Chủ Nhật, 5 tháng 1, 2025

NAM CA SĨ ĐƯỢC TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM CHÀO ĐÓN ĐÁNG GỜM THẾ NÀO


Kể từ lần đầu tiên xuất hiện trên Sao Mai Điểm Hẹn 2004, Tùng Dương đã là  một hiện tượng âm nhạc "độc đắc" tại Việt Nam, thu hút được sự chú ý của đông đảo công chúng.


Không chạy theo thị hiếu để hát các dòng nhạc đang được ưa chuộng, hơn 12 năm qua, Tùng Dương vẫn miệt mài đi con đường "độc đạo" để làm nên những kì tích riêng cho bản thân mình. Chính những kì tích đó của Tùng Dương khiến công chúng dù yêu hay ghét, nhưng vẫn nể phục anh.  


Quãng giọng rộng lớn với những nốt cao vút bay


Là một tenor 2 với đặc trưng giọng dày, ấm, có độ full nên Tùng Dương bẩm sinh vốn không có lợi thế về quãng giọng như các tenor 1 (Bùi Anh Tuấn, Bằng Kiều, Trung Quân Idol, Đông Hùng…). Cách đây nhiều năm, Tùng Dương chỉ hát được giọng thật tới A4 và giả thanh tới E5.


Tuy nhiên, vì cũng là fan của các diva lớn nên Tùng Dương luôn nỗ lực luyện tập để mở rộng quãng giọng của mình. Thời gian gần đây, Tùng Dương đã lên giọng thật tới B4 và duy trì giả thanh tới C6 (một nốt khá cao).


Tùng Dương chia sẻ: "Chính bản thân tôi cũng bất ngờ vì đã vượt qua được giới hạn của bản thân để hát tới những nốt nhạc này".


Về quãng trầm, chúng tôi đã liên lạc với Tùng Dương và được biết, anh có thể xuống tới A2 (một nốt rất trầm) khi ca hát. Ngoài ra, Tùng Dương còn có thể hát thoải mái và hỗ trợ tốt trên quãng 3 (từ C3 tới A#3).


Như vậy, quãng giọng của Tùng Dương hiện nay là 3 quãng tám 2 nốt (từ A2 tới C6) và có triển vọng tiếp tục mở rộng. Đây là quãng giọng khá rộng so với mặt bằng chung của các nam ca sĩ nhạc nhẹ tại Việt Nam.


Đặc biệt, chưa có nam ca sĩ Bolero nào đạt tới quãng giọng này trong ca hát.


Giọng mộc hiếm thấy của một "bông hồng lai"


Ở Việt Nam, chủ yếu các giọng nam cao là tenor 1 nên bản thân giọng tenor 2 của Tùng Dương đã ít thấy hơn. Nó đặc trưng bởi độ dày, màu giọng tối và nặng, phát triển mạnh ở âm khu trung trầm do lai giữa nam cao và nam trung.


Nhiều người thường nhầm lẫn rằng Tùng Dương là giọng nam trung (baritone). Tuy nhiên, anh lại có thể dễ dàng vượt passagio (quãng chuyển) để lên những note cao, với âm sắc sáng hơn nam trung thông thường (như Tuấn Ngọc).


Như vậy, có thể thấy, Tùng Dương "ôm trọn" lợi thế của cả nam cao lẫn nam trung do sở hữu loại giọng lai đặc biệt này. Anh có thể hát tốt quãng trầm, trung với màu giọng dày, tối, nhưng cũng vươn tới quãng cao sáng đẹp.


Xét về ngũ cung, thời gian đầu đi hát, Tùng Dương là giọng kim, nên cũng như bao nam cao khác, giọng anh khá sáng, hơi chói do có tính kim khí. 


Tuy nhiên, những năm gần đây, anh chuyển sang giọng mộc – một loại giọng hiếm gặp hơn. Đặc trưng của loại giọng này là có độ xốp và đậm tính airy voice (âm hơi). Một trong những diva nổi tiếng sở hữu giọng mộc là Mariah Carey.


Quá trình chuyển hóa sang giọng mộc khiến Tùng Dương không còn hát được những note cao đanh, sắc như trước đây. Tuy nhiên, thay vào đó là một giọng hát ấm áp, ngọt ngào, mềm mại và đầy đặn hơn, thích hợp để thể hiện những bản tình ca sâu lắng.


Đó là lí do vì sao trong nhiều năm gần đây, Tùng Dương hát tình ca và nhạc xưa rất hay. Mỗi khi anh hát đều có airy voice tỏa ra như hơi thở, nghe nồng nàn, da diết và đằm thắm hơn nhiều.


​Điều đáng nói là Tùng Dương không lợi dụng airy voice để rên rỉ Ballad mà sử dụng nó để tạo nên chất nhạc dân gian đương đại riêng của mình khi hát Pop. Những tiếng thở luôn được chêm xen như lời thủ thỉ, tâm tình vào các ca khúc của anh, mà vẫn hòa quyện với nhạc tính.


​Airy voice được Tùng Dương kiểm soát rất tốt trên quãng trầm. Chẳng hạn như trong ca khúc Chút nắng vàng bay, chữ "nụ hoa" được anh thả airy trên quãng trầm G3 rất liêu trai.


Kĩ thuật luyến láy đầy ngẫu hứng của một người không hát Bolero


Tùng Dương không thể luyến láy mùi mẫn theo kiểu Bolero, nhưng anh lại có thể luyến láy chạy nốt ngẫu hứng đậm tính R&B.


Ai tìm hiểu về dòng nhạc Gospel/R&B cũng đều biết melisma/run/riff (gọi đơn giản theo tiếng Việt là kĩ thuật luyến láy, chạy nốt trong ca hát của người da màu). Chúng không chỉ là kĩ thuật, mà còn là thứ nghệ thuật ca hát gắn liền với tên tuổi của những diva lớn như Whitney Houston, Mariah Carey, Aretha Franklin, Toni Braxton, Lisa Fischer, Beyonce… tạo nên trường phái riêng trong âm nhạc.


Ngày nay, melisma/run/riff đã phổ biến trên toàn thế giới, ở nhiều dòng nhạc khác nhau, được đông đảo nghệ sĩ sử dụng.


Âm nhạc Việt Nam, vốn đi sau thế giới khá lâu, nên không nhiều ca sĩ ý thức được việc sử dụng melisma/run/riff trong ca hát và biến nó thành nghệ thuật. Rất may mắn khi chúng ta có Tùng Dương, người đã tự ý thức và ăn sâu nó vào máu, để đưa vào âm nhạc một cách tinh tế.


Ca khúc Chút nắng vàng bay của Tùng Dương là một điển hình về việc áp dụng luyến láy và chạy nốt vào ca hát một cách tinh tế, biến nó thành nghệ thuật công phu.


Có thể thấy, trong ca khúc này, Tùng Dương sử dụng rất nhiều melisma/run/riff, từ thấp tới cao, giọng ngực tới giả thanh, luyến láy liên tục ở cả những đoạn phiêu ngẫu hứng lẫn nhả chữ. Nhưng rõ ràng người nghe không hề thấy mệt, ngán mà vẫn cảm nhận được một sự du dương, nhẹ nhàng, thoang thoảng không khí đồng quê đâu đây.


Ngoài ca khúc Chút nắng vàng bay, Tùng Dương còn áp dụng melisma vào rất nhiều bài hát khác của mình. Thậm chí, anh còn dám dùng kĩ thuật Tây phương này cho tượng đài nhạc Trịnh – vốn đóng đinh với tính mộc mạc, ít phức tạp.


Chẳng hạn, trong một lần trình diễn ca khúc Xin cho tôi vừa qua, Tùng Dương đã mạo hiểm sử dụng luyến láy.


