Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT KHI THAM QUAN BẢO TÀNG LỊCH SỬ QUÂN SỰ VIỆT NAM!
GIỮ GÌN SỰ TRONG SÁNG CỦA TIẾNG VIỆT: MỘT BÀI THƠ KỲ LẠ!
“MẠNG XÃ HỘI CÓ TRÁCH NHIỆM RÀ QUÉT, TỰ ĐỘNG GỠ THÔNG TIN XẤU ĐỘC, SAI SỰ THẬT”!
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: TỰ PHÊ BÌNH VÀ PHÊ BÌNH TRONG ĐẢNG THEO DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH!
Một số vấn đề cơ bản về phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong xây dựng nhà nước pháp quyền
Hiến pháp năm 2013 khẳng định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, trong đó, “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là nguyên tắc căn bản để bảo đảm tính thượng tôn pháp luật, mọi lợi ích thực sự thuộc về nhân dân, là điều kiện then chốt để hiện thực hóa nhiệm vụ xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

Tính tất yếu của kiểm soát quyền lực nhà nước
Quyền lực vốn là của nhân dân, nhân dân sử dụng quyền ấy bằng cách ủy quyền cho nhà nước, thông qua đó, nhà nước lại trao quyền cho các cá nhân và tổ chức đại diện để vận hành xã hội với mục tiêu phục vụ lợi ích nhân dân. Tuy vậy, lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh, rằng “quyền lực luôn có xu hướng tha hóa” khi thiếu cơ chế kiểm soát hợp lý và hiệu quả. Thực tế, quyền lực luôn có tính hai mặt: 1) Trong xã hội có tổ chức, sự tồn tại của quyền lực là tất yếu để duy trì hoạt động xã hội trong khuôn khổ, trật tự, bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng; 2) Quyền lực luôn luôn có xu hướng bị lạm dụng.
Trong nhà nước pháp quyền, bầu cử là phương tiện chủ yếu để người dân thực hiện sự ủy quyền, lựa chọn người cầm quyền. Ở mỗi chế độ chính trị khác nhau, các cuộc bầu cử được tiến hành nhiều cách thức riêng, song đều nhân danh lợi ích nhân dân để ban hành các quyết định chính trị. Người được bầu chọn phải cam kết phục vụ cho lợi ích của người dân, khi họ không giữ lời hứa, nhân dân sẽ thay thế bằng người khác. Như một lẽ tự nhiên, ở đâu xuất hiện sự ủy quyền thì ở đó chứa đựng nguy cơ lạm dụng quyền lực. Thực tế, quyền lực nhà nước luôn có xu hướng tự mở rộng và tự tăng cường vai trò của mình, do vậy, người dân phải kiểm soát quyền lực ấy; cũng do vậy, nhiều nước chú trọng xây dựng các quy định và các điều kiện giúp người dân có thể tước quyền nếu quan chức được bầu có hành vi lạm dụng quyền lực.
Tính vị kỷ và khát vọng quyền lực của con người đã được các nhà tư tưởng chính trị chỉ ra rằng “Quyền lực luôn có xu hướng tha hóa và quyền lực tuyệt đối thì tha hóa tuyệt đối”. Vì vậy, để ngăn ngừa nguy cơ quyền lực bị lạm dụng, các nhà nước trên thế giới đều phải thiết kế các cơ chế kiểm soát quyền lực riêng, phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, văn hóa chính trị, nhận thức, tư duy về thực trạng và tương lai đất nước trên nguyên tắc bảo đảm người nắm giữ quyền lực công cộng không thể lạm quyền hoặc sử dụng quyền lực vì mục đích mang tính cá nhân.
Tuy nhiên trong thực tế, hiện tượng tham nhũng, lợi dụng chức quyền của các quan chức vẫn tương đối phổ biến, đặc biệt là ở các nước đang phát triển có hệ thống kiểm soát quyền lực vẫn chưa đủ mạnh để ngăn ngừa các hành vi lạm dụng quyền lực. Việc lạm dụng quyền lực nhằm trục lợi cá nhân xuất phát từ vấn đề quyền lực nhà nước là sức mạnh và là sự thể hiện ý chí chung của cộng đồng, nhưng quyền lực ấy lại được giao cho một số người với những năng lực hữu hạn thực hiện; về mặt lý thuyết, thì “tập thể trao quyền cho cá nhân vì lợi ích chung”, nhưng cũng từ đó, việc sử dụng quyền lực mắc phải sai lầm xuất phát từ hạn chế cố hữu của con người và nếu rủi ro xảy ra thì nhân dân lại phải gánh chịu những hậu quả. Mặt khác, chính sự hữu hạn về năng lực điều hành trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước khiến các quyết định, chính sách của nhà nước không đem lại hiệu quả mong muốn, thậm chí còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích của người dân. Vì vậy, việc thiết lập một cơ chế kiểm soát quyền lực hiệu quả là rất quan trọng, bảo đảm các quyết định, chính sách được bàn bạc, thảo luận trước khi ban hành, hạn chế thấp nhất tình trạng đưa ra quyết định sai lầm.
Mục đích và phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền hiện nay
Như vậy, quyền lực nhà nước tất yếu phải được kiểm soát. Việc kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa rộng chính là việc thiết kế tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước sao cho đúng mục đích, hiệu quả nhất; là toàn bộ những cách thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó để ngăn chặn, loại bỏ những hành động sai trái của nhà nước, phát hiện và điều chỉnh việc thực thi quyền lực bảo đảm mục đích và hiệu quả của quyền lực nhà nước. Kiểm soát quyền lực nhà nước theo nghĩa hẹp là hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước hợp pháp bằng thể chế với mục tiêu xác định.
Mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước
Từ góc độ chủ nghĩa mác-xít, mục đích của kiểm soát quyền lực nhà nước chính là khắc phục sự tha hóa của quyền lực, đưa quyền lực nhà nước trở về đúng bản chất quyền lực của nhân dân, thực hiện chức năng công quản của xã hội một cách đúng đắn và hiệu quả. Kiểm soát quyền lực nhà nước là khắc phục những nan giải của chính thể đại diện. Trong nhà nước pháp quyền, quan hệ giữa nhà nước - nhân dân chính là quan hệ giữa người đại diện - người chủ.
Nhằm bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi đúng mục đích và hiệu quả, quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước trước hết là việc kiểm soát phạm vi hoạt động của quyền lực nhà nước, bởi quyền lực nhà nước là quyền lực được ủy nhiệm nên trước hết chủ thể quyền lực có quyền kiểm soát đối với quyền lực nhà nước trong phạm vi tác động của quyền lực. Kiểm soát quyền lực cũng cần được thể hiện ở việc kiểm soát quá trình thông qua và sửa đổi hiến pháp, bao gồm cách thức, quy trình hình thành, điều chỉnh, sửa đổi hiến pháp theo đúng quy trình dân chủ, bảo đảm hiến pháp phản ánh được ý chí, lợi ích của nhân dân, không xâm phạm đến lợi ích của cá nhân, nhân dân trong xã hội. Kiểm soát quyền lực nhà nước còn thể hiện ở khâu kiểm soát tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, đó là: 1) Kiểm soát cách thức tổ chức bộ máy nhà nước nhằm bảo đảm sự tuân thủ đúng các quy định của hiến pháp và khả năng vận hành hiệu quả trong thực tế; 2) Kiểm soát hoạt động hoạch định chính sách của nhà nước bảo đảm quá trình ra chính sách của nhà nước tuân thủ những quy trình, thủ tục quy định trong hiến pháp và các đạo luật, bảo đảm hiệu quả của hoạt động ra chính sách; 3) Kiểm soát các chính sách, quy định của nhà nước nhằm ngăn chặn, loại bỏ những chính sách, quy định trái với hiến pháp và luật, vi phạm đến quyền và lợi ích của công dân; các chính sách không phù hợp với thực tiễn, không có tính khả thi hoặc hiệu quả kém cũng phải được điều chỉnh, sửa đổi hoặc loại bỏ; 4) Kiểm soát hoạt động thực thi chính sách của nhà nước nhằm bảo đảm hoạt động đó tuân thủ theo các quy định của pháp luật, ngăn chặn, loại bỏ những hoạt động, hành vi sai trái hoặc kém hiệu quả của nhà nước. Đặc biệt, quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước phải là sự kiểm soát những người thực thi quyền lực nhà nước, thể hiện ở kiểm soát quy trình lựa chọn những người đảm nhiệm các công việc của nhà nước và kiểm soát hoạt động của các chủ thể thực thi quyền lực nhà nước theo quy định của hiến pháp, các đạo luật, những cam kết chính trị, đạo đức khi ở cương vị là người thực thi quyền lực.
Các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước
Thứ nhất, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước. Tính chất của quyền lực nhà nước là việc người dân ủy nhiệm một phần quyền của mình cho nhà nước, vì thế, chỉ trong các lĩnh vực đòi hỏi có sự phối hợp xã hội, đòi hỏi sự tuân thủ quyền lực công thì mới cần tới quyền lực nhà nước. Vậy nên, việc xác định và kiểm soát trong các phạm vi tác động là rất quan trọng, nhờ đó mà không gian hoạt động của công dân và xã hội được thừa nhận và bảo đảm, đồng thời góp phần làm cho quyền lực nhà nước được sử dụng đúng mục đích và hiệu quả. C. Mác từng khẳng định: “Tự do là ở chỗ biến nhà nước, cơ quan tối cao của xã hội thành một cơ quan hoàn toàn phụ thuộc vào xã hội, và ngay cả ngày nay nữa, các hình thức nhà nước tự do hay không tự do là tùy ở chỗ trong những hình thức ấy, “sự tự do của nhà nước” bị hạn chế nhiều hay ít”. Việc hạn chế phạm vi quyền lực nhà nước có thể được thực hiện bằng nhiều cách thức, như thông qua hiến pháp, các đạo luật, quy ước, luật lệ bất thành văn… tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và truyền thống văn hóa chính trị của mỗi quốc gia.
Thứ hai, kiểm soát quyền lực thông qua hiến pháp và các chế định hiến pháp. Với tư cách là bộ luật cao nhất, là tuyên ngôn của nhân dân về quyền lực nhà nước, hiến pháp giới hạn quyền lực nhà nước trong một trật tự hiến định, qua đó, nội dung, cách thức và cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước có tính bền vững và khó thay đổi. Hiến pháp quy định các quyền và tự do cơ bản của con người. Để tránh tình trạng các đại diện có xu hướng vi phạm quyền của nhân dân khi được ủy nhiệm, một hiến pháp tiến bộ thường bao gồm cả các quy định về các quyền cơ bản của con người. Kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua các chế định hiến pháp là bằng bầu cử định kỳ, hay là sự kiểm soát gián đoạn, được thể hiện ở: 1) Quyền bãi miễn của nhân dân là một phương thức để xử lý vấn đề khi những người được ủy quyền không đủ năng lực phục vụ nhân dân. C. Mác đã khẳng định ngay từ khi thiết lập Công xã Pa-ri rằng: “Công xã loại bỏ hoàn toàn hệ thống đẳng cấp chính trị và thay thế những ông chủ ngạo mạn của nhân dân bằng những đầy tớ luôn có thể bị bãi miễn; thay thế một trách nhiệm tưởng tượng bằng một trách nhiệm thật sự vì những người được ủy nhiệm này luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân”; 2) Quyền thay đổi hiến pháp, hiến pháp sẽ được thay đổi khi có sự đồng ý của một đa số người dân; 3) Quyền quyết định các vấn đề quan trọng của quốc gia thông qua trưng cầu dân ý thể hiện rằng các quốc gia sử dụng trưng cầu dân ý như một phương thức phê chuẩn sửa đổi hiến pháp hoặc thể hiện quyền quyết định của người dân, trong thực tiễn, đây chính là sự kiểm soát quyền lực rất mạnh mẽ.
