Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI THAM QUAN BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM!

1. Thời gian mở cửa (thông tin từ lễ tân).
- Sáng từ 8h30 đến 11h30
- Chiều từ 13h30 đến 16h30
- Đóng cửa vào thứ 2 và thứ 6 hàng tuần.
- Dự kiến các ngày 12,21/11 sẽ đóng cửa đón đoàn quốc tế, ngoại giao, quay phim, truyền hình
- Miễn phí vé vào cửa từ 01/11/2024 đến hết tháng 12/2024
2. Cửa chính (mặt Đại Lộ Thăng Long), hoặc cổng phụ từ phía khu vực để xe máy và ô tô.
3. Khu vực để xe máy, ô tô nằm ở phía bên trái bảo tàng (hướng từ Đại Lộ nhìn vào bảo tàng), hiện tại gửi xe đang miễn phí nhưng khá lộn xộn.
4. Nhà vệ sinh ở ngay ngoài sảnh (phía bên trái), hoặc đi thẳng vào trong qua sảnh ở cuối bên phải.
5. Những ngày đầu tham quan thường khá đông, vào trong nhà sóng kém, nhiều lúc không có sóng, mọi người nên chú ý bảo quản tài sản cá nhân./.




Yêu nước ST.

GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT: MỘT BÀI THƠ KỲ LẠ!

     Tiếng Việt của chúng ta thật tuyệt vời! Phải nói là bái phục bài thơ lạ kỳ này. Bài thơ được chia sẻ từ nhà nghiên cứu Dân tộc học và Việt học Đinh Trọng Hiếu ở Paris đăng trên "Khuôn Mặt Văn Nghệ".
Không biết tác giả là ai, nhưng khi đọc bài thơ này ta vô cùng khâm phục tác giả của bài thơ, càng thêm yêu quý và càng phải giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt. Vậy mà có kẻ bày ra thứ trò cải tiến nhảm nhí và muốn phá hoại chữ nghĩa của bao thế hệ tổ tiên để lại.
Bây giờ ta hãy chiêm ngưỡng vẻ độc đáo của bài thơ này :

1. Bài thơ gốc:
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.

2. Đọc ngược bài gốc từ dưới lên :
Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha
Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng lặng sông chờ khách lại qua
Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi đầy chén rượu thơ vui thú
Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.

3. Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc,
(Sẽ có một bài ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng) :
Cảnh xuân ánh sáng ngời
Thơ rượu chén đầy vơi
Giậu trúc cành xanh biếc
Hương xuân sắc thắm tươi
Khách chờ sông lặng sóng
Thuyền đợi bến đông người
Tiếng hát đàn trầm bổng
Bóng ai mắt mỉm cười.

4. Bỏ 2 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên, ta sẽ được bài (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng) :
Mắt ai bóng thướt tha
Đàn hát tiếng ngân xa
Bến đợi thuyền xuôi ngược
Sông chờ khách lại qua
Sắc xuân hương quyện lá
Cành trúc giậu cài hoa
Chén rượu thơ vui thú
Ánh xuân cảnh mến ta.

5. Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc :
Ta mến cảnh xuân
Thú vui thơ rượu
Hoa cài giậu trúc
Lá quyện hương xuân
Qua lại khách chờ
Ngược xuôi thuyền đợi
Xa ngân tiếng hát
Tha thướt bóng ai.

6. Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, ta đọc ngược từ dưới lên :
Cười mỉm mắt ai
Bổng trầm đàn hát
Người đông bến đợi
Sóng lặng sông chờ
Tươi thắm sắc xuân
Biếc xanh cành trúc
Vơi đầy chén rượu
Ngời sáng ánh xuân.

7. Bỏ 4 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc :
Ánh sáng ngời
Chén đầy vơi
Cành xanh biếc
Sắc thắm tươi
Sông lặng sóng
Bến đông người
Đàn trầm bổng
Mắt mỉm cười.

8. Bỏ 4 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, ngược từ dưới lên :
Bóng thướt tha
Tiếng ngân xa
Thuyền xuôi ngược
Khách lại qua
Hương quyện lá
Giậu cài hoa
Thơ vui thú
Cảnh mến ta ./.
Ảnh: Chỉ mang tính chất minh họa.
Khuyết danh ST.

“MẠNG XÃ HỘI CÓ TRÁCH NHIỆM RÀ QUÉT, TỰ ĐỘNG GỠ THÔNG TIN XẤU ĐỘC, SAI SỰ THẬT”!

         Theo Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng, các nền tảng mạng xã hội có không gian riêng, thuê bao riêng với hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người dùng phải có trách nhiệm rà quét, phát hiện, tự động gỡ bỏ thông tin xấu độc, sai sự thật!

Sáng 12/11, Quốc hội tiến hành phiên chất vấn nhóm vấn đề thuộc lĩnh vực Thông tin và Truyền thông.

Đại biểu Nguyễn Duy Thanh (đoàn Cà Mau) cho biết, trong những năm qua, sự phát triển bùng nổ của mạng xã hội đã kéo theo tình trạng tin giả, tin sai sự thật, tạo ra những hệ lụy tiêu cực, gây bức xúc trong dư luận, lại cạnh tranh khốc liệt với báo chính thống cả về thông tin và doanh thu.

“Với vai trò quản lý nhà nước, Bộ trưởng có phương án như thế nào để quản lý mạng xã hội?”, đại biểu Nguyễn Duy Thanh nêu câu hỏi.

Trả lời vấn đề này, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, đây là vấn đề không chỉ ở Việt Nam mà mang tính toàn cầu. Trong lần trả lời chất vấn này, Bộ trưởng nói về một số giải pháp mới.

Đầu tiên là việc hoàn thiện thể chế. Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trước đây chỉ quy định xử lý cá nhân sử dụng mạng xã hội khi đưa thông tin sai sự thật, tin giả. Còn Nghị định 147/NĐ-CP/2024 vừa được Thủ tướng Chính phủ ký ban hành đã đưa vấn đề xử lý các nền tảng xã hội khi vi phạm pháp luật Việt Nam.

Thứ hai, trước đây hay nghĩ nhiều đến trách nhiệm quản lý nhà nước, nhưng theo Bộ trưởng TT&TT, ở đây có trách nhiệm lớn của các nền tảng mạng xã hội. “Họ có không gian riêng, thuê bao riêng với hàng trăm triệu, thậm chí hàng tỷ người dùng, thì họ phải có trách nhiệm rà quét, phát hiện, tự động gỡ bỏ thông tin xấu độc, sai sự thật”, ông Nguyễn Mạnh Hùng cho hay.

Vấn đề thứ ba, theo Bộ trưởng là công tác truyền thông. “Chúng ta sống trong thế giới thực hàng chục nghìn năm vẫn còn có những tồn tại. Không gian mới là không gian số thì mới được 20 năm, mới lạ với tất cả chúng ta”. Bởi vậy, theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, vấn đề truyền thông để người dân có kỹ năng số, biết sử dụng các nền tảng số, có khả năng đề kháng trên không gian số... không chỉ cho chúng ta, mà còn cho thế hệ tương lai, tức các em học sinh.

Ngoài ra, Bộ TT&TT đã thành lập và đưa vào vận hành trung tâm chống tin giả, tin sai sự thật quốc gia để người dân có nơi để phản ánh, đề nghị giúp đỡ.
Muốn giữ vững trận địa, báo chí phải làm khác mạng xã hội
Đại biểu Nguyễn Thị Yến Nhi (đoàn Bến Tre) cho biết, trong giai đoạn bùng nổ thông tin với sự hỗ trợ của các nền tảng mạng xã hội có tính năng chia sẻ cao, thì hiện tượng "người người làm báo, nhà nhà làm báo", làm kênh riêng đưa lên mạng, kèm theo quảng cáo, với nhiều nội dung giật gân, phản cảm, sai sự thật đã gây bức xúc trong dư luận.

“Đề nghị Bộ trưởng cho biết giải pháp để chấn chỉnh tình trạng trên, đồng thời có các giải pháp nào nhằm nâng cao vai trò của báo chí chính thống, cách mạng để làm tốt vai trò định hướng, tuyên truyền?”, đại biểu đoàn Bến Tre nêu câu hỏi.

Trả lời câu hỏi của đại biểu, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng cho biết, khi mạng xã hội ra đời, có thể nói đã lấy mất nghề của báo chí. Nghề báo chí trong nhiều trăm năm qua tập trung vào đưa tin, nhưng mạng xã hội hiện nay đưa tin nhanh hơn, mạng xã hội có hàng chục triệu phóng viên mà không phải trả tiền lương, họ ở khắp mọi nơi.

“Báo chí muốn giữ vững trận địa của mình thì phải làm khác mạng xã hội, quay về những giá trị cốt lõi của báo chí, tin xác thực, chính xác, khách quan, có trách nhiệm giải trình, đạo đức nghề nghiệp; thay vì đưa tin thì phân tích đánh giá; thay vì bình luận thì đưa ra giải pháp, thay vì đưa tin thì kể câu chuyện dẫn dắt định hướng xã hội”, Bộ trưởng nói.

