10 Nga ở thủ đô Moskva. Ảnh: TTXVN 

Cách mạng Tháng Mười như một cơn địa chấn của thế kỷ 20, không chỉ mở ra một kỷ nguyên mới đối với nước Nga mà còn cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng của giai cấp công nhân các nước, chỉ ra cho họ con đường đi tới thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ cũ, xây dựng chế độ mới tốt đẹp hơn. Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười và tiếp đó là thắng lợi của nhân dân Liên Xô trong Chiến tranh thế giới thứ hai, CNXH từ một nước đã phát triển thành một hệ thống XHCN thế giới đầy sức sống và hùng mạnh, có vai trò to lớn và từng có tính chất quyết định đến vận mệnh, sự phát triển của thế giới.

Hệ thống XHCN, đứng đầu là Liên Xô đã có những giai đoạn phát triển rực rỡ, đã đoàn kết các dân tộc, mọi tầng lớp nhân dân chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp, bình đẳng, công bằng, mang lại hạnh phúc cho đông đảo nhân dân lao động. Nhờ ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười và sự giúp đỡ, tác động của hệ thống XHCN thế giới, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến những năm 70 của thế kỷ 20, hàng loạt dân tộc thuộc địa và lệ thuộc đã đứng lên giải phóng khỏi sự áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa thực dân.

Cho nên có thể nói, Cách mạng Tháng Mười Nga mang tầm ảnh hưởng quốc tế to lớn, tính thời đại sâu sắc, mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. 

"Cải tổ 1.0, 2.0" và hành trình dẫn đến tan rã Liên Xô

Liên Xô sụp đổ là thảm họa địa-chính trị lớn nhất trong thế kỷ 20. Nhiều kẻ cơ hội, phản động được thể xuyên tạc những giá trị lịch sử của nhà nước xã hội đầu tiên trên thế giới được mở đầu bằng cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Từ việc coi Cách mạng Tháng Mười là “sai lầm của lịch sử”, họ phủ nhận những giá trị nhân văn, tốt đẹp của CNXH, đánh đồng sự sụp đổ của mô hình CNXH hiện thực ở Liên Xô, Đông Âu với sự thất bại của Chủ nghĩa Mác-Lênin và rêu rao cuộc cách mạng đó là “đẻ non”, “đã chết” và CNXH đã đến “hồi kết thúc”... Tuy nhiên, từ thực tiễn, chúng ta hoàn toàn có cơ sở để bác bỏ những luận điệu trên. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu là sụp đổ của mô hình cụ thể chứ không phải sụp đổ hay cáo chung của Chủ nghĩa Mác-Lênin, của CNXH như các thế lực thù địch, phản động thường rêu rao, xuyên tạc. Ở khía cạnh cụ thể trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin luận giải một số nguyên nhân nội tại của quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có ý nghĩa quyết định đẩy Đảng Cộng sản Liên Xô tới chỗ tan rã và cường quốc XHCN sụp đổ.

Sai lầm về đường lối chính trị

Ngay sau Cách mạng Tháng Mười, V.I.Lênin từng cảnh báo: “Giành chính quyền đã khó, giữ chính quyền khó hơn”. Vì thế, V.I.Lênin luôn yêu cầu phải kiên quyết và kịp thời đấu tranh ngăn chặn mọi biểu hiện suy thoái về chính trị trong Đảng. Trong những năm dưới sự lãnh đạo của V.I.Lênin và J.Stalin, Đảng Cộng sản Liên Xô đã tiến hành hiệu quả cuộc đấu tranh này. Tuy nhiên, sau khi J.Stalin qua đời (1953), quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về đường lối chính trị trong Đảng Cộng sản Liên Xô bắt đầu bộc lộ biểu hiện rất nguy hiểm. 

Trong bản báo cáo mật bên lề Đại hội Đảng Cộng sản Liên Xô khóa XX (1956) đã có chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ nhận những thành tựu vĩ đại của Liên Xô trong những năm sau Cách mạng Tháng Mười và trong cuộc Chiến tranh vệ quốc vĩ đại (1941-1945). Nếu không được các đảng viên trung kiên trong Ban Chấp hành Trung ương Đảng ngăn chặn, chủ trương này có thể đưa Liên Xô tới chỗ tan rã. Chính vì thế, giới nghiên cứu lịch sử ở Nga cho rằng chủ trương “xét lại” Chủ nghĩa Mác-Lênin là “cải tổ 1.0”, tuy chưa dẫn tới tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô nhưng đã để lại “di chứng” nặng nề và đã phát tác trong giai đoạn “cải tổ 2.0” thập niên 1980 được khởi xướng bởi M.Gorbachyov trên cương vị Tổng Bí thư và A.Yakovlev trên cương vị Trưởng ban Tuyên truyền của Đảng Cộng sản Liên Xô. Về sau, chính M.Gorbachyov và A.Yakovlev công khai thừa nhận mục tiêu hướng tới của “cải tổ” là xóa bỏ Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Liên Xô.