Thứ ba, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách tối ưu hóa các mục tiêu của nhà nước. Thông qua các quy định ràng buộc của hiến pháp và pháp luật, quyền lực nhà nước được giới hạn trong các mục tiêu xác định. Tuy nhiên, trên thực tế, do hạn chế của hiến pháp và pháp luật, cũng như xuất phát từ các nguyên nhân khác nên quyền lực nhà nước có thể được sử dụng cho đa mục tiêu so với quy định ban đầu, dẫn tới sự sai lệch hoặc phân tán về quyền lực, nguồn lực. Do đó, cần kiểm soát quyền lực nhà nước theo sát các mục tiêu ban đầu hoặc tối ưu hóa mục tiêu phát sinh trong tổng thể.
Thứ tư, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua sự kiểm soát của nhân dân và xã hội được thể hiện tập trung ở việc bầu cử theo nhiệm kỳ. Qua bầu cử, cử tri và nhân dân có thể loại bỏ những đại diện không xứng đáng với sự ủy nhiệm của mình ra khỏi nhà nước. Ph. Ăng-ghen từng khẳng định: “Để ngăn ngừa sự chuyển hóa ấy của nhà nước và các cơ quan của nhà nước, từ chỗ là công bộc của xã hội thành ông chủ đứng trên đầu xã hội - sự chuyển hóa không thể tránh từ trước đến nay trong tất cả các chế độ công xã đã áp dụng hai biện pháp rất chính xác; tất cả những chức vị quản lý, tư pháp, giáo dục nhân dân đều giao cho những người đầu phiếu phổ thông bầu ra, ngoài ra các cử tri có quyền bãi miễn bất cứ lúc nào những người mình bầu ra”. Tuy nhiên, quy trình này cũng cần tính đến trường hợp các cuộc bầu cử phổ thông và định kỳ trong thực tế gặp những vấn đề nan giải, đó là việc soi xét, kháng cáo thường xuyên nhằm phóng đại các khuyết điểm của nhà nước, làm giảm sự tôn trọng cần thiết đối với nhà nước và dễ dẫn tới mất ổn định.
Thứ năm, kiểm soát quyền lực nhà nước thông qua sự giám sát của nhân dân, phương tiện thông tin đại chúng, công luận. Sự giám sát chặt chẽ của nhân dân là một yếu tố cốt lõi để bảo đảm tính minh bạch, công bằng và trách nhiệm giải trình trong hoạt động của nhà nước, qua đó, mọi hoạt động của nhà nước sẽ hướng đến phục vụ lợi ích của toàn dân, từ đó tạo ra một môi trường xã hội ổn định và phát triển. Giám sát bằng phương tiện thông tin đại chúng cũng là một mắt xích quan trọng của quá trình kiểm soát quyền lực nhà nước, có tác dụng hỗ trợ đắc lực cho việc thực hiện các phương thức kiểm soát quyền lực nhà nước. Phương tiện thông tin đại chúng, do tính chất nghề nghiệp của mình trong xã hội, có khả năng kết nối, tạo công luận gây sức ép với nhà nước, buộc nhà nước phải có trách nhiệm trong nhiều vấn đề quan trọng. Đây là sự giám sát, phản biện có tính chất thường xuyên của xã hội đối với nhà nước, đặc biệt trong thời đại số hiện nay, cách thức giám sát này càng thể hiện vai trò quan trọng.
Thứ sáu, kiểm soát quyền lực nhà nước bằng cách tách các lĩnh vực của quyền lực nhà nước và bằng cơ chế kiềm chế đối trọng trong bộ máy nhà nước. Đây là hai phương thức kiểm soát phổ biến ở các nhà nước pháp quyền tư sản. Kiểm soát bằng cách tách các lĩnh vực của quyền lực thể hiện yêu cầu khách quan của sự chuyên môn hóa và để hạn chế sự chuyên quyền của nhà nước, phương thức này thể hiện ở sự phân chia chức năng giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhánh lập pháp quyết định luật nào được thông qua, nhánh hành pháp thực thi luật và nhánh giám sát việc thực thi. Sự phân chia các nhánh quyền lực nhà nước nhằm mục đích cân bằng quyền lực, ngăn chặn bất kỳ một nhánh riêng lẻ nào giành quá nhiều quyền lực; làm tăng trách nhiệm của các quan chức được bầu. Kiểm soát thông qua cơ chế kiềm chế đối trọng trong bộ máy nhà nước được vận hành bởi việc cơ quan lập pháp có thể thực hiện quyền lực đối với người đứng đầu hành pháp thông qua việc yêu cầu hành pháp ra lệnh thực thi một đạo luật và bỏ phiếu luận tội; thực hiện quyền lực đối với tư pháp như thông qua một sửa đổi hiến pháp và thông qua luật. Quyền lực của tư pháp đối với hành pháp xuất phát từ việc thực hiện các quyền hiến định bảo vệ công dân khỏi hành động chuyên quyền trong thực thi luật. Tuy nhiên, việc kiểm soát bằng thể chế như vậy cũng gặp phải sự hạn chế, đó là sự ngăn cản khả năng người đại diện làm những việc sai trái, nhưng cũng có thể ngăn cản các đại diện làm những việc đáng làm (đây là sự kém linh hoạt và chậm trễ của thực thi quyền lực nhà nước).