Theo Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng, trước đây, báo chí trong không gian thực là lực lượng chủ đạo, còn hiện nay lên không gian mạng, thông tin từ báo chí phải định hướng được dòng chảy, đảm bảo chất lượng tin tức, nội dung. Bộ TT&TT, Ban Tuyên giáo Trung ương và Hội Nhà báo Việt Nam đã xác định đây là định hướng chính để xác định lại vị trí, vai trò của báo chí cách mạng.
“Chúng tôi cũng xác định cách tốt nhất để báo chí cạnh tranh với mạng xã hội là làm khác mạng xã hội và quay về với giá trị cốt lõi của mình. Sử dụng công nghệ của mạng xã hội để làm báo và coi mạng xã hội là môi trường để xuất hiện”, Bộ trưởng TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng nói./.

Yêu nước ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG THEO DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!

         Trong bản Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vấn đề xây dựng, chỉnh đốn Đảng, mà đặc biệt là tự phê bình và phê bình, được Người đề cập và xác định là việc làm trước tiên sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước giành thắng lợi. Những di huấn quan trọng này của Người vẫn vẹn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay!

Theo nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tự phê bình và phê bình là tất yếu khách quan, quy luật tồn tại và phát triển của Đảng; là việc tuyệt đối cần thiết cho tất thảy mọi chính đảng sống và đầy sức sống; là vũ khí sắc bén nhất giúp cho Đảng ta mạnh và ngày càng thêm mạnh; là thang thuốc hay nhất “trị bệnh cứu người”. Nếu sợ tự phê bình, che giấu sai lầm, khuyết điểm thì không phải là người cách mạng, không phải là đảng chân chính cách mạng. V.I.Lênin chỉ rõ: “kiêu ngạo cộng sản” là một căn bệnh nguy hiểm, nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của đảng và chế độ. Vấn đề có tính quy luật là tất cả các đảng cách mạng, cán bộ, đảng viên tự cao tự đại, không biết cách nhìn rõ cái gì tạo nên sức mạnh của mình, sợ sệt không dám công khai thừa nhận sai lầm, vạch rõ nguyên nhân sai lầm và phân tích hoàn cảnh sai lầm để sửa chữa, thì đảng đó sớm hay muộn sẽ hỏng. Tự phê bình và phê bình là nguyên lý căn bản giúp đảng cầm quyền tự hoàn thiện mình, trở thành một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính.

Tự phê bình và phê bình được Chủ tịch Hồ Chí Minh bàn đến và gương mẫu thực hiện trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Người chỉ rõ: khi Đảng ta trở thành đảng cầm quyền thì tự phê bình và phê bình trong Đảng là điểm mấu chốt vì: “Đảng ta không phải trên trời sa xuống, mà từ trong xã hội sinh ra”; đảng viên và cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính xấu. Thói xấu cũng như chứng bệnh. Phê bình cũng như uống thuốc. Có bệnh mà giấu, không dám uống thuốc, thì bệnh ngày càng nặng. Với tinh thần đó, trong Di chúc, Người viết: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.

Thực hiện Di chúc của Bác, trong 55 năm qua, có không ít tập thể, cá nhân làm tốt tự phê bình và phê bình, trở thành điển hình tiên tiến trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, được xã hội ghi nhận, tôn vinh. Song, bên cạnh đó, việc tự phê bình và phê bình trong Đảng vẫn còn hạn chế: “Tự phê bình và phê bình nhiều nơi mang tính hình thức; vẫn còn tình trạng nể nang né tránh, ngại va chạm; một số cán bộ, đảng viên thiếu tự giác nhận khuyết điểm và trách nhiệm của mình trong công việc được giao”.

Để tạo bước chuyển mới, tích cực hơn nữa trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chúng ta cần hiểu thấu và làm đúng tự phê bình và phê bình trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trong đó, tập trung vào những nội dung chủ yếu sau.

Một là, nhận thức đúng mối quan hệ giữa tự phê bình và phê bình. Trong thực hiện hai nội dung này, có ý kiến cho rằng, Bác luôn đặt tự phê bình trước phê bình để nhấn mạnh tự phê bình quan trọng hơn phê bình. Nhận thức như vậy không đúng. Bởi, trong nhiều trường hợp Bác đặt phê bình trước tự phê bình, như: Bài nói tại Hội nghị Trung ương chuẩn bị cho Đại hội lần thứ II của Đảng (ngày 10/5/1950) có mục “phê bình và tự phê bình”; hay bài viết “phê bình và tự phê bình” của Bác, năm 1957, v.v. Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “phê bình mình cũng như phê bình người” tức là phê bình bao hàm cả tự phê bình và phê bình. Như vậy, tự phê bình và phê bình cần được hiểu là hai mặt của một vấn đề, như “hai cánh của một con chim”. Theo Bác, nói tự phê bình trước vì chúng ta phải “tiên trách kỷ, hậu trách nhân”; đồng thời, yêu cầu mọi người phải thẳng thắn phê bình: “Tự phê bình rồi lại phải phê bình người khác nữa”.

Những luận giải của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy tự phê bình và phê bình đều quan trọng và cần thiết như nhau. Hiện nay, trong sinh hoạt, các cấp ủy, tổ chức đảng phải chú trọng, quan tâm đúng mức cả hai mặt này như lời căn dặn: “... các cán bộ, các đảng viên, mỗi người mỗi ngày phải thiết thực tự kiểm điểm và kiểm điểm đồng chí mình. Hễ thấy khuyết điểm phải kiên quyết tự sửa chữa, và giúp đồng chí mình sửa chữa. Phải như thế, Đảng mới chóng phát triển, công việc mới chóng thành công”.

Hai là, tự phê bình và phê bình phải bảo đảm tính dân chủ rộng rãi. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Phê bình là quyền lợi và nhiệm vụ của mọi người, là thực hành dân chủ. Cấp dưới có quyền phê bình cấp trên. Nhân dân có quyền phê bình cán bộ, phê bình chính quyền, Đảng và các đoàn thể”. Dân chủ rộng rãi trong thảo luận và phê bình tức là phải đường hoàng, chính đáng: “mọi người được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng hoặc không đúng cũng vậy. Song không được nói gàn, nói vòng quanh”. Ngược lại, nếu không dân chủ thì: “... các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau. Quần chúng với Đảng rời xa nhau”. Rõ ràng, không dân chủ trong phê bình là hết sức nguy hại.

Để thực hành dân chủ được rộng rãi thì vai trò của cấp ủy, người đứng đầu rất quan trọng. Theo Bác, người lãnh đạo muốn biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của mình, muốn biết công tác của mình tốt hay xấu, không gì bằng khuyên cán bộ mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta nhấn mạnh: “Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các cấp ủy đảng, cán bộ chủ chốt, nhất là cấp Trung ương, người đứng đầu làm trước và phải thật sự gương mẫu”; “nghiêm túc tự kiểm điểm, tự phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế”. Là người luôn tâm huyết, tận trung với Đảng, cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng đúc rút: “Kinh nghiệm cho thấy muốn tự phê bình và phê bình có kết quả tốt, điều quan trọng là phải thật sự phát huy dân chủ trong Đảng, người đứng đầu phải gương mẫu và phải có các hình thức dân chủ để quần chúng đóng góp phê bình cán bộ, đảng viên và phải nghiêm túc tiếp thu những ý kiến phê bình đúng đắn”.

Ba là, cách thức tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, nghiêm chỉnh dựa trên tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau. Đây là sự đúc kết của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong suốt mấy chục năm rèn luyện Đảng ta. Tự phê bình và phê bình phải thường xuyên, như mỗi ngày phải rửa mặt, để trong Đảng không có bệnh và Đảng mạnh khỏe. Người căn dặn: “Người cách mạng và đoàn thể cách mạng cần phê bình và tự phê bình thiết tha như người ta cần không khí. Cách mạng sở dĩ phát triển mãi, tiến bộ mãi, càng gặp nhiều gian khổ càng mạnh mẽ thêm, là nhờ có phê bình và tự phê bình”. Phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh là phải hết sức đúng đắn và chặt chẽ. Phê bình nghiêm chỉnh là phải ráo riết, triệt để, thật thà, không nói bóng bẩy, không nể nang, không thêm bớt; phải vạch rõ cả ưu và khuyết điểm với thái độ đúng mực. Chính sự nghiêm chỉnh là biểu hiện rõ nét nhất của tình đồng chí thương yêu lẫn nhau, vì chỉ có lòng thân ái, lòng thành thật thì mới ráo riết phê bình đồng chí mình một cách nghiêm chỉnh. Nghiêm chỉnh không có nghĩa là cứng nhắc, mà là phải: “... biết cách phê bình sáng suốt, khôn khéo, như chiếu tấm gương cho mọi người soi thấu những khuyết điểm của mình để tự mình sửa chữa”. Chúng ta phải: “Luôn luôn dùng và khéo dùng cách phê bình và tự phê bình, thì khuyết điểm nhất định sẽ hết dần, ưu điểm nhất định thêm lên và Đảng ta nhất định thắng lợi”.

Quan điểm của Bác về phê bình và tự phê bình được Đảng ta quán triệt sâu sắc trong các nghị quyết chuyên đề về xây dựng Đảng; trong đó, nhấn mạnh đổi mới nội dung, hình thức để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Đảng ta chỉ rõ: “Xây dựng quy định tự phê bình và phê bình, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và bảo vệ người thẳng thắn, dám đấu tranh; cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Rút kinh nghiệm của những nơi làm qua loa, đại khái, Đảng ta yêu cầu cần thực hiện nghiêm chỉnh việc tự phê bình và phê bình, đó là: “Hết sức tránh làm lướt, làm qua loa, hình thức, chiếu lệ. Khắc phục tình trạng xuê xoa, nể nang, thậm chí biến cuộc họp phê bình và tự phê bình thành nơi vuốt ve, ca tụng lẫn nhau; cũng như tình trạng lợi dụng dịp này để “đấu đá”, “hạ bệ” nhau với những động cơ không trong sáng. Nghiêm khắc xử lý những trường hợp trù dập phê bình và vu cáo người khác”. Điều này, đang được cấp ủy, tổ chức đảng các cấp quán triệt, triển khai thực hiện để nâng cao chất lượng sinh hoạt tự phê bình và phê bình.

