Thứ Năm, 14 tháng 11, 2024

Một số giải pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các âm mưu thủ đoạn, quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.

 

Ảnh minh họa 

Do đặc thù phát triển quá nhanh của công nghệ, của các dịch vụ, nội dung thông tin trên mạng nên hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành đã bộc lộ nhiều bất cập, hạn chế, chưa cụ thể hóa, bao quát hết các đối tượng và hoạt động cần quản lý, hành vi sai phạm, chế tài xử lý chưa bảo đảm tính răn đe. Trong khi đó, quy trình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trên lĩnh vực này theo quy định hiện hành mất khá nhiều thời gian, dẫn đến việc quy định vừa sửa đổi, bổ sung xong đã bắt đầu lạc hậu, gây khó khăn cho công tác quản lý. Vì vậy, để kịp thời ngăn chặn, đập tan âm mưu của các thế lực thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam cần nghiên cứu, vận dụng thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, cần có giải pháp về cơ chế, chính sách: Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, đảm bảo môi trường pháp lý bình đẳng, minh bạch, kịp thời bổ sung, xây dựng các văn bản mới và xây dựng cơ chế chính sách về thông tin điện tử cho phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng hiệu quả quản lý, bổ sung các chế tài xử lý sai phạm nghiêm khắc hơn.

- Tổ chức họp định kỳ, đột xuất nhằm định hướng, chấn chỉnh kịp thời hoạt động của các trang mạng xã hội trong nước.

- Xây dựng chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp trong nước phát triển, tạo ra những “đơn vị tiên phong” đủ mạnh để cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường.

- Nâng cao năng lực quản lý, đẩy mạnh công tác kiểm tra, rà soát, kiên quyết xử lý thông tin sai phạm trên mạng. Đối với các trường hợp vi phạm nhiều lần, mức độ nghiêm trọng có thể xem xét rút giấy phép; tăng cường hướng dẫn, phối hợp với Sở TTTT các địa phương và các đơn vị chức năng có liên quan xử lý hoạt động sai phạm về thông tin điện tử trên mạng.

Thứ hai, cần chú trọng xây dựng tốt công tác kỹ thuật, công nghệ: Xây dựng cơ chế phối hợp giữa các đơn vị quản lý và doanh nghiệp; nghiên cứu, định hướng trong việc xây dựng bộ lọc và có cơ chế cập nhật khi có yêu cầu để các doanh nghiệp thực hiện; kịp thời ngăn chặn truy cập, chia sẻ, tạm ngừng hiển thị nội dung trên mạng internet khi phát hiện thông tin vi phạm.

- Chuẩn bị các phương án kỹ thuật, công nghệ phù hợp để có thể chủ động ngăn chặn các thông tin vi phạm trong trường hợp khẩn cấp với quyết tâm, thống nhất cao và sự phối hợp đồng bộ của các bộ, ngành, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông, internet;

Thứ ba, xây dựng đầu mối tiếp nhận, quy trình xử lý tin giả trên mạng xã hộiBộ Thông tin và Truyền thông, các Sở Thông tin và Truyền thông tại các địa phương sẽ là đầu mối thực hiện việc xử lý đối với các hành vi tung tin giả của các tổ chức, cá nhân tại Việt Nam theo quy định của pháp luật.

 Việc xác định tin giả cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các Bộ, ngành có liên quan theo chức năng, nhiệm vụ được giao, đặc biệt trong việc nhận diện và xác định tin giả theo từng lĩnh vực, đối tượng ảnh hưởng đối với các vấn đề ảnh hưởng đến an ninh, chính trị, kinh tế, xã hội... Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân bị ảnh hưởng trực tiếp cần chủ động tập hợp, cung cấp các tài liệu, chứng cứ để các cơ quan chức năng xác lập hành vi của các đối tượng tung tin giả.   

Thứ tư, cần tuyên truyền rộng rãi, nâng cao nhận thức: Các cơ quan chức năng tiếp tục chủ trì, phối hợp với các cơ quan báo chí & truyền thông liên quan triển khai thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, nâng cao nhận thức cho người sử dụng về các quy định của pháp luật có liên quan nội dung thông tin trên mạng.

- Tăng cường việc tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu với các thế hệ học sinh, sinh viên và các bậc phụ huynh nhằm cung cấp, trao đổi thông tin về những mặt tích cực và tiêu của Internet để thế hệ trẻ biết sàng lọc trước các luồng thông tin xấu độc. 

- Đối với các cơ quan nhà nước, đặc biệt là các cơ quan hoạt động trong lĩnh vực tuyên truyền, cần coi mạng xã hội cũng là một kênh truyền thông tương tự như báo, đài, truyền hình để tiến hành các hoạt động tuyên truyền. 

- Đối với các ban, ngành hoạt động tiếp xúc với người dân nhiều thì càng cần coi mạng xã hội cũng như Internet là một kênh quan trọng và cần có kế hoạch truyền thông của riêng mình. Cần khuyến khích các cơ quan nhà nước bên cạnh website của mình cần mở thêm một kênh thông tin giới thiệu về chuyên ngành và lĩnh vực mình quản lý, qua đó tiếp cận và minh bạch thông tin với người dân.

- Xây dựng và phổ biến rộng rãi bộ quy tắc, chuẩn mực đạo đức xã hội đối với người sử dụng internet tại Việt Nam, thúc đẩy hình thành văn hóa ứng xử, chia sẻ thông tin lành mạnh, lên án, tẩy chay hành vi đi ngược lại lợi ích cộng đồng, lợi ích quốc gia trên mạng internet. Triển khai các hoạt động tuyên truyền, hướng dẫn, phổ biến kỹ năng sử dụng internet an toàn và hiệu quả.

Thứ năm, phát triển mạng xã hội do doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ: Hiện nay tại Việt Nam, một số mạng xã hội của nước ngoài như Facebook, Youtube vẫn đang chiếm phần lớn thị trường, chính vì vậy trong ngắn hạn, các giải pháp quản lý và tuyên truyền vẫn cần tiến hành đối với mạng xã hội này. Tuy nhiên về dài hạn, Việt Nam cần có những mạng xã hội tương đương, có khả năng thay thế hoặc cạnh tranh được với Facebook tại Việt Nam và do doanh nghiệp tại Việt Nam cung cấp dịch vụ. Do đó, cần có các giải pháp, cơ chế, chính sách nhằm hỗ trợ, thúc đẩy mạng xã hội trong nước phát triển. 

