Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Thành phố Hồ Chí Minh qua gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng

Để hiện thực hóa mục tiêu đưa đất nước tiến lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã lãnh đạo đất nước thực hiện nhiều nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm. Gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Thành phố Hồ Chí Minh luôn nhất quán thực hiện phát triển kinh tế tuân theo quy luật thị trường gắn với bảo đảm định hướng XHCN. Thành phố đi trước, mạnh dạn thí điểm nhiều cách làm, mô hình kinh tế mới, để rồi nhân rộng, mang lại những kết quả đáng ghi nhận, xứng đáng là đầu tàu kinh tế của cả nước.

Thành phố Hồ Chí Minh sau gần 40 năm đổi mới_Nguồn: nhiepanhdoisong.vn

Tiên phong trong đổi mới tư duy, sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm 

Sau thời gian dài vận hành nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, năm 1986, tại Đại hội VI, Đảng ta đã thẳng thắn nhìn nhận những hạn chế trong nhận thức về tư duy kinh tế, chỉ ra những khiếm khuyết của mô hình kinh tế này, từ đó đề ra chủ trương mang tính bước ngoặt trong quản lý kinh tế, đó là quyết định chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần; Đại hội VII của Đảng xác định phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX của Đảng chính thức khẳng định phát triển nền KTTT định hướng XHCN là mô hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ hóa độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong tiến trình đổi mới, Đảng ta có đột phá nhận thức về mối quan hệ giữa phát triển KTTT và định hướng XHCN, từ chỗ phủ nhận KTTT vì xem nó là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản, đối lập KTTT với chủ nghĩa xã hội đến nhận thấy sự tồn tại khách quan, tất yếu của KTTT trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Theo thời gian, nhận thức về KTTT định hướng XHCN ngày càng hoàn thiện hướng tới xây dựng nền KTTT hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của KTTT, có sự quản lý của Nhà nước, do Đảng lãnh đạo. Nhìn tổng quát, đất nước đã vượt qua cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng trong thập niên 80 của thế kỷ XX, để đến cuối thập niên đầu của thế kỷ XXI thoát khỏi tình trạng nghèo, kém phát triển, thu nhập thấp và ngày nay trở thành quốc gia đang phát triển năng động, có thu nhập trung bình, đời sống nhân dân được cải thiện, uy tín và vị thế trên trường quốc tế được nâng lên rõ rệt.

Thành phố Hồ Chí Minh đã có nhiều đóng góp vào quá trình hình thành và hoàn thiện mô hình KTTT định hướng XHCN. Ngay từ năm 1982, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 01-NQ/TW, xác định “Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn, một trung tâm giao dịch quốc tế và du lịch của nước ta”. Nghị quyết được xem là chìa khóa để Thành phố vững bước tiến vào thời kỳ đổi mới; là cơ sở để thực hiện những cơ chế mang tính thí điểm, đột phá góp phần hình thành một số chính sách chung của cả nước, từng bước hoàn thiện thể chế KTTT định hướng XHCN, nổi trội là:

Thứ nhất, sớm thừa nhận tồn tại nhiều loại hình doanh nghiệp. Từ nhận thức, tồn tại và phát triển kinh tế nhiều thành phần là tất yếu khách quan của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; động lực chính yếu thúc đẩy kinh tế - xã hội để Thành phố phát triển, nên Ủy ban nhân dân Thành phố đã ban hành Quyết định số 639/QĐ/UBND, ngày 20-10-1989, “Về các loại hình doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần”. Đây là tiền đề phát triển khu vực kinh tế tư nhân, vận hành KTTT, tạo niềm tin và khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển hợp pháp, cũng là cơ sở quan trọng để Quốc hội khóa VII ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1991. 

Thứ hai, mạnh dạn thí điểm các chế định vận hành của thị trường. Ngay từ năm 1987, để góp phần khơi thông thị trường vốn, Thành phố đã thành lập Ngân hàng cổ phần Sài Gòn Công thương; trên cơ sở đó, đến năm 1990, Quốc hội ban hành Pháp lệnh Ngân hàng, tạo điều kiện cho loại hình ngân hàng thương mại cổ phần phát triển. Năm 1992, Thành phố đề xuất Chính phủ cho phép cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, để đến năm 1996, Chính phủ chỉ đạo triển khai trên phạm vi cả nước; trong đó, Công ty cơ điện lạnh REE điển hình cho sự thành công, cũng là công ty đầu tiên niêm yết trên sàn giao dịch chứng khoán Việt Nam vào năm 2000. Trung tâm Chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập từ tháng 7-1998 nhằm xây dựng thị trường vốn thông qua phát hành trái phiếu chính phủ và tiến hành các giao dịch cổ phiếu… 

Thứ ba, đi đầu trong nghiên cứu và thành lập các khu chế xuất, khu công nghiệp để hướng kinh tế vào xuất khẩu, thực hiện chính sách kinh tế mở. Sau này được pháp chế hóa thành quy định chung cho cả nước, góp phần đáng kể vào việc tăng cường sản xuất công nghiệp, tăng trưởng GDP và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo chiều sâu. Điển hình, khu chế xuất Tân Thuận được thành lập từ năm 1991, là khu chế xuất đầu tiên, hoạt động rất hiệu quả, có sức lan tỏa mạnh trên cả nước... 

Thứ tư, sáng tạo, chủ động trong huy động nguồn lực xã hội để đầu tư phát triển. Nhằm phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật đô thị, năm 1997, Thành phố đã chủ trương huy động các nguồn vốn của các thành phần kinh tế để thành lập Quỹ Đầu tư phát triển đô thị Thành phố Hồ Chí Minh - HIFU (nay là Công ty Đầu tư tài chính nhà nước Thành phố Hồ Chí Minh - HFIC). Phát hành trái phiếu dự án và trái phiếu đô thị góp phần hình thành cơ chế phân cấp ngân sách đầu tư giữa Trung ương và địa phương để tăng tính tự chủ của chính quyền địa phương trong huy động vốn đầu tư. Nhượng quyền khai thác (thu phí) đường đã được mở rộng cho các thành phần kinh tế để thu hồi sớm vốn đầu tư thực hiện đầu tư các dự án khác. Thành lập các công ty cổ phần đại chúng để thực hiện các dự án đầu tư dịch vụ hạ tầng kỹ thuật, trong đó có vốn nhà nước đóng góp mang tính chất vốn mồi. Thực hiện xã hội hóa, hỗ trợ lãi suất tiền vay ngân hàng cho các đơn vị trường học, bệnh viện đầu tư hạ tầng kỹ thuật nâng cao chất lượng phục vụ người dân...

Thứ năm, triển khai thực hiện các mô hình điều hành kinh tế vĩ mô và cải cách hành chính. Những mô hình hiệu quả như: Kết nối doanh nghiệp với ngân hàng giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng với lãi suất hợp lý; xúc tiến đầu tư, kết nối doanh nghiệp với doanh nghiệp; xúc tiến thương mại trong và ngoài nước và chương trình đưa hàng hóa Việt Nam về nông thôn, các khu công nghiệp… đã được nhân rộng trong cả nước. Đặc biệt, Thành phố đã đi đầu triển khai mô hình “một cửa, một dấu” ở một số quận, huyện từ năm 1995; sau đó phát triển thành cơ chế “một cửa liên thông” góp phần cải thiện rõ rệt chất lượng công vụ, nâng cao sự hài lòng của người dân.  

Sáng tạo của Thành phố ở những năm trước, đầu đổi mới dù tiên phong nhưng cũng vấp phải không ít sự phê phán bởi những cách làm được xem như trái với quy định quản lý kinh tế thời bấy giờ. Nhưng, lãnh đạo Thành phố vẫn xin chủ trương, báo cáo đầy đủ, quyết tâm hành động với phương châm: “Bằng thực tiễn sinh động của mình, Thành phố phải cố gắng báo cáo đầy đủ, tỉ mỉ với các đồng chí lãnh đạo cao nhất ở Trung ương về hướng đổi mới xuất hiện từ thực tiễn, vì chỉ có sự chuyển động từ cấp cao nhất thì mới chuyển động được toàn cục; nếu chỉ một số địa phương làm thì hiệu quả cũng chỉ có ý nghĩa cục bộ, không thống nhất và cũng không xoay chuyển được tình thế”(1). Rõ ràng, xuất phát từ thực tiễn, Thành phố đã sáng tạo trong cách nghĩ, cách làm, dù đi đầu đổi mới phương thức quản lý kinh tế nhưng không tuỳ tiện, đã mang lại hiệu quả thiết thực.  