Ở hai lần hát chữ "rồi từ đâu", Tùng Dương chạy vocal runs rất khớp nhịp nhạc đang dồn lên, lại kết hợp với độc chiêu cộng minh tích hợp hai vị trí, từ xoang mặt chạy lên đỉnh trán, tạo nên thứ âm thanh vang rền đầy sử thi và thể hiện một sự cảm nhạc chắc chắn. 


Đây là kĩ thuật khó, phải rèn luyện rất lâu. Tiếp đó, anh thực hiện run/riff trên giả thanh và "lên đồng" đầy bão tố.


Từ các đoạn cộng hưởng vocal runs và luyến láy run/riff này, người nghe thấy đâu đó một bóng dáng Whitney Houston đang hát nhạc Trịnh, bởi chỉ Whitney mới có lối hát R&B sử thi, ngẫu hứng, lên đồng thế này.


Như vậy, Tùng Dương có lẽ là nam ca sĩ sử dụng melisma/run/riff tốt nhất Việt Nam từ trước tới nay. Đây là thành quả của việc học hỏi từ các nghệ sĩ quốc tế, chứ không chỉ dựa vào kiến thức trường lớp.


Thành quả này cũng chính là câu trả lời cho việc Tùng Dương phát ngôn "già trẻ, lớn bé đổ xô hát Bolero là sự thụt lùi". Trong quan điểm của mình, anh cho rằng, khi cứ quanh quẩn với các dòng nhạc cũ thì khó lòng học hỏi, tiếp thu cái mới trong ca hát để sáng tạo vào nhạc Việt.


Khả năng cộng hưởng âm thanh như sấm rền


Một trong những khả năng nổi trội của Tùng Dương là cộng hưởng âm thanh để tạo độ vang cho giọng hát. 


Có thể nói, rất ít nam ca sĩ nhạc nhẹ ngày nay đạt tới độ vang lớn như anh. Đây là kết quả của việc học hành bài bản thanh nhạc chính thống trên trường lớp và tự đúc kết từ các diva như Thanh Lam, Whitney Houston.


Nếu ai tiếp xúc với Tùng Dương sẽ thấy giọng bẩm sinh của anh không quá to mà vừa phải, mềm ấm. Thế nhưng, khi vươn lên nốt cao, Tùng Dương có thể đạt mức âm lượng lớn và cộng hưởng vang dội, nổi trên dàn nhạc và các ca sĩ khác.


Cách hỗ trợ vang của Tùng Dương là lấy hơi từ đan điền, tập trung thật nhiều phần tử khí vào cơ hoành để phóng lên xoang mặt, cộng hưởng âm thanh tại vùng mặt nạ (mask), nói ngắn gọn là vang mặt (mask resonance).


Nghe thì đơn giản, nhưng để có được cơ hoành chắc khỏe và đẩy được vị trí âm thanh chính xác như vậy cần mất khá nhiều năm.


Không những vậy, dù là giọng tenor 2, bị hạn chế về quãng cao hơn tenor 1 (như Thanh Bùi, Bằng Kiều, Bùi Anh Tuấn...), Tùng Dương vẫn có thể nhả chữ trên quãng treo liên tục như cách anh làm để nhả A4 ở các âm tiết đóng "em", "hôn", "chia" trong màn song ca Chia tay hoàng hôn cùng Thanh Lam.


Đặc biệt, âm "em" dù được nhả rất nhanh nhưng vẫn kèm được vibrato tần số cao, đóng mà vẫn cộng hưởng.


Điều đáng nói là, dù nhả chữ nhanh liên tục trên quãng treo, nhưng Tùng Dương hát rất chính xác, không bị cao thanh quản, dính cổ (throaty) hay nasal (giọng mũi), strain (căng thẳng), vẫn khá mở cổ và vang dội. Điều này cho thấy kĩ thuật nền của anh phải vững từ quãng trung rồi mới đẩy lên cao.


Tùng Dương cho biết, ở quãng trung, anh chọn cách cộng hưởng âm thanh từ vị trí xoang mặt lên đỉnh trán để tạo độ rền lớn, nổi trên dàn nhạc, nên nghe rất hào sảng, phóng ra rất xa và đậm tính sử thi. Cách hát này rất thích hợp để hát thính phòng với dàn nhạc cổ điển.


Cách cộng hưởng độ vang của Tùng Dương không thích hợp với Bolero, nhưng lại phù hợp với chuẩn thanh nhạc chung của thế giới, giúp anh tiến xa hơn trên con đường âm nhạc của mình.


"Con tắc kè hoa" biến hóa đa dạng


Giọng hát của Tùng Dương tuy không thích hợp với Bolero, nhưng lại đa màu sắc và hát được nhiều dòng nhạc khác nhau. Đây là kết quả của việc rèn luyện, học hỏi lâu dài để nâng cao thẩm mỹ, tư duy âm nhạc của mình và tiếp thu được nhiều cách hát, kĩ thuật hát khác nhau.


Bình thường, Tùng Dương hát tình ca rất ấm áp, trữ tình. Nhưng khi hát dân gian đương đại, anh lại hóa thân một cách ma mị, quái tính đến bất ngờ.


Ngược lại, ở Soul/R&B, Tùng Dương trở nên đầy ngẫu hứng với những chuỗi run/riff phức tạp, đầy nhạc tính.


Không những thế, Tùng Dương còn có thể bùng nổ đầy mạnh mẽ, rực cháy khi hát Rock. Dù không phải một rocker chính hiệu, nhưng anh vẫn đủ sức "quẩy" tung sân khấu và khiến khán giả phải cuồng loạn theo mình.


Tùng Dương khiến khán giả bùng cháy với Rock


Và dám chơi trội hát Rock với dàn nhạc giao hưởng cổ điển


Với những phẩm chất và năng lực đặc biệt trên, Tùng Dương xứng đáng là một trong những ca sĩ tiên phong hàng đầu của nền âm nhạc Việt Nam đương đại.


 Anh đã dám dấn thân và làm được những điều không phải ai cũng làm được trong nghệ thuật, khiến toàn thể công chúng cũng như giới chuyên môn nể phục.


Long Phạm

 ĐỪNG ĐỂ BỊ LỪA KHI TIẾP CẬN CÁC THÔNG TIN TRÊN TRANG MẠNG

÷÷÷///////÷÷÷

 

Mới đây, trên các trang phản động như Việt Tân đang đăng tải một hình ảnh được cho là bản sao của công trình luận văn tốt nghiệp của tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và cho rằng tổng bí thư của chúng ta chưa tốt nghiệp đại học.Có thể thấy, chúng đang lợi dụng một bản sao để kết luận về bác Trọng một cách xuyên tạc trắng trợn.

Nếu nhìn bằng mắt thường thì ai cũng có thể nhận ra bản sao trên chắc chắn không phải được in vào năm 1967 mà ít nhất cũng phải hơn chục năm sau đó bởi chữ in trên bản sao thuộc nhiều font chữ khác nhau mà thời đó chưa có, chưa kể tới việc đây là chữ in của máy in.

Bên cạnh đó, Việt Tân còn lấy dẫn chứng từ một nguồn mà ai cũng biết là không đáng tin cậy là Wiki, một mã nguồn mở ai cũng có thể chỉnh sửa.Chúng xuyên tạc Gs Khánh được phong Gs năm 1980 thì không thể để trên bản sao là Gs vào năm 1967 được.

Trên thực tế, ngày 11 tháng 9 năm 1976, 29 nhà giáo, nhà khoa học tiêu biểu đã được nhà nước phong hàm giáo sư đầu tiên của Việt Nam, trong đó không có Gs Đinh Gia Khánh. Nhưng đối với bản sao trên, thì việc để học hàm của Gs Đinh Gia Khánh là Giáo sư là điều hoàn toàn bình thường bởi ông đã được phong Gs năm 1980.

Tóm lại, thông tin trên chưa được kiểm chứng và chúng ta có thể thấy nhiều hạt sạn trong luận điệu của các đối tượng, bài viết của chúng sặc mùi quy chụp và một chiều. Mọi người hãy cảnh giác, kiểm chứng thông tin trước khi nghe theo các đối tượng xấu.