Thứ sáu, các cơ quan cung cấp thông tin báo chí cần quan tâm chú ý nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Chỉ đạo đội ngũ lãnh đạo, cán bộ, phóng viên, biên tập viên nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn nữa về Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, Nhà nước ta. Xây dựng nền tảng xuất bản mở và đa nền tảng. Ứng dụng các công cụ hỗ trợ quản lý vận hành báo có tính liên thông cao, ví dụ: Nhân sự, công việc, tính hiệu quả cần được liên kết chặt chẽ, lấy công nghệ làm nền tảng, lấy công nghệ làm phương tiện, lấy công nghệ làm công cụ dự báo.  Bám sát việc phát triển công nghệ của toà soạn với hoạt động chuyển đổi số chung của Chính phủ và doanh nghiệp để đồng bộ trong chuẩn giao tiếp về thông tin.

Thứ bẩy,  Ban Chỉ đạo 35 của Ban Tuyên giáo Trung ương cần phối hợp với Bộ Công an, Bộ Thông tin và Truyền thông hoàn thiện các văn bản chỉ đạo và quy chế, các tình huống trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay.  Ban Chỉ đạo 35 cần chủ động phối hợp với các tỉnh ủy, thành ủy bám sát thực tiễn, kịp thời dự báo những tư tưởng không tích cực, những vấn đề nổi cộm tại các địa phương, chú ý đến việc bảo vệ nhân quyền của các giáo hội …; chủ động cung cấp thông tin với các nước, các tổ chức quốc tế về những nội dung quan điểm nhận thức chưa đúng về công cuộc đổi mới xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Việt Nam

Thứ tám, các cơ quan báo chí cần lựa chọn những người có vị thế, uy tín trong xã hội có nhiều bài viết, nêu gương trong việc đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng. Tùy theo tính chất nhiệm vụ và khu vực Ban Tuyên giáo Trung ương phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông tổ chức các lớp tập huấn của đội ngũ lãnh đạo các cơ quan báo chí và những phóng viên chủ chốt, tích cực trong việc viết bài, phản ánh không chỉ trên báo mà còn các phương tiện trên  mạng xã hội với những cách làm sáng tạo để kiên quyết đập tan các âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho cách mạng Việt Nam.

Trong năm 2021 và những năm tiếp theo, các cơ quan báo chí cần chủ động tuyên truyền về Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII; chú trọng vào việc tuyên truyền các ngày lễ kỷ niệm trong từng năm như: Ngày thành lập Đảng, ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước; Quốc khánh 2/9; Cách mạng Tháng Tám thành công; ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam…/.

Thực tiễn hoạt động mạng xã hội & âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam

 Mạng xã hội ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, có thể phân thành hai loại: 

Thứ nhất, mạng xã hội của Việt Nam do các doanh nghiệp trong nước cung cấp và chịu sự điều chỉnh của pháp luật Việt Nam. Ở Việt Nam không thiếu các mạng xã hội xưng danh là mạng xã hội Việt, nhưng rất ít trong số đó tồn tại được quá một năm trước khi phải khai tử. Các mạng xã hội Ở Việt Nam, đặc biệt là các trang mạng xã hội đã được cấp phép hoạt động phần lớn đều tuân thủ quy định của pháp luật hiện hành. Số ít trường hợp để xảy ra sai phạm và nội dung vi phạm chủ yếu là do thành viên chia sẻ, trao đổi các nội dung vi phạm về thuần phong mỹ tục, dung tục và phản cảm.

Thứ hai, mạng xã hội của nước ngoài, do các doanh nghiệp nước ngoài cung cấp xuyên biên giới vào Việt Nam, điển hình như: Facebook, Google, Youtube, Twitter, Microsoft... cung cấp vào Việt Nam, được người Việt Nam lựa chọn sử dụng nhiều nhất hiện nay là Facebook và Youtube. Theo báo cáo của Google, Việt Nam là một trong nhóm 10 nước có lượng người dùng Youtube vào loại cao trên thế giới. Cả hai loại mạng xã hội này đều hoạt dộng và cạnh tranh lẫn nhau ở Việt Nam.

Trong môi trường phát triển số hóa mạnh mẽ như ngày nay, mạng xã hội cũng như “con dao hai lưỡi”. Không thể phủ nhận tiện ích mà mạng xã hội đem lại cho con người trong đời sống hiện đại; thế nhưng, đây lại là một thế giới ảo, thật giả lẫn lộn, có những điều tốt nhưng có cả “thuốc độc”. Tính chất thật, giả lẫn lộn không chỉ trên phương diện cá nhân, đối với từng con người, mà còn đối với phương diện xã hội, càng đặc biệt trở nên nguy hiểm khi nó được sử dụng vào các hoạt động chính trị. Với khả năng tương tác và tính lan truyền nhanh, làm cho sự thật giả của những thông tin trên mạng xã hội càng trở nên nguy hiểm. Tuy nhiên, vấn đề không phải là cấm mạng xã hội, nhưng mạng xã hội bộc lộ nhiều mặt trái mà chúng ta cần phải hạn chế, quản lý, đặc biệt là sự lợi dụng mạng xã hội để công kích, chống đối Đảng, Nhà nước và chế độ. Một hệ thống luật pháp đầy đủ để quản lý và điều chỉnh hành vi những người sử dụng mạng xã hội và thiết bị trực tuyến là đòi hỏi bức thiết của tình hình.

Thực tế mạng xã hội ở nước ta hiện nay cho thấy, tình trạng mất an toàn thông tin mạng xã hội diễn biến rất phức tạp, mang tính phổ biến; ý thức bảo đảm an toàn thông tin của một số cá nhân, tổ chức trong sử dụng công nghệ thông tin chưa được đề cao; ý thức bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng của một số cán bộ, chiến sĩ, nhất là số chiến sĩ trẻ còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng tốt yêu cầu bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh mạng thông tin quốc gia, về giáo dục ý thức bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng chưa thật đồng bộ, hiệu lực thi hành chưa cao… Các hành vi tiêu cực như: Tung tin giả mạo, phát tán tin xấu độc, xuyên tạc, bịa đặt, phát ngôn gây thù ghét... chủ yếu tồn tại trên các mạng xã hội nước ngoài do nhận thức của người sử dụng cho rằng mạng xã hội là môi trường ảo, nên có thể tự do phát ngôn, tự do thông tin mà không phải chịu trách nhiệm.

Mạng xã hội trở thành môi trường thuận lợi để thông tin xấu độc, gây hại, những phát ngôn thù ghét tràn lan; mức độ tác động đến xã hội ngày càng nghiêm trọng. Nhiều thông tin không chính thống trên mạng xã hội đã làm nhiễu loạn, ảnh hưởng rất nhiều đến công tác chỉ đạo, điều hành. Tuy nhiên, không thể chỉ ngăn cấm mạng xã hội bằng những mệnh lệnh hành chính, mà phải biết tận dụng mặt tích cực của nó để định hướng dư luận đến với cái đúng, cái tốt, đấu tranh với cái sai, cái xấu. Điều đó chỉ có thể được thực hiện khi cơ quan chức năng chủ động cung cấp thông tin chính xác, kịp thời đến với người dân. 