Kết quả từ thực hiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa 

Vận dụng KTTT định hướng XHCN để khai thác tốt tiềm năng, lợi thế, phát triển kinh tế nhanh hướng tới bền vững, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và cơ cấu lại, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh… là những bước đi sát hợp của Thành phố. Các định chế mà Thành phố triển khai trước kia, đã được Đảng nhìn nhận tính hợp lý, phù hợp với KTTT định hướng XHCN. Quán triệt nghị quyết, chỉ thị của Đảng, tiếp tục thực hiện đổi mới, những giai đoạn gần đây kinh tế của Thành phố phát triển khá đồng bộ, mang lại kết quả:

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng. Tập trung vào các ngành công nghiệp, dịch vụ trọng điểm và nông nghiệp công nghệ cao, tăng dần giá trị các sản phẩm, dịch vụ có hàm lượng khoa học, công nghệ. Về cơ cấu kinh tế theo ngành, dịch vụ là ngành giữ tỷ trọng lớn nhất trong GRDP và tiếp tục ngày càng tăng trưởng qua từng giai đoạn; tiếp đến là ngành công nghiệp - xây dựng; ngành nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản. Các ngành công nghiệp trọng điểm như cơ khí; điện tử - công nghệ thông tin; hóa dược - cao su; chế biến tinh lương thực, thực phẩm… tiếp tục là động lực tăng trưởng của công nghiệp Thành phố. Năm 2010 tỷ trọng giữa 3 khu vực dịch vụ, công nghiệp công nghệ cao và nông nghiệp tương ứng là 55,98%; 42,96% và 1,06%. Đến năm 2019, khu vực dich vụ chiếm tỷ trọng 60,42%, khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 22,55%, khu vực nông nghiệp chiếm 0,66%... Năm 2023, khu vực thương mại dịch vụ chiếm 64,9%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 21,9%; khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tỷ trọng 0,5%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 12,7%. 

Về cơ cấu theo khu vực kinh tế, có sự chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng kinh tế ngoài nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Tỷ lệ cơ cấu GRDP theo khu vực kinh tế bình quân hằng năm trong giai đoạn 2011 - 2015 là 21,76% khu vực nhà nước, 49,62% khu vực ngoài nhà nước, 16,54% khu vực có vốn đầu tư nước ngoài; giai đoạn 2016 - 2020 lần lượt là 14,54%, 54,43%, 18,04%; năm 2021 lần lượt là 12,81%, 53,92%, 19,76%. 

Dù chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng nhưng chuyển dịch cơ cấu nội ngành vẫn còn chậm, một số ngành trọng điểm có xu hướng tăng trưởng chậm lại so với giai đoạn trước. Quá trình cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước chậm tiến độ, còn vướng mắc, một số doanh nghiệp nhà nước hoạt động hiệu quả chưa cao. Các tổ chức kinh tế tập thể, nòng cốt là hợp tác xã, tuy có chuyển biến tích cực nhưng vẫn chậm…

Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế theo hướng chuyển từ phát triển chủ yếu chiều rộng sang chiều sâu trên cơ sở ứng dụng thành tựu của khoa học và công nghệ. Giai đoạn đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1996 - 2010) là giai đoạn tăng trưởng kinh tế của Thành phố có sự chuyển biến mạnh từ chiều rộng sang chiều sâu. Công nghệ cao từng bước giữ vai trò chủ lực trong sản xuất và xuất khẩu. Các khu chế xuất, khu công nghiệp tập trung thu hút đầu tư, góp phần phát triển các ngành công nghiệp trọng điểm, công nghiệp hỗ trợ. Ứng dụng công nghệ xây dựng mới, áp dụng tiêu chuẩn công trình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, phát triển công trình xanh được triển khai và nhân rộng. Sản xuất nông nghiệp công nghệ cao phát triển theo định hướng, gắn với thúc đẩy quá trình xây dựng nông thôn mới. Thương mại điện tử phát triển mạnh mẽ; các mô hình kinh doanh mới hình thành trước xu hướng số hóa kinh tế. Nhiều loại thị trường hàng hóa, lao động, tài chính, khoa học và công nghệ, bất động sản phát triển tăng quy mô, đổi mới phương thức giao dịch với sự gia tăng ứng dụng điện tử… 

Kinh tế Thành phố tiếp tục đổi mới mô hình tăng trưởng, cải thiện chất lượng tăng trưởng trên nền tảng ứng dụng khoa học và công nghệ, cơ cấu tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, tập trung vào các ngành công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp công nghệ cao. Tính đến năm 2020, quy mô kinh tế của Thành phố tăng gấp 2,7 lần, thu nhập bình quân đầu người tăng gấp 2,39 lần so với năm 2010. Tuy nhiên, tỷ lệ đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào tăng trưởng GRDP dù liên tục tăng qua các năm và các giai đoạn, nhưng vẫn thấp hơn so với tỷ lệ đóng góp của yếu tố truyền thống; năng suất lao động tiếp tục tăng, nhưng chưa thật sự vượt trội nếu so sánh trên phương diện cạnh tranh quốc tế.

Thể hiện vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước. So với các địa phương khác, Thành phố vẫn giữ vị trí nổi trội trong nhiều ngành, lĩnh vực kinh tế của cả nước, như thương mại, vận tải kho bãi, du lịch, tài chính, công nghệ thông tin, khoa học và công nghệ...; thu ngân sách nhà nước luôn giữ tỷ trọng cao nhất nước, quy mô ngày càng lớn, luôn đạt và vượt kế hoạch (ngoại trừ năm 2021 do chịu tác động tiêu cực của đại dịch COVID-19). Các giải pháp sáng tạo nhằm phát triển kinh tế từ Thành phố được lan tỏa ra cả nước, điển hình như các chương trình: Bình ổn thị trường, kết nối doanh nghiệp với ngân hàng, kích cầu đầu tư và các giải pháp nhằm triển khai Cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”… Thành phố cũng là nơi thu hút được nhiều cá nhân, tổ chức khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hoạt động trên nhiều lĩnh vực. 

Tuy nhiên, việc phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở Thành phố Hồ Chí Minh cũng còn một số hạn chế, đó là đóng góp vào nền kinh tế của cả nước có xu hướng giảm trên một số phương diện, việc phát huy các nguồn lực để phát triển kinh tế có mặt chưa hiệu quả: Nguồn lực nhà nước và nguồn lực xã hội đáp ứng nhu cầu phát triển Thành phố còn bất cập; chất lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng nhu cầu phát triển và hội nhập quốc tế; một số dự án đầu tư quy mô lớn nhưng chậm triển khai trong nhiều năm; giải ngân vốn đầu tư công đạt thấp so với kế hoạch hằng năm; chưa thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài và trong nước có quy mô lớn. 

Chủ động hợp tác với các địa phương. Thành phố tích cực thúc đẩy mối quan hệ với các địa phương thông qua hoạt động xúc tiến thương mại, đầu tư, du lịch để cùng phát triển, thể hiện vai trò nòng cốt trong đầu tư phát triển sản xuất ở nhiều địa phương; là trung tâm phân phối, tiêu thụ hàng hóa, cung ứng dịch vụ cho liên vùng, cả nước; là động lực thúc đẩy sự phát triển chung của khu vực phía Nam và cả nước. Nhưng do cơ chế liên kết vùng vẫn còn những bất cập nhất định nên chưa thể phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của Thành phố cũng như các địa phương trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để cùng hợp tác phát triển toàn diện hơn. 

Về hội nhập kinh tế quốc tế, Thành phố tích cực tham gia thực hiện các hiệp định thương mại song phương, đa phương mà nước ta là thành viên, cùng với hoạt động xúc tiến, tạo điều kiện mở rộng xuất, nhập khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Đến nay, Thành phố đã thiết lập quan hệ hữu nghị, hợp tác với 58 địa phương ở cả 5 châu lục. Các mối quan hệ này không những tăng về số lượng mà các hoạt động hợp tác được triển khai ngày càng đa dạng, mang lại nhiều kết quả thiết thực, góp phần triển khai chính sách đối ngoại quốc gia, phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố.