Bốn là, mục đích của tự phê bình và phê bình là để đoàn kết và đi tới thắng lợi của cách mạng. Phê bình để giúp nhau sửa chữa khuyết điểm, để tiến bộ, để đoàn kết và thống nhất nội bộ. Phê bình và tự phê bình là một khâu trong công tác chỉnh đốn Đảng, mà mục đích chỉnh đốn Đảng theo Hồ Chí Minh là nhằm: “... làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ đều ra sức làm tròn nhiệm vụ đảng giao phó cho mình, toàn tâm toàn ý phục vụ nhân dân. Làm được như vậy, thì dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi”. Trong Di chúc của mình, Người cũng đã chỉ rõ, tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng. Chính nhờ sự đoàn kết chặt chẽ trong Đảng, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc nên Đảng ta mới tập hợp, đoàn kết và lãnh đạo nhân dân giành được thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đúc kết một cách ngắn gọn, thì mục đích gần của phê bình là tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; mục đích xa là vì sự thắng lợi của cách mạng. Đại đoàn kết sẽ dẫn tới đại thành công. Đó là vấn đề mà trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, Đảng ta và cố Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng luôn nhấn mạnh, đề cao tự phê bình và phê bình, nêu cao tính tiền phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì các cấp. Bởi vì, chỉ có thực hiện tốt tự phê bình và phê bình thì Đảng ta mới không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu, thực sự có sức mạnh, bản lĩnh, trí tuệ - nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới./.
Môi trường ST.

Một số vấn đề cơ bản về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền

Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, trong đó, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là nguyên tắc căn bản để bảo đảm tính thượng tôn pháp luật, mọi lợi ích thực sự thuộc về nhân dân, là điều kiện then chốt để hiện thực hóa nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn với các đại biểu dự Kỳ họp thứ 20, Hội đồng nhân dân tỉnh Thanh Hoá khoá XVIII, nhiệm kỳ 2021 - 2026_Ảnh: TTXVN

Tính tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước

Quyền lực vốn là của nhân dân, nhân dân sử dụng quyền ấy bằng cách ủy quyền cho nhà nước, thông qua đó, nhà nước lại trao quyền cho các cá nhân và tổ chức đại diện để vận hành xã hội với mục tiêu phục vụ lợi ích nhân dân. Tuy vậy, lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh, rằng “quyền lực luôn có xu hướng tha hóa” khi thiếu cơ chế kiểm soát hợp lý và hiệu quả. Thực tế, quyền lực luôn có tính hai mặt: 1) Trong xã hội có tổ chức, sự tồn tại của quyền lực là tất yếu để duy trì hoạt động xã hội trong khuôn khổ, trật tự, bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng; 2) Quyền lực luôn luôn có xu hướng bị lạm dụng. 

Trong nhà nước pháp quyền, bầu cử là phương tiện chủ yếu để người dân thực hiện sự ủy quyền, lựa chọn người cầm quyền. Ở mỗi chế độ chính trị khác nhau, các cuộc bầu cử được tiến hành nhiều cách thức riêng, song đều nhân danh lợi ích nhân dân để ban hành các quyết định chính trị. Người được bầu chọn phải cam kết phục vụ cho lợi ích của người dân, khi họ không giữ lời hứa, nhân dân sẽ thay thế bằng người khác. Như một lẽ tự nhiên, ở đâu xuất hiện sự ủy quyền thì ở đó chứa đựng nguy cơ lạm dụng quyền lực. Thực tế, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng và tự tăng cường vai trò của mình, do vậy, người dân phải kiểm soát quyền lực ấy; cũng do vậy, nhiều nước chú trọng xây dựng các quy định và các điều kiện giúp người dân có thể tước quyền nếu quan chức được bầu có hành vi lạm dụng quyền lực. 

Tính vị kỷ và khát vọng quyền lực của con người đã được các nhà tư tưởng chính trị chỉ ra rằng “Quyền lực luôn có xu hướng tha hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”. Vì vậy, để ngăn ngừa nguy cơ quyền lực bị lạm dụng, các nhà nước trên thế giới đều phải thiết kế các cơ chế kiểm soát quyền lực riêng, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hóa chính trị, nhận thức, tư duy về thực trạng và tương lai đất nước trên nguyên tắc bảo đảm người nắm giữ quyền lực công cộng không thể lạm quyền hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích mang tính cá nhân.

Tuy nhiên trong thực tế, hiện tượng tham nhũng, lợi dụng chức quyền của các quan chức vẫn tương đối phổ biến, đặc biệt là ở các nước đang phát triển có hệ thống kiểm soát quyền lực vẫn chưa đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi lạm dụng quyền lực. Việc lạm dụng quyền lực nhằm trục lợi cá nhân xuất phát từ vấn đề quyền lực nhà nước là sức mạnh và là sự thể hiện ý chí chung của cộng đồng, nhưng quyền lực ấy lại được giao cho một số người với những năng lực hữu hạn thực hiện; về mặt lý thuyết, thì “tập thể trao quyền cho cá nhân vì lợi ích chung”, nhưng cũng từ đó, việc sử dụng quyền lực mắc phải sai lầm xuất phát từ hạn chế cố hữu của con người và nếu rủi ro xảy ra thì nhân dân lại phải gánh chịu những hậu quả. Mặt khác, chính sự hữu hạn về năng lực điều hành trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước khiến các quyết định, chính sách của nhà nước không đem lại hiệu quả mong muốn, thậm chí còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người dân. Vì vậy, việc thiết lập một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả là rất quan trọng, bảo đảm các quyết định, chính sách được bàn bạc, thảo luận trước khi ban hành, hạn chế thấp nhất tình trạng đưa ra quyết định sai lầm. 

Mục đích và phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền hiện nay

Như vậy, quyền lực nhà nước tất yếu phải được kiểm soát. Việc kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước sao cho đúng mục đích, hiệu quả nhất; là toàn bộ những cách thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó để ngăn chặn, loại bỏ những hành động sai trái của nhà nước, phát hiện và điều chỉnh việc thực thi quyền lực bảo đảm mục đích và hiệu quả của quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa hẹp là hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước hợp pháp bằng thể chế với mục tiêu xác định. 

Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước

Từ góc độ chủ nghĩa mác-xít, mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước chính là khắc phục sự tha hóa của quyền lực, đưa quyền lực nhà nước trở về đúng bản chất quyền lực của nhân dân, thực hiện chức năng công quản của xã hội một cách đúng đắn và hiệu quả. Kiểm soát quyền lực nhà nước là khắc phục những nan giải của chính thể đại diện. Trong nhà nước pháp quyền, quan hệ giữa nhà nước - nhân dân chính là quan hệ giữa người đại diện - người chủ. 

Nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi đúng mục đích và hiệu quả, quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước trước hết là việc kiểm soát phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước, bởi quyền lực nhà nước là quyền lực được ủy nhiệm nên trước hết chủ thể quyền lực có quyền kiểm soát đối với quyền lực nhà nước trong phạm vi tác động của quyền lực. Kiểm soát quyền lực cũng cần được thể hiện ở việc kiểm soát quá trình thông qua và sửa đổi hiến pháp, bao gồm cách thức, quy trình hình thành, điều chỉnh, sửa đổi hiến pháp theo đúng quy trình dân chủ, bảo đảm hiến pháp phản ánh được ý chí, lợi ích của nhân dân, không xâm phạm đến lợi ích của cá nhân, nhân dân trong xã hội. Kiểm soát quyền lực nhà nước còn thể hiện ở khâu kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đó là: 1) Kiểm soát cách thức tổ chức bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm sự tuân thủ đúng các quy định của hiến pháp và khả năng vận hành hiệu quả trong thực tế; 2) Kiểm soát hoạt động hoạch định chính sách của nhà nước bảo đảm quá trình ra chính sách của nhà nước tuân thủ những quy trình, thủ tục quy định trong hiến pháp và các đạo luật, bảo đảm hiệu quả của hoạt động ra chính sách; 3) Kiểm soát các chính sách, quy định của nhà nước nhằm ngăn chặn, loại bỏ những chính sách, quy định trái với hiến pháp và luật, vi phạm đến quyền và lợi ích của công dân; các chính sách không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi hoặc hiệu quả kém cũng phải được điều chỉnh, sửa đổi hoặc loại bỏ; 4) Kiểm soát hoạt động thực thi chính sách của nhà nước nhằm bảo đảm hoạt động đó tuân thủ theo các quy định của pháp luật, ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động, hành vi sai trái hoặc kém hiệu quả của nhà nước. Đặc biệt, quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước phải là sự kiểm soát những người thực thi quyền lực nhà nước, thể hiện ở kiểm soát quy trình lựa chọn những người đảm nhiệm các công việc của nhà nước và kiểm soát hoạt động của các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước theo quy định của hiến pháp, các đạo luật, những cam kết chính trị, đạo đức khi ở cương vị là người thực thi quyền lực. 