 

 

  NGẠI PHÊ BÌNH, GÓP Ý - KHÔNG CHỈ LÀ SUY THOÁI...

 

Thời gian qua, khá nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật và pháp luật, phải xử lý nghiêm khắc. Điều rất đáng báo động là, đa số những người này có vi phạm kéo dài, thậm chí suốt vài năm và với nhiều hành vi, thế nhưng cấp ủy, chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác lại “không biết”, hoặc biết rõ nhưng...“mũ ni che tai”!

 

1. “Ông ấy bây giờ mới bị xử lý là quá muộn”; “Vi phạm lâu rồi, bây giờ cấp trên mới biết thôi”; “Nhiều người trong cơ quan biết sếp vi phạm nhưng sợ “đấu tranh, tránh đâu”...

 

Không ít lần tôi được nghe như thế khi hỏi chuyện những người quen ở cơ quan, đơn vị, địa phương có cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật, pháp luật.

 

Ví dụ thì rất nhiều và có lẽ cũng chẳng cần nêu ra. Chỉ riêng những kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng đến nay đã cho thấy, nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm nghiêm trọng từ lâu, chủ yếu là: Thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, giám sát dẫn đến gây thất thoát lớn tài sản của Nhà nước; suy thoái về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống; mất đoàn kết nội bộ, vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc; vi phạm các quy định trong công tác cán bộ, quản lý đầu tư, xây dựng, sử dụng đất đai, tài chính, tài sản; tham nhũng... Những vi phạm này, không thể nói là các đồng chí trong cấp ủy, ban lãnh đạo và chi bộ, đồng nghiệp cùng công tác với cán bộ, đảng viên đó đều... không biết!

 

Bên cạnh những vi phạm nghiêm trọng, khá nhiều cán bộ, đảng viên có những khuyết điểm, như: Độc đoán, gia trưởng, tham gia tệ nạn xã hội, vi phạm quy định về những điều đảng viên không được làm và trách nhiệm nêu gương đối với cán bộ, đảng viên, người đứng đầu... Đồng chí, đồng đội, nhân viên là những người trực tiếp chịu tác động hoặc được chứng kiến, nhưng vẫn không mạnh dạn góp ý, phê bình!

 

Chính vì không được thẳng thắn góp ý, phê phán nên những cán bộ, đảng viên đó càng “tự tung tự tác”, “cái sảy nảy cái ung”, vi phạm tăng thêm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng.

 

Ngoài những nguyên nhân dẫn đến tình trạng không phê bình, ngại góp ý với đồng chí, đồng đội, đồng nghiệp, nhất là với cấp trên, như: Sợ mất lòng, sợ bị trù dập, quy chụp là gây mất đoàn kết; vì cùng có chung lợi ích; hoặc đơn giản là tâm lý “an phận thủ thường”, sợ bị hiểu sai... thì lâu nay, không ít cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có quan điểm “việc ai nấy làm”, không tham gia vào công việc và cuộc sống của người khác. Sự thờ ơ, vô cảm trước những việc sai trái, biết rõ những sai phạm, khuyết điểm của đồng nghiệp, đồng chí, đồng đội mà không thẳng thắn góp ý, phê bình đã dẫn đến nhiều hệ lụy: Cán bộ, đảng viên tiếp tục vi phạm, làm suy yếu tổ chức, ảnh hưởng sự trong sạch vững mạnh và uy tín của Đảng.  

 

2. “Trong phê bình thì nể nang, né tránh, ngại va chạm, thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh; lợi dụng phê bình để nịnh bợ, lấy lòng nhau...” và “đoàn kết xuôi chiều” là một trong những biểu hiện của sự suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) đã chỉ rõ.

 

Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) của Đảng thẳng thắn đánh giá: Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu, tự phê bình và phê bình, công tác kiểm tra, giám sát của nhiều tổ chức đảng còn hạn chế. Một số cấp ủy, tổ chức đảng chưa thẳng thắn đấu tranh với những biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thậm chí còn cục bộ, lợi ích nhóm...

 

Để thực hiện mục tiêu kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... Hội nghị Trung ương 4 (khóa XIII) đã xác định nhiệm vụ và giải pháp đầu tiên là: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác chính trị, tư tưởng, tự phê bình và phê bình; trong đó nhấn mạnh: “Nâng cao chất lượng sinh hoạt của tổ chức đảng, các tổ chức chính trị-xã hội, nhất là cấp ủy, thường vụ cấp ủy, đề cao và thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình từ Trung ương đến chi bộ, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm, "dĩ hòa vi quý". Kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh ngăn chặn biểu hiện suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa"... Bên cạnh đó, chú trọng công tác tự kiểm tra, tự giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị, kịp thời phát hiện từ nội bộ để chấn chỉnh ngay những vi phạm từ khi mới phát sinh, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành khuyết điểm, sai phạm lớn.

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng với rất nhiều giải pháp, nhưng quan trọng nhất, theo Người, trước hết là phải “Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (bài báo Người viết nhân dịp kỷ niệm 39 năm Ngày thành lập Đảng). Muốn thực hiện được điều này, Người chỉ rõ: “Phải thực hành phê bình và tự phê bình nghiêm chỉnh trong Ðảng. Phải hoan nghênh và khuyến khích quần chúng thật thà phê bình cán bộ, đảng viên. Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc”...

 

Bác Hồ nhấn mạnh “Chế độ sinh hoạt của chi bộ phải nghiêm túc” vì tất cả hoạt động của chi bộ chủ yếu được thông qua sinh hoạt với 3 hình thức: Sinh hoạt lãnh đạo; sinh hoạt học tập; sinh hoạt tự phê bình và phê bình. Mỗi hình thức sinh hoạt có yêu cầu riêng, nhưng đều phải có tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu, trên cơ sở thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, đó là: Tập trung dân chủ; tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; tự phê bình và phê bình.

 

Thế nhưng, tình trạng ngại phê bình, “ngại nói thật” trong sinh hoạt chi bộ và cả sinh hoạt cấp ủy, đảng bộ vẫn khá phổ biến. Đây là nguyên nhân cơ bản làm mất tính chiến đấu trong sinh hoạt đảng, dẫn đến không kịp thời ngăn ngừa những vi phạm của cán bộ, đảng viên, để xảy ra sai phạm kéo dài và nghiêm trọng. Thậm chí, không ít cán bộ, đảng viên có sai phạm mà vẫn được đánh giá hoàn thành tốt nhiệm vụ và đề nghị khen thưởng, bổ nhiệm.

 

Thật đáng buồn khi hầu hết các vụ việc cán bộ, đảng viên vi phạm về đạo đức, lối sống, kỷ luật, pháp luật, nhất là tham nhũng... đều do quần chúng nhân dân, báo chí hoặc cơ quan chức năng cấp trên phát hiện. Trong khi đó, chi bộ, cấp ủy là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện và tiến hành kiểm tra, giám sát, đánh giá cán bộ, đảng viên; người cùng chi bộ, cùng cơ quan thường xuyên gần gũi, công tác, hiểu hết tính cách cũng như những việc làm của nhau-như “cùng nằm trong chăn mà lại... không biết chăn có rận”!?

 

Rõ ràng, việc cần làm ngay là phải quy trách nhiệm, xử lý kỷ luật nghiêm đối với những cán bộ, đảng viên cùng sinh hoạt trong cấp ủy, chi bộ mà không phê bình, góp ý, để đồng chí, đồng đội vi phạm pháp luật, kỷ luật, nhất là với những vi phạm nghiêm trọng, kéo dài (như Bộ luật Hình sự đã quy định tội danh “không tố giác tội phạm” và “che giấu tội phạm”). Bên cạnh đó, cần ban hành quy định bình xét cán bộ, đảng viên theo thang điểm 10 trên từng nội dung, trong đó có tinh thần tự phê bình và phê bình...; đồng thời xếp loại cán bộ, đảng viên trong từng chi bộ theo số thứ tự (từ tốt nhất đến yếu nhất) để tăng tính đấu tranh phê bình trong sinh hoạt đảng, bảo đảm kết quả bình xét thực chất hơn, tránh tình trạng "tạo điều kiện cho nhau cùng ở mức hoàn thành tốt nhiệm vụ”. Có như vậy mới khắc phục được tình trạng “dĩ hòa vi quý”, nể nang, né tránh, thấy sai không đấu tranh.