Gian hàng trưng bày tại Triển lãm quốc tế chuyên ngành công nghiệp tại Thành phố Hồ Chí Minh_Ảnh: TTXVN

Tiếp tục phát triển kinh tế nhanh, bền vững, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh quốc tế  

Thời gian qua, Thành phố đã không ngừng phấn đấu vượt mọi khó khăn, thách thức, đồng lòng cùng cả nước, vì cả nước; vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội sau đại dịch COVID-19; vừa nỗ lực, tăng tốc để bắt kịp với xu thế phát triển của thời đại để thực hiện định hướng phát triển đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 mà Đảng giao phó: Giữ vững vai trò đầu tàu kinh tế của cả nước, đi đầu trong việc tận dụng các cơ hội của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; phát triển mạnh kinh tế số, kinh tế chia sẻ, kinh tế tuần hoàn, trở thành trung tâm về kinh tế, tài chính, thương mại, khoa học - công nghệ và văn hóa của khu vực Đông Nam Á vào năm 2030; trở thành trung tâm về kinh tế, tài chính của châu Á vào năm 2045(2). Để đạt được định hướng trên, nhiều vấn đề mới đặt ra cùng với những yêu cầu mới nặng nề, phức tạp hơn; điều này, đòi hỏi Đảng bộ, chính quyền cùng nhân dân Thành phố cần quyết tâm cao hơn, nỗ lực lớn hơn để đóng góp vào sự phát triển chung, cùng cả nước bước vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam:

Một là, tăng cường cơ cấu lại tổng thể kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng trên nền tảng kinh tế tri thức, ứng dụng khoa học - công nghệ và năng suất lao động cao. Phấn đấu tốc độ tăng GRDP hằng năm cao hơn mức bình quân chung cả nước. Phát triển thành phố Thủ Đức trở thành cực tăng trưởng mới, là đô thị sáng tạo, tương tác cao, hạt nhân thúc đẩy kinh tế - xã hội của Thành phố và vùng Đông Nam Bộ. Xây dựng cơ chế, chính sách và hạ tầng kỹ thuật cho Trung tâm Tài chính quốc tế Thành phố Hồ Chí Minh. 

Hai là, tiếp tục phát triển đồng bộ các thành phần kinh tế; sắp xếp, đổi mới và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước theo kế hoạch; hỗ trợ khu vực kinh tế tập thể áp dụng các mô hình kiểu mới, chuyển đổi hoạt động hiệu quả; phát triển mạnh mẽ khu vực kinh tế tư nhân, khuyến khích hình thành các doanh nghiệp có quy mô lớn, tiềm lực mạnh, năng lực cạnh tranh cao, có chính sách xây dựng một số doanh nghiệp mang tầm quốc gia và toàn cầu. Thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc theo hướng ưu tiên các dự án công nghệ cao, quản trị hiện đại và có tác động lan tỏa, kết nối chặt chẽ với khu vực kinh tế trong nước để tham gia vào chuỗi sản xuất và cung ứng khu vực và toàn cầu.

Ba là, duy trì phát triển các ngành công nghiệp then chốt, ưu tiên các ngành và sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, ít thâm dụng lao động, như công nghiệp công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, điện tử - viễn thông, cơ khí chính xác, chế tạo thông minh... Quy hoạch, chuyển đổi và phát huy hiệu quả mô hình các khu công nghệ cao, các trung tâm đổi mới sáng tạo, khu công nghiệp, khu chế xuất theo hướng phát triển công nghiệp công nghệ cao; phát triển kinh tế tri thức, sáng tạo, kinh tế số. Lựa chọn các sản phẩm và công đoạn có giá trị gia tăng cao tham gia chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu. Cơ cấu lại và nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp trên cơ sở phát triển nông nghiệp sinh thái; đi đầu xây dựng nông thôn hiện đại, nông dân văn minh. Hỗ trợ doanh nghiệp đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, hình thành các chuỗi cung ứng nội địa, từng bước tăng dần tỷ lệ tiêu thụ nội địa.

Bốn là, đẩy mạnh phát triển các ngành dịch vụ trọng điểm có lợi thế so sánh và giá trị gia tăng cao, như thương mại, vận tải kho bãi, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, du lịch...; xây dựng cơ sở nền tảng để Thành phố trở thành trung tâm dịch vụ xuất khẩu và cung ứng đầu vào cho sản xuất. Hỗ trợ phát triển đồng bộ các thị trường và thúc đẩy công nghệ số trong các ngành dịch vụ có mức độ sẵn sàng cao, như tài chính - ngân hàng, chứng khoán, bất động sản, thương mại điện tử, du lịch số, văn hóa số…/.

ST.

Suy ngẫm những điều đặc biệt về cuộc đời, sự nghiệp của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Tưởng nhớ 100 ngày cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về với “thế giới người hiền”, để lại niềm tiếc thương vô hạn trong lòng nhân dân và bạn bè quốc tế, là dịp để chúng ta thêm suy ngẫm những điều đặc biệt về cuộc đời, sự nghiệp của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng. Qua đó, góp phần lan tỏa trong cán bộ, đảng viên và nhân dân về công lao to lớn của đồng chí Nguyễn Phú Trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta; củng cố và tăng cường sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận xã hội; nâng cao lòng tự hào và niềm tin vào sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với nhân dân tại Lễ hội Đền Hùng _Ảnh: Tư liệu

Khi nghiên cứu về thân thế, sự nghiệp của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, xin nêu lên mấy suy ngẫm những điều đặc biệt về đồng chí mà nhiều cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa biết hoặc biết chưa đầy đủ, sâu sắc. Đó là:

Thứ nhất, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và cũng là người Việt Nam đầu tiên đã tham gia liên tục 7 khóa Trung ương, 6 khóa Bộ Chính trị, 5 khóa là đại biểu Quốc hội, 4 khóa là lãnh đạo chủ chốt của Đảng và Nhà nước, 3 khóa là Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam và Bí thư Thành ủy Hà Nội, 2 khóa là Chủ tịch Quốc hội và 1 khóa là Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Thứ hai, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là trường hợp đầu tiên được Đại hội đại biểu toàn quốc ra Quyết nghị về việc đồng chí tiếp tục tái cử Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII và đề nghị Ban Chấp hành Trung ương bầu giữ chức Tổng Bí thư nhiệm kỳ thứ 3 liên tiếp.

Thứ ba, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là ngọn cờ lý luận xuất sắc của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đồng chí đã để lại cho Đảng và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta di sản to lớn về sự vận dụng, phát triển lý luận, tổng kết thực tiễn về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Với hơn 40 đầu sách về lý luận chính trị trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đồng chí đã thể hiện nhất quán, kiên định và sự vận dụng, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổỉ mới ở Việt Nam. Đồng chí còn là một nhà báo tài năng, sắc sảo. Những bài báo đồng chí viết, đăng trên Tạp chí Cộng sản cách đây hơn 50 năm nhưng vẫn còn nguyên giá trị và nóng bỏng tính thời sự.

Thứ tư, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư đầu tiên trực tiếp làm Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực và được nhân dân suy tôn là “Vị tướng trong cuộc chiến chống giặc nội xâm”. Với trách nhiệm là Trưởng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, đồng chí cùng Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư chỉ đạo chặt chẽ, bài bản, quyết liệt, hiệu quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, với tinh thần 5 không: “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, không có đặc quyền, không ngừng nghỉ, không chịu bất kỳ sức ép của tổ chức cá nhân nào”; 5 nhân: “nhân văn, nhân đạo, nhân nghĩa, nhân ái, nhân tình” và “tâm phục, khẩu phục”. Do đó, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chuyển biến tích cực, mạnh mẽ, quyết liệt và hiệu quả hơn; huy động cả hệ thống chính trị vào cuộc và đạt được nhiều kết quả rõ rệt, toàn diện, có tính đột phá, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tích cực tham gia, góp phần củng cố, tăng cường thêm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; được bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Thứ năm, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư đầu tiên vừa làm Bí thư Quân ủy Trung ương theo quy định của Điều lệ Đảng, vừa trực tiếp tham gia Ủy viên Ban Thường vụ Đảng ủy Công an Trung ương. Điều đó thể hiện sự quan tâm đặc biệt và tình cảm sâu sắc của cố Tổng Bí thư đối với lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam; đồng thời, giúp đồng chí cố Tổng Bí thư nắm chắc tình hình, có những quyết sách cụ thể đối với Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam, để Đảng nắm chắc cả “thanh bảo kiếm sắc bén” và “lá chắn vững chắc” như “2 cánh của một con chim”.

Thứ sáu, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên được Tổng thống Mỹ Barack Obama mời thăm cấp nhà nước tới Hoa Kỳ và hội đàm theo nghi thức trang trọng nhất dành cho các nguyên thủ quốc gia trên thế giới. Đồng chí cũng là Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam đầu tiên mời Tổng Thống Mỹ Joe Biden thăm cấp nhà nước tới Việt Nam để ký Hiệp định nâng cấp quan hệ ngoại giao lên đối tác chiến lược toàn diện. Đến nay, Việt Nam đã xây dựng, thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với 8 nước lớn trên thế giới, trong đó có 4 trong 5 nước Ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, góp phần nâng cao vị thế và uy tín của Đảng, Nhà nước Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ bảy, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được nhận Huân Chương Sao vàng - Huân chương cao quý nhất của Đảng, Nhà nước ta và nhiều huân chương cao quý khác của các nước bạn Lào, Cuba, Nga… khi đương chức. Đặc biệt, đồng chí Nguyễn Phú Trọng là người Việt Nam đầu tiên được nhận Huân chương hữu nghị của Đảng, Nhà nước Trung Quốc trao tặng. Trong 10 người đã được nhận Huân chương cao quý này, có Tổng thống Nga Putin và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.