Nhìn chung, các cơ chế kiểm soát khác của nhà nước được thể hiện ở việc nhà nước thiết kế những thể chế có trách nhiệm kiểm soát các cơ quan đại diện thực thi quyền lực của nhà nước, nhằm nâng cao trách nhiệm, bảo đảm hoạt động của nhà nước đạt được đúng mục tiêu, hiệu quả.

Vấn đề phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Ở Việt Nam, sau thời kỳ đổi mới, Đảng ta xác định nhiệm vụ quan trọng: “Xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước. Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức. Tiếp tục đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, tội phạm và tệ nạn xã hội”; đồng thời tập trung “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động” và “Nhà nước quản lý, điều hành nền kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các công cụ điều tiết trên cơ sở các quy luật thị trường. Tăng cường công tác giám sát, chủ động điều tiết, giảm các tác động tiêu cực của thị trường, không can thiệp làm sai lệch các quan hệ thị trường”. Thêm vào đó, Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp, Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và đặc biệt Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 9-11-2022, Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII, “Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới” đều nhấn mạnh phải “xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động”.
Đến nay, với nhiều thành tựu to lớn đạt được sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đang đứng trước nhiều thời cơ, vận hội mới cả về “thế” và “lực”, đứng trước “cơ hội lịch sử đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”. Tuy nhiên, dù đạt được nhiều thành tựu trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, song một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề này chưa được luận giải một cách đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn; đặc biệt, quyền lực nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực được hiểu là việc cùng nhìn về một mục tiêu của các bộ phận quyền lực nhà nước trong thực thi các quyết định chính trị. Theo đó, việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước cần thỏa mãn các điều kiện, như cần có cơ chế kiểm soát quyền lực, nghĩa là mọi quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế, phải được ràng buộc bằng trách nhiệm, quyền lực đến đâu trách nhiệm đến đó, lạm dụng, lợi dụng quyền lực phải bị truy cứu và xử lý phải rõ ràng và phối hợp nhịp nhàng để tránh sự chồng chéo, xác định rõ trách nhiệm của các tổ chức và cá nhân được phân công trong quá trình thực thi công vụ, bảo đảm cho quyền lực nhà nước được thực thi đúng lộ trình và hiệu quả cao. Đây cũng là giải pháp được nhấn mạnh trong Nghị quyết 27-NQ/TW: “Hoàn thiện cơ chế thực thi quyền lực nhà nước, xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của mỗi cơ quan và mối quan hệ giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và tăng cường kiểm soát quyền lực bên trong mỗi cơ quan và giữa các cơ quan nhà nước”.
Ở Việt Nam, cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước cần đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, bởi Đảng thực thi quyền lực chính trị của mình trước hết bằng Nhà nước và thông qua quyền lực nhà nước. Đảng có trách nhiệm kiểm soát quyền lực nhà nước đi đúng quỹ đạo, là công cụ mạnh mẽ, đắc lực nhất để thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của Đảng. Đặc biệt, Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên, bằng công tác tổ chức và cán bộ bên trong các cơ quan nhà nước, nên sự phân công nhiệm vụ và phối hợp công tác trong Đảng mang tính quyết định đối với phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước. Đồng thời, cũng cần cơ chế kiểm soát quyền lực trong nội bộ Đảng thông qua các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, công tác kiểm tra, giám sát... nhằm bắt buộc các tổ chức đảng, đảng viên được trao quyền phải thực hiện quyền lực được ủy nhiệm đúng với mục đích và tôn chỉ của Đảng.
Công cụ phân công và phối hợp chủ yếu giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước là đạo đức và thể chế, dựa trên các giá trị đạo đức xã hội, tập quán pháp, các thiết chế, quy định, luật pháp… đã được thiết lập. Việc phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực nhà nước bằng đạo đức căn bản dựa vào nhận thức và sự tự giác của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước. Bên cạnh đó, phương thức phân công và phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lực cần dựa trên nền tảng Hiến pháp, pháp luật.
Việc phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa đều hướng tới mục tiêu bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân và nhân lên các giá trị ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa/.
ST.
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: THỰC HIỆN DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ GÓP PHẦN BẢO ĐẢM QUYỀN LÀM CHỦ CỦA NHÂN DÂN!
VIỆT NAM CÓ ĐỦ ĐIỀU KIỆN ĐI LÊN CNXH!
Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế: Kinh nghiệm của Nhật Bản và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
Già hóa dân số đang diễn ra ở các khu vực và quốc gia với tốc độ khác nhau, trong đó quá trình già hóa dân số diễn ra đặc biệt nhanh ở các quốc gia đang phát triển. Có thể nói, già hóa dân số là thành tựu của quá trình phát triển, khi chất lượng sống được cải thiện thì tuổi thọ của con người cũng được nâng cao. Tuy nhiên, già hóa dân số cũng tạo ra nhiều thách thức cho tăng trưởng kinh tế cũng như các dịch vụ an sinh xã hội. Vì lý do đó mà các vấn đề liên quan đến già hóa dân số được đặc biệt coi trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các nước.