Sai lầm trong công tác cán bộ của Đảng

Đường lối cán bộ của Đảng Cộng sản Liên Xô do V.I.Lênin đề xướng dựa trên các nguyên tắc kết hợp việc tuyển chọn cán bộ có đức, có tài với công tác kiểm tra quá trình thực hiện công tác của cán bộ. V.I.Lênin chủ trương “tin tưởng là tốt, nhưng kiểm tra vẫn tốt hơn”. Kiểm tra nhằm kịp thời cảnh báo và ngăn chặn quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. 

Các thế hệ lãnh đạo của Đảng Cộng sản Liên Xô sau này đã không tuân theo di huấn của Lênin, vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc trong công tác cán bộ của Đảng. Một là, nặng về hình thức trong đào tạo cán bộ theo kiểu “thầy đọc, trò chép và học thuộc lòng”. Vì thế, kiến thức lý luận về Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ nằm trên sách vở mà không được vận dụng vào thực tiễn. Nhiều cán bộ tuy được cấp bằng hoặc chứng chỉ nhưng năng lực lãnh đạo kém, không có khả năng dự phòng và bảo vệ, thậm chí vô cảm trước quá trình diệt vong của Đảng. Hai là, khi tuyển chọn và bổ nhiệm cán bộ thường xuất phát từ tình cảm cá nhân, yêu-ghét chủ quan, cố ý nâng đỡ những kẻ thân tín, bè phái. Ba là, công tác đánh giá cán bộ trở thành công cụ để thực hiện ý đồ của cá nhân người lãnh đạo chứ không nhằm mục đích chọn cán bộ tốt.

Vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng

V.I.Lênin là người đề ra nguyên tắc tập trung dân chủ để xây dựng chính đảng kiểu mới của giai cấp vô sản. Theo nguyên tắc này, thiểu số phục tùng đa số, bộ phận phục tùng tập thể và các cơ quan lãnh đạo cấp dưới phục tùng cơ quan lãnh đạo cấp trên. V.I.Lênin cho rằng, nếu không có tập trung, Đảng sẽ trở thành một “câu lạc bộ” lộn xộn, còn nếu xa rời dân chủ, Đảng sẽ trở thành một tổ chức quan liêu, độc đoán, chuyên quyền. V.I.Lênin đã nhiều lần cảnh báo sự vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ là hiểm họa đe dọa sự sống còn của Đảng và chế độ XHCN.

Các thế hệ lãnh đạo sau này, nhất là M.Gorbachyov đã xa rời nguyên tắc tập trung dân chủ, lạm dụng quyền lực để loại bỏ những cán bộ trung thành và kiên định với lý tưởng XHCN, bổ nhiệm những kẻ ủng hộ chủ trương “cải tổ” sai lầm của ông. Về sau, chính A.Yakovlev thừa nhận, M.Gorbachyov sử dụng “cơ chế toàn trị” để phá hoại Đảng Cộng sản Liên Xô.

Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống

Sự thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống trong Đảng Cộng sản Liên Xô trở nên đặc biệt nghiêm trọng trong thời kỳ L.Brezhnev và M.Gorbachyov cầm quyền với những biểu hiện rất đa dạng như tham quyền cố vị; bệnh thành tích, thích được khen thưởng và hưởng lạc; giả dối; tham ô... Biểu hiện điển hình nhất về bệnh thành tích là L.Brezhnev. Tính tổng cộng, L.Brezhnev đã nhận 114 huân chương, trong đó có 8 Huân chương Lênin; 2 Huân chương Sao Đỏ, Huân chương Chiến thắng; 2 Huân chương Cách mạng Tháng Mười... Do không đáp ứng các tiêu chuẩn được nhận, những huân chương dành cho L.Brezhnev đã gây phản ứng rất tiêu cực trong xã hội, làm mất uy tín không chỉ trong mà cả ngoài Đảng.  