Thứ tám, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là Tổng Bí thư đầu tiên có học hàm, học vị GS, TS Chính trị học, chuyên ngành Xây dựng Đảng. Đồng chí có nhiều năm làm Phó Chủ tịch và Chủ tịch Hội đồng lý luận Trung ương, Trưởng Tiểu ban Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc, trực tiếp chỉ đạo xây dựng Báo cáo chính trị và các báo cáo khác, để lại nhiều dấu ấn quan trọng, có tính đột phá về phát triển lý luận trong các văn kiện của các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc.

Thứ chín, là cán bộ lãnh đạo cao cấp và là người đứng đầu Đảng, Nhà nước, nhưng cuộc sống, sinh hoạt của đồng chí và gia đình luôn giản dị, khiêm tốn, chân thành, gần gũi với mọi người. Đến khi “đi gặp Cụ Các Mác, Cụ Lê-nin”, đồng chí Tổng Bí thư vẫn đang ở nhà công vụ, nhưng được Đảng, Nhà nước và nhân dân ta suy tôn và “tặng” cho rất nhiều “Nhà”. Đó là: Nhà lãnh đạo đặc biệt xuất sắc; nhà lãnh đạo kiên trung, trí tuệ và mẫu mực; nhà lãnh đạo liêm chính, trọn đời vì nước vì dân; nhà tư tưởng và nhà văn hóa lớn; nhà lý luận sắc sảo; nhà ngoại giao tài ba - “Tổng công trình sư” của đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, mang đậm bản sắc “cây tre Việt Nam”; nhà gíáo, nhà báo, nhà thơ,…

Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và Phu nhân gặp gỡ các kiều bào từ các quốc gia, vùng lãnh thổ trên thế giới về tham dự Chương trình Xuân Quê hương năm 2019 tại Hà Nội, ngày 26-1-2019 _Ảnh: Tư liệu

Thứ mười, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và cố Tổng Bí thư Đỗ Mười là 2 Tổng Bí thư của Đảng có tuổi đời cao nhất khi đương chức là 80 tuổi. Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là trường hợp thứ 3 (sau Bác Hồ và cố Tổng Bí thư Trường Chinh) vừa là người đứng đầu Đảng, vừa là người đứng đầu Nhà nước. Đặc biệt là, sau đúng 50 năm, kể từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất, nhân dân ta lại được nghe thơ chúc tết lúc giao thừa của Chủ tịch nước. Giao thừa Tết năm 1969, nhân dân được nghe thơ chúc tết của Bác Hồ thì đến Giao thừa tết năm 2019, người dân Việt Nam lại được nghe thơ chúc tết của Chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng. Giao thừa năm 2019, đồng chí phát biểu: Học theo thơ Bác Hồ, tôi cũng xin có mấy vần: “Xuân này hơn hẳn mấy xuân qua/ Thắng lợi tin vui khắp nước nhà/ Cả nước hân hoan mừng xuân mới/ Khải hoàn ta viết tiếp bài ca (Hai câu đầu là mượn thơ của Bác Hồ và có thay đổi một từ). Giao thừa năm 2020, đồng chí chia sẻ: Học theo thơ Bác Hồ, tôi cũng lại xin có mấy vần: “Năm qua thắng lợi vẻ vang/Năm nay cả nước chắc càng thắng to/Hòa bình, hạnh phúc, ấm no/Rạng danh Tổ quốc, cơ đồ Việt Nam” (Hai câu đầu cũng mượn thơ của Bác Hồ và có thay đổi một từ cho phù hợp).

Mười một, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng là một trong số ít người được kết nạp vào Đảng khi đang là sinh viên năm thứ 4 tại khoa Ngữ văn, Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Đồng chí cũng là một trong số ít sinh viên xuất sắc của khoa bảo vệ xuất sắc luận văn với chủ đề: “Phong vị ca dao, dân ca trong thơ Tố Hữu”, do GS Đinh Gia Khánh hướng dẫn. Có lẽ vì quá “ân tình”, “duyên nợ” với thơ Tố Hữu và thơ Tố Hữu đã thấm đẫm vào tâm hồn đồng chí từ thuở sinh viên, nên trong các bài viết, bài phát biểu của mình, đồng chí hay trích dẫn thơ của nhà thơ Tố Hữu. Chẳng hạn, ngày 2-2-2023, khi nhận huy hiệu 55 năm tuổi Đảng, đồng chí đã mượn thơ Tố Hữu khi ở trong nhà tù của thực dân Pháp để thay cho lời hứa của mình với Đảng: “Còn một giây, một phút tàn hơi/Là vẫn còn chiến đấu quyết không thôi”. Trong bài viết “Tin tưởng và tự hào dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, quyết tâm xây dựng một nước Việt Nam ngày càng giàu mạnh, văn minh, văn hiến và anh hùng”đồng chí cũng mượn thơ Tố Hữu để nói lên lòng tự hào và niềm tin son sắt đối với Đảng khi kết thúc bài viết: “Đảng ta đó trăm tay nghìn mắt/Đảng ta đây xương sắt, da đồng/Đảng ta muôn vạn công nông/Đảng ta chung một tấm lòng, niềm tin”. Khi đến thắp hương viếng Bác ở Nhà 67 và thăm Phủ Chủ tịch, được nhận trái bưởi từ vườn cây của Bác, đồng chí lại xúc động, nghẹn ngào đọc 4 câu thơ của nhà thơ Tố Hữu: “Trái bưởi kia vàng ngọt với ai/Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài/Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm/Quanh mặt hồ in mây trắng bay…”.

Mười hai, tốt nghiệp ra trường, đồng chí về làm cán bộ Phòng Tư liệu, cán bộ biên tập, Phó ban, Trưởng ban Ban Xây dựng Đảng, Ủy viên Ban Biên tập, Phó Tổng Biên tập rồi Tổng Biên tập. Như vậy, sau 24 năm công tác, kể cả gần 5 năm học tập tại Trường Đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc Trung ươnghọc ngoại ngữ và đi học nghiên cứu sinh tại Viện Hàn lâm Khoa học xã hội trực thuộc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng chí phát triển từng bước tuần tự, chắc chắn và trở thành người đứng đầu Tạp chí Cộng sản - cơ quan lý luận chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.

Mười ba, Đồng chí Nguyễn Phú Trọng được cán bộ, đảng viên và nhân dân suy tôn là người học trò đặc biệt xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; là tấm gương trong sáng, mẫu mực về phẩm chất đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, nói đi đôi với làm và làm đi đôi với nói; người đảng viên cộng sản kiên trung, mẫu mực, trọn đời vì nước, vì dân; là hình mẫu tiêu biểu, cao đẹp về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hết mực kính trọng, tin yêu và học tập, noi theo.

Mười bốn, cuộc đời và sự nghiệp của cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng có nhiều dấu mốc lịch sử, sự kiện gắn với con số 14. Đồng chí sinh ngày 14-4-1944 với h, tên khai sinh là Nguyễn Phú Trọng gồm có 14 chữ cái. Tên xã và huyện trước đây là Hội Phụ, Đông Ngàn thuộc Bắc Ninh và ngày nay là Đông Hội, Đông Anh thuộc thành phố Hà Nội đều có 14 chữ cái. Đồng chí ra đời sau khi Đảng ta thành lập 14 năm và cũng sau 14 năm đèn sách (10 năm học phổ thông và 4 năm học đại học), đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau 14 năm công tác ở Tạp chí Cộng sản, đồng chí được chọn cử sang Liên Xô theo học nghiên cứu sinh về xây dựng Đảng. Sau khi học ở Liên Xô về nước công tác 14 năm, đồng chí được bầu vào Bộ Chính trị (năm 1997). Sau 14 năm tham gia Bộ Chính trị, được bầu là Tổng Bí thư (năm 2011) và giữ chức Tổng Bí thư trong 14 năm (2011 - 2024). Trong thời gian làm Tổng Bí thư, đồng chí được Quốc hội khóa XIV bầu giữ chức Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng chí là người đặt nền tảng cơ bản cho công tác chuẩn bị Đại hội XIV của Đảng (làm trưởng 2 tiểu ban văn kiện và nhân sự)…

Toàn bộ thân thế, sự nghiệp và cuộc đời hoạt động cách mạng phong phú của GS, TS, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đúng như câu hát “Trọn một đời là sen thơm ngát/ Tỏa hương thơm đến vạn mai sau/ Trọn lòng son của người cộng sản/ Để lòng dân thương kính muôn phần”. Bài viết cũng là nén tâm nhang thành kính, dâng lên hương hồn cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng ở “cõi vĩnh hằng” trên “miền mây trắng” và chia buồn sâu sắc với gia quyến đồng chí./.    