Mối quan hệ giữa già hóa dân số và tăng trưởng kinh tế
Về mối quan hệ giữa dân số và kinh tế có thể thấy, có tác động rõ của quy mô dân số đối với nền kinh tế các nước đang phát triển cũng như tới chất lượng sống của người dân. Dân số vừa là lực lượng sản xuất, vừa là lực lượng tiêu dùng. Chính vì vậy, quy mô, cơ cấu, chất lượng dân số sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu sản xuất, tiêu dùng và tích lũy của xã hội. Ngược lại, kinh tế cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình sinh, tử và di cư. Một nền kinh tế tự động hóa cao sẽ có nhu cầu lao động giảm, nhưng đòi hỏi về chất lượng lao động cao sẽ tác động tới mức sinh cao hay thấp. Hay việc dinh dưỡng được bảo đảm sẽ tác động tới tỷ lệ mắc bệnh và tử vong cũng sẽ giảm…
Giữa dân số và kinh tế có mối quan hệ biện chứng và gắn bó hữu cơ. Đây là quá trình tác động qua lại và là hai mặt của một chỉnh thể thống nhất. Khi nói đến phát triển kinh tế là nói tới tiền đề và điều kiện phát triển chất lượng dân số. Trong đó, động lực của sự phát triển kinh tế chính là con người. Ngược lại, dân số mà lực lượng chủ yếu là người lao động lại là yếu tố quyết định tới sự tăng trưởng của kinh tế, quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội. Ở phạm vi quốc gia, phát triển kinh tế - xã hội chính là sự bảo đảm cho sự phát triển dân số đúng hướng cả về quy mô, cơ cấu và chất lượng.
Già hóa dân số là một trong những vấn đề thuộc về cơ cấu dân số theo độ tuổi. Già hóa dân số và kinh tế là mối quan hệ có tính qua lại, hay nói cách khác nó là sự tác động mang tính hai chiều.
Ở chiều thuận (già hóa dân số tác động tới kinh tế) cho thấy, khi dân số trong thời kỳ “cơ cấu vàng” thì lực lượng lao động chiếm tỷ trọng cao trong tổng dân số sẽ có tác động tích cực tới tăng trưởng kinh tế và các nước thu được “dư lợi dân số”; ngược lại, khi dân số trở nên già hóa thì tỷ lệ lực lượng lao động trong cơ cấu dân số sẽ giảm, từ đó có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã cố lượng hóa tác động của biến đổi cơ cấu dân số đến một số chỉ số kinh tế vĩ mô quan trọng, như GDP/dân số trưởng thành, GDP/dân số có việc làm và tỷ lệ có việc làm. Kết quả phân tích mô hình hồi quy tăng trưởng với hai biến là tốc độ tăng dân số và tốc độ tăng lao động cho thấy, “cơ cấu dân số vàng” đã góp phần làm tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đáng kể cho các nước và khi cơ cấu dân số này chuyển sang giai đoạn già hóa thì GDP cũng giảm dần.
Ở chiều ngược lại (kinh tế tác động tới già hóa dân số). Trong quá trình phát triển kinh tế, nhiều nước trên thế giới đã trải qua giai đoạn bùng nổ dân số với tỷ suất sinh ở mức cao. Trong bối cảnh đó, chính phủ các nước đã có những chính sách nhằm giảm mức sinh và hạn chế tốc độ tăng dân số. Kết quả của việc thực thi các chính sách này trong một thời gian dài là những thay đổi về cơ cấu dân số theo độ tuổi. Một nền kinh tế phát triển sẽ khiến nhu cầu của con người cũng được nâng cao về chất lượng sống, như nhà ở, phương tiện đi lại, chăm sóc sức khỏe, du lịch, giải trí… Các nguồn lực, kể cả thời gian dành cho việc sinh con và chăm sóc con cái cũng sẽ phải “cạnh tranh” với các nhu cầu này, khi đó sinh ít như một giải pháp để giải quyết các mâu thuẫn giữa các nhu cầu trên. Điều này dẫn đến tỷ lệ sinh giảm. Trong khi đó, do đời sống kinh tế được nâng cao, y học ngày càng phát triển, con người ngày càng được chăm sóc tốt hơn khiến cho tuổi thọ cũng ngày càng được kéo dài, vì vậy, số người cao tuổi cũng vì thế mà ngày càng tăng lên.

Kinh nghiệm của Nhật Bản
Già hóa dân số và gánh nặng bảo đảm phúc lợi xã hội cũng gây ra nhiều khó khăn. Với tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ cao, ngay từ những năm cuối thế kỷ XX, Nhật Bản đã là một trong những quốc gia có tỷ lệ người cao tuổi cao nhất thế giới. Chi phí phúc lợi xã hội tăng lên là một gánh nặng đối với Chính phủ Nhật Bản. Đồng thời, dân số giảm đi khiến nhu cầu tiêu dùng giảm, càng gây khó khăn cho Nhật Bản khi đang nỗ lực thoát ra khỏi thời kỳ giảm phát.
Cũng như các quốc gia khác, đặc trưng dân số Nhật Bản có quan hệ mật thiết đến sự phát triển kinh tế, trong đó, Chính phủ đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển này. Chính vì vậy, để đánh giá đúng mức độ già hóa dân số và những vấn đề Nhật Bản gặp phải khi đối diện với những thách thức đến từ dân số cần nhìn nhận các chính sách dân số của Nhật Bản trong thời kỳ hiện đại được thể hiện qua bốn giai đoạn.
Giai đoạn 1, thời kỳ trước khi kết thúc Chiến tranh thế giới thứ II. Thời kỳ này, Chính phủ Nhật Bản khuyến khích quy mô gia đình lớn nhằm xây dựng đô thị hóa và hình thành khu vực kinh tế hiện đại. Năm 1927, Chính phủ cho thành lập Hội đồng điều tra các vấn đề dân số và lương thực. Hội đồng nhận định rằng quy mô dân số lớn là biểu hiện đáng khích lệ của sự thịnh vượng, chính vì vậy, Hội đồng chỉ tập trung luận bàn những biện pháp tăng sản xuất lương thực để theo kịp tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đến năm 1939, Chính phủ Nhật Bản cho thành lập Viện Các vấn đề dân số, nay là Viện Nghiên cứu quốc gia về An sinh xã hội và Dân số dưới sự bảo trợ của Bộ Y tế và Phúc lợi nhằm đưa ra “Hướng dẫn hoạch định Chính sách dân số”, bao gồm ưu tiên khám, chữa bệnh cho bà mẹ mang thai, trợ cấp nuôi dưỡng trẻ em và các lợi ích liên quan đến thuế cho các gia đình đông con. Tuy nhiên, Chính phủ Nhật Bản cũng thừa nhận việc khuyến khích quy mô gia đình lớn đã không thành công như mong đợi.