 

3. “Tôi vô cùng cảm ơn anh đã rất kiên trì, dũng cảm, chân thành góp ý, giúp tôi sửa được tính nóng nảy, gia trưởng, đồng thời biết tôn trọng, lắng nghe cấp dưới. Nếu không, sai lầm của tôi không chỉ dẫn tới hậu quả nghiêm trọng mà tôi còn mất hết tình cảm đồng đội, bạn bè”.

 

Hầu như lần nào làm nhiệm vụ lái xe “tháp tùng” bố đi dự gặp mặt hội truyền thống của đơn vị cũ, tôi cũng được nghe một bác nguyên là trung đoàn trưởng nói với bố tôi như vậy.

 

Chuyện là, thời kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, bố tôi là trợ lý tác chiến trung đoàn. Thấy đồng chí trung đoàn trưởng nóng tính, “quân phiệt miệng”, thường xuyên quát mắng cấp dưới khiến anh em vừa sợ vừa không hài lòng nên trong các cuộc họp chẳng ai ý kiến gì, nhưng khi ra ngoài thì xì xào với nhau; sau hai lần chân thành góp ý nhưng bị trung đoàn trưởng gạt phăng, bố tôi đã định “mặc kệ”. Nhưng một hôm, nghe các tiểu đoàn trưởng và sĩ quan tham mưu bàn tán rằng phương án tác chiến do trung đoàn trưởng quyết định không hợp lý, dễ bị thất bại, bố tôi cũng thấy như vậy nên quyết định phải ý kiến với thủ trưởng.

“Được nhận” những lời khó nghe, bố tôi ức chảy nước mắt, chạy về hầm. Không thể để một quyết định nặng tính chủ quan, sai lầm có thể dẫn đến “nướng quân”, bố tôi quyết tâm viết thư gửi trung đoàn trưởng. Lá thư đó rất dài, ngoài nêu những bất hợp lý của phương án tác chiến còn góp ý riêng với thủ trưởng cần bỏ tính gia trưởng, “quân phiệt miệng” khiến cấp dưới ức chế và không thể phát huy dân chủ trong đơn vị, thậm chí cán bộ, chiến sĩ chán nản... Cuối thư, bố tôi mạnh dạn viết: Nếu trung đoàn trưởng không tiếp thu phê bình và chỉnh sửa thì tôi sẽ viết thư gửi chỉ huy sư đoàn. Còn nếu tôi sai thì tôi xin hoàn toàn chịu kỷ luật!

Thật may, lá thư này đã khiến đồng chí trung đoàn trưởng thay đổi. Ông gọi bố tôi lên nói lời cảm ơn...

 

“Phê bình cho đúng để trị bệnh cứu người” là tư tưởng có tính nhân văn rất sâu sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người chỉ rõ: Khuyết điểm cũng như chứng bệnh. Phê bình giống như uống thuốc. Nếu sợ phê bình thì cũng khác nào có bệnh mà giấu bệnh, không dám uống thuốc. Như vậy thì bệnh tình lại càng nặng thêm. Do vậy, đối với đảng viên, cán bộ mà nể nang không phê bình, để cho đồng chí mình cứ sa vào lầm lỗi, đến nỗi hỏng việc thì khác nào thấy đồng chí mình ốm mà không chữa cho họ... Biết người ta sai mà không nói cho người ta sửa tức là hại người. Tự phê bình và phê bình phải xuất phát từ tình đồng chí, thương yêu lẫn nhau. Càng yêu thương thì càng phải thẳng thắn phê bình, có như vậy mới thực sự giúp nhau tiến bộ.

 

Cổ nhân cũng đã đúc rút: Những người chân thành, mạnh dạn phê bình bạn chính là người bạn tốt và điều gì xuất phát từ trái tim sẽ đi tới được trái tim. Ngược lại, những ai biết rõ bạn đang làm sai mà không khuyên can thì đó chính là người xấu.

 

Có thể khẳng định, việc chân thành, thẳng thắn phê bình, góp ý không chỉ là yêu cầu có tính nguyên tắc trong sinh hoạt đảng và các tổ chức thuộc hệ thống chính trị mà còn thể hiện tình người sâu sắc, nhân văn. Việc biết đồng chí, đồng đội đang mắc khuyết điểm, lầm đường lạc lối mà vẫn “mũ ni che tai” chính là làm hại tổ chức và đồng chí, đồng đội. “Tội” này cần phải kiên quyết đấu tranh, phê phán, cả trong công tác và trong cuộc sống đời thường.

 

 

  CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN KhÔNG THỂ LỖI THỜI 

 

 Hầu hết những người phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn thường lập luận, thế giới ngày nay đã phát triển vượt bậc, mọi thứ đều đã khác, hệ thống tư bản chủ nghĩa đã thay đổi nhiều đến mức không còn nhận biết được so với hệ thống tư bản chủ nghĩa thời C.Mác nghiên cứu, do đó chủ nghĩa Mác - Lênin đã lạc hậu, tư tưởng của C.Mác không còn phù hợp! Nhưng những lời chống đối ấy đã cố tình lờ đi sự thật là: Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự phê phán sâu sắc nhất, khoa học nhất đối với những bất công, bất bình đẳng. Đó là hệ tư tưởng phản biện duy nhất đã và đang làm thay đổi thế giới theo hướng ngày càng công bằng và tốt đẹp hơn. Cũng có nghĩa, chừng nào xã hội hiện đại còn có những bế tắc, khủng hoảng thì chừng đó chủ Nghĩa Mác - Lênin vẫn tồn tại và phát triển cấp tiến hơn. Một điều chắc chắn là các thế hệ tiếp nối tư tưởng đương nhiên sẽ làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời.

 Chúng ta thấy rằng, những điều tưởng như hiển nhiên trong cuộc sống của loài người hôm nay như: trẻ em được đến trường chứ không phải đi làm; phụ nữ được giải phóng và bình đẳng với nam giới; người lao động làm việc 8h một ngày, thời gian rảnh không bị ai quản thúc; y tế được chăm sóc toàn dân; giáo dục được phổ cập; người nghèo được quan tâm, người có hoàn cảnh đặc biệt được chia sẻ...tất cả những điều tưởng chừng như hiển nhiên hôm nay không phải ngẫu nhiên có được mà chính sự thật là nhờ sự thức tỉnh được chỉ ra từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin. Chúng ta phải biết ơn Mác và những nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác - Lênin, bởi chính họ mang đến, gieo mầm để những sự thật tốt đẹp đó từng ngày hiển hiện khắp hành tinh.

Khác với tất cả các học thuyết trước đó hoàn toàn chỉ là nhận thức thế giới, với chủ nghĩa Mác – Lênin, vấn đề không chỉ có nhận thức, mà điều quan trọng phải là cải tạo thế giới, nghĩa là làm cho thế giới thay đổi, làm cho thế giới tốt đẹp hơn. C.Mác luôn ý thức được bản chất không ngừng vận động của cái hệ thống tư bản chủ nghĩa mà ông phản bác. Chính nhờ C.Mác mà loài người có được những khái niệm về các hình thái lịch sử khác nhau đã song hành hoặc kế tục nhau tồn tại của tư bản: tư bản thương mại, tư bản nông nghiệp, tư bản công nghiệp, tư bản độc quyền, tư bản tài chính, đế quốc… C. Mác còn nhìn thấy trước được cái mà giờ đây chúng ta gọi là “toàn cầu hóa”.