ST.                                             

Một số nội dung chủ yếu trong đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp

Chuyển đổi công nghiệp là một quá trình tất yếu, khách quan trong quá trình công nghiệp hoá nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia nói chung nhằm chuyển sang một giai đoạn phát triển cao hơn, nhất là trong bối cảnh cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là chủ trương quan trọng của Đảng ta nhằm xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đường lối, chủ trương của Đảng về công nghiệp hóa, hiện đại hóa liên quan đến chuyển đổi công nghiệp là cơ sở cho việc đưa ra cơ chế, chính sách cụ thể, trong đó có cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, tạo động lực mới và phát huy cao nhất tiềm năng, lợi thế cũng như thu hút các nguồn lực chất lượng cao cho phát triển đất nước.

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan trưng bày sản phẩm đổi mỡi tại Ngày hội Đổi mới sáng tạo Việt Nam năm 2024_Ảnh: TTXVN

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhất là từ khi Đổi mới (1986) đến nay. Trong suốt quá trình đó, đường lối của Đảng ta về CNH, HĐH đã liên tục được cập nhật, bổ sung và phát triển. Điều này được thể hiện rõ trong nghị quyết của các kỳ đại hội, nhất là trong Nghị quyết Đại hội XIII và các nghị quyết chuyên đề khóa XIII của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 29-NQ/TW, ngày 17-11-2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” (Nghị quyết số 29-NQ/TW).

Chủ trương, đường lối của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có liên quan đến chuyển đổi công nghiệp được thể hiện ở một số điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, Đảng ta khẳng định CNH, HĐH là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện nền kinh tế và đời sống xã hội; là nhiệm vụ trung tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, giúp đạt được các mục tiêu phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, trong đó lấy con người làm trung tâm, không để ai bị bỏ lại phía sau; bảo đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường, thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu; xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ và bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh.

Điều này cho thấy, Đảng ta không đồng nhất CNH, HĐH với phát triển công nghiệp; công nghiệp hóa phải gắn với HĐH toàn bộ đời sống xã hội, trong đó phát triển công nghiệp có vai trò nòng cốt, tạo tác động lan tỏa tới tất cả ngành khác và toàn bộ đời sống xã hội (phương thức sản xuất công nghiệp, văn hóa sản xuất công nghiệp, công nghệ sản xuất công nghiệp, tổ chức sản xuất công nghiệp...). Nói cách khác, phát triển công nghiệp sẽ không có ý nghĩa khi nó mang tính biệt lập và không có tác động lan tỏa tích cực đối với các ngành khác và tới toàn bộ đời sống xã hội. Thêm vào đó, CNH, HĐH ở Việt Nam là một quá trình mang tính nhân văn cao, gắn với truyền thống và văn hóa dân tộc.

Thứ hai, CNH, HĐH gắn với quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, lấy khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo làm động lực; phát triển đô thị, phát triển nông nghiệp, nông thôn với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một trong những nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu; phát triển kinh tế - xã hội vùng, địa phương; tăng cường hội nhập quốc tế; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đảng ta đặt ra yêu cầu thực hiện CNH, HĐH theo lộ trình và bước đi cụ thể, có trọng tâm, trọng điểm với nguồn lực trong nước là cơ bản, chiến lược, lâu dài, quyết định, nguồn lực bên ngoài là quan trọng, đột phá. Bên cạnh đó, CNH, HĐH phải khai thác và phát huy tốt nhất mọi tiềm năng, lợi thế của đất nước, từng vùng và địa phương; lợi thế của nền kinh tế đi sau và đang trong thời kỳ dân số vàng; kết hợp đồng bộ, hiệu quả giữa phát triển tuần tự với đi tắt đón đầu; chuyển đổi số là phương thức mới có tính đột phá để rút ngắn quá trình CNH, HĐH.

Trên cơ sở quan điểm nêu trên, Đảng ta đã đưa ra lộ trình thực hiện CNH, HĐH với hai giai đoạn: Giai đoạn 2021 - 2030 (giai đoạn nước ta tiến tới đạt mức thu nhập trung bình cao) và giai đoạn 2031 - 2045 (giai đoạn nước ta tiến tới đạt mức thu nhập cao).

Trong giai đoạn 2026 - 2030, một trong các nhiệm vụ, giải pháp là đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó cần: 1- Thúc đẩy ứng dụng mạnh mẽ khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhất là thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. 2- Thực hiện chuyển đổi số toàn diện, thực chất, hiệu quả, bền vững; nâng cao năng lực tự chủ về sản xuất, công nghệ và thị trường, bảo vệ và phát huy tốt thị trường trong nước. 3- Chuyển dịch cơ cấu nội ngành công nghiệp sang các ngành có tính nền tảng, ưu tiên, mũi nhọn, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao; chuyển đổi các ngành công nghiệp thâm dụng tài nguyên, năng lượng sang các ngành công nghiệp xanh, công nghiệp phát thải các-bon thấp. 4- Cơ cấu lại các ngành nông nghiệp và dịch vụ dựa trên nền tảng công nghệ hiện đại, công nghệ số, phát triển các loại dịch vụ mới có tính liên ngành và giá trị gia tăng cao, đẩy nhanh dịch vụ hóa các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo.

Có thể thấy đây là giai đoạn thực hiện quá trình chuyển đổi kép: Chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đồng thời với quá trình chuyển đổi cơ cấu công nghiệp sang công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp ứng dụng công nghệ caoĐây cũng chính là quá trình chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế từ chủ yếu thâm dụng lao động giản đơn, kỹ năng thấp sang thâm dụng lao động kỹ năng cao.

Trong giai đoạn 2031 - 2045, cần tập trung nâng cao chất lượng CNH và đẩy mạnh HĐH toàn diện trên tất cả lĩnh vực của nền kinh tế và đời sống xã hội. Đây là giai đoạn phát triển đột phá, giúp Việt Nam tránh được nguy cơ rơi vào bẫy thu nhập trung bình để trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Các giai đoạn CNH, HĐH được đưa ra là phù hợp với xu hướng phát triển chung của các quốc gia trên thế giới.

Trên cơ sở phân tích định lượng sự phát triển của 150 quốc gia, Báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2014 đã chỉ ra các giai đoạn phát triển của các quốc gia trên thế giới tương ứng với mức GDP bình quân đầu người (Bảng 1). Báo cáo cho thấy chỉ một số ít quốc gia trên thế giới (chiếm khoảng ¼ dân số thế giới) chuyển được từ giai đoạn 2 sang giai đoạn 3 và quốc gia không thực hiện được điều này được coi là rơi vào bẫy thu nhập trung bình. Điều này cho thấy đạt được mức thu nhập trung bình đã khó, nhưng trở thành nước có mức thu nhập cao còn khó hơn nhiều.

Theo cách tiếp cận này, Việt Nam đang ở trong giai đoạn cần tập trung sử dụng hiệu quả các nguồn lực(3), đồng thời tạo dựng nền tảng cho giai đoạn phát triển chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới sáng tạo; và một trong những nhiệm vụ quan trọng cần thực hiện là xây dựng hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia với sự gắn kết chặt chẽ giữa Nhà nước, doanh nghiệp, viện nghiên cứu và trường đại học; trong đó, doanh nghiệp là trung tâm và Nhà nước đóng vai trò kiến tạo. Nói cách khác, Việt Nam cần xây dựng và thực thi hiệu quả thể chế, chính sách phù hợp với từng giai đoạn phát triển, nhằm tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đó là tích lũy yếu tố sản xuất; nâng cao hiệu quả; nuôi dưỡng đổi mới sáng tạo; đạt được sức mạnh tổng hợp của cả ba nhóm yếu tố trên. Điều này sẽ giúp tăng năng suất lao động một cách bền vững, đặc biệt là trong bối cảnh già hóa dân số đang tăng nhanh.

Thứ ba, xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường. Để xây dựng được nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường, nhiều nhiệm vụ, giải pháp cụ thể đã được áp dụng:

- Hình thành hệ thống khu công nghiệp hiện đại quy mô lớn theo hướng sinh thái đi đôi với phát triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho phát triển công nghiệp tại khu vực nông thôn, miền núi.

- Phân bố không gian phát triển công nghiệp gắn với các vùng động lực, cực tăng trưởng, hành lang kinh tế trọng điểm, tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng.

- Nâng cao tự chủ về nguyên liệu, công nghệ, sản xuất và thị trường, tăng cường năng lực sáng tạo và thiết kế, phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều công nghệ, có giá trị gia tăng cao và các ngành công nghiệp phát thải các-bon thấp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào đổi mới, hấp thụ và làm chủ công nghệ, nhất là công nghệ lõi, công nghệ nguồn.

- Phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại, tự lực, tự cường, liên kết chặt chẽ với công nghiệp dân sinh, trở thành mũi nhọn của công nghiệp quốc gia. Tăng cường liên kết, chuyển giao, chuyển đổi công nghệ giữa công nghiệp dân sinh và công nghiệp quốc phòng, hình thành một số nền tảng đổi mới sáng tạo dùng chung.