Các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước

Thứ nhất, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước. Tính chất của quyền lực nhà nước là việc người dân ủy nhiệm một phần quyền của mình cho nhà nước, vì thế, chỉ trong các lĩnh vực đòi hỏi có sự phối hợp xã hội, đòi hỏi sự tuân thủ quyền lực công thì mới cần tới quyền lực nhà nước. Vậy nên, việc xác định và kiểm soát trong các phạm vi tác động là rất quan trọng, nhờ đó mà không gian hoạt động của công dân và xã hội được thừa nhận và bảo đảm, đồng thời góp phần làm cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. C. Mác từng khẳng định: “Tự do là ở chỗ biến nhà nước, cơ quan tối cao của xã hội thành một cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội, và ngay cả ngày nay nữa, các hình thức nhà nước tự do hay không tự do là tùy ở chỗ trong những hình thức ấy, “sự tự do của nhà nước” bị hạn chế nhiều hay ít”. Việc hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, như thông qua hiến pháp, các đạo luật, quy ước, luật lệ bất thành văn… tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và truyền thống văn hóa chính trị của mỗi quốc gia. 

Thứ hai, kiểm soát quyền lực thông qua hiến pháp và các chế định hiến pháp. Với tư cách là bộ luật cao nhất, là tuyên ngôn của nhân dân về quyền lực nhà nước, hiến pháp giới hạn quyền lực nhà nước trong một trật tự hiến định, qua đó, nội dung, cách thức và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước có tính bền vững và khó thay đổi. Hiến pháp quy định các quyền và tự do cơ bản của con người. Để tránh tình trạng các đại diện có xu hướng vi phạm quyền của nhân dân khi được ủy nhiệm, một hiến pháp tiến bộ thường bao gồm cả các quy định về các quyền cơ bản của con người. Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các chế định hiến pháp là bằng bầu cử định kỳ, hay là sự kiểm soát gián đoạn, được thể hiện ở: 1) Quyền bãi miễn của nhân dân là một phương thức để xử lý vấn đề khi những người được ủy quyền không đủ năng lực phục vụ nhân dân. C. Mác đã khẳng định ngay từ khi thiết lập Công xã Pa-ri rằng: “Công xã loại bỏ hoàn toàn hệ thống đẳng cấp chính trị và thay thế những ông chủ ngạo mạn của nhân dân bằng những đầy tớ luôn có thể bị bãi miễn; thay thế một trách nhiệm tưởng tượng bằng một trách nhiệm thật sự vì những người được ủy nhiệm này luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân”; 2) Quyền thay đổi hiến pháp, hiến pháp sẽ được thay đổi khi có sự đồng ý của một đa số người dân; 3) Quyền quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia thông qua trưng cầu dân ý thể hiện rằng các quốc gia sử dụng trưng cầu dân ý như một phương thức phê chuẩn sửa đổi hiến pháp hoặc thể hiện quyền quyết định của người dân, trong thực tiễn, đây chính là sự kiểm soát quyền lực rất mạnh mẽ. 

Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách tối ưu hóa các mục tiêu của nhà nước. Thông qua các quy định ràng buộc của hiến pháp và pháp luật, quyền lực nhà nước được giới hạn trong các mục tiêu xác định. Tuy nhiên, trên thực tế, do hạn chế của hiến pháp và pháp luật, cũng như xuất phát từ các nguyên nhân khác nên quyền lực nhà nước có thể được sử dụng cho đa mục tiêu so với quy định ban đầu, dẫn tới sự sai lệch hoặc phân tán về quyền lực, nguồn lực. Do đó, cần kiểm soát quyền lực nhà nước theo sát các mục tiêu ban đầu hoặc tối ưu hóa mục tiêu phát sinh trong tổng thể. 

Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua sự kiểm soát của nhân dân và xã hội được thể hiện tập trung ở việc bầu cử theo nhiệm kỳ. Qua bầu cử, cử tri và nhân dân có thể loại bỏ những đại diện không xứng đáng với sự ủy nhiệm của mình ra khỏi nhà nước. Ph. Ăng-ghen từng khẳng định: “Để ngăn ngừa sự chuyển hóa ấy của nhà nước và các cơ quan của nhà nước, từ chỗ là công bộc của xã hội thành ông chủ đứng trên đầu xã hội - sự chuyển hóa không thể tránh từ trước đến nay trong tất cả các chế độ công xã đã áp dụng hai biện pháp rất chính xác; tất cả những chức vị quản lý, tư pháp, giáo dục nhân dân đều giao cho những người đầu phiếu phổ thông bầu ra, ngoài ra các cử tri có quyền bãi miễn bất cứ lúc nào những người mình bầu ra”. Tuy nhiên, quy trình này cũng cần tính đến trường hợp các cuộc bầu cử phổ thông và định kỳ trong thực tế gặp những vấn đề nan giải, đó là việc soi xét, kháng cáo thường xuyên nhằm phóng đại các khuyết điểm của nhà nước, làm giảm sự tôn trọng cần thiết đối với nhà nước và dễ dẫn tới mất ổn định. 

Thứ năm, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua sự giám sát của nhân dân, phương tiện thông tin đại chúng, công luận. Sự giám sát chặt chẽ của nhân dân là một yếu tố cốt lõi để bảo đảm tính minh bạch, công bằng và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của nhà nước, qua đó, mọi hoạt động của nhà nước sẽ hướng đến phục vụ lợi ích của toàn dân, từ đó tạo ra một môi trường xã hội ổn định và phát triển. Giám sát bằng phương tiện thông tin đại chúng cũng là một mắt xích quan trọng của quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước, có tác dụng hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Phương tiện thông tin đại chúng, do tính chất nghề nghiệp của mình trong xã hội, có khả năng kết nối, tạo công luận gây sức ép với nhà nước, buộc nhà nước phải có trách nhiệm trong nhiều vấn đề quan trọng. Đây là sự giám sát, phản biện có tính chất thường xuyên của xã hội đối với nhà nước, đặc biệt trong thời đại số hiện nay, cách thức giám sát này càng thể hiện vai trò quan trọng.

Thứ sáu, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách tách các lĩnh vực của quyền lực nhà nước và bằng cơ chế kiềm chế đối trọng trong bộ máy nhà nước. Đây là hai phương thức kiểm soát phổ biến ở các nhà nước pháp quyền tư sản. Kiểm soát bằng cách tách các lĩnh vực của quyền lực thể hiện yêu cầu khách quan của sự chuyên môn hóa và để hạn chế sự chuyên quyền của nhà nước, phương thức này thể hiện ở sự phân chia chức năng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhánh lập pháp quyết định luật nào được thông qua, nhánh hành pháp thực thi luật và nhánh giám sát việc thực thi. Sự phân chia các nhánh quyền lực nhà nước nhằm mục đích cân bằng quyền lực, ngăn chặn bất kỳ một nhánh riêng lẻ nào giành quá nhiều quyền lực; làm tăng trách nhiệm của các quan chức được bầu. Kiểm soát thông qua cơ chế kiềm chế đối trọng trong bộ máy nhà nước được vận hành bởi việc cơ quan lập pháp có thể thực hiện quyền lực đối với người đứng đầu hành pháp thông qua việc yêu cầu hành pháp ra lệnh thực thi một đạo luật và bỏ phiếu luận tội; thực hiện quyền lực đối với tư pháp như thông qua một sửa đổi hiến pháp và thông qua luật. Quyền lực của tư pháp đối với hành pháp xuất phát từ việc thực hiện các quyền hiến định bảo vệ công dân khỏi hành động chuyên quyền trong thực thi luật. Tuy nhiên, việc kiểm soát bằng thể chế như vậy cũng gặp phải sự hạn chế, đó là sự ngăn cản khả năng người đại diện làm những việc sai trái, nhưng cũng có thể ngăn cản các đại diện làm những việc đáng làm (đây là sự kém linh hoạt và chậm trễ của thực thi quyền lực nhà nước). 

Nhìn chung, các cơ chế kiểm soát khác của nhà nước được thể hiện ở việc nhà nước thiết kế những thể chế có trách nhiệm kiểm soát các cơ quan đại diện thực thi quyền lực của nhà nước, nhằm nâng cao trách nhiệm, bảo đảm hoạt động của nhà nước đạt được đúng mục tiêu, hiệu quả.

Các đại biểu Quốc hội tiến hành bấm nút biểu quyết tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV_Nguồn: quochoi.vn

Vấn đề phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam

Ở Việt Nam, sau thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định nhiệm vụ quan trọng: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”; đồng thời tập trung “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động” và “Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường”. Thêm vào đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và đặc biệt Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” đều nhấn mạnh phải “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”.

Đến nay, với nhiều thành tựu to lớn đạt được sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ, vận hội mới cả về “thế” và “lực”, đứng trước “cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Tuy nhiên, dù đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, song một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề này chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; đặc biệt, quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện. 

Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực được hiểu là việc cùng nhìn về một mục tiêu của các bộ phận quyền lực nhà nước trong thực thi các quyết định chính trị. Theo đó, việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước cần thỏa mãn các điều kiện, như cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, nghĩa là mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu và xử lý phải rõ ràng và phối hợp nhịp nhàng để tránh sự chồng chéo, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân được phân công trong quá trình thực thi công vụ, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi đúng lộ trình và hiệu quả cao. Đây cũng là giải pháp được nhấn mạnh trong Nghị quyết 27-NQ/TW: “Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước”.