Trong tình hình mới, không gian mạng sẽ còn tiếp tục phát triển mạnh mẽ, các thế lực thù địch ngày càng lợi dụng để chống phá cách mạng nước ta, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Trong điều kiện đó, vấn đề bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên không gian mạng càng trở nên quan trọng và cấp thiết. Thông qua hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, chúng còn triển khai hướng tiến công “mềm” thông qua việc đẩy mạnh việc sử dụng các mạng thông tin, mạng quốc tế để tuyên truyền chống phá cách mạng nước ta với nhiều thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt khó lường. Trong đó đáng lưu ý là, việc Mỹ đang lợi dụng những cơ hội của toàn cầu hoá kinh tế để thực hiện chiến lược “Mỹ hoá" toàn cầu. Sự du nhập lối sống phương Tây từ việc mở rộng kết nối Internet đang thách thức sự kiểm soát của Nhà nước ta; sự suy giảm niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, vào khả năng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế; sự lẫn lộn về chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, phai nhạt ý thức quốc gia dân tộc, suy giảm ý thức quốc phòng trong một bộ phận nhân dân, trước hết là một bộ phận trong thế hệ trẻ là không tránh khỏi.

Với phương châm lấy chống phá về chính trị, tư tưởng làm hàng đầu, kinh tế là mũi nhọn, ngoại giao làm hậu thuẫn, tôn giáo, dân tộc làm ngòi nổ, kết hợp với uy hiếp, răn đe, gây sức ép về quân sự, chúng triệt để lợi dụng những vấn đề "dân tộc", "tôn giáo", "dân chủ", "nhân quyền"…; kết hợp "diễn biến hoà bình" với bạo loạn lật đổ chống phá từ bên trong, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, khi cần thiết và có điều kiện thì phát động chiến tranh xâm lược quy mô lớn. “Các thế lực thù địch vẫn tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những diễn biến phức tạp”[1].

Đặc biệt, các thế lực thù địch sẽ đẩy mạnh tuyên truyền các luận điệu nhằm ca ngợi chủ nghĩa tư bản, cổ súy cho chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng. Chúng tuyên truyền rằng chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội cuối cùng của lịch sử loài người, hiện nay chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, không còn là một xã hội áp bức, bóc lột nữa. Đồng thời, chúng cho rằng con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân ta đã lựa chọn là “mù mờ”, là “không tưởng”, hoặc cho rằng “chủ nghĩa nào, chế độ nào cũng được, miễn dân giàu, nước mạnh”. Chúng cố tình tách rời và đối lập độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội; đối lập một cách sai lầm chủ quyền dân tộc với ý thức hệ xã hội chủ nghĩa; tuyên truyền luận điệu thù địch cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ý thức hệ cao hơn chủ quyền dân tộc”…

Các thế lực thù địch thông qua việc phát tán các ấn phẩm, tài liệu sách, báo, băng hình trên các phương tiện thông tin, trên các trang mạng xã hội,... nhằm xuyên tạc, bôi nhọ cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên truyền xuyên tạc, phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng còn đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin, cho rằng Hồ Chí Minh chỉ là người theo chủ nghĩa dân tộc, chứ không lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Chúng vin vào một số khuyết điểm, sai lầm trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng, sự tha hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên đã làm cho cách mạng nước ta có lúc gặp khó khăn, đẩy mạnh tuyên truyền các luận điệu nhằm bôi xấu, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Được sự hậu thuẫn mạnh của các thế lực phản động bên ngoài, các phần tử cơ hội chính trị, chống đối ở trong nước tăng cường viết và phát tán các tài liệu đưa ra những luận điệu, quan điểm, sai trái phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên không gian mạng. Họ cho rằng, đã đến lúc phải xét lại cả những nguyên lý cơ bản có tính chất thế giới quan, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên lý về giai cấp, đấu tranh giai cấp, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội… Các thế lực thù địch đã và đang điều chỉnh một số vấn đề về chủ trương, giải pháp sử dụng các thủ đoạn “mềm, ngầm, sâu, điểm”, mở rộng địa bàn hoạt động, nhất là các địa bàn trọng yếu; tích cực móc nối, liên kết các nhóm, tổ chức phản động và tìm mọi cách xâm nhập vào nội bộ ta (nhất là các cơ quan lãnh đạo, chính quyền, đoàn thể) nhằm tạo dựng “ngọn cờ” chuẩn bị thời cơ gây bạo loạn, ly khai ở một số vùng hoặc nhiều vùng có tính chất độc lập để chia cắt nước ta, hy vọng tạo dựng nhà nước “tự do”, “độc lập” chịu sự chi phối của bên ngoài,... Phương thức chống phá của các thế lực thù địch hết sức đa dạng, có lúc lợi dụng sự công khai của báo chí, truyền thông, lợi dụng sự tự do tư tưởng; có lúc ngụy trang dưới nhiều hình thức, vỏ bọc tinh vi, đặc biệt là chúng triệt để lợi dụng mạng xã hội.

Trong bối cảnh hội nhập toàn cầu hiện nay với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin, internet đã trở thành không gian xã hội mới “không gian mạng” mang lại những cơ hội, vận hội mới để các quốc gia, dân tộc cùng nhau  hợp tác và phát triển. Các thế lực thù địch, phản động đang tận dụng những ưu thế vượt trội của công nghệ số, mạng xã hội để tuyên truyền những tư tưởng độc hại; thu thập thông tin, bí mật nhà nước, bí mật quân sự, phá vỡ niềm tin và cắt đứt sợi dây liên kết giữa Đảng với nhân dân; xuyên tạc, phủ nhận những thành quả cách mạng trong công cuộc đổi mới ở nước ta. Với sự phát triển rất sôi động và phong phú của mạng thông tin toàn cầu, thì đó lại là một "điều kiện", "thời cơ" thuận lợi để các thế lực thủ địch thực hiện âm mưu, thủ đoạn chống phá chủ nghĩa xã hội, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng. Các thế lực thù địch triệt để lợi dụng các phương tiện thông tin, truyền thông hiện đại như báo chí, đài phát thanh đặt ở ngoài nước, internet, các trang mạng xã hội, các blog, tấn công vào nền tảng tư tưởng của Đảng. Chúng còn trực tiếp tiến công vào báo chí cách mạng nước ta, làm nhiễu mạng điện tử, tiến công vào những nhà báo cách mạng.