Điều này cho thấy, Đảng ta đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Trong các bài viết, đặc biệt là vào cuối những năm 50, đầu những năm 60 của thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều khẳng định, CNH ở nước ta là CNH xã hội chủ nghĩa, nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người dân; là sự nghiệp của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Một nền công nghiệp quốc gia hiện đại, vững mạnh, tự lực, tự cường sẽ bảo đảm cho Việt Nam có được một nền kinh tế tự chủ, tạo nền tảng để tạo dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Trong bài viết “Thế nào là công nghiệp hóa” đăng trên Báo Nhân Dân năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Xây dựng một nền công nghiệp đầy đủ... không phải là dễ. Các nước tư bản phương Tây đã mất mấy trăm năm. Chúng ta đi theo con đường xã hội chủ nghĩa, chúng ta có thể rút ngắn... Nhưng phải cố gắng nhiều, phải phấn đấu gian khổ”.  “...chưa có công nghiệp nặng, thì chưa thể gọi là công nghiệp hóa. Chưa có công nghiệp nặng, thì chưa thể có một nền kinh tế tự chủ và giàu mạnh được”(4).

Thứ tư, hoàn thiện và tạo đột phá về thể chế, cơ chế, chính sách. Để thực hiện thành công quá trình CNH, HĐH, Đảng ta đã đặt ra nhiều nhiệm vụ, giải pháp về hoàn thiện thể chế, đặc biệt là tạo đột phá về thể chế và cơ chế, chính sách. Điều này hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển chung, nhất là trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Nói cách khác, cần hoàn thiện quan hệ sản xuất để bảo đảm sự phù hợp và mở đường cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại trong thời kỳ nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của tiên tiến, văn minh, hiện đại, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc(5). Một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể như sau: 

Đối với phát triển một số ngành công nghiệp

Một là, ưu tiên nguồn lực và có cơ chế, chính sách khuyến khích đủ mạnh để phát triển những lĩnh vực ưu tiên của các ngành công nghiệp nền tảng: 1- Luyện kim (ưu tiên phát triển thép hợp kim, thép đặc chủng phục vụ công nghiệp chế tạo máy thế hệ mới, nhất là cho quốc phòng, an ninh). 2- Cơ khí chế tạo (ưu tiên phát triển cơ khí chế tạo cho sản xuất máy nông nghiệp, ô-tô, tàu biển, thiết bị công trình, thiết bị năng lượng, thiết bị điện, thiết bị y tế). 3- Hóa chất (ưu tiên phát triển các loại hóa chất cơ bản, hóa dầu, hóa dược, phân bón); công nghiệp năng lượng (ưu tiên phát triển công nghiệp năng lượng tái tạo, năng lượng mới). 4- Vật liệu (ưu tiên phát triển vật liệu mới). 5- Công nghệ số (ưu tiên phát triển trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn, chuỗi khối, điện toán đám mây, internet kết nối vạn vật, thiết bị điện tử - viễn thông, thiết kế và sản xuất chíp bán dẫn).

Kiểm tra tấm wafer - nguyên liệu để sản xuất sản phẩm cho chất bán dẫn tại nhà máy của Công ty TNHH Hana Micro Vina (vốn đầu tư của Hàn Quốc) chuyên sản xuất chíp bán dẫn tại Khu công nghiệp Vân Trung, huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang_Ảnh: TTXVN

Hai là, thể chế hóa cơ chế, chính sách đặc thù cho phát triển công nghiệp quốc phòng, công nghiệp an ninh theo hướng lưỡng dụng, hiện đại.

Đối với phát triển khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo

Một là, ưu tiên đầu tư cho khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo đi trước một bước; có chính sách ưu đãi phù hợp về thuế, tài chính, tín dụng, đất đai... cho nghiên cứu khoa học - công nghệ; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư cho nghiên cứu và triển khai; có lộ trình tăng tỷ lệ chi từ ngân sách nhà nước tính trên tổng sản phẩm quốc nội (GDP) cho nghiên cứu và phát triển, phấn đấu đến năm 2030 đạt tỷ lệ thuộc nhóm ba nước đứng đầu Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), tiệm cận tỷ lệ bình quân chung của các nước thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD).

Hai là, thực hiện thí điểm cơ chế, chính sách mới, đặc thù về khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo tại một số địa phương, trường đại học, viện nghiên cứu, doanh nghiệp được giao nhiệm vụ nghiên cứu và phát triển công nghệ lõi, công nghệ nguồn. Xây dựng và ban hành cơ chế thử nghiệm có kiểm soát, các chính sách thí điểm, đặc thù cho hoạt động phát triển, thử nghiệm và áp dụng sản phẩm, giải pháp, dịch vụ, mô hình kinh doanh dựa trên công nghệ số và nền tảng số.

Đối với trung tâm, dự án trọng điểm

Một là, có chiến lược, cơ chế, chính sách mới vượt trội, cạnh tranh quốc tế cao để thúc đẩy hình thành một số trung tâm du lịch, trung tâm logistics, trung tâm đổi mới sáng tạo tầm cỡ khu vực và quốc tế tại một số đô thị; tạo môi trường thuận lợi thu hút dự án lớn, trọng điểm quốc gia, dự án công nghệ cao, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài từ đối tác thuộc các nước phát triển.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, thí điểm thực hiện cơ chế phù hợp để tạo đột phá cho phát triển kết cấu hạ tầng, nhất là đường bộ, đường sắt.

Đối với khu công nghiệp, khu công nghệ cao, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế

Một là, xây dựng khung tiêu chí và hoàn thiện hành lang pháp lý cho phát triển khu công nghiệp sinh thái, thông minh, khu đô thị công nghiệp - thương mại - dịch vụ.

Hai là, đổi mới mô hình tổ chức, cơ chế hoạt động của khu công nghệ cao, khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung.

Ba là, tiếp tục nghiên cứu và triển khai thí điểm mô hình khu kinh tế đặc thù, khu thương mại tự do, trung tâm tài chính quốc tế, mô hình kinh tế mới tại một số địa phương có tiềm năng và đáp ứng điều kiện, tiêu chí triển khai thí điểm.

Đối với phát triển nguồn nhân lực

Tập trung ưu tiên đầu tư thích đáng, tạo điều kiện thuận lợi phát triển mạnh mẽ giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng, có bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH trong tình hình mới./.

ST.

Đấu tranh với “địch bên trong ta” và lành mạnh hóa không gian mạng

Công nghệ số đã tạo nên một môi trường mà ở đó hình thành và chứa đựng mọi mặt hoạt động của đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội. Cuộc cách mạng số không chỉ là cuộc cách mạng về công nghệ, kỹ thuật mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống của con người, đến các mối quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội và tự nhiên.

“Địch bên trong ta đáng sợ hơn”

Trong bối cảnh mới, khi phương thức sản xuất mới ra đời thì công tác chống “giặc nội xâm”, đấu tranh với “địch bên trong ta” trở thành yêu cầu cấp bách hơn bao giờ hết. Nó không chỉ xuất hiện trong thế giới thực mà còn len lỏi vào đời sống xã hội thông qua internet, mạng xã hội. Nhiều kẻ cơ hội chính trị, phản động và một bộ phận người dân (có cả một số cán bộ, công chức, đảng viên) trong cuộc sống hằng ngày thì thể hiện sự quyết tâm, đồng thuận cao đối với các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật nhưng trên không gian mạng lại sử dụng các kỹ thuật, công nghệ ẩn danh để thực hiện các hoạt động cung cấp thông tin sai lệch, có các hành vi lệch chuẩn. Có những cá nhân còn bôi nhọ, chống phá những thành quả của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta.

Cần coi giặc nội xâm, coi kẻ địch bên trong ta là kẻ thù trực tiếp, toàn diện, đặc biệt trong bối cảnh các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, phản động đang sử dụng các công nghệ, nhất là sử dụng không gian mạng và các hoạt động ẩn danh trên không gian mạng để cổ xúy cho các hành vi lệch chuẩn, cung cấp các thông tin sai trái, thù địch, lệch lạc, tiêu cực, thực hiện “diễn biến hòa bình”, “cách mạng màu” với mục tiêu làm thay đổi thể chế chính trị ở nước ta.

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người - Bài 3: Đấu tranh với “địch bên trong ta” và lành mạnh hóa không gian mạng (Tiếp theo và hết)
Minh họa: PHẠM HÀ 

Trong kháng chiến chống giặc ngoại xâm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác và tinh thần yêu nước của nhân dân, dựa vào lực lượng của nhân dân, thì trong chống giặc nội xâm, “chống kẻ địch ngay trong ta” cũng phải dựa vào dân mới có thể giành được thắng lợi: Ví dụ như “phong trào chống tham ô, lãng phí, quan liêu ắt phải dựa vào lực lượng quần chúng thì mới thành công”.