Ở Việt Nam, cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bởi Đảng thực thi quyền lực chính trị của mình trước hết bằng Nhà nước và thông qua quyền lực nhà nước. Đảng có trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước đi đúng quỹ đạo, là công cụ mạnh mẽ, đắc lực nhất để thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của Đảng. Đặc biệt, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên, bằng công tác tổ chức và cán bộ bên trong các cơ quan nhà nước, nên sự phân công nhiệm vụ và phối hợp công tác trong Đảng mang tính quyết định đối với phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Đồng thời, cũng cần cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng thông qua các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, công tác kiểm tra, giám sát... nhằm bắt buộc các tổ chức đảng, đảng viên được trao quyền phải thực hiện quyền lực được ủy nhiệm đúng với mục đích và tôn chỉ của Đảng.

Công cụ phân công và phối hợp chủ yếu giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước là đạo đức và thể chế, dựa trên các giá trị đạo đức xã hội, tập quán pháp, các thiết chế, quy định, luật pháp… đã được thiết lập. Việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước bằng đạo đức căn bản dựa vào nhận thức và sự tự giác của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, phương thức phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực cần dựa trên nền tảng Hiến pháp, pháp luật. 

Việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đều hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và nhân lên các giá trị ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa/.

ST.

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ GÓP PHẦN BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN!

         Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách đổi mới về kinh tế, chính trị, xã hội, phát huy một bước quyền làm chủ của nhân dân, nhờ đó đã đạt được những thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Trước yêu cầu của tình hình mới, vấn đề thực hiện dân chủ ở cơ sở tiếp tục được Đảng và Nhà nước chú trọng và không ngừng đẩy mạnh!

Theo quy định của pháp luật, thực hiện dân chủ ở cơ sở là phương thức nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để mọi tầng lớp nhân dân được thông tin kịp thời cũng như được thể hiện ý chí, nguyện vọng, chính kiến của mình thông qua việc thảo luận, tham gia ý kiến, quyết định và kiểm tra, giám sát các vấn đề ở cơ sở theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.

Nhận thức rõ tầm quan trọng của thực hiện dân chủ ở cơ sở, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị khóa VIII đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, trong đó chỉ rõ khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân tại cơ sở, phải đặt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở trong cơ chế tổng thể của hệ thống chính trị.

Trên cơ sở của Chỉ thị số 30-CT/TW, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành nhiều văn bản về việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở như: Nghị quyết số 45/1998/NQ-UBTVQH10 ngày 26/2/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn; Nghị quyết số 55/NQ-UBTVQH10 ngày 30/8/1998 về việc ban hành quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan,…

Đặc biệt, ngày 20/4/2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn (Pháp lệnh số 34).

Sau 15 năm thực hiện Pháp lệnh số 34, để tiếp tục thể chế hóa quan điểm của Đảng về thực hành dân chủ ở cơ sở gắn liền với phương châm "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng" theo tinh thần của Đại hội XIII, đồng thời khắc phục một số hạn chế, bất cập của Pháp lệnh số 34 vì không còn phù hợp bối cảnh mới, ngày 10/11/2022, Quốc hội đã thông qua Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (có hiệu lực từ ngày 1/7/2023). So với Pháp lệnh số 34, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở có nhiều điểm mới phù hợp yêu cầu thực hiện dân chủ ở cơ sở trong tình hình mới hiện nay.

Về phạm vi điều chỉnh, nếu Pháp lệnh số 34 chỉ quy định phạm vi thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn thì Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 mở rộng điều chỉnh đến việc thực hiện dân chủ trong cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức có sử dụng lao động.

Về nguyên tắc thực hiện, nếu Pháp lệnh số 34 đề ra 5 nguyên tắc thì Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 xác định 6 nguyên tắc, trong đó có những điểm nhấn mới hết sức quan trọng như yêu cầu bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, vai trò nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội trong thực hiện dân chủ ở cơ sở; thực hiện dân chủ ở cơ sở trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm trật tự, kỷ cương, không cản trở hoạt động bình thường của chính quyền địa phương cấp xã, cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động...

Đặc biệt, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 bổ sung thêm nguyên tắc hoàn toàn mới, đó là phải: "Tôn trọng ý kiến đóng góp của Nhân dân, kịp thời giải quyết kiến nghị, phản ánh của Nhân dân".

Về quyền và nghĩa vụ của công dân trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, nếu như Pháp lệnh số 34 không có quy định cụ thể về vấn đề này thì Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 đã dành hẳn hai điều (Điều 5, Điều 6) trong Chương 1 (Những quy định chung) để nêu rõ: các công dân không chỉ có quyền mà còn phải có nghĩa vụ trong thực hiện dân chủ ở cơ sở như: Tuân thủ quy định của pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; tham gia ý kiến về các nội dung được đưa ra lấy ý kiến ở cơ sở theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan; chấp hành quyết định của cộng đồng dân cư, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị, tổ chức có sử dụng lao động…

Đặc biệt, trong Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 có bổ sung thêm Quyền thụ hưởng của công dân tại Điều 7. Đây được xem là một bước tiến rất quan trọng trong thực hiện dân chủ ở cơ sở, giúp cho quyền làm chủ của người dân ngày càng đi vào chiều sâu.

Về vấn đề công khai thông tin ở xã, phường, thị trấn, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 bổ sung một số nội dung công khai (gồm 14 nội dung) phù hợp quy định trong Luật Tiếp cận thông tin.

Việc điều chỉnh, bổ sung nội dung và hình thức công khai thông tin tại xã, phường, thị trấn của Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở 2022 so với Pháp lệnh số 34 không chỉ góp phần bổ sung, thể chế hóa những quy định mới của pháp luật về quyền tiếp cận thông tin của người dân mà còn góp phần quan trọng trong việc cung cấp đầy đủ các nguồn thông tin chính xác đến người dân, giúp nhân dân nâng cao nhận thức, chủ động, tích cực, tự giác trong thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước cũng như tạo cơ sở để dân biết, dân bàn theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật.

Có thể khẳng định, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở ra đời thay thế cho Pháp lệnh số 34 là hết sức kịp thời và cần thiết. Sau hơn một năm triển khai, Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Việc công khai rộng rãi, đầy đủ mọi thông tin với nhiều hình thức dân bàn cùng những cơ chế hiệu quả để dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, nhờ vậy giúp người dân ngày càng nhận thức đầy đủ hơn cũng như thực hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình.

Để phát huy hơn nữa hiệu quả của việc thực hiện các quy định về dân chủ ở cơ sở, thời gian tới chúng ta cũng cần nghiêm túc khắc phục những hạn chế, bất cập hiện nay. Đó là tình trạng một số cấp ủy đảng, cơ quan chính quyền, tổ chức, đơn vị cấp cơ sở nhất là người đứng đầu còn chưa nhận thức hết tầm quan trọng của vấn đề này cho nên chưa đề cao quyết tâm, thiếu những cách làm hay, sáng tạo.

Vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên ở một số cấp cơ sở do có những biểu hiện suy thoái, tiêu cực, tham ô, tham nhũng nên dù biết rõ những quy định pháp luật vẫn cố tình làm trái để trục lợi cá nhân từ đó vi phạm nghiêm trọng đến thực hiện dân chủ ở cơ sở, xâm phạm đến quyền làm chủ của người dân. Mặt khác, một bộ phận người dân chưa có ý thức tự giác, chấp hành nghiêm những quy định trong Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở…

Để khắc phục những hạn chế, thiếu sót nêu trên, thời gian tới chúng ta cần triển khai đồng bộ một số giải pháp sau: Tăng cường các biện pháp, cơ chế để tiếp tục triển khai thực hiện có hiệu quả các quy định pháp luật về thực hiện dân chủ ở cơ sở; đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền nâng cao nhận thức người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị nhất là ở cấp cơ sở về tầm quan trọng và ý nghĩa của việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan dân chủ ở cơ sở.

Cùng với đó cũng phải đẩy mạnh giáo dục, tuyên truyền Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở đến mọi đối tượng với hình thức và cách làm phù hợp, góp phần đưa chính sách, pháp luật vào cuộc sống. Chú trọng công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện, kịp thời tuyên dương, khen thưởng, động viên, nhân rộng, lan tỏa các gương điển hình, những mô hình tốt, cách làm hay; đồng thời phát hiện và xử lý nghiêm trường hợp các cá nhân, tổ chức có các hành vi vi phạm./.
Môi trường ST.

VIỆT NAM CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐI LÊN CNXH!

     Những năm đầu triển khai thực hiện đường lối đổi mới, trong lúc tình hình kinh tế - xã hội còn đang hết sức khó khăn thì CNXH ở các nước Đông Âu, rồi Liên Xô sụp đổ; nguồn viện trợ, bao cấp quốc tế không còn nữa, các thế lực thù địch ra sức đẩy mạnh chiến lược Diễn biến hòa bình kết hợp với bạo loạn lật đổ nhằm xoá bỏ CNXH ở nước ta… Trong bối cảnh đó, một số người băn khoăn, liệu nước ta có đứng vững và tiếp tục xây dựng CNXH được không?