Giai đoạn 2, sau Chiến tranh thế giới thứ II, dân số bùng nổ, sau đó mức sinh giảm mạnh do kinh tế rơi vào khó khăn. Khi Chiến tranh Thế giới thứ II chấm dứt, Nhật Bản chứng kiến tốc độ tăng trưởng dân số chưa có tiền lệ. Việc đột nhiên quá tải dân số được xem như mối đe dọa. Tháng 5-1949, Chính phủ Nhật Bản thành lập Hội đồng các vấn đề dân số. Tháng 11-1949, Hội đồng này đưa ra nghị quyết đầu tiên về chính sách dân số cơ bản nhằm kiểm soát quy mô dân số quốc gia. Tuy nhiên, điều Chính phủ Nhật Bản quan tâm nhất lại không phải việc giải quyết các vấn đề dân số mà là việc phục hồi nền kinh tế, vì vậy, Chính phủ không có sự bảo trợ cho các chương trình dân số mà chỉ nỗ lực điều chỉnh phân bố dân cư theo vùng nhằm phục vụ khôi phục kinh tế sau chiến tranh.
Giai đoạn 3, từ năm 1955 đến năm 1975, mức sinh thấp và tăng trưởng kinh tế nhanh. Giai đoạn này có thể coi là giai đoạn phát triển nhanh chóng của nền kinh tế Nhật Bản, nhất là trong những năm 1960 - 1970. Tuy nhiên, trái với kinh tế, các chính sách ổn định dân số lại không được quan tâm đúng mức trong thời kỳ này. Năm 1959, Chính phủ Nhật Bản dừng việc coi kế hoạch hóa gia đình như một chính sách dân số và chuyển ngân sách đầu tư cho chương trình kế hoạch hóa gia đình sang y tế và phúc lợi xã hội. Cùng với đó, Bộ Y tế và Phúc lợi nước này chuyển các nhiệm vụ liên quan đến kế hoạch hóa gia đình sang Vụ Bảo vệ bà mẹ và trẻ em. Trong nghiên cứu của mình về chính sách và dân số Nhật Bản, GS. Shunichi Inoue, Trường cao đẳng khoa học và nhân văn, Đại học Nihon, Tokyo nhận định, ban đầu lượng lao động di cư từ nông thôn đến thành thị và lượng dân số trẻ của thời kỳ bùng nổ dân số sau chiến tranh đáp ứng được các nhu cầu lao động công nghiệp. Nhưng đến cuối thời kỳ này bắt đầu xuất hiện hiện tượng thiếu lao động.
Giai đoạn 4, từ năm 1975 đến nay, đây là giai đoạn mức sinh không đủ thay thế và kinh tế phát triển có dấu hiệu chậm lại. Năm 1990, kinh tế Nhật Bản bắt đầu rơi vào suy thoái, tác động tới mức sinh tiếp tục giảm xuống dưới mức thay thế tại Nhật Bản, càng khiến cho tốc độ già hóa dân số Nhật Bản diễn ra nhanh hơn. Hội đồng các vấn đề dân số đã chỉ ra rằng Nhật Bản cần có chính sách nhằm ổn định dân số trong tương lai và cải thiện mức sinh là phương pháp giải quyết vấn đề già hóa dân số tại Nhật Bản. Tuy nhiên, Chính phủ đã quyết định không can thiệp đến cuộc sống của người dân và chính sách dân số tiếp tục là chính sách tự do. Phải đến năm 1997, các chính sách nhằm cải thiện điều kiện và khuyến sinh mới được áp dụng một cách rộng khắp tại Nhật Bản.
Các chính sách về dân số của Nhật Bản phụ thuộc rất nhiều vào mục đích kinh tế - xã hội, không chỉ tập trung vào mục đích dân số. Chính vì vậy, hệ quả của nó là Nhật Bản phải đối mặt song song với cả hai thách thức lớn về dân số là mức giảm sinh cao và già hóa dân số. Trước tình hình đó, Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra hàng loạt các giải pháp không chỉ ở tầm vĩ mô mà còn cả ở tầm vi mô nhằm giải quyết những những vướng mắc đang đặt ra cho nước này, như:
Thứ nhất, tận dụng lợi thế “dân số vàng” để phát triển. Nhật Bản là một trong những nước đã tận dụng rất tốt lợi thế “dân số vàng” để phát triển kinh tế. Chính phủ Nhật Bản đã đưa ra chính sách khuyến khích tiết kiệm triệt để và tăng cường đầu tư. Song song với đó, nguồn lực trong nước được huy động tối đa tạo nên sự tăng tốc thần kỳ cho nền kinh tế Nhật Bản trong giai đoạn “dân số vàng”. Bên cạnh các nhân tố quan trọng đó, môi trường kinh tế và chính trị ổn định, nguồn lao động chất lượng cao, chính sách và chiến lược chủ động của Chính phủ trong việc khai thác các nguồn lực tri thức cũng như các bí quyết công nghệ để tăng cường khả năng “nội lực hóa”, tạo ra sự phát triển “thần kỳ” cho quốc gia này trong nhiều thập kỷ.