 Sự thật là, tại thời điểm C.Mác và Ph.Ăngghen viết Tuyên ngôn đảng Cộng sản, ở khắp Châu Âu và Hoa Kỳ, trẻ em từ 5 đến 14 tuổi phải làm việc phổ biến trong các ngành nông nghiệp, nhà máy, hầm mỏ hay bán báo, thậm chí phải làm đến 12h/ngày. Tuyên ngôn Cộng sản của C.Mác và Ph.Ăngghen đã không khoan nhượng tình trạng ấy, các ông yêu cầu giáo dục miễn phí cho trẻ em trong các trường học công và xóa bỏ bóc lột trẻ em trong các nhà máy. Các nhà sáng lập Chủ nghĩa Mác đã khởi xướng và bắt nhịp cho dàn đồng ca khắp thế giới để ngăn chặn chấp dứt lao động trẻ em và đưa trẻ đến trường. Cũng chính ở thời điểm đó, người phụ nữ ở Mỹ và các nước Châu Âu vốn có địa vị thấp kém hơn so với đàn ông, họ bị coi như nô lệ trong gia đình, thậm chí bị coi như là một món món hàng để giới tư sản mua bán, trao đổi, quyền công dân của họ bị tước bỏ, không được bỏ phiếu bầu cử và cũng chẳng được tham gia bất cứ hoạt động chính trị nào. C.Mác và Ph.Ăngghen đã tố cáo gay gắt sự bất công ấy, nhưng quan trong hơn, các ông không chỉ vách trần nguồn gốc sự bóc lột tư bản đối với nữ giới mà còn chỉ ra con đường giải phong phụ nữ thành công. Đó là một tầm cao mà tại thời điểm đó tư tưởng nhân loại chưa thể vươn tới.

Đối với nhân loại cần lao, quyền bình đẳng là cái mà họ phải phấn đấu đấu tranh cả đời, nên ai ai cũng rất hiểu và thấm thía. Khi ấy giới tư bản chỉ tập trung làm giầu trong một số ít giai cấp tư sản, còn đại bộ phận nhân dân không được bảo vệ trước áp bức, bất công. Nơi nào có áp bức tất yếu nơi đó có đấu tranh. Dự báo của C.Mác về việc đấu tranh rút ngăn thời gian lao động từ 14, 15h/ngày xuống còn 8h/ngày trở thành mục tiêu quan trọng được tuyên bố trong Quốc tế Cộng sản I, sau này tiếp tục được nêu trong Quốc tế Cộng sản II để rồi từ ngày 1/5/1890, Quốc tế lao động đầu tiên ra đời với quy mô toàn thế giới cùng hiệp lực, cùng đấu tranh đã biến ngày làm 8h thành hiện thực. 

Có lẽ chính bởi sự vạch trần và phê phán gay gắt, quyết liệt đến tận cốt tử về bản chất của CNTB nên CNTB trở lên thù hận Chủ nghĩa Mác - Lênin, thậm chí họ còn ngông cuồng coi đó như là một bóng ma cần phải trừ khử. Thế nhưng chính sự phê phán của Chủ nghĩa Mác - Lênin đã khiến CNTB tự biến đổi, tự sửa chữa những sai lầm của mình như, xây dựng các nhà nước phúc lợi hay tìm cách thu hẹp khoảng cách giầu nghèo nhằm điều hòa mâu thuẫn xã hội, mâu thuấn giai cấp. Thực tế CNTB không phải đi từ tờ giấy trắng để có sự tốt đẹp. Để có thành tựu hôm nay, CNTB đã để lại trên con đường đi của mình biết bao mồ hôi, xương máu của con người. Biết bao người da đen, da đỏ, da vàng đã phải bị giết chóc, tù đầy, biết bao người lao động đã bị hành hạ, bóc lột đến tận xương tủy…để họ xây dựng chế độ như ngày nay? 

Jacques Derrida, một nhà triết học người Pháp viết trong tác phẩm “Những bóng ma của Mác” cho rằng: "con người trong xã hội hiện đại, dù là những người theo Chủ nghĩa Mác - Lênin hay những người phê phán C.Mác cũng gắn chặt với C.Mác. Sẽ không thể có tương lai nếu không có các di sản của C.Mác". Ông khẳng định: “cần phải trở về với Mác để chống lại cái "trật tự thế giới mới" của thị trường tư bản chủ nghĩa”. Còn Tery Eagleton, giáo sư Trường Đại học Tổng hợp Lancaste Vương quốc Anh thì viết trong cuốn “Vì sao Mác đúng?” rằng: "Chủ nghĩa Mác giống như bác sỹ, khi mà cơ thể khỏe mạnh sẽ không để ý, song một khi CNTB gặp vấn đề nghiêm trọng thì chủ nghĩa Mác lại phát huy tác dụng phê phán vốn có của mình. Chính Mác đã thúc đẩy những thay đỏi tích cực của các nước tư bản". Đối với các đảng cộng sản, đảng công nhân, đảng dân chủ xã hội và loài người tiến bộ, hàng tỉ người trên khắp thế giới vẫn khẳng định học thuyết của C.Mác có giá trị thời đại, vững bền.

Linh hồn và sự sống của chủ nghĩa Mác - Lênin chính là phương pháp luận, những đòi hỏi đổi mới và sáng tạo không ngừng. Nhưng nguyên lý này không chỉ đúng trong thế kỷ trước, trong thế kỷ này mà còn đúng cho những thế kỷ sau, vì đó là những quy luật khách quan. Một số người chống đối chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ tập trung phê phán 3 người sáng lập C.Mác, Ph.Ăngghen, VI. Lênin mà tách rời tư tưởng hoặc tìm cách đối lập tư tưởng của họ với những người tiếp nối về sau. Họ cố tình lời đi sự phát triển của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hơn một thế kỷ qua mà chỉ nhằm vào mục tiêu chứng minh chủ nghĩa Mác - Lênin là lỗi thời, giáo điều, hay xa rời thực tiễn. Cách suy luận siêu hình đó tất yếu sai lầm. Tiếp nối C.Mác, VI.Lênin khắp thế giới có nhiều nhà tư tưởng kiệt xuất. Ở Việt nam, chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ vận dụng tài tình chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam mà còn cống hiến, phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tạo nên những tư tưởng tầm vóc lịch sử, những cuộc cách mạng chấn động địa cầu, đẩy lùi chiến tranh xâm lược của Đế quốc, thực dân, những nô dịch, áp bức, bất công để thiết lập lên nền tảng của cuộc sống độc lập, tự do và hạnh phúc cho dân tộc Việt Nam. Tiếp sau Hồ Chí Minh, Đảng cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo thành công hơn 30 năm đổi mới tạo ra sự biến đổi về chất, từ một đất nước bị bóc lột, tàn phá đến quyệt quệ, bị cô lập, chống phá quyết liệt sau chiến tranh thành quốc gia tự tin hội nhập cùng thế giới. Bởi vậy, chính sự nối tiếp một cách biện chứng và bản chất sáng tạo, luôn phát triển của mình làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin không thể lỗi thời hay lạc hậu.

Sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ bởi tính lôgic, khoa học mà còn tính nhân văn, nhân bản trong mục tiêu, đích đến. Giá trị thời đại trong chủ nghĩa Mác chính là sự hiện tồn những giá trị tốt đẹp của CNXH. CNXH liệu có xa xôi đến mức không tưởng? Thực ra không cần tìm kiếm đâu xa, chỉ nhìn rất gần xung quanh chúng ta, rất nhiều người dù thành đạt hay chưa thành đạt lắm vẫn dành thời gian đều đặn tham gia nấu những bữa cơm cho người bệnh, vui vẻ chung tay xây dựng những chương trình từ thiện, lo những xuất ăn cho người nghèo… Dù là chủ doanh nghiệp hay cán bộ, nhân viên, thỉnh thoảnh lại chi ra một số tiền cho hoạt động thiện nguyện và trực tiếp thực hiện những chương trình của mình. Không những thế, họ rất chu đáo, tậo tâm với công việc này, vẫn quan tâm chi sẽ nỗi lo, niềm vui vì lợi ích của người khác, cho dù thế giới đang khủng hoảng tài chính hay nền kinh tế gặp khó khăn. 