Đúng là sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đang đứng trước những khó khăn và thử thách rất lớn. Nhưng bên cạnh đó lại xuất hiện những thời cơ thuận lợi mới, bảo đảm cho cách mạng Việt Nam tiếp tục phát triển theo con đường XHCN: 
 
Trước hết là sự nghiệp cách mạng XHCN của nước ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng được Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức và rèn luyện đã trở thành một Đảng Mác - Lênin chân chính, đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam vượt qua nhiều thử thách ác liệt, gay go, có thời kỳ tưởng chừng khó vượt qua, để rồi giành thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong quá trình lãnh đạo xây dựng CNXH, Đảng Cộng sản Việt Nam có phạm phải những sai lầm khuyết điểm nhưng đã thấy được. Đại hội VI của Đảng đã tự phê bình sâu sắc và khởi xướng công cuộc đổi mới để đưa đất nước tiếp tục tiến lên. Cũng trong điều kiện cải tổ như Việt Nam, nhưng CNXH ở nhiều nước đã bị sụp đổ, còn Việt Nam lại thu được những thành tựu to lớn có ý nghĩa rất quan trọng. Điều đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng là đúng đúng, bước đi, cách làm là phù hợp.
 
Cùng với sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Việt Nam còn có những thành quả đã giành được với một hệ thống chính trị, từ chính quyền nhân dân đến lực lượng vũ trang, đoàn thể cách mạng, rồi các cơ sở của kiến trúc thượng tầng đã được xây dựng, đang trong quá trình đổi mới để nâng cao năng lực và hiệu quả, với một cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật vững chắc.
 
Nhân dân Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn và truyền thống kiên cường bất khuất. Nhìn lại mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước, chúng ta càng tự hào về ý chí Việt Nam, tính cách Việt Nam, truyền thống Việt Nam, luôn đứng vững trên đôi chân của chính mình, đi lên bằng bàn tay khối óc của mình. Nhân dân Việt Nam xây dựng đất nước từ trước đến nay và từ nay về sau bằng sức mình là chính. Kinh nghiệm lịch sử khẳng định rằng vận mệnh dân tộc, đất nước đứng vững và tiến lên là do nhân dân quyết định.
 
Sức mạnh tinh thần của dân tộc được phát huy cao độ trong thời đại Hồ Chí Minh. Bằng ý chí tự lực, tự cường, độc lập, tự chủ, nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã làm Cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến thắng lợi thì sẽ nhất định xây dựng thành công CNXH.
 
Nhân dân Việt Nam ở những thời điểm khó khăn, phức tạp nhất của tình hình kinh tế - xã hồi (đặc biệt là những năm 80 của thế kỷ XX) nhưng vẫn một lòng theo Đảng và tin tưởng vào chế độ XHCN, vẫn một lòng mong mỏi Đảng sửa chữa những sai lầm khuyết điểm để đưa công cuộc đổi mới đi tới thắng lợi.
 
Việt Nam còn có nhiều lợi thế, nguồn lực phát triển, đó là nguồn lao động dồi dào, tài nguyên thiên nhiên đa dạng và phong phú, vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có và đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo. Đó là những điều kiện hết sức quan trọng để Việt Nam phát triển kinh tế thực hiện dân giàu nước mạnh.

Ngoài ta, điều kiện quốc tế tuy có những khó khăn thử thách, song lại có nhiều yếu tố thuận lợi: Đó là quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, thành quả của cuộc cách mạng KHCN mà Việt Nam có thể tận dụng, xu thế hoà bình và hợp tác ở khu vực và thế giới ngày càng mở rộng và phát triển. Với đường lối đối ngoại rộng mở, Việt Nam có thể tận dụng được những khả năng to lớn về vốn, thị trường, công nghệ và kinh nghiệm quản lý của bên ngoài để bổ sung và phát huy sức mạnh trong nước…

Việt Nam đi theo con đường XHCN không phải là sự lựa chọn ngẫu nhiên, cảm tính của một cá nhân nào mà là sự lựa chọn của lịch sử, trong đó sự lựa chọn của Bác Hồ và Đảng ta ngay từ năm 1930 là sự lựa chọn có ý nghĩa khởi đầu, khai phá ngọn nguồn cho một dòng chảy của lịch sử nước ta suốt 94 năm qua.
 
Con đường đi lên CNXH ở Việt Nam diễn ra trong bối cảnh lịch sử không bình thường, đi qua những chặng đường quanh co, khúc khuỷu. Thành công có nhiều nhưng hạn chế cũng không ít. Điều làm lên sự kỳ diệu và vĩ đại của Đảng là ở chỗ: Đảng Cộng sản Việt Nam luôn ý thức được trách nhiệm của mình trước lịch sử và dân tộc, không dao động vào mục tiêu con đường đã chọn, quyết tâm cùng nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu lý tưởng đề ra.

Chính bởi kiên định với mục tiêu lý tưởng, không dao động hoài nghi nên dù đổi mới diễn ra trong bối cảnh phức tạp, bất lợi song CNXH ở Việt Nam vẫn trụ vững, công cuộc đổi mới ở Việt Nam vẫn giành được những thành tựu to lớn trên mọi lĩnh vực.
 
Mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận, công kích CNXH của kẻ địch, mọi lời khuyên, góp ý dưới dạng “tâm huyết” của một số phần tử bất mãn, cơ hội đều đi ngược lại lợi ích của nhân dân, làm cản bước tiến của dân tộc, chúng ta cần chủ động đối phó để bảo vệ vững chắc trận địa chính trị tư tưởng, một mũi tiến công chủ yếu của các thế lực thù địch trong chiến lược DBHB, song lại là một yếu tố lợi thế của cách mạng Việt Nam cần phải bảo vệ./.
Yêu nước ST.

Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam

Già hóa dân số đang diễn ra ở các khu vực và quốc gia với tốc độ khác nhau, trong đó quá trình già hóa dân số diễn ra đặc biệt nhanh ở các quốc gia đang phát triển. Có thể nói, già hóa dân số là thành tựu của quá trình phát triển, khi chất lượng sống được cải thiện thì tuổi thọ của con người cũng được nâng cao. Tuy nhiên, già hóa dân số cũng tạo ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế cũng như các dịch vụ an sinh xã hội. Vì lý do đó mà các vấn đề liên quan đến già hóa dân số được đặc biệt coi trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các nước.

Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế

Về mối quan hệ giữa dân số và kinh tế có thể thấy, có tác động rõ của quy mô dân số đối với nền kinh tế các nước đang phát triển cũng như tới chất lượng sống của người dân. Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Chính vì vậy, quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích lũy của xã hội. Ngược lại, kinh tế cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình sinh, tử và di cư. Một nền kinh tế tự động hóa cao sẽ có nhu cầu lao động giảm, nhưng đòi hỏi về chất lượng lao động cao sẽ tác động tới mức sinh cao hay thấp. Hay việc dinh dưỡng được bảo đảm sẽ tác động tới tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cũng sẽ giảm…

Giữa dân số và kinh tế có mối quan hệ biện chứng và gắn bó hữu cơ. Đây là quá trình tác động qua lại và là hai mặt của một chỉnh thể thống nhất. Khi nói đến phát triển kinh tế là nói tới tiền đề và điều kiện phát triển chất lượng dân số. Trong đó, động lực của sự phát triển kinh tế chính là con người. Ngược lại, dân số mà lực lượng chủ yếu là người lao động lại là yếu tố quyết định tới sự tăng trưởng của kinh tế, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ở phạm vi quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội chính là sự bảo đảm cho sự phát triển dân số đúng hướng cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng. 

Già hóa dân số là một trong những vấn đề thuộc về cơ cấu dân số theo độ tuổi. Già hóa dân số và kinh tế là mối quan hệ có tính qua lại, hay nói cách khác nó là sự tác động mang tính hai chiều. 

Ở chiều thuận (già hóa dân số tác động tới kinh tế) cho thấy, khi dân số trong thời kỳ “cơ cấu vàng” thì lực lượng lao động chiếm tỷ trọng cao trong tổng dân số sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế và các nước thu được “dư lợi dân số”; ngược lại, khi dân số trở nên già hóa thì tỷ lệ lực lượng lao động trong cơ cấu dân số sẽ giảm, từ đó có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã cố lượng hóa tác động của biến đổi cơ cấu dân số đến một số chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng, như GDP/dân số trưởng thành, GDP/dân số có việc làm và tỷ lệ có việc làm. Kết quả phân tích mô hình hồi quy tăng trưởng với hai biến là tốc độ tăng dân số và tốc độ tăng lao động cho thấy, “cơ cấu dân số vàng” đã góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đáng kể cho các nước và khi cơ cấu dân số này chuyển sang giai đoạn già hóa thì GDP cũng giảm dần.

Ở chiều ngược lại (kinh tế tác động tới già hóa dân số). Trong quá trình phát triển kinh tế, nhiều nước trên thế giới đã trải qua giai đoạn bùng nổ dân số với tỷ suất sinh ở mức cao. Trong bối cảnh đó, chính phủ các nước đã có những chính sách nhằm giảm mức sinh và hạn chế tốc độ tăng dân số. Kết quả của việc thực thi các chính sách này trong một thời gian dài là những thay đổi về cơ cấu dân số theo độ tuổi. Một nền kinh tế phát triển sẽ khiến nhu cầu của con người cũng được nâng cao về chất lượng sống, như nhà ở, phương tiện đi lại, chăm sóc sức khỏe, du lịch, giải trí… Các nguồn lực, kể cả thời gian dành cho việc sinh con và chăm sóc con cái cũng sẽ phải “cạnh tranh” với các nhu cầu này, khi đó sinh ít như một giải pháp để giải quyết các mâu thuẫn giữa các nhu cầu trên. Điều này dẫn đến tỷ lệ sinh giảm. Trong khi đó, do đời sống kinh tế được nâng cao, y học ngày càng phát triển, con người ngày càng được chăm sóc tốt hơn khiến cho tuổi thọ cũng ngày càng được kéo dài, vì vậy, số người cao tuổi cũng vì thế mà ngày càng tăng lên.