Thứ hai, tăng tỷ lệ sinh. Đây được xem là biện pháp mang tính lâu dài nhằm giảm tỷ lệ già hóa dân số. Để thực hiện mục tiêu này, Chính phủ Nhật Bản đã áp dụng các biện pháp, như tạo điều kiện cho phụ nữ quay trở lại nơi làm việc sau khi sinh con, xây dựng nhà trẻ, tăng trợ cấp cho trẻ em nhằm giảm bớt chi phí nuôi con cho các gia đình. Đặc biệt vào tháng 4-2020, Chính phủ Nhật Bản chính thức quyết định cho phép các công chức là nam giới được nghỉ phép ít nhất một tháng để chăm sóc con sơ sinh. Mặc dù, tính hiệu quả của các chính sách khuyến sinh chưa thực sự cao nhưng về dài hạn Nhật Bản vẫn duy trì và tiếp tục đưa ra các chính sách khuyến sinh nhằm bảo đảm bổ sung lực lượng lao động phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
Thứ ba, hỗ trợ người già tham gia vào thị trường lao động. Vấn đề già hóa dân số ở Nhật đang tạo sức ép cho nền kinh tế, cụ thể là hệ thống phúc lợi xã hội, vì vậy giải pháp được đưa ra đó là những phụ nữ và người già phải tham gia nhiều hơn vào thị trường lao động để giảm bớt gánh nặng này. Từ năm 1986, Chính phủ Nhật Bản đã có quy định chính thức về việc thiết lập các trung tâm giới thiệu việc làm ở tất cả các đơn vị hành chính cấp thôn, quận và thành phố. Các trung tâm này hoạt động hoàn toàn bằng ngân sách nhà nước và chỉ thu một khoản phí rất nhỏ từ những người cao tuổi đăng ký tìm việc. Nhiệm vụ của trung tâm là giới thiệu những công việc đơn giản, ít tốn thời gian cho những người cao tuổi sống trong khu vực hành chính mình quản lý.
Thứ tư, nâng cao năng suất lao động. Khi số người già ngày càng nhiều đồng nghĩa với việc những người hiện đang lao động sẽ phải gánh vác nhiều hơn để bảo đảm sự phát triển kinh tế đáp ứng đủ nhu cầu cho mọi người trong xã hội nói chung và gia đình nói riêng. Vì vậy, nâng cao năng suất lao động là biện pháp được Chính phủ Nhật Bản áp dụng nhằm bù đắp sự thiếu hụt nguồn lao động và góp phần giải quyết vấn đề già hóa dân số.
Thứ năm, thu hút lao động nước ngoài để bù đắp sự thiếu hụt nguồn nhân lực trong nước. Hiện nay, Nhật Bản đang ngày càng có nhiều chính sách thu hút những người lao động từ nước ngoài. Đây cũng được coi là một trong những thành công lớn của Nhật Bản khi lượng lao động nhập cư vào nước này gia tăng đáng kể. Bộ Nội vụ và Truyền thông Nhật Bản cập nhật báo cáo cho biết, năm 2024, dân số của Nhật Bản dự kiến sẽ giảm 663.081 người và dân số đạt 122.298.912 người vào đầu năm 2025. Gia tăng dân số tự nhiên được dự báo là âm vì số lượng sinh sẽ ít hơn số người chết 765.040 người. Nếu tình trạng di cư vẫn ở mức độ như năm trước, dân số sẽ tăng 101.959 người. Điều đó có nghĩa là số người chuyển đến Nhật Bản sẽ chiếm ưu thế. Một cách khác để đối phó với tình trạng thiếu hụt lao động là việc tăng cường sử dụng rô-bốt trong sản xuất và cung cấp dịch vụ.
Thứ sáu, nâng tuổi nghỉ hưu. Để giảm áp lực với hệ thống lương hưu, Chính phủ Nhật Bản đặt mục tiêu nâng tuổi nghỉ hưu lên 65 tuổi vào năm 2025. Các công ty được khuyến khích xóa độ tuổi nghỉ hưu để tiếp tục sử dụng lao động cao tuổi. Khuyến khích việc trì hoãn nhận lương hưu đến tuổi 70 để được cộng thêm 40% lương hưu. Bên cạnh đó, năm 2013, Quốc hội Nhật Bản đã thông qua bộ luật ổn định việc làm cho người cao tuổi. Luật này yêu cầu mọi doanh nghiệp áp dụng tuổi về hưu không trẻ hơn 60 tuổi, đồng thời phải thực hiện một trong ba biện pháp, gồm: Xây dựng chế độ tuổi về hưu là 65 tuổi; có biện pháp duy trì việc làm đến tuổi 65; bãi bỏ chế độ về hưu. Song song với đó, Chính phủ Nhật Bản cũng trợ cấp cho các doanh nghiệp tuyển dụng người cao tuổi thông qua các trung tâm nhà nước về ổn định việc làm; doanh nghiệp có chế độ bảo đảm việc làm cho nhân viên đến tuổi 65.

Một số hàm ý chính sách
Nhật Bản đã có nhiều nỗ lực trong việc bảo đảm mức tăng trưởng dân số đáp ứng tăng trưởng, phát triển kinh tế. Mặc dù vẫn còn nhiều vấn đề cần đối mặt nhưng không thể phủ nhận sự thành công của Nhật Bản trong tận dụng lợi thế “dân số vàng” đưa nền kinh tế phát triển “thần kỳ”, trong đó đặc biệt đáng quan tâm là cách thức Nhật Bản lựa chọn phát triển kinh tế là đi theo chiều sâu, thể hiện rõ qua việc tập trung đào tạo nguồn lao động chất lượng cao, nâng cao năng suất lao động và thu hút đội ngũ các nhà khoa học, nhà nghiên cứu có trình độ cao trên thế giới. Từ những thành công và hạn chế của Nhật Bản trong ứng phó với già hóa dân số có thể rút ra một số gợi ý cho Việt Nam như sau:
Một là, người nhập cư không giúp tăng tỷ lệ sinh, họ chỉ đóng vai trò thay thế người trưởng thành mà các quốc gia già hóa dân số đang thiếu hụt để bổ sung vào lực lượng lao động tại chỗ. Mỗi thế hệ người nhập cư do đó không đại diện cho một giải pháp vĩnh viễn và bền vững cho vấn đề già hóa dân số mà chỉ giải quyết vấn đề mang tính tức thời. Chính vì vậy, để giải quyết những tác động không mong muốn từ quá trình già hóa dân số ở thì hiện tại, các nước có thể khuyến khích nhập cư, tuy nhiên để giải quyết triệt để vấn đề già hóa dân số và mang tính lâu dài cần có chính sách tăng mức sinh để bảo đảm lực lượng lao động kế cận tương xứng.