Công cuộc chống “giặc nội xâm” chống lại “kẻ địch ngay trong ta” sẽ lâu dài và khó khăn, phức tạp hơn cả sự nghiệp chống giặc ngoại xâm. Người khẳng định rằng: “Việc tranh đấu với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn dễ, nhưng việc tranh đấu với kẻ địch trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn, đau xót”. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người chỉ rõ: “Mỗi kẻ địch bên trong là một bạn đồng minh của kẻ địch bên ngoài. Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”.

Ngày nay, người dân không chỉ ở trong thế giới thực mà còn sống, sinh hoạt, hoạt động tích cực trên không gian ảo. Do đó, không chỉ cần quan tâm đến người dân trong thế giới thực mà còn phải tranh đấu với kẻ địch ở ngay trong ta, ngay trong nội bộ, ngay trong tinh thần.

Không gian mạng cần được quản lý như thế giới thực

Thực tiễn chứng minh, lượng thông tin mà con người được cung cấp, tiếp nhận thông qua internet và không gian mạng là vô cùng lớn. Không gian mạng là mở, được cập nhật liên tục, không phân biệt không gian, thời gian nên con người trong bối cảnh này dù chủ động hay bị động thì thông tin cũng là nhân tố trực tiếp tác động đến nhận thức, và đôi lúc hành động của họ cũng phụ thuộc vào lượng thông tin mà họ tiếp nhận được.

Bộ não của mỗi người trong một khoảng thời gian nhất định chỉ có thể tiếp nhận và xử lý được một lượng thông tin nhất định, nếu vượt quá giới hạn sẽ tạo nên chứng “bội thực thông tin”. Từ đó làm con người mất phương hướng, rơi vào tình trạng mù mờ, không phân biệt được đúng sai, nhận thức không đến nơi đến chốn, tư tưởng và hành động dễ sa vào tiêu cực hoặc có các hành vi lệch lạc. Ví dụ như khi một đối tượng giả danh cán bộ của cơ quan nhà nước hay giả mạo một cơ quan nhà nước có uy tín liên tục gây sức ép, cung cấp thông tin giả mạo, sai trái thì sẽ dễ khiến nạn nhân bị khủng hoảng, ức chế tâm lý và vô thức làm theo yêu cầu của các đối tượng này.

Trên thế giới, nhiều quốc gia đã coi không gian mạng là một nơi cần được quản lý như thế giới thực. Hay nói cách khác, các quy tắc, quy định, chế tài, định hướng được thực hiện cả trên môi trường thực và môi trường ảo. Ví dụ như ở Hoa Kỳ, mặc dù hiến pháp không bảo đảm quyền ẩn danh một cách rõ ràng nhưng có những tham chiếu chặt chẽ về quyền ẩn danh với các ràng buộc pháp lý. Các luật về truyền thông ở một số tiểu bang cũng quy định về hành vi, theo đó các hành vi sử dụng mạng xã hội để tán phát thông tin sai lệch sẽ bị xử lý từ phạt tiền đến án hình sự. Tòa án có thể yêu cầu các cơ quan chính phủ xác định danh tính của các tài khoản ẩn danh để phục vụ cho quá trình xét xử.

Các điều khoản của hành lang pháp lý ở Liên minh châu Âu và các quốc gia thành viên cũng có những quy định về quyền và nguyên tắc pháp lý về ẩn danh trên không gian mạng để phòng ngừa, xử lý những tác động xấu, tiêu cực do các hoạt động ẩn danh đối với xã hội hay lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hoạt động khủng bố. Có thể thấy rằng, dù cổ vũ cho hoạt động tự do báo chí, tự do ngôn luận nhưng bản thân các quốc gia này cũng đã lường trước và có những quy định chặt chẽ để ứng phó với những tác động tiêu cực mà hoạt động ẩn danh gây ra.

Tuyên bố các nguyên tắc về quyền tự do ngôn luận và tiếp cận thông tin ở châu Phi năm 2019 của Tòa án Nhân quyền châu Phi (ACHR) đưa ra 16 nguyên tắc mà luật pháp quốc gia phải tuân thủ, bao gồm bảo đảm sự đa dạng của các phương tiện truyền thông, các quy định về xử lý vi phạm bằng các hình phạt, kể cả bằng hình sự đối với những hoạt động cung cấp thông tin gây tổn hại tới xã hội. Tuyên bố về nguyên tắc tự do ngôn luận Tòa án Nhân quyền liên Mỹ (IACHR) bao gồm 13 nguyên tắc, trong đó có cấm kiểm duyệt trước, bảo vệ nguồn, luật riêng tư, tài trợ và quảng cáo công cộng cũng như luật đa dạng và chống độc quyền... hay các quy định Điều 13(3) của Công ước Liên Mỹ, bảo vệ quyền tự do tư tưởng và quan điểm trên không gian mạng cũng như các phương tiện truyền thông. Tất cả đều có những quy định cụ thể với các ràng buộc về pháp lý đối với hoạt động chính danh hay ẩn danh trên môi trường số.

Bước vào thời kỳ mới, chúng ta lựa chọn xây dựng xã hội mới với những con người xã hội chủ nghĩa trên cơ sở phương thức sản xuất tiên tiến, hiện đại-phương thức sản xuất số. Để chiến thắng “địch bên trong ta”, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta cần có nhận thức sâu sắc tính cấp thiết, lâu dài, phức tạp của cuộc đấu tranh này, cần có quyết tâm chính trị cao, kiên quyết, kiên trì đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, đặc biệt là các hoạt động quản lý, định hướng và triển khai phát triển xã hội số, văn hóa số, con người số.

Không gian số là nội hàm mới, là thực tiễn, việc trang bị kiến thức, kỹ năng cho từng tổ chức, cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội, người dân và toàn xã hội không thể thực hiện trong một sớm một chiều mà phải trải qua một thời gian dài tích góp và có quá trình để đấu tranh, sàng lọc, loại bỏ và cập nhật liên tục những kiến thức, kỹ năng mới, đổi mới và cập nhật liên tục để phù hợp với xu hướng chung của thế giới, của xã hội và nhận thức. Mỗi cá nhân, tổ chức cần rèn luyện thói quen tiếp cận thông tin một cách chủ động, có hệ thống, có mục đích.

Cần chủ động sàng lọc, tìm hiểu, tham vấn ý kiến chuyên gia, sử dụng các kênh thông tin chính thống, thực hiện kiểm tra, kiểm chứng thông tin trước khi chia sẻ, bình luận để loại bỏ những thông tin sai trái, thù địch, lệch chuẩn, thiếu các giá trị chuẩn mực xã hội... Mỗi người dân, tổ chức cần nâng cao trình độ nhận thức, tinh tường nhận diện, tiếp cận thông tin một cách đúng đắn, có quan điểm rõ ràng, chuẩn mực, có cái nhìn khách quan, toàn diện, có tư duy phản biện, bản lĩnh vững vàng để sẵn sàng đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.

ST.

Lợi dụng ẩn danh “ném đá” hại người

Internet giúp con người có thể tiếp nhận một lượng thông tin rất lớn. Về mặt tích cực, những thông tin này là nguồn tri thức vô hạn, để con người khai thác, học tập, vận dụng trong các hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, đây cũng là mảnh đất màu mỡ để các thông tin xấu, độc, lệch chuẩn, sai trái, thù địch, các thông tin gây ảnh hưởng tới quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân phát triển - tuy trên môi trường ảo, nhưng những thông tin này lại có mối quan hệ mật thiết với thế giới thực.

Từ những hành vi đơn lẻ hòng trục lợi...

Những mặt tiêu cực này đã và đang dần len lỏi vào đời sống xã hội Việt Nam, xuất hiện những yếu tố làm cho con người trở nên lệch lạc, mất phương hướng dẫn đến dễ tin hoặc làm theo những quan điểm sai trái, thù địch, có những hành động lệch chuẩn gây ảnh hưởng tới uy tín, quyền lợi của tổ chức, cá nhân và toàn xã hội.

Không gian mạng (KGM) góp phần hình thành nên xã hội số, ngoài các thông tin tích cực, các tri thức có ích còn tồn tại một lượng thông tin xấu, độc nhất định. Nguồn “nguyên liệu” chính để hình thành thông tin trên KGM xuất phát từ những mối quan hệ, các hoạt động hằng ngày của các cá nhân, xã hội nên bao giờ cũng lẫn trong đó những “tạp chất”. Khi con người tiếp nhận thông tin, bản thân mỗi người đều tự hình thành một “bộ lọc” để tiếp nhận những thông tin được coi là có ích, có lợi tùy thuộc vào quan điểm, mục đích, thị hiếu của chính mình.