Người cao tuổi ở Nhật Bản_Nguồn: japannews.yomiuri.co.jp

Kinh nghiệm của Nhật Bản

Già hóa dân số và gánh nặng bảo đảm phúc lợi xã hội cũng gây ra nhiều khó khăn. Với tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ cao, ngay từ những năm cuối thế kỷ XX, Nhật Bản đã là một trong những quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi cao nhất thế giới. Chi phí phúc lợi xã hội tăng lên là một gánh nặng đối với Chính phủ Nhật Bản. Đồng thời, dân số giảm đi khiến nhu cầu tiêu dùng giảm, càng gây khó khăn cho Nhật Bản khi đang nỗ lực thoát ra khỏi thời kỳ giảm phát.

Cũng như các quốc gia khác, đặc trưng dân số Nhật Bản có quan hệ mật thiết đến sự phát triển kinh tế, trong đó, Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển này. Chính vì vậy, để đánh giá đúng mức độ già hóa dân số và những vấn đề Nhật Bản gặp phải khi đối diện với những thách thức đến từ dân số cần nhìn nhận các chính sách dân số của Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại được thể hiện qua bốn giai đoạn.

Giai đoạn 1, thời kỳ trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ II. Thời kỳ này, Chính phủ Nhật Bản khuyến khích quy mô gia đình lớn nhằm xây dựng đô thị hóa và hình thành khu vực kinh tế hiện đại. Năm 1927, Chính phủ cho thành lập Hội đồng điều tra các vấn đề dân số và lương thực. Hội đồng nhận định rằng quy mô dân số lớn là biểu hiện đáng khích lệ của sự thịnh vượng, chính vì vậy, Hội đồng chỉ tập trung luận bàn những biện pháp tăng sản xuất lương thực để theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đến năm 1939, Chính phủ Nhật Bản cho thành lập Viện Các vấn đề dân số, nay là Viện Nghiên cứu quốc gia về An sinh xã hội và Dân số dưới sự bảo trợ của Bộ Y tế và Phúc lợi nhằm đưa ra “Hướng dẫn hoạch định Chính sách dân số”, bao gồm ưu tiên khám, chữa bệnh cho bà mẹ mang thai, trợ cấp nuôi dưỡng trẻ em và các lợi ích liên quan đến thuế cho các gia đình đông con. Tuy nhiên, Chính phủ Nhật Bản cũng thừa nhận việc khuyến khích quy mô gia đình lớn đã không thành công như mong đợi.

Giai đoạn 2, sau Chiến tranh thế giới thứ II, dân số bùng nổ, sau đó mức sinh giảm mạnh do kinh tế rơi vào khó khăn. Khi Chiến tranh Thế giới thứ II chấm dứt, Nhật Bản chứng kiến tốc độ tăng trưởng dân số chưa có tiền lệ. Việc đột nhiên quá tải dân số được xem như mối đe dọa. Tháng 5-1949, Chính phủ Nhật Bản thành lập Hội đồng các vấn đề dân số. Tháng 11-1949, Hội đồng này đưa ra nghị quyết đầu tiên về chính sách dân số cơ bản nhằm kiểm soát quy mô dân số quốc gia. Tuy nhiên, điều Chính phủ Nhật Bản quan tâm nhất lại không phải việc giải quyết các vấn đề dân số mà là việc phục hồi nền kinh tế, vì vậy, Chính phủ không có sự bảo trợ cho các chương trình dân số mà chỉ nỗ lực điều chỉnh phân bố dân cư theo vùng nhằm phục vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh.

Giai đoạn 3, từ năm 1955 đến năm 1975, mức sinh thấp và tăng trưởng kinh tế nhanh. Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Nhật Bản, nhất là trong những năm 1960 - 1970. Tuy nhiên, trái với kinh tế, các chính sách ổn định dân số lại không được quan tâm đúng mức trong thời kỳ này. Năm 1959, Chính phủ Nhật Bản dừng việc coi kế hoạch hóa gia đình như một chính sách dân số và chuyển ngân sách đầu tư cho chương trình kế hoạch hóa gia đình sang y tế và phúc lợi xã hội. Cùng với đó, Bộ Y tế và Phúc lợi nước này chuyển các nhiệm vụ liên quan đến kế hoạch hóa gia đình sang Vụ Bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Trong nghiên cứu của mình về chính sách và dân số Nhật Bản, GS. Shunichi Inoue, Trường cao đẳng khoa học và nhân văn, Đại học Nihon, Tokyo nhận định, ban đầu lượng lao động di cư từ nông thôn đến thành thị và lượng dân số trẻ của thời kỳ bùng nổ dân số sau chiến tranh đáp ứng được các nhu cầu lao động công nghiệp. Nhưng đến cuối thời kỳ này bắt đầu xuất hiện hiện tượng thiếu lao động.

Giai đoạn 4, từ năm 1975 đến nay, đây là giai đoạn mức sinh không đủ thay thế và kinh tế phát triển có dấu hiệu chậm lại. Năm 1990, kinh tế Nhật Bản bắt đầu rơi vào suy thoái, tác động tới mức sinh tiếp tục giảm xuống dưới mức thay thế tại Nhật Bản, càng khiến cho tốc độ già hóa dân số Nhật Bản diễn ra nhanh hơn. Hội đồng các vấn đề dân số đã chỉ ra rằng Nhật Bản cần có chính sách nhằm ổn định dân số trong tương lai và cải thiện mức sinh là phương pháp giải quyết vấn đề già hóa dân số tại Nhật Bản. Tuy nhiên, Chính phủ đã quyết định không can thiệp đến cuộc sống của người dân và chính sách dân số tiếp tục là chính sách tự do. Phải đến năm 1997, các chính sách nhằm cải thiện điều kiện và khuyến sinh mới được áp dụng một cách rộng khắp tại Nhật Bản.

Các chính sách về dân số của Nhật Bản phụ thuộc rất nhiều vào mục đích kinh tế - xã hội, không chỉ tập trung vào mục đích dân số. Chính vì vậy, hệ quả của nó là Nhật Bản phải đối mặt song song với cả hai thách thức lớn về dân số là mức giảm sinh cao và già hóa dân số. Trước tình hình đó, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra hàng loạt các giải pháp không chỉ ở tầm vĩ mô mà còn cả ở tầm vi mô nhằm giải quyết những những vướng mắc đang đặt ra cho nước này, như:

Thứ nhất, tận dụng lợi thế “dân số vàng” để phát triển. Nhật Bản là một trong những nước đã tận dụng rất tốt lợi thế “dân số vàng” để phát triển kinh tế. Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra chính sách khuyến khích tiết kiệm triệt để và tăng cường đầu tư. Song song với đó, nguồn lực trong nước được huy động tối đa tạo nên sự tăng tốc thần kỳ cho nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn “dân số vàng”. Bên cạnh các nhân tố quan trọng đó, môi trường kinh tế và chính trị ổn định, nguồn lao động chất lượng cao, chính sách và chiến lược chủ động của Chính phủ trong việc khai thác các nguồn lực tri thức cũng như các bí quyết công nghệ để tăng cường khả năng “nội lực hóa”, tạo ra sự phát triển “thần kỳ” cho quốc gia này trong nhiều thập kỷ.

Thứ hai, tăng tỷ lệ sinh. Đây được xem là biện pháp mang tính lâu dài nhằm giảm tỷ lệ già hóa dân số. Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ Nhật Bản đã áp dụng các biện pháp, như tạo điều kiện cho phụ nữ quay trở lại nơi làm việc sau khi sinh con, xây dựng nhà trẻ, tăng trợ cấp cho trẻ em nhằm giảm bớt chi phí nuôi con cho các gia đình. Đặc biệt vào tháng 4-2020, Chính phủ Nhật Bản chính thức quyết định cho phép các công chức là nam giới được nghỉ phép ít nhất một tháng để chăm sóc con sơ sinh. Mặc dù, tính hiệu quả của các chính sách khuyến sinh chưa thực sự cao nhưng về dài hạn Nhật Bản vẫn duy trì và tiếp tục đưa ra các chính sách khuyến sinh nhằm bảo đảm bổ sung lực lượng lao động phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, hỗ trợ người già tham gia vào thị trường lao động. Vấn đề già hóa dân số ở Nhật đang tạo sức ép cho nền kinh tế, cụ thể là hệ thống phúc lợi xã hội, vì vậy giải pháp được đưa ra đó là những phụ nữ và người già phải tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động để giảm bớt gánh nặng này. Từ năm 1986, Chính phủ Nhật Bản đã có quy định chính thức về việc thiết lập các trung tâm giới thiệu việc làm ở tất cả các đơn vị hành chính cấp thôn, quận và thành phố. Các trung tâm này hoạt động hoàn toàn bằng ngân sách nhà nước và chỉ thu một khoản phí rất nhỏ từ những người cao tuổi đăng ký tìm việc. Nhiệm vụ của trung tâm là giới thiệu những công việc đơn giản, ít tốn thời gian cho những người cao tuổi sống trong khu vực hành chính mình quản lý. 