Hai là, vấn đề khuyến sinh nếu chỉ áp dụng bằng các hình thức, như giảm thuế, tăng ưu đãi khi sinh nhiều con, tăng ngày nghỉ thai sản… thì hiệu quả chưa thể đạt được như mong muốn. Bởi, tài chính, phúc lợi xã hội không phải yếu tố quyết định đến tỷ lệ sinh mà phong cách sống và nếp nghĩ mới là yếu tố có tính quyết định. Khi cuộc sống con người ngày càng đầy đủ sẽ kéo theo nhu cầu hưởng thụ ngày càng cao, chính điều này khiến cho nhiều thanh niên trẻ, đặc biệt là những người càng thành đạt có xu hướng giảm nhu cầu muốn kết hôn và sinh con. Nhiều phụ nữ trẻ hiện nay không còn đặt nặng nhiệm vụ sinh con và chăm lo việc nhà. Do đó, vấn đề cốt lõi là thay đổi được quan niệm, phong cách sống và nếp nghĩ của giới trẻ về việc lập gia đình và sinh con; thậm chí cũng cần có cái nhìn cởi mở hơn với việc không lập gia đình nhưng vẫn sinh con, đặc biệt ở các nước nghiêng về truyền thống Á Đông. Thay vì chỉ tập trung vào việc tuyên truyền và đưa ra các chính sách khuyến sinh tập trung vào phụ nữ thì cũng cần có những chính sách khuyến khích đàn ông tham gia có trách nhiệm vào việc chăm sóc và nuôi dạy con cái trong dài hạn.
Ba là, Nhật Bản đã tận dụng rất tốt thời kỳ “dân số vàng” để phát triển kinh tế “thần tốc” từ đó xây dựng hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội toàn diện. Nhưng với những quốc gia có quá trình già hóa dân số diễn ra nhanh trong khi nền kinh tế chưa đạt được tích lũy đủ để xây dựng hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi toàn diện sẽ dẫn tới tình trạng số đông người già phải sống dựa vào gia đình, con cái, những người còn trong độ tuổi lao động. Đây sẽ thật sự là gánh nặng lên các cặp vợ chồng trẻ. Chính vì vậy, việc kéo dài được thời gian “dân số vàng” hoặc làm chậm quá trình già hóa dân số trở nên thật sự cần thiết để giảm bớt những gánh nặng về kinh tế cũng như những hệ lụy từ điều này.
Bốn là, dù ưu tiên phát triển dân số hay kinh tế thì có một thực tế rõ ràng là giữa dân số và kinh tế có mối quan hệ qua lại với nhau, nếu chỉ tập trung kinh tế mà bỏ qua dân số hoặc ngược lại thì đều có thể dẫn tới việc kìm hãm sự phát triển.
Năm là, việc kiểm soát mức sinh hợp lý nhằm bảo đảm thế hệ kế cận và lực lượng lao động nhằm phục vụ phát triển kinh tế - xã hội; chính sách nhập cư… đều là những yếu tố nền tảng nhằm giải quyết vấn đề già hóa dân số. Nhưng mục tiêu cuối cùng cần hướng đến vẫn là việc bảo đảm được chế độ an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho người cao tuổi. Bởi già không có nghĩa là họ không còn đóng góp cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, khi xu hướng già hóa đang là xu hướng tất yếu trên toàn cầu, y học ngày càng phát triển, thì việc thế giới sẽ ngày càng có nhiều người già hơn là điều không thể thay đổi. Thay vì chỉ nhìn nhận già hóa dân số là một áp lực về kinh tế, thì các nước cũng cần xây dựng một kế hoạch để tận dụng được lực lượng người cao tuổi đang ngày càng nhiều lên.
Sáu là, thời gian hưởng dư lợi dân số diễn ra rất ngắn, nếu một nền kinh tế thất bại trong việc hưởng dư lợi dân số, đồng nghĩa với quá trình già hóa dân số diễn ra quá nhanh, khi đó sẽ phải đối mặt với cái gọi là bất lợi dân số.
Bảy là, để đối phó với già hóa dân số, nhiều nước chọn tăng mức sinh, tuy nhiên cũng phải chờ ít nhất sau 15 năm số người gia nhập lực lượng lao động mới tăng lên, điều này có thể làm giảm phụ thuộc già trong tương lai nhưng ngay lập tức lại làm tăng phụ thuộc trẻ và kéo theo hậu quả là quy mô dân số gia tăng. Chính vì vậy, khuyến khích những người trong độ tuổi lao động nhập cư sẽ làm giảm phụ thuộc, nhưng chính người nhập cư cũng già đi, trừ khi là họ bị buộc phải rời khỏi đất nước trước khi đến tuổi nghỉ hưu. Đây là chính sách nhập khẩu lao động mà một số quốc gia như Nhật Bản, Singapore đang áp dụng. Tuy nhiên, nó lại không phù hợp với những nước có quy mô dân số rất lớn như Trung Quốc./.
ST.