V.I.Lênin gọi những người quan tâm đến lợi ích của những người bà con xa là những người của CNXH. Ở Việt Nam, sự tự nguyện, tự giác chăm lo cho người khác ngày càng được nhân lên nhiều mô hình phong phú: những phụ nữ làm tủ bánh mì miễn phía cho người cơ nhỡ; những người đàn ông bơm, vá xe miễn phí cho sinh viên, người lao động nghèo; góc đường phố có bình nước mát miễn phí ai đó đặt... Trong kinh tế thị trường ai cũng vất vả kiếm sống không dễ, nhưng chia sẻ với nhau bằng tấm lòng vị tha, nhân ái thì không phải là xã hội nào cũng có. Họ có lẽ chưa hiểu đầy đủ về CNXH, CNCS nhưng họ đã có hành động như vậy đấy.

CNXH không phải là sản phẩm của C.Mác, của Ph.Ăngghen, của VI.Lênin.  Ngay từ thế kỷ VII, VIII, các nhà tư tưởng ở phương Đông đã mơ về một xã hội không còn người lầm than, không còn người lê la ở nơi hang cùng, xóm vắng nữa. Thuật ngữ CNXH đã bắt đầu xuất hiện trước lúc C.Mác sinh ra hơn 100 năm. Có điều, làm thế nào để xây dựng được một xã hội như vậy thì các nhà tư tưởng lúc đó chưa tìm ra được con đường, thế cho nên người ta gọi CNXH không tưởng. Chỉ đến khi C.Mác và Ph.Ăngghen phát hiện ra cơ sở lịch sử để thực hiện lý tưởng XHCN thì CNXH mới không còn là một “bóng ma”. Các ông đã tìm thấy ở đó lực lượng, điều kiện mà những người trước đó không tìm thấy. Với Tuyên ngôn Đảng Cộng sản 1848, CNXH được khẳng định là một thực thể, một sự tồn tại có thật và đang lớn lên từng ngày, trở thành lực lượng khuynh đảo thế giới, cân bằng lại thế giới đang trong thời của bờ vực rạn vỡ.

CNXH mới được hơn 100 năm kể Cách mạng tháng Mười. Nếu nhìn rộng ra CNTB có tận 500 năm lịch sử. Thế nên nếu chỉ nhìn vào sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu những năm 90 mà vội kêu lên CNXH đã cáo chung thì hoàn toàn sai lầm. CNXH là chủ nghĩa cộng đồng, tư tưởng cộng đồng không dễ gì bác bỏ, tiêu vong được. Nhân loại đã đi qua rất nhiều chặng đường và lịch sử của CNXH cũng đã trải qua những bước thăng trầm tất yếu với 4 lần khủng hoảng, điều đó cho thấy sức sống của một lý tưởng không hề bằng phẳng. Các thế lực thù địch công kích nó đã đành, nội tại bản thân nó cũng phải đấu tranh để tồn tại và phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “CNCS  không phải là một lý tưởng hay một khuân mẫu để chạy theo. Đối với chúng tôi CNCS là sự vận động của đời sống hiện thực”. Con đường đi lên CNXH sẽ không bằng phẳng mà còn rất nhiều gập ghềnh, thử thách, thậm chí phải trả giá bởi những thất bại tạm thời, bởi đó không phải con đường có sẵn, mà muốn đi lên phải tìm tòi, thử nghiệm, điều chỉ, sửa chữa, đục kết, hoàn thiện… Để có một chế độ xã hội tốt đẹp phải trải qua quá trình xây dựng. Đó là con đường tất yếu mà xã hội nào cũng phải trải qua. CNXH mà Hồ Chí Minh quan niệm là độc lập, tự do, ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Một nước XHCH tức là một nước có cuộc đời ấm no, bình đẳng, tự do và độc lập. Ba mục tiêu mà chúng ta hướng tới đó là độc lập, tự do và hạnh phúc. Đó là mục tiêu sống còn, là đích đến cuối cùng mà chúng ta xây dựng. Lựa chọn con đường nào để đi đến chân trời tươi sáng là quyền của mỗi quốc gia, dân tộc. Người ta có thể nghi ngờ, nhưng rõ ràng ở Việt Nam hiện nay phát triển theo CNXH là con đường duy nhất đúng. Để đạt được mục tiêu ấy con đường đi lên của chúng ta không phải là con đường tư bản đã đi, mà là đi theo con đường XHCN. Một đất nước ổn định về chính trị, yên bình về xã hội, an toàn về quốc phòng an ninh để phát triển kinh tế, thu hút đầu tư phải là một nước Việt Nam của con người CNXH. Khi đất nước đã bước qua những năm tháng chiến tranh đói khổ, trên nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin, CNXH ở Việt Nam tiến lên một bước mới: Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Thế giới đã đổi thay, thế nhưng thực tiễn xã hội cũng như sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ vẫn không đưa ra được bằng chứng xác thực nào để bác bỏ nguyên lý căn bản của triết học Mác - Lênin. Hơn thế, đi ngược về các cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu trong thế kỷ này, tức là trên dưới 150 năm học thuyết Mác ra đời người ta buộc phải tìm lại giá trị Mác để tìm ra giải pháp cho cuộc khủng hoảng đương thời, bởi Mác đã mô tả hoàn toàn chính xác về quy luật phát triển của CNTB. Cho đến hôm nay, chính nội tại của các nước Tư bản, đằng sau sự hào nhoáng thì con người phải đối diện với những bất an, bất lực, phân biệt chủng tộc, khoảng cách giầu nghèo, xung đột, khủng bố, bạo lực và bất ổn chính trị xã hội. Và cũng chính ở đó, sự an hòa, yên bình, người với người sẻ chia của xã hội XHCN lại là những chân trời mà nhân loại khao khát vươn tới. 

Hơn 100 năm qua tư tưởng của các nhà kinh điển đã vượt qua thử thách của thời đại cũng như sự công kích, chống phá của các thế lực thù địch. Tuy nhiên, bất chấp mội công kích, bôi nhọ, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn vững vàng và phát huy vai trò trong thời đại mới. Sự quan tâm của các nhà nghiên cứu đối với tư tưởng Mác ngày càng tăng như một đơn đặt hàng của lịch sử./.

 

 VĂN HÓA TÂM LINH VÀ PHÒNG, CHỐNG MÊ TÍN, DỊ ĐOAN

🍁🍂🍁🍂🍁🍂🍁🍂🍁🍂

Một trong những trăn trở của không ít cán bộ, đảng viên hiện nay là tham gia đời sống tâm linh như thế nào cho phù hợp, để không vi phạm Điều 19 của Quy định số 37-QĐ/TW “về những điều đảng viên không được làm”: “Mê tín, hoạt động mê tín, ủng hộ hoặc tham gia các tôn giáo bất hợp pháp hoặc lợi dụng các hoạt động tôn giáo, tín ngưỡng để trục lợi”.

Ranh giới giữa hoạt động tâm linh với hoạt động mê tín, dị đoan thường rất mỏng manh. Định hình được ranh giới ấy, cán bộ, đảng viên sẽ thấy thoải mái, tự tin hơn trong tham gia các hoạt động tâm linh...