Sự chống phá của các thế lực thù địch, đặc biệt lợi dụng báo chí, mạng xã hội chống phá cách mạng nước ta, làm cho việc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam hiện nay gặp những khó khăn, thách thức mới. Trong Báo cáo gửi Bộ Ngoại giao Mỹ, Jon Aloisi (cựu Phó Đại sứ Mỹ tại Việt Nam) từng viết: “Thành công lớn nhất là đã thực hiện việc đưa vào Việt Nam mạng lưới internet. Đó là phương tiện hữu hiệu cho chiến dịch truyền bá các tư tưởng phương Tây nằm trong chiến lược nhằm thay đổi chính thể ở quốc gia này”[2].

Trong tình hình mới, “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch chống phá Việt Nam càng quyết liệt và nguy hiểm hơn. Cuộc đấu tranh phòng, chống “diễn biến hoà bình”, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam ngày càng phức tạp, khó khăn. Trong thời gian tới, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh “diễn biến hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hoá, trong đó tập trung tuyên truyền, phủ nhận nền tảng tư tưởng, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhất là những thời điểm Quốc hội thông qua các văn bản pháp luật mới; phủ nhận thành quả cách mạng, vai trò lãnh đạo của Đảng; xuyên tạc chủ trương củng cố quốc phòng, xây dựng quân đội; bóp méo sự thật lịch sử, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, quân đội; đả kích bản sắc văn hóa dân tộc; làm giảm sút lòng tin của nhân dân ta đối Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.

Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là nhiệm vụ cấp bách hiện nay của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Yêu cầu bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; đấu tranh ngăn chặn các quan điểm sai trái, thù địch trên mạng xã hội ở Việt Nam là phải kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống", lấy xây dựng là chính, tích cực chủ động phòng, chống là quan trọng; kết hợp chặt chẽ giữa chủ động ngăn chặn, phòng ngừa với chủ động tiến công làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình" của các thế lực thù địch.

Việt Nam luôn là hình mẫu cho cả thế giới, trong đó có Chile

 Trong khuôn khổ chuyến thăm chính thức Chile, chiều 10/11 theo giờ địa phương, tại thủ đô Santiago de Chile, Chủ tịch nước Lương Cường tiếp Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona Soto. Cùng dự có Tổng Bí thư, người thứ hai của Đảng Cộng sản Chile Bárbara Figueroa.

Chủ tịch nước Lương Cường tặng Chủ tịch Đảng cộng sản Chile Lautaro Carmona Soto bức ảnh quê hương Bác Hồ 

Tại buổi tiếp, Chủ tịch nước bày tỏ vui mừng lần đầu thăm chính thức đất nước Chile tươi đẹp, mến khách; thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam cảm ơn nhân dân, Đảng Cộng sản Chile và các lực lượng cánh tả, tiến bộ, yêu chuộng hòa bình đã nhiệt thành ủng hộ, đoàn kết với nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước trước đây, cũng như công cuộc xây dựng phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay. Chủ tịch nước cũng cảm ơn đồng chí Lautaro Carmona Soto trong những năm 70 thế kỷ trước tích cực tham gia các hoạt động phản đối chiến tranh, ủng hộ nhân dân Việt Nam và có nhiều đóng góp tích cực cho quan hệ hai Đảng, nhân dân hai nước.

Nhân dịp này, Chủ tịch nước chuyển lời thăm hỏi, lời mời thăm Việt Nam vào thời điểm thích hợp của Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam Tô Lâm đến đồng chí Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona Soto. Chủ tịch nước đánh giá cao và tin tưởng Đảng Cộng sản Chile với tư cách là đảng tham chính sẽ có nhiều đóng góp tích cực vào những kết quả điều hành của Chính phủ cánh tả tại Chile, thúc đẩy chính sách ngoại giao tích cực, mở rộng quan hệ đối ngoại và liên kết với các nước, khu vực khác trên thế giới, góp phần vào giải quyết các thách thức chung và vấn đề quốc tế.

Chia sẻ một số nét lớn về tình hình đất nước và Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước cho biết, xuất phát điểm là đất nước bị chiến tranh tàn phá nặng nề; bối cảnh thế giới hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp nhưng sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Hiện nay, Việt Nam có quy mô nền kinh tế đứng thứ 35 trong tốp 40 nền kinh tế và nằm trong nhóm 20 nước có tộc độ phát triển kinh tế nhanh nhất thế giới. Việt Nam kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hóa, đa phương hóa; chủ động và tích cực hội nhập, là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế.

Chủ tịch nước nhấn mạnh Đại hội toàn quốc lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra mục tiêu phấn đấu đến năm 2030, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng trở thành nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045, nhân dịp kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước phát triển, thu nhập cao. Để đạt được kết quả nêu trên, ngoài sự nỗ lực của chính mình, Việt Nam cần có sự hỗ trợ, đồng hành của bạn bè quốc tế, trong đó có Chile.

Hiện Chile là một trong những thị trường xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam khu vực Mỹ Latinh còn Việt Nam là đối tác thương mại lớn nhất của Chile trong ASEAN. Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương coi trọng và mong muốn phát triển hơn nữa quan hệ hợp tác với các chính đảng cầm quyền, tham chính và chính đảng có quan hệ truyền thống, trong đó có Đảng Cộng sản Chile vì lợi ích của nhân dân mỗi nước, vì hòa bình, hợp tác, phát triển ở khu vực và thế giới.

Chủ tịch nước nhấn mạnh, trong bối cảnh thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, Việt Nam vẫn kiên định con đường độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội và để đạt được mục tiêu đó có nhiều giải pháp. Vì vậy, giữa hai Đảng Cộng sản hai nước cần tích cực trao đổi kinh nghiệm phát triển phù hợp với mỗi nước.

Về phần mình, Chủ tịch Đảng Cộng sản Chile Lautaro Carmona Soto bày tỏ vinh dự được Chủ tịch nước tiếp và cho biết, các đại biểu tham dự buổi tiếp dù ở nhiều thế hệ khác nhau nhưng đều có một điểm chung xuất phát từ tình yêu đất nước, con người Việt Nam; nhiều người từng tham gia cuộc diễu hành vì hòa bình phản đối chính tranh ở Việt Nam trước đây.