Thứ tư, nâng cao năng suất lao động. Khi số người già ngày càng nhiều đồng nghĩa với việc những người hiện đang lao động sẽ phải gánh vác nhiều hơn để bảo đảm sự phát triển kinh tế đáp ứng đủ nhu cầu cho mọi người trong xã hội nói chung và gia đình nói riêng. Vì vậy, nâng cao năng suất lao động là biện pháp được Chính phủ Nhật Bản áp dụng nhằm bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động và góp phần giải quyết vấn đề già hóa dân số. 

Thứ năm, thu hút lao động nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt nguồn nhân lực trong nước. Hiện nay, Nhật Bản đang ngày càng có nhiều chính sách thu hút những người lao động từ nước ngoài. Đây cũng được coi là một trong những thành công lớn của Nhật Bản khi lượng lao động nhập cư vào nước này gia tăng đáng kể. Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản cập nhật báo cáo cho biết, năm 2024, dân số của Nhật Bản dự kiến sẽ giảm 663.081 người và dân số đạt 122.298.912 người vào đầu năm 2025. Gia tăng dân số tự nhiên được dự báo là âm vì số lượng sinh sẽ ít hơn số người chết 765.040 người. Nếu tình trạng di cư vẫn ở mức độ như năm trước, dân số sẽ tăng 101.959 người. Điều đó có nghĩa là số người chuyển đến Nhật Bản sẽ chiếm ưu thế. Một cách khác để đối phó với tình trạng thiếu hụt lao động là việc tăng cường sử dụng rô-bốt trong sản xuất và cung cấp dịch vụ.

Thứ sáu, nâng tuổi nghỉ hưu. Để giảm áp lực với hệ thống lương hưu, Chính phủ Nhật Bản đặt mục tiêu nâng tuổi nghỉ hưu lên 65 tuổi vào năm 2025. Các công ty được khuyến khích xóa độ tuổi nghỉ hưu để tiếp tục sử dụng lao động cao tuổi. Khuyến khích việc trì hoãn nhận lương hưu đến tuổi 70 để được cộng thêm 40% lương hưu. Bên cạnh đó, năm 2013, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua bộ luật ổn định việc làm cho người cao tuổi. Luật này yêu cầu mọi doanh nghiệp áp dụng tuổi về hưu không trẻ hơn 60 tuổi, đồng thời phải thực hiện một trong ba biện pháp, gồm: Xây dựng chế độ tuổi về hưu là 65 tuổi; có biện pháp duy trì việc làm đến tuổi 65; bãi bỏ chế độ về hưu. Song song với đó, Chính phủ Nhật Bản cũng trợ cấp cho các doanh nghiệp tuyển dụng người cao tuổi thông qua các trung tâm nhà nước về ổn định việc làm; doanh nghiệp có chế độ bảo đảm việc làm cho nhân viên đến tuổi 65.

Người cao tuổi ở Nhật Bản vẫn tham gia làm việc sau khi đã nghỉ hưu_Nguồn: NATGEO

Một số hàm ý chính sách 

Nhật Bản đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm mức tăng trưởng dân số đáp ứng tăng trưởng, phát triển kinh tế. Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề cần đối mặt nhưng không thể phủ nhận sự thành công của Nhật Bản trong tận dụng lợi thế “dân số vàng” đưa nền kinh tế phát triển “thần kỳ”, trong đó đặc biệt đáng quan tâm là cách thức Nhật Bản lựa chọn phát triển kinh tế là đi theo chiều sâu, thể hiện rõ qua việc tập trung đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và thu hút đội ngũ các nhà khoa học, nhà nghiên cứu có trình độ cao trên thế giới. Từ những thành công và hạn chế của Nhật Bản trong ứng phó với già hóa dân số có thể rút ra một số gợi ý cho Việt Nam như sau:

Một là, người nhập cư không giúp tăng tỷ lệ sinh, họ chỉ đóng vai trò thay thế người trưởng thành mà các quốc gia già hóa dân số đang thiếu hụt để bổ sung vào lực lượng lao động tại chỗ. Mỗi thế hệ người nhập cư do đó không đại diện cho một giải pháp vĩnh viễn và bền vững cho vấn đề già hóa dân số mà chỉ giải quyết vấn đề mang tính tức thời. Chính vì vậy, để giải quyết những tác động không mong muốn từ quá trình già hóa dân số ở thì hiện tại, các nước có thể khuyến khích nhập cư, tuy nhiên để giải quyết triệt để vấn đề già hóa dân số và mang tính lâu dài cần có chính sách tăng mức sinh để bảo đảm lực lượng lao động kế cận tương xứng.

Hai là, vấn đề khuyến sinh nếu chỉ áp dụng bằng các hình thức, như giảm thuế, tăng ưu đãi khi sinh nhiều con, tăng ngày nghỉ thai sản… thì hiệu quả chưa thể đạt được như mong muốn. Bởi, tài chính, phúc lợi xã hội không phải yếu tố quyết định đến tỷ lệ sinh mà phong cách sống và nếp nghĩ mới là yếu tố có tính quyết định. Khi cuộc sống con người ngày càng đầy đủ sẽ kéo theo nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, chính điều này khiến cho nhiều thanh niên trẻ, đặc biệt là những người càng thành đạt có xu hướng giảm nhu cầu muốn kết hôn và sinh con. Nhiều phụ nữ trẻ hiện nay không còn đặt nặng nhiệm vụ sinh con và chăm lo việc nhà. Do đó, vấn đề cốt lõi là thay đổi được quan niệm, phong cách sống và nếp nghĩ của giới trẻ về việc lập gia đình và sinh con; thậm chí cũng cần có cái nhìn cởi mở hơn với việc không lập gia đình nhưng vẫn sinh con, đặc biệt ở các nước nghiêng về truyền thống Á Đông. Thay vì chỉ tập trung vào việc tuyên truyền và đưa ra các chính sách khuyến sinh tập trung vào phụ nữ thì cũng cần có những chính sách khuyến khích đàn ông tham gia có trách nhiệm vào việc chăm sóc và nuôi dạy con cái trong dài hạn.

Ba là, Nhật Bản đã tận dụng rất tốt thời kỳ “dân số vàng” để phát triển kinh tế “thần tốc” từ đó xây dựng hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội toàn diện. Nhưng với những quốc gia có quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh trong khi nền kinh tế chưa đạt được tích lũy đủ để xây dựng hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi toàn diện sẽ dẫn tới tình trạng số đông người già phải sống dựa vào gia đình, con cái, những người còn trong độ tuổi lao động. Đây sẽ thật sự là gánh nặng lên các cặp vợ chồng trẻ. Chính vì vậy, việc kéo dài được thời gian “dân số vàng” hoặc làm chậm quá trình già hóa dân số trở nên thật sự cần thiết để giảm bớt những gánh nặng về kinh tế cũng như những hệ lụy từ điều này.

Bốn là, dù ưu tiên phát triển dân số hay kinh tế thì có một thực tế rõ ràng là giữa dân số và kinh tế có mối quan hệ qua lại với nhau, nếu chỉ tập trung kinh tế mà bỏ qua dân số hoặc ngược lại thì đều có thể dẫn tới việc kìm hãm sự phát triển.

Năm là, việc kiểm soát mức sinh hợp lý nhằm bảo đảm thế hệ kế cận và lực lượng lao động nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; chính sách nhập cư… đều là những yếu tố nền tảng nhằm giải quyết vấn đề già hóa dân số. Nhưng mục tiêu cuối cùng cần hướng đến vẫn là việc bảo đảm được chế độ an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho người cao tuổi. Bởi già không có nghĩa là họ không còn đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, khi xu hướng già hóa đang là xu hướng tất yếu trên toàn cầu, y học ngày càng phát triển, thì việc thế giới sẽ ngày càng có nhiều người già hơn là điều không thể thay đổi. Thay vì chỉ nhìn nhận già hóa dân số là một áp lực về kinh tế, thì các nước cũng cần xây dựng một kế hoạch để tận dụng được lực lượng người cao tuổi đang ngày càng nhiều lên.

Sáu là, thời gian hưởng dư lợi dân số diễn ra rất ngắn, nếu một nền kinh tế thất bại trong việc hưởng dư lợi dân số, đồng nghĩa với quá trình già hóa dân số diễn ra quá nhanh, khi đó sẽ phải đối mặt với cái gọi là bất lợi dân số.

Bảy là, để đối phó với già hóa dân số, nhiều nước chọn tăng mức sinh, tuy nhiên cũng phải chờ ít nhất sau 15 năm số người gia nhập lực lượng lao động mới tăng lên, điều này có thể làm giảm phụ thuộc già trong tương lai nhưng ngay lập tức lại làm tăng phụ thuộc trẻ và kéo theo hậu quả là quy mô dân số gia tăng. Chính vì vậy, khuyến khích những người trong độ tuổi lao động nhập cư sẽ làm giảm phụ thuộc, nhưng chính người nhập cư cũng già đi, trừ khi là họ bị buộc phải rời khỏi đất nước trước khi đến tuổi nghỉ hưu. Đây là chính sách nhập khẩu lao động mà một số quốc gia như Nhật Bản, Singapore đang áp dụng. Tuy nhiên, nó lại không phù hợp với những nước có quy mô dân số rất lớn như Trung Quốc./.

ST.