Mỗi dịp Tết đến, những ai là con dân nước Việt đều cảm nhận rõ ràng không khí linh thiêng của ngày Tết. Thời khắc giao thừa, thắp nén hương thơm dâng lên bàn thờ tiên tổ, ai cũng cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu mạnh khỏe, may mắn, hạnh phúc. Những người cựu chiến binh dẫn theo con cháu đến nghĩa trang liệt sĩ, nhớ về những đồng đội từng hy sinh cho mình được sống, cảm thấy như đồng đội vẫn đang ở đâu đó trên những tầng mây cao vời vợi dõi theo mình, dẫn dắt mình tránh những tai ương, vận hạn.

Đến vãn cảnh khu tưởng niệm các danh nhân, anh hùng dân tộc, đền, miếu, chùa chiền, có ai không xúc động khi dâng hương tưởng nhớ các bậc tiền nhân có nhiều công lao với quê hương, đất nước, khấn cầu các vị thánh thần phù hộ cho quốc thái, dân an, gia đình và bản thân mình an khang, gặp nhiều phúc lộc... Rõ ràng, những hoạt động tâm linh kể trên là rất phổ biến trong đời sống hiện nay, mang lại những giá trị tinh thần cao cả, có tác dụng hướng con người đến chân-thiện-mỹ mãnh liệt.

Tuy nhiên, cũng có không ít những hoạt động tâm linh của cán bộ, đảng viên, thậm chí có cả những cán bộ (hoặc vợ con của cán bộ) giữ những vị trí lãnh đạo, quản lý rất quan trọng gây phản cảm trong nhân dân. Đó là những lễ dâng sao, giải hạn rình rang với chi phí hàng trăm triệu đồng, những buổi “gọi hồn, thỉnh vong”, hầu đồng, yểm bùa, cầu cúng, hóa vàng mã... hoành tráng với những niềm tin mù quáng vào số mệnh, thần thánh, ma quỷ.

 

Trước đây, đã có thời kỳ chúng ta cho rằng, người đảng viên với thế giới quan của Chủ nghĩa Mác-Lênin thì không được phép tham gia hoạt động tâm linh. Nhiều người còn cho rằng, tâm linh là “mảng tối”, là mặt tiêu cực trong ý thức con người, nơi chưa được chân lý khoa học soi sáng; cùng với sự phát triển vũ bão của khoa học-công nghệ (KHCN) thì đời sống tâm linh sẽ ngày càng bị thu hẹp.

Nhưng thực tế hơn 35 năm đổi mới vừa qua cho thấy, đất nước ta càng phát triển, dân trí càng lên cao, KHCN đã và đang có những bước phát triển rất nhanh thì đời sống tâm linh của nhân dân nói chung, của cán bộ, đảng viên nói riêng càng phong phú, đa dạng.

Vậy, đứng vững trên nền tảng tư tưởng của Đảng, chúng ta cần nhìn nhận vấn đề cán bộ, đảng viên tham gia hoạt động tâm linh như thế nào? Có thể thấy, dù KHCN có phát triển đến mấy thì những nỗi đau do thiên tai, nhân tai, dịch bệnh, tai nạn giao thông... vẫn xảy ra.

Thậm chí, sẽ có những người ngẫu nhiên gặp phải rất nhiều tai ương, thiếu may mắn, “họa vô đơn chí”... Với mỗi người, khi gặp phải những nỗi đau quá sức chịu đựng như vậy thì sự giúp đỡ, động viên của cơ quan, đơn vị, hàng xóm, người thân là không đủ, họ cần có niềm tin vào một phép màu, một sự cứu rỗi trong tâm hồn để vượt qua. Rõ ràng, hoạt động tâm linh mang bản tính lịch sử tự nhiên, có tác dụng xoa dịu, bù đắp những mất mát, khổ đau; một loại “thuốc” tinh thần đặc biệt đối với con người.

Do đó, hoạt động tâm linh là một nhu cầu văn hóa tinh thần đặc biệt của con người, trong đó có cán bộ, đảng viên. Hơn nữa, đời sống tâm linh còn là nét văn hóa truyền thống đặc sắc của dân tộc Việt Nam, được hun đúc qua mấy nghìn năm lịch sử, trở thành văn hóa tâm linh, “sợi dây neo” giữ hồn cốt dân tộc. Người cộng sản mang trong mình chủ nghĩa yêu nước, không thể thiếu “sợi dây neo” đó trong phẩm chất, tâm hồn mình. Lênin từng chỉ rõ: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà nhân loại đã tạo ra”.

Với tinh thần đó, người đảng viên cộng sản Việt Nam không chỉ tìm hiểu về đời sống tâm linh của dân tộc mình, mà phải thực sự tham gia một cách tích cực vào hoạt động đó, để lọc bỏ những yếu tố mê tín, dị đoan, kế thừa và phát triển văn hóa tâm linh trở thành giá trị cốt lõi của nền văn hóa mới, nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.

 

 

 "ĐỒNG ĐỘI" - NÉT ĐẸP VĂN HÓA CỦA QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM!

 

    Khi bước vào trận đánh, người chiến sĩ có biết bao điều muốn gửi gắm cho nhau. Có những mệnh lệnh vang lên thành lời tâm huyết. Có sự tin yêu chợt đến trong cử chỉ lặng lẽ, nhẹ nhàng. Có những điều chỉ nói được sau trận đánh. Vậy mà mọi người đều hiểu - hiểu cả những điều không muốn nói ra. Bởi một lẽ giản đơn, họ là "ĐỒNG ĐỘI".

    “ĐỒNG ĐỘI - một câu đặc biệt như một bản lề khép mở. Nó như nốt nhấn trên bản đàn, buộc chúng ta phải dừng lại suy nghĩ về ý nghĩa mà nó gợi ra. Đó là tiếng gọi thiêng liêng của những người có chung chí hướng, lý tưởng vang lên từ sâu thẳm tâm hồn người lính. Tình đồng đội là đỉnh cao của tình bạn, tình người, là kết tinh của mọi tình cảm, là cội nguồn sức mạnh để người lính vượt qua những tháng ngày khó khăn gian khổ. Hai tiếng “ĐỒNG ĐỘI” đơn sơ mà cảm động đến nao lòng.

    Trên chiến hào cùng nhau “chia lửa”, lúc khó khăn cùng giúp đỡ sẻ chia, trong hoạn nạn quên mình cứu đồng đội, trong vinh quang cùng chia ngọt sẻ bùi, chiến đấu vì dân, quên mình vì Tổ quốc. Đó là những phẩm chất cao đẹp nhất của Bộ đội Việt Nam - những người lính thời đại Hồ Chí Minh chiến đấu quên mình trong thời chiến, lặng lẽ hy sinh trong thời bình. Tất cả vì Tổ quốc, vì dân tộc phồn vinh.

ST

 

 

 Giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch

Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, thử thách, Đảng ta luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trí tuệ, đạo đức, văn minh của một đảng cách mạng chân chính, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân.

Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo, sáng lập và rèn luyện. Trải qua 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam đánh thắng các cuộc chiến tranh xâm lược, xóa bỏ chế độ thực dân phong kiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn, thử thách, Đảng ta luôn thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, trí tuệ, đạo đức, văn minh của một đảng cách mạng chân chính, thực sự xứng đáng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Đảng Cộng sản Việt Nam là trung tâm đoàn kết, quy tụ, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp đấu tranh giành và giữ chính quyền, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Hiện nay, các thế lực thù địch đang tập trung chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam với nhiều âm mưu, thủ đoạn tinh vi, thâm độc nhằm hạ thấp uy tín, vai trò của Đảng trước nhân dân, tiến tới xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với cách mạng Việt Nam. Chúng đưa ra các luận điệu cho rằng: Đảng Cộng sản Việt Nam độc quyền lãnh đạo là “mất dân chủ”, là “chuyên chế”, “đặc quyền, đặc lợi”, là “bóp nghẹt dân chủ”, phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập mới có “dân chủ” trong Đảng và trong đời sống xã hội. Chúng đòi hủy bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phủ nhận quyền lãnh đạo của Đảng, tiến tới xóa bỏ thành quả cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Để thực hiện được mục tiêu này, chúng tập trung tấn công trên nhiều lĩnh vực với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc.