Chủ tịch Lautaro Carmona Soto khẳng định Việt Nam luôn là hình mẫu cho cả thế giới, trong đó có Chile. Đảng Cộng sản Chile đã học tập kinh nghiệm của Việt Nam trong đấu tranh giải phóng dân tộc, xác định sự nghiệp cách mạng là của toàn dân; để phát triển đất nước cần có sự tham gia của tất cả mọi người trong xã hội. Hiện nay dù có nhiều khó khăn, thách thức đối với các đảng trong liên minh cầm quyền, trong đó có Đảng Cộng sản Chile. Vì vậy, Đảng Cộng sản Chile cũng thúc đẩy nâng cao sức chiến đấu của mình; quan tâm học hỏi mô hình Việt Nam, nhất là những giải pháp phù hợp với thực tiễn Chile.

Chủ tịch Lautaro Carmona Soto cho biết đối với Chile dù là đảng  phái nào cũng đều ủng hộ mối quan hệ hợp tác trên các lĩnh vực giữa hai nước vì Việt Nam là đất nước tuyệt vời, được lãnh đạo bởi Đảng Cộng sản, luôn thể hiện đường lối đối ngoại hòa bình, hợp tác, vì lợi ích của nhân dân hai nước./.

Tổng Bí thư Tô Lâm điện đàm với Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump

 Tổng Bí thư Tô Lâm chúc mừng ông Donald Trump đã được bầu là Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ và đánh giá cao những đóng góp của Tổng thống đắc cử trong quá trình phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ.

Tối 11/11/2024, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã điện đàm với Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump.

Tổng Bí thư Tô Lâm điện đàm với Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump. (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN)

Tổng Bí thư Tô Lâm chúc mừng ông Donald Trump đã được bầu là Tổng thống thứ 47 của Hoa Kỳ và đánh giá cao những đóng góp của Tổng thống đắc cử trong quá trình phát triển của quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ. Tổng Bí thư Tô Lâm trao đổi với Tổng thống đắc cử Donald Trump về những kết quả tích cực của quan hệ Đối tác Chiến lược Toàn diện Việt Nam - Hoa Kỳ trong thời gian qua. Việt Nam sẵn sàng thúc đẩy quan hệ  hai nước phát triển ổn định, lâu dài vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững của khu vực và trên thế giới. Tổng Bí thư Tô Lâm cũng trao đổi với Tổng thống đắc cử Donald Trump về một số phương hướng lớn nhằm tăng cường quan hệ kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước trong các lĩnh vực hai bên có thế mạnh và nhu cầu.

Tổng Bí thư Tô Lâm điện đàm với Tổng thống đắc cử Hoa Kỳ Donald Trump (Nguồn: vtvgo.vn) 

Tổng thống đắc cử Donald Trump vui mừng một lần nữa có dịp trao đổi với Tổng Bí thư và chuyển lời chào đến nhân dân Việt Nam. Ông Donald Trump cũng bày tỏ vui mừng về sự phát triển tốt đẹp của quan hệ hai nước, khẳng định sự coi trọng quan hệ với Việt Nam và hợp tác kinh tế Việt Nam - Hoa Kỳ, đề cập một số lĩnh vực hợp tác kinh tế, thương mại mà Hoa Kỳ quan tâm và mong muốn thúc đẩy. Tổng thống đắc cử Donald Trump tin tưởng rằng quan hệ hữu nghị giữa hai nước sẽ tiếp tục phát triển. Ông chia sẻ những ấn tượng tốt đẹp về nhân dân Việt Nam, nhắc lại kỷ niệm với đất nước, con người Việt Nam qua 2 chuyến thăm trước đây. Ông Donald Trump cũng đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng người Việt tại Hoa Kỳ.    

Nhân dịp này, Tổng Bí thư Tô Lâm mời Tổng thống đắc cử Donald Trump thăm lại Việt Nam. Tổng thống đắc cử Donald Trump vui vẻ nhận lời và mời Tổng Bí thư Tô Lâm sang thăm lại Hoa Kỳ vào thời gian thích hợp./.


Thúc đẩy quan hệ đoàn kết đặc biệt, mẫu mực, thủy chung Việt Nam - Cuba

 Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tin tưởng, với những tình cảm tốt đẹp, kỷ niệm sâu sắc về đất nước và con người Việt Nam, dù trên cương vị nào, Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen cũng sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt, mẫu mực, thủy chung giữa Việt Nam và Cuba.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn tiếp Đại sứ Đặc mệnh toàn quyền nước Cộng hòa Cuba Orlando Nicolás Hernández Guillén đến chào từ biệt nhân dịp kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam. (Ảnh: Doãn Tấn/TTXVN) 

Sáng 13/11, tại Nhà Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã tiếp Đại sứ Cuba tại Việt Nam Orlando Nicolas Hernandez Guillen đến chào từ biệt nhân dịp kết thúc nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam.

Chủ tịch Quốc hội bày tỏ vui mừng gặp Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen tại Nhà Quốc hội; chúc mừng Đại sứ hoàn thành tốt nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam; đánh giá cao vai trò quan trọng của Đại sứ đóng góp tích cực vào quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế - xã hội, văn hóa giữa hai nước thời gian qua.

Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh, Việt Nam luôn ghi nhớ sự giúp đỡ chí nghĩa, chí tình cả về tinh thần và vật chất của Cuba dành cho Việt Nam trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Đây là mối quan hệ đặc biệt với sự tin cậy chính trị cao, luôn là hình mẫu trong quan hệ quốc tế giữa Việt Nam và Cuba.

Thông qua Đại sứ, Chủ tịch Quốc hội gửi lời chia buồn và thăm hỏi đến lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhân dân Cuba về những ảnh hưởng nặng nề của 2 cơn bão Oscar (ngày 20/10), cơn bão Rafael (ngày 7/11) và trận động đất ở khu vực miền Đông Cuba (ngày 10/11) gây ra.

Chủ tịch Quốc hội cho biết, vừa qua, cơn bão số 3 (Yagi) cũng gây thiệt hại nặng nề tại 26 tỉnh, thành phía Bắc của Việt Nam với 318 người chết, 26 người mất tích, hơn 1900 người bị thương; thiệt hại kinh tế khoảng 81.000 tỷ đồng; giảm tăng trưởng GDP năm 2024 khoảng 0,15%. Tuy hai đất nước đều gặp khó khăn do thiên tai và những khó khăn chung do tình hình thế giới biến động nhưng quan hệ Việt Nam - Cuba không ngừng được thúc đẩy, củng cố, tăng cường trao đổi đoàn các cấp và cấp cao của hai nước. Đặc biệt là chuyến thăm cấp Nhà nước tới Cuba của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm vào tháng 9/2024; chuyến công tác tới Cuba của Phó Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Đức Hải vào tháng 9/2024; chuyến thăm làm việc tại Việt Nam của Chủ tịch Quốc hội Chính quyền Nhân dân, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước Cuba Esteban Lazo Hernandez vào đầu tháng 11/2024.

Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen cảm ơn Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn đã dành thời gian tiếp; cảm ơn sự hỗ trợ của Việt Nam dành cho Cuba thời gian qua cũng như những tình cảm chân tình mà Việt Nam luôn dành cho Đại sứ trong suốt nhiệm kỳ công tác; khẳng định bất chấp những khó khăn kinh tế, tác động của lệnh bao vây cấm vận, mối quan hệ giữa Việt Nam - Cuba không ngừng phát triển và đã đạt được nhiều kết quả tích cực. Mối quan hệ giữa hai đảng được củng cố, nhất là chuyến thăm cấp Nhà nước tới Cuba của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm vào tháng 9/2024 là dấu mốc quan trọng trong quan hệ giữa hai nước. Bên cạnh đó, quan hệ hợp tác giữa hai Chính phủ, giữa các bộ, ban, ngành của hai nước cũng phát triển tốt đẹp.

Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen cho rằng, trong tổng thể mối quan hệ chung đó, quan hệ hợp tác giữa Quốc hội Việt Nam và Quốc hội Chính quyền Nhân dân Cuba giữ vững đà phát triển tốt đẹp thể hiện qua việc thường xuyên trao đổi đoàn cấp cao. Đại sứ nhấn mạnh trong thời gian tới, hai cơ quan lập pháp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo lập khuôn khổ pháp lý thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước nói chung, quan hệ hợp tác kinh tế - xã hội giữa các địa phương hai nước nói riêng.

Nhất trí với những đánh giá của Đại sứ về mối quan hệ tốt đẹp giữa Việt Nam - Cuba thời gian qua, Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn cho rằng, hai bên đã ký kết nhiều thoả thuận nhưng điều quan trọng là đánh giá việc triển khai thoả thuận thời gian qua đạt kết quả gì, từ đó bàn giải pháp để triển khai hiệu quả thời gian tới.

Cho rằng Việt Nam - Cuba có nhiều điểm tương đồng về khí hậu, thổ nhưỡng, Chủ tịch Quốc hội mong muốn hai nước tăng cường hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp, năng lượng.

Chủ tịch Quốc hội Trần Thanh Mẫn nhấn mạnh, những kết quả hợp tác tốt đẹp giữa hai nước nói chung và hai Quốc hội nói riêng không thể thiếu sự đóng góp quan trọng của Đại sứ và tập thể cán bộ, nhân viên Đại sứ quán Cuba tại Việt Nam; tin tưởng, với những tình cảm tốt đẹp, kỷ niệm sâu sắc về đất nước và con người Việt Nam, dù trên cương vị nào, Đại sứ Orlando Nicolas Hernandez Guillen cũng sẽ tiếp tục đóng góp tích cực vào việc thúc đẩy quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt, mẫu mực, thủy chung giữa Việt Nam và Cuba.

Qua Đại sứ, Chủ tịch Quốc hội gửi lời hỏi thăm sức khỏe tới Bí thư thứ nhất, Chủ tịch nước Cuba Miguel Diaz Canel Bermudez, Đại tướng Raul Castro và chuyển lời chào tới Chủ tịch Quốc hội Cuba Esteban Lazo Hernandez./.

Tiếp tục nhận thức sâu sắc tầm nhìn kỷ nguyên mới

 Để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội, Tổng Bí thư Tô Lâm cho rằng, sau 12 lần chỉnh sửa, Báo cáo đã đạt yêu cầu để trình ra Bộ Chính trị và nhấn mạnh, tiếp tục nhận thức sâu sắc tầm nhìn kỷ nguyên mới và quyết tâm thực hiện hai mục tiêu 100 năm...

 Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì làm việc với Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIV của Đảng. Ảnh: TTXVN.

Ngày 13/11, tại Trụ sở Trung ương Đảng, Tổng Bí thư Tô Lâm đã chủ trì làm việc với Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIV của Đảng.

Tại buổi làm việc, đồng chí Phạm Minh Chính, Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ, Trưởng Tiểu ban Kinh tế- Xã hội và đồng chí Nguyễn Chí Dũng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Thường trực Tiểu ban, Tổ trưởng Tổ Biên tập Kinh tế - Xã hội trình bày báo cáo về quá trình bổ sung, hoàn thiện Dự thảo Báo cáo đánh giá 5 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2026 - 2030 (gọi tắt là Báo cáo kinh tế - xã hội) từ sau Hội nghị Trung ương 10 đến nay, Báo cáo về một số kịch bản tăng trưởng kinh tế cao năm 2025 và giai đoạn 2026 - 2030.

Phát biểu kết luận buổi làm việc, Tổng Bí thư Tô Lâm ghi nhận, đánh giá cao nỗ lực của Tiểu ban Kinh tế - Xã hội (đứng đầu là đồng chí Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính) đã làm việc với tinh thần trách nhiệm cao, có tư duy đổi mới, đột phá mạnh mẽ, phát huy được trí tuệ tập thể để xây dựng dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội; đồng thời, chủ động, tích cực phối hợp với các Tiểu ban xây dựng Văn kiện, bảo đảm sự nhất quán các nội dung văn kiện trình Đại hội trên nguyên tắc Báo cáo chính trị là báo cáo trung tâm, Báo cáo kinh tế - xã hội là báo cáo chuyên đề, có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định đến việc hiện thực hóa các mục tiêu, quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế - xã hội. Với tầm vóc của Đại hội XIV của Đảng, các dự thảo Văn kiện, trong đó có Báo cáo kinh tế - xã hội phải tiếp tục "nâng tầm" hơn nữa.

Tổng Bí thư làm việc với Tiểu ban Kinh tế - Xã hội Đại hội XIV của Đảng (Nguồn: vtvgo.vn)

Theo đó, để tiếp tục hoàn thiện dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội, Tổng Bí thư cho rằng, sau 12 lần chỉnh sửa, Báo cáo đã đạt yêu cầu để trình ra Bộ Chính trị và nhấn mạnh, tiếp tục nhận thức sâu sắc tầm nhìn kỷ nguyên mới và quyết tâm thực hiện hai mục tiêu 100 năm (Mục tiêu trước mắt năm 2030 là kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng và trở thành một nước phát triển công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước, trở thành nước xã hội chủ nghĩa phát triển có thu nhập cao) mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã xác định để rà soát, bổ sung, hoàn thiện Dự thảo Báo cáo; bảo đảm Báo cáo thực sự như "Chương trình hành động", phải thể hiện tinh thần của cả hệ thống chính trị, phải khởi xướng, phát động được phong trào, khí thế mới trong xây dựng, phát triển đất nước, trong cán bộ, đảng viên và mọi tầng lớp nhân dân, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc là trên hết, trước hết, phấn đấu xây dựng nước Việt Nam hòa bình, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