Có những vấn đề cùng là một thông tin nhưng đối với người này là có lợi, đối với người khác thì không và ngược lại. Các tiêu chí để đánh giá “có lợi”, “có hại”, “có ích”, “vô ích”, “tích cực”, “tiêu cực” chỉ mang tính tương đối. Các hoạt động của con người trên KGM, trên cơ sở ứng dụng khoa học kỹ thuật cho phép con người thực hiện các hoạt động ẩn danh để đạt được những “phần lợi ích” nhiều nhất, “có lợi” nhiều nhất.

Mạng xã hội (MXH) Facebook, một dịch vụ trên KGM có nhiều người sử dụng cho phép các hoạt động ẩn danh để cung cấp thông tin. Ở Việt Nam, tính đến năm 2024, trên MXH Facebook có khoảng 78 triệu tài khoản đang hoạt động. Cũng năm 2024, MXH Zalo có khoảng 75 triệu tài khoản hoạt động thường xuyên; MXH TikTok có 67,72 triệu người dùng từ 18 tuổi trở lên.

Ngoài các tài khoản chính danh, cung cấp thông tin hữu ích, có giá trị còn rất nhiều tài khoản ảo, tài khoản ẩn danh cung cấp các thông tin về mọi mặt hoạt động của đời sống xã hội dưới danh nghĩa là các hoạt động dân sự, lợi dụng quyền cung cấp thông tin, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí để trục lợi, lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản, xúc phạm, bôi nhọ, cung cấp các thông tin sai lệch gây hoang mang dư luận, gây bức xúc trong xã hội.

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người - Bài 2: Lợi dụng ẩn danh “ném đá” hại người

Người ẩn danh và trò lố của những kẻ “ném đá” hại người. Ảnh minh họa: MẠNH TIẾN 

Những hoạt động lừa đảo, giả mạo, giả danh cơ quan, tổ chức, cá nhân ngày càng được các đối tượng thông qua hoạt động ẩn danh để lợi dụng niềm tin hòng trục lợi cá nhân, chiếm đoạt tài sản của người khác. Thời gian qua, nhiều người dân trên cả nước liên tục bị các số điện thoại giả mạo cơ quan công an, cơ quan quản lý nhà nước gọi đến với nội dung như: “Cập nhật số liệu thẻ căn cước công dân”; giả danh cán bộ Bộ Thông tin và Truyền thông, nhà mạng thông báo “số điện thoại sẽ bị chặn, hủy và khóa sau vài giờ”; thông báo triệu tập của “công an xã”, “công an huyện” đến xử lý và thực hiện hoàn thành thủ tục của tòa án, pháp luật hay xử lý nợ; giả danh cán bộ ngân hàng “thông báo trúng thưởng”, thực hiện tra soát tài khoản, yêu cầu người dân cung cấp số tài khoản, mật khẩu giao dịch, mã OTP...

Hay việc người sử dụng MXH Facebook, Zalo, Viber, Telegram... liên tục được đưa vào các hội, nhóm, bị gửi các đường liên kết trên mạng có tiêu đề hấp dẫn, gây sốc có chứa đựng mã độc, chứa đựng các cách thức truy cập trái phép vào tài khoản hoặc giả danh người thân vay tiền... Nhiều tài khoản ẩn danh, giả mạo các kênh truyền thông chính thống như Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Quân đội nhân dân... các cơ quan, tổ chức có uy tín như các bệnh viện nổi tiếng để quảng cáo thực phẩm chức năng, thuốc giả, tư vấn cách thức chữa bệnh, bán “thuốc dạo” để chữa bệnh ung thư, bệnh đặc trị... Điều đáng buồn là nhiều người dân đã sập bẫy lừa đảo của các đối tượng này, bị ảnh hưởng tâm lý, thiệt hại về kinh tế với số tiền rất lớn.

Ngoài ra, còn có các hoạt động ẩn danh nhằm thực hiện các hành vi ác ý, bôi nhọ danh dự người khác. Nhiều người dân bị các tài khoản MXH ẩn danh ghép các nội dung xấu, giả mạo và tạo các đoạn video clip nhằm mục đích bắt nạt, quấy rối, lăng mạ, sỉ nhục, tra tấn tinh thần thông qua các phương tiện điện tử và KGM. Trên MXH Facebook, có nhiều hội, nhóm mang những cái tên gây sốc như: “Bóc phốt”, “diễn đàn”, “trang thú tội (confession)”..., các tài khoản này gửi tin nhắn, đánh cắp thông tin và phá hoại tài khoản, đăng tin nhắn, comment, gửi các tin nhắn, đăng các hình ảnh, video clip có nội dung khiêu dâm gây rối loạn tâm lý, tổn thương, tổn hại đến uy tín, danh dự của người khác.

Các tài khoản ẩn danh còn dùng công nghệ để định vị, theo dõi vị trí và hoạt động của nạn nhân để quấy rối, theo dõi người khác trên MXH; đăng tải thông tin riêng tư hoặc giả mạo danh tính nhằm làm tổn hại danh dự, uy tín của người khác gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tâm trạng và tinh thần của họ. Các hoạt động này còn hướng đến xâm hại trẻ em, nhiều trẻ em bị dụ dỗ gửi ảnh, video về bộ phận nhạy cảm khi sử dụng internet. Nhiều trẻ vị thành niên thông qua môi trường mạng bị dụ dỗ tham gia đường dây mua bán người, đường dây thực hiện các dịch vụ nhạy cảm như vũ trường, quán bar, quán karaoke trá hình...

...đến phá hoại sự ổn định của đất nước

Nói về hoạt động ẩn danh trên KGM, thời gian qua đã có nhiều tiền lệ và hậu quả xấu đối với đời sống xã hội, làm ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Các hoạt động lợi dụng MXH, lợi dụng các yếu tố kỹ thuật và kẽ hở của pháp luật, lợi dụng lòng tin và “mơ màng” với cảm giác đứng trong bóng tối, thực hiện các hoạt động ẩn danh để sử dụng các thông tin giả mạo, thất thiệt, đưa thêm thông tin nửa vời, cắt ghép; lợi dụng ẩn danh để lừa đảo, đưa các thông tin sai trái, xuyên tạc để “ném đá” hại người; qua đó gây chia rẽ, bè phái, mất đoàn kết; làm nảy sinh tư tưởng nghi ngờ, đố kỵ, thậm chí gây hoang mang, lo lắng trong cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.

Nguy hiểm hơn nữa, các hoạt động ẩn danh còn được các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sử dụng để chống phá chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, gây mâu thuẫn, chia rẽ nội bộ, kích động bạo lực, cổ vũ cho các hoạt động tập trung đông người hòng thúc đẩy bạo loạn, bạo động; thực hiện các hoạt động cổ xúy, thúc đẩy “cách mạng màu”.

Các kênh truyền thông cả chính danh lẫn ẩn danh của một số cá nhân, tổ chức móc nối với một số đối tượng chống đối, bất mãn trong nước nhằm đưa các tin, bài có nội dung tiêu cực, xuyên tạc; lợi dụng tình hình và các sự kiện quan trọng của đất nước, các vấn đề dư luận xã hội quan tâm, các vấn đề liên quan đến tôn giáo, nhân quyền, dân chủ, dân tộc... để phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng, bôi xấu các thành quả của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Vừa qua, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đang tích cực phòng, chống và khắc phục hậu quả cơn bão số 3 (bão Yagi), các tin đồn thất thiệt gây ảnh hưởng xấu, hoang mang dư luận liên tục được tung ra trên MXH Facebook, YouTube với những dòng trạng thái, hình ảnh, video clip “vỡ đê” ở một địa phương nào đó... Trên các tài khoản này, ngoài các thông tin xấu, thất thiệt còn cung cấp nhiều thông tin sai trái, sai lệch, cổ vũ các hành vi lệch chuẩn, thực hiện các hành vi chống phá những thành quả mà Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta đã đạt được.

Trên thế giới, nhiều quốc gia, vùng lãnh thổ như Mỹ, Liên minh châu Âu... đã có những hành lang pháp lý nhằm xử lý các hành vi trên KGM, trong đó có những quy định để thực hiện giám sát, trừng phạt hoặc thực hiện các biện pháp hình sự. Đã đến lúc chúng ta quan tâm, hoàn thiện và xây dựng các hành lang pháp lý liên quan đến các hoạt động ẩn danh và lợi dụng ẩn danh để thực hiện các hành vi xấu trên KGM.

Ngoài ra, cần có các hành lang pháp lý về “chính danh” trong các hoạt động liên quan đến KGM, đồng thời cần nâng cao nhận thức, văn hóa ứng xử, trách nhiệm của người dân khi sử dụng MXH. Cần xây dựng “thế trận lòng dân” trên KGM để đáp ứng với yêu cầu của tình hình mới hiện nay./.

ST.