Trong Đảng hình thành tầng lớp đặc quyền, đặc lợi. Ở Liên Xô thời đó tồn tại hệ thống cửa hàng đặc biệt dành cho cá nhân và gia đình các thành viên của Ban Chấp hành Trung ương Đảng-nơi họ có thể mua bất cứ thứ hàng hóa xa xỉ nào được nhập khẩu từ phương Tây. Vì thế, nhân dân coi lãnh đạo cấp cao trong Đảng như là một “giai cấp mới” trong xã hội Xô viết, tạo hố ngăn cách ngày càng lớn giữa Đảng và nhân dân. Sự tha hóa, biến chất trong Đảng lên tới đỉnh điểm trong giai đoạn “cải tổ”, trong đó lợi dụng những khe hở của pháp luật trong quá trình tư nhân hóa, các tầng lớp đặc quyền, đặc lợi trong bộ máy lãnh đạo Đảng và quản lý nhà nước mặc sức tham nhũng, vơ vét của công, dẫn tới bước ngoặt căn bản là thúc đẩy quá trình tan rã Đảng Cộng sản Liên Xô và nhà nước Xô viết./.

ST.

Cảnh giác trước âm mưu hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ gốc rễ

An ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cốt lõi của an ninh chính trị, an ninh quốc gia. Trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch nhằm phủ nhận giá trị của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh - nền tảng tư tưởng của Đảng ta, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, việc tăng cường bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là vấn đề cấp thiết trong tình hình hiện nay.

Âm mưu chống phá về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là tổng thể các biện pháp của Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị tiến hành, nhằm phát hiện, chủ động phòng ngừa, ngăn chặn, đấu tranh làm thất bại các hoạt động xâm phạm an ninh tư tưởng chính trị, bảo đảm sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam, trên nền tảng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch trong tình hình mới.

Đảng ta luôn coi trọng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị, đấu tranh với các thông tin tuyên truyền chống phá của các thế lực thù địch, các trào lưu tư tưởng phản động nhằm bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ; bảo vệ sự đồng thuận, nhất trí về chính trị trong nhân dân.

Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch ra sức chống phá Việt Nam, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị bằng nhiều hình thức, thủ đoạn. Các đối tượng chống phá cho rằng Chủ nghĩa Mác-Lênin “đã lỗi thời, chỉ phù hợp với thế kỷ 19”, “đó là sản phẩm ngoại nhập của phương Tây, không thích hợp với điều kiện kinh tế-xã hội ở Việt Nam”. Đặc biệt, các thế lực phản động đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam bằng luận điệu: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ”; họ lấy quan điểm dân chủ, nhân quyền tư sản để đồng nhất dân chủ với đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập; nhà nước pháp quyền với thiết chế tam quyền phân lập; nhân quyền với tuyệt đối hóa quyền của cá nhân, rồi vu cáo Đảng ta là “độc tài, độc đoán, mất dân chủ”, không thể lãnh đạo đất nước.

Nguy hại là lợi dụng quá trình mở cửa, hội nhập, các trào lưu tư tưởng tư sản đang thâm nhập vào nước ta thông qua nhiều con đường. Các “giá trị” văn hóa, lối sống tư sản cũng có điều kiện thâm nhập, thẩm thấu, phát triển, làm phai nhạt, mất dần bản sắc văn hóa dân tộc. Các khuynh hướng này cùng với sự tác động hằng ngày của các hình thức, các sản phẩm văn hóa nước ngoài khiến một bộ phận cán bộ, đảng viên, người dân mất phương hướng; các chuẩn mực giá trị có nguy cơ xuống cấp, dẫn đến sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, những biến động về chính trị, kinh tế ở các nước luôn tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh quốc gia của Việt Nam, trước hết là lĩnh vực tư tưởng chính trị. Cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội kéo theo sự khủng hoảng về lý luận, ảnh hưởng tiêu cực đến tư tưởng một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân. Biến động chính trị ở các nước trên thế giới vô tình cổ xúy và cung cấp kinh nghiệm cho những phần tử phản động, cơ hội chính trị tiến hành các hoạt động phá hoại nước ta trên các lĩnh vực, nhất là chống phá về tư tưởng chính trị. Ngoài ra, những mặt trái của cơ chế thị trường cũng tác động tiêu cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng chính trị. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước hòng gây chia rẽ Đảng với nhân dân, hạ thấp uy tín của Đảng, thậm chí vu khống, bịa đặt, bôi nhọ bộ máy lãnh đạo của đất nước, kích động chống Đảng và Nhà nước, gây hoài nghi và tạo nên những dư luận xấu trong xã hội.

Cảnh giác trước âm mưu hủy hoại nền tảng tư tưởng của Đảng từ gốc rễ
Ảnh minh họa/cand.vn 

Phát huy sức mạnh tổng hợp để bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng có vai trò đặc biệt quan trọng, nhằm giữ vững sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ XHCN ở Việt Nam; bảo đảm sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng đối với cách mạng Việt Nam; chống mọi nguy cơ chệch hướng XHCN và những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, trước sự tác động của tình hình và sự chống phá của các thế lực thù địch. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị góp phần tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới.

Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng là bảo vệ và phát triển nền tảng tư tưởng của Đảng là Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước; góp phần nâng cao nhận thức, tư tưởng, lý luận, bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đồng thời khắc phục những tư tưởng, lý luận lạc hậu, chệch hướng trong xã hội; kiên quyết đấu tranh, ngăn chặn những biểu hiện cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, gây mất đoàn kết trong Đảng. Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên vi phạm quy định của Đảng về những điều đảng viên không được làm, nhất là phát ngôn, tuyên truyền, tán phát tài liệu trái Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước. Đấu tranh hiệu quả với âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

Để tạo nền tảng bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị từ gốc rễ, cần làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, giáo dục truyền thống; khơi dậy lòng tự hào dân tộc, đề cao các giá trị văn hóa, đạo đức, lối sống lành mạnh của con người Việt Nam. Tăng cường các hình thức tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, đảng viên và nhân dân về truyền thống dựng nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Đẩy mạnh học tập, thực hiện các nghị quyết của Đảng, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên thấy rõ trách nhiệm phải kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, tư tưởng, nhận thức sai trái, lệch lạc, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng chính trị. Tăng cường giáo dục Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp, các ngành; bồi dưỡng nhận thức, lập trường, quan điểm và năng lực vận dụng Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tạo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội đối với Cương lĩnh, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

Vấn đề mấu chốt là phát huy vai trò tự tu dưỡng, tự học tập, rèn luyện của cán bộ, đảng viên để nâng cao trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, đạo đức cách mạng. Đây là giải pháp căn cơ nhằm phát huy nhân tố chủ quan của đội ngũ cán bộ, đảng viên, biến quá trình bồi dưỡng thành quá trình tự bồi dưỡng; là con đường tự thân nhằm nâng cao sức đề kháng thông qua khả năng tự nhận biết, tự phân loại, sàng lọc và định hướng thông tin để bảo vệ mình, bảo vệ tổ chức trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tự học tập, tự rèn luyện để không ngừng nâng cao trình độ lý luận, bản lĩnh chính trị, luôn kiên định, vững vàng trước sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch với những âm mưu, thủ đoạn đa dạng, tinh vi, xảo quyệt; không để kẻ thù lợi dụng mua chuộc, lôi kéo, chống phá.

Trong thời đại thông tin bùng nổ, chú trọng giải pháp lãnh đạo, quản lý các hoạt động báo chí, xuất bản, nhất là trong việc định hướng chính trị-tư tưởng, phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Củng cố, kiện toàn tổ chức, cán bộ các cơ quan tư tưởng, văn hóa thật sự trong sạch, vững mạnh, làm nòng cốt trong tuyên truyền, định hướng, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức, nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng. Phát huy tốt hơn nữa vai trò của truyền thông, báo chí trong định hướng tư tưởng chính trị, định hướng các giá trị, lối sống phù hợp với bản sắc, truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam. Đồng thời phải tích cực, chủ động “nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề trong Đảng, trong xã hội. Chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, đồng thuận cao trong xã hội” như văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã xác định.

Các cơ quan chức năng cần phát huy vai trò nòng cốt trong tham mưu cho Đảng, Nhà nước đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận, đề ra các chủ trương, chính sách về bảo đảm an ninh trên lĩnh vực tư tưởng chính trị. Phối hợp tổ chức tốt cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng-lý luận, chủ động phát hiện các vấn đề phức tạp nảy sinh trong đời sống xã hội ảnh hưởng đến an ninh tư tưởng chính trị để có biện pháp xử lý, khắc phục kịp thời những sơ hở, thiếu sót, ngăn chặn các nguy cơ tiềm ẩn xâm phạm an ninh trong lĩnh vực tư tưởng chính trị. Bảo vệ vững chắc an ninh chính trị nội bộ, bảo vệ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với xã hội; bảo vệ đội ngũ cán bộ, đảng viên và các tổ chức cơ sở đảng; chủ động phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam và xu hướng toàn cầu hóa thâm nhập, phá hoại, tác động, chuyển hóa từ bên trong, tiến hành các hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia, an ninh về tư tưởng chính trị.

Trước những tác động mặt trái của kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế và sự chống phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, nhiệm vụ bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị càng trở nên quan trọng. Bảo vệ an ninh về tư tưởng chính trị là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp và của toàn xã hội, cần được tổ chức, phối kết hợp thống nhất nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong bảo vệ vững chắc an ninh về tư tưởng chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam./.

ST.