Tổng Bí thư nêu rõ, thống nhất quan điểm phát triển nhanh nhưng phải bền vững, tăng trưởng cao nhưng phải đảm bảo ổn định vĩ mô, hài hòa giữa phát triển kinh tế với văn hóa, xã hội và bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh; cần bám sát mục tiêu năm 2030, 2045 để xây dựng kịch bản tăng trưởng từng năm, từng giai đoạn, từng lĩnh vực ở mức cao nhất có thể để nỗ lực phấn đấu thực hiện. Phải đặt con người ở vị trí trung tâm, là chủ thể, nguồn lực quan trọng nhất và mục tiêu của sự phát triển; lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, động lực, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Mọi chủ trương, chính sách đều phải xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của Nhân dân; lấy hạnh phúc và ấm no của Nhân dân là mục tiêu phấn đấu.

 Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu chỉ đạo. Ảnh: TTXVN.

Tổng Bí thư yêu cầu, cần phải có nỗ lực lớn, có giải pháp đột phá, đi tắt đón đầu, rút kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển đất nước và các nước phát triển đi trước, lường trước được khó khăn, những biến số không thuận lợi, tận dụng được thời cơ vàng, không để lãng phí cơ hội của giai đoạn hiện nay; xác định được những phương hướng, nhiệm vụ có tính lâu dài, căn bản để tạo nền tảng đạt được mức tăng trưởng cao và duy trì trong dài hạn. Đặc biệt, quan tâm đổi mới, hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế phát triển nói chung, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nói riêng, coi đây là đột phá quan trọng nhất để khơi thông các điểm nghẽn, giải phóng mọi nguồn lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thông minh; tập trung thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo; phát triển nhanh các mô hình kinh tế mới, đẩy mạnh chuyển đổi số toàn diện trong mọi lĩnh vực kinh tế, xã hội, quản trị nhà nước…

Đánh giá, các ý kiến của các thành viên Tiểu ban Kinh tế - Xã hội là rất phong phú, mang nhiều giá trị thực tiễn, Tổng Bí thư đề nghị các đồng chí Thường trực Tiểu ban và Thường trực Tổ Biên tập nghiêm túc nghiên cứu, tiếp thu các ý kiến xác đáng để tiếp tục hoàn thiện, nâng tầm Dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội với hàm lượng trí tuệ và tính thực tiễn cao; trên cơ sở đó xây dựng bản tóm tắt Dự thảo Báo cáo kinh tế - xã hội với các nội dung cốt lõi, các điểm mới mang tính nổi bật, đột phá đã được thống nhất, trình Bộ Chính trị xem xét, trước khi gửi đại hội đảng bộ cấp cơ sở thảo luận, góp ý, tạo sự quan tâm, hưởng ứng, đồng thuận của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng./.

Kỷ nguyên vươn mình của Việt Nam trong thời đại mới

 Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 khóa XIII vừa qua thống nhất khẳng định Việt Nam bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Để vươn mình thành công, rất cần thống nhất nhận thức, niềm tin; sáng tỏ tầm nhìn, chiến lược và nỗ lực hành động của toàn Đảng, toàn dân.

Kỷ nguyên thường được hiểu là một thời kỳ lịch sử trong tiến trình phát triển của quốc gia dân tộc mà ở đó các mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược được hoàn thành, được đánh dấu bằng những sự kiện tạo ra bước ngoặt vận động, mở ra trang sử mới. Mỗi kỷ nguyên, trước hết, do các yếu tố trong nước quyết định; đồng thời, chịu sự tác động của các chuyển động mang tính thời đại diễn ra trên thế giới.

Kỷ nguyên độc lập, tự do       

Đối với Việt Nam, một kỷ nguyên mới đã được mở ra năm 1945. “Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do”, như Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vạch rõ[1]. Từ một thuộc địa không có tên trên bản đồ thế giới, một chế độ phong kiến lạc hậu ở phương Đông, Việt Nam tuyên ngôn với toàn thế giới vị thế là quốc gia độc lập có chủ quyền, một chế độ của nhân dân lao động. Lãnh tụ Hồ Chí Minh đã khắc họa kỷ nguyên mới huy hoàng của dân tộc trong bản Tuyên ngôn độc lập: “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa”[2].

 Ảnh minh họa, nguồn VOV 

Để giữ vững độc lập, tự do trong kỷ nguyên mới, quân và dân Việt Nam đã phải tiến hành các cuộc kháng chiến trường kỳ, chiến đấu gian khổ, hy sinh to lớn và thắng lợi vẻ vang trước các thế lực thực dân, đế quốc đầu sỏ và phản động quốc tế; đồng thời, phải nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đến mùa Xuân năm 1975, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của kỷ nguyên độc lập, tự do đã được hoàn thành trọn vẹn. Thắng lợi của Việt Nam không chỉ có ý nghĩa vĩ đại đổi với quốc gia dân tộc, mà còn mang tầm vóc thời đại cao cả, thời đại của hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.

Kỷ nguyên đổi mới và phát triển

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khởi xướng đường lối và ngay sau đó là công cuộc đổi mới đất nước nhằm khắc phục những hạn chế, sai lầm cả về lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, khắc phục khủng hoảng kinh tế - xã hội và đưa đất nước đi lên. Với dũng khí nhìn thẳng vào sự thật, tôn trọng quy luật khách quan, bám sát điều kiện cụ thể, hàng loạt chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, khoa học, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… đúng đắn, phù hợp đã được ban hành và đi vào cuộc sống. Nhờ vậy, chỉ sau 10 năm (1986 - 1996), Việt Nam đã khắc phục được khủng hoảng, giữ vững chế độ xã hội chủ nghĩa và bước vào thời kỳ phát triển mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngay trong bối cảnh không còn Liên Xô, không còn hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới.

Đến năm 2010, với thu nhập bình quân đầu người vượt mốc 1.000 USD/năm, Việt Nam ra khỏi tình trạng chậm phát triển, đứng vào danh sách các nước có thu nhập trung bình trên thế giới. Sự kiện này chấm dứt hàng trăm, hàng nghìn năm nghèo nàn, lạc hậu, mở ra trang sử mới về chất cho quốc gia dân tộc Việt Nam. Đến nay, sau gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã trở thành một trong 40 nền kinh tế có quy mô GDP hàng đầu thế giới, một trong 20 thị trường ngoại thương lớn nhất toàn cầu, quốc gia hàng đầu về Chỉ số phát triển con người (HDI), về đổi mới sáng tạo… trong nhóm các nước cùng trình độ phát triển kinh tế; đã là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, chủ động trong cộng đồng quốc tế; đã trở thành dẫn chứng không thể thiếu trên nhiều lĩnh vực phát triển của thế giới ngày nay. Chưa bao giờ đất nước có cơ đồ, vị thế, sức mạnh và uy tín quốc tế như ngày nay[3].

Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc

Thành tựu mang tầm vóc thời đại của kỷ nguyên độc lập, tự do và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của kỷ nguyên đổi mới và phát triển tạo ra tiền đề vững chắc cho Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đã vạch ra mục tiêu vươn mình đến năm 2045, Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao.

Có nhiều tiêu chí để xác định trình độ của một quốc gia phát triển. Theo chuẩn hiện hành, thế giới ngày nay có 38 quốc gia thành viên Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) được xem là các nước phát triển, bao gồm các nước G7, các nước công nghiệp hóa mới và một số quốc gia khác có nền sản xuất công nghiệp hiện đại[4]. Để trở thành quốc gia phát triển, trước hết phải là một nước công nghiệp hóa, có nền sản xuất công nghiệp tiên tiến, xã hội hiện đại, văn minh và thu nhập bình quân tính theo đầu người ở mức cao, trên 12.050 USD/năm.

Việc vạch ra mục tiêu đến năm 2045 Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, thu nhập cao là có đầy đủ căn cứ. Đó là sức mạnh tổng hợp quốc gia được tạo ra từ các thời kỳ trước, nhất là trong quá trình đổi mới. Đó là kinh nghiệm của các nước đi trước, chỉ trong vòng 2-3 thập kỷ công nghiệp hóa thành công họ đều trở thành các quốc gia phát triển. Đó là cơ hội mới do bước ngoặt vận động của thế giới đem lại cho các nước đi sau có thể về đích sớm. Đó là động lực tinh thần to lớn của hơn 100 triệu người Việt Nam quyết tâm thực hiện khát vọng Hồ Chí Minh xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”, “sánh vai với các cường quốc năm châu”…

Những chiến lược cần thiết, cấp bách

Tầm nhìn và mục tiêu vươn mình của dân tộc đã sáng tỏ, vấn đề đặt ra là phải kịp thời có các chiến lược thực hiện kịp thời, khả thi.

Trước hết là chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong bối cảnh đã xuất hiện cách mạng công nghiệp lần thứ tư và quá trình toàn cầu hóa diễn ra ngày càng mạnh mẽ. Công nghiệp hóa là nội dung cốt lõi của phát triển và hiện đại hóa ngày nay, quyết định trình độ phát triển của mỗi quốc gia dân tộc; đồng thời, tạo ra các tiền đề cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Các nhà kinh điển đã từng khẳng định, chủ nghĩa xã hội chỉ có thể chiến thắng, suy cho cùng, bằng năng suất lao động và trình độ xã hội hóa lực lượng sản xuất, đều do công nghiệp hóa tạo ra.


PGS TS Nguyễn Viết Thảo, Ủy viên Hội đồng Lý luận Trung ương, nguyên Phó Giám đốc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (Ảnh: VOV)

Do nhiều nguyên nhân, Việt Nam không có điều kiện tham gia ba cuộc cách mạng công nghiệp trước kia; bởi vậy, các chính sách công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay phải tích hợp đáp ứng các yêu cầu đa dạng của ba trình độ sản xuất công nghiệp đã qua là cơ khí hóa, điện khí hóa và tin học hóa; đồng thời, phù hợp với trình độ số hóa của nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Mặt khác, thế giới ngày nay về cơ bản là một thị trường tự do toàn cầu, được cấu tạo và vận hành bởi chuỗi giá trị toàn cầu, không còn nhiều ranh giới, khác biệt giữa thị trường quốc nội và thị trường quốc tế. Bởi vậy, các mô hình công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, hướng xuất khẩu hoặc hỗn hợp vừa hướng xuất khẩu và thay thế nhập khẩu đều không còn chỗ đứng. Việt Nam cần hoạch định chiến lược đúng đắn, trong đó phải sáng rõ mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phù hợp, xác định trúng những mũi nhọn công nghiệp hóa của đất nước.

Thứ hai là chiến lược phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo. Trước kia, Đảng đã xác định đường lối tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt. Ngày nay, phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo nhất thiết phải là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu. Không quốc gia nào trở thành quốc gia phát triển mà không có khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo ở trình độ cao. Việt Nam phải có một số mũi nhọn khoa học công nghệ, nhất là khoa học ứng dụng và năng lực đổi mới sáng tạo. Tập trung vào một số mũi nhọn gì cụ thể? Đây là vấn đề cơ bản nhất, cần nghiên cứu thận trọng nhưng phải xác định kịp thời.

Thứ ba là chiến lược phát triển nhanh và bền vững. Phát triển nhanh đòi hỏi tốc độ cao trong tăng trưởng kinh tế, gia tăng sản xuất - kinh doanh, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực và trên thế giới. Phát triển bền vững đòi hỏi hiệu quả và năng suất lao động cao, không tăng đầu tư, nguyên nhiên vật liệu, lao động… nhưng vẫn tăng nhanh sản lượng, chất lượng; không hy sinh công bằng, tiến bộ xã hội, môi trường sinh thái lấy tăng trưởng kinh tế. Phát triển nhanh cần hệ thống chủ trương, chính sách riêng biệt và phát triển bền vững cũng cần hệ thống chủ trương, chính sách riêng biệt khác. Bởi vậy, cần có chiến lược phát triển nhanh và bền vững để kết hợp hai hệ thống chủ trương, chính sách ấy trong một chỉnh thể thống nhất, hài hòa.

Nhìn lại lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Việt Nam, gần nhất là lịch sử cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng từ năm 1930, toàn Đảng, toàn dân rất đỗi tự hào về những thắng lợi vẻ vang, trong đó có không ít kỳ tích vươn mình, biến điều tưởng như không thể trở thành có thể. Thế giới ngày nay vừa khâm phục Việt Nam Anh hùng trong chiến tranh chống thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc, xây dựng chế độ xã hội mới; vừa trân trọng Việt Nam đổi mới thành công, đem lại cho quốc gia dân tộc nhiều bước tiến vượt bậc, trở thành dẫn chứng sinh động cho các quốc gia đang phát triển vươn lên những tầm cao mới. Phía trước, có nhiều thuận lợi, cơ hội cùng những khó khăn, thách thức đan xen, nhưng một kỷ nguyên mới đã mở ra, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam tới tầm cao của quốc gia phát triển, vững bước trên con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội./.