Các thế lực thù địch thực hiện chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh vào thế giới quan, cơ sở khoa học đường lối chính trị của Đảng; phủ nhận những thành tựu to lớn mà chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã đem lại cho dân tộc Việt Nam. Chúng rêu rao rằng chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời, lạc hậu, chủ nghĩa xã hội khoa học không còn sức sống, đã diệt vong. Thời gian gần đây, lợi dụng và triệt để khai thác những hiện tượng tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng dẫn đến “tự chuyển hóa” của một số cán bộ, đảng viên với những biểu hiện như: tự xa rời, phai nhạt mục tiêu, lý tưởng của Đảng, chạy theo “lợi ích nhóm”, “chủ nghĩa tư bản thân hữu”…, các thế lực thù địch tiếp tục tấn công, xuyên tạc, cắt xén, bác bỏ những luận điểm căn bản nhất của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chúng còn xuyên tạc trắng trợn tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; cố tình nói sai sự thật về đời tư, hạ thấp uy tín của Hồ Chí Minh. Chúng cho rằng: “Hồ Chí Minh” không phải là nhà tư tưởng, mà chỉ là nhà hoạt động thực tiễn nên không có tư tưởng Hồ Chí Minh. Chúng lờ đi những giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh giàu chất lý luận về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng xã hội, giải phóng con người đã soi đường cho dân tộc ta và ảnh hưởng đến nhiều dân tộc khác trên thế giới trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Từ đó, đòi Đảng ta phải từ bỏ học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

Ngoài thực hiện ý đồ chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, các thế lực thù địch còn chống phá về tổ chức của Đảng ta. Chúng tập trung đánh phá vào các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách. Chúng ra sức xuyên tạc cho rằng nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi thời, lạc hậu, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không còn phù hợp sẽ dẫn đến mất dân chủ trong Đảng, làm cho Đảng độc đoán, chuyên quyền…; cổ vũ cho sự bất đồng ý kiến về quan điểm trong Đảng rồi lợi dụng sự bất đồng đó để chia rẽ Đảng thành những phe, nhóm đối lập, chia rẽ lớp đảng viên này với lớp đảng viên khác, đảng viên già với đảng viên trẻ, từng bước gây ra mâu thuẫn trong nội bộ các tổ chức đảng…

Các thế lực thù địch còn tìm mọi cách chia rẽ Đảng với nhân dân, lôi kéo kích động, tách nhân dân ra khỏi ảnh hưởng của Đảng bằng việc vu cáo vi phạm dân chủ, nhân quyền. Chúng cho rằng: Thực hiện sự chuyên chính của một Đảng là nguồn gốc dẫn đến quan liêu, tham nhũng. Lợi dụng việc Đảng ta công khai tự phê bình và phê bình, các thế lực thù địch công kích, nói xấu Đảng, thổi phồng khuyết điểm, sai lầm của một số cá nhân đảng viên để gán cho Đảng Cộng sản đủ các căn bệnh. Thông qua đó, các thế lực thù địch chúng tìm mọi cách chia rẽ, phân hóa các tầng lớp nhân dân, lôi kéo làm mất ổn định chính trị, khi thời cơ đến tiến hành lật đổ ta từ bên trong.

Hiện nay, trước thời điểm diễn ra Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội lần thứ XIII của Đảng, các thế lực thù địch đang đẩy nhanh các hoạt động chống phá với những âm mưu, thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo quyệt, thâm độc. Chúng ra sức cổ súy cho một xã hội mới với mô hình “độc lập về chính trị”. Bằng những thủ đoạn, chúng đánh vào tâm lý của một số tri thức, văn nghệ sĩ có tư tưởng dao động hoặc có sự bất mãn về thời cuộc; lợi dụng và cổ súy cho các tổ chức nhập nhèm, như: “Văn đoàn độc lập”, “Tổ chức phóng viên không biên giới”, “Trung tâm Văn bút Việt Nam”,...; kích động các hoạt động gây rối, biểu tình ở một số địa phương với mục đích là xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Để góp phần giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trước âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, thiết nghĩ, cần thực hiện tốt một số giải pháp chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm cho mọi cán bộ, đảng viên, quần chúng nhận rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch hiện nay.

Hiện nay, trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng với sự bùng nổ của mạng Internet đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, tỉnh táo, sáng suốt phân tích và nhận rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, trên cơ sở đó tăng cường sức đề kháng, tạo sức mạnh đấu tranh có hiệu quả chống lại kẻ thù. Kết hợp chặt chẽ các hình thức, biện pháp giáo dục, tuyên truyền làm cho mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức rõ bản chất, âm mưu, thủ đoạn nham hiểm, thâm độc của kẻ thù; đấu tranh kiên quyết bảo vệ, giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh bảo vệ và phát triển cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, đặc biệt là mục tiêu, lý tưởng, đường lối đổi mới đất nước, bảo vệ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng; phản bác các quan điểm tư tưởng sai trái của các thế lực thù địch và ý đồ thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập. Tiếp tục tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, giúp cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhận thức rõ mối quan hệ giữa hợp tác và đấu tranh, giữa đối tác và đối tượng, phân biệt rõ bạn, thù trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đa phương hóa, đa dạng hóa Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, tranh thủ mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chủ động và kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện mơ hồ, mất cảnh giác, củng cố xây dựng niềm tin, ý chí chiến đấu, quyết tâm bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, giữ vững nguyên tắc lãnh đạo của Đảng.

Hai là, giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng Cộng sản Việt Nam.  

Từ khi ra đời đến nay, Đảng ta luôn lấy việc giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng Cộng sản làm nguồn lực, cơ sở để tồn tại và phát triển. Nhờ đó, Đảng đã vững vàng lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong tình hình hiện nay, khi nước ta đang hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chống phá, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn luôn giữ vững bản chất giai cấp công nhân và tính tiền phong của Đảng;  kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam; tiếp tục nghiên cứu, bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đường lối đổi mới đất nước; chủ động tổng kết thực tiễn, khái quát, bổ sung, phát triển lý luận trong tình hình mới.

Với vai trò là người lãnh đạo, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, đồng thời là lãnh tụ chính trị tinh thần của cả dân tộc, hơn ai hết, Đảng phải có bản lĩnh và trí tuệ ngang tầm với yêu cầu, nhiệm vụ. Bản lĩnh, trí tuệ được thể hiện ở sự kiên định vững vàng, chủ động sáng tạo trong xây dựng và tổ chức thực hiện cương lĩnh chính trị, đường lối đổi mới đất nước. Hơn 30 năm đổi mới và xây dựng đất nước, Đảng ta đã đề ra và tổ chức thực hiện có kết quả đường lối đổi mới, vận dụng sáng tạo những nguyên lý lý luận, tổng kết thực tiễn, mở rộng dân chủ, phát huy được trí tuệ của cán bộ, đảng viên, nắm bắt được những vấn đề nẩy sinh từ cuộc sống, của tình hình phát triển kinh tế. Giữ vững và tăng cường tính tiên phong đòi hỏi Đảng ta phải thường xuyên làm giàu về năng lực, trí tuệ đáp ứng yêu cầu lãnh đạo đất nước trong đổi mới phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Ba là, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, tích cực đổi mới, xây dựng chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước.

Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là một yêu cầu đòi hỏi khách quan, xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước; là sứ mệnh thiêng liêng do nhân dân và dân tộc giao phó; là nhân tố bảo đảm ổn định chính trị, tạo nên sức mạnh đoàn kết, thống nhất để đưa đất nước đi lên. Không có vai trò lãnh đạo của Đảng thì không thể có độc lập dân tộc vững chắc, không có quyền làm chủ thực sự của nhân dân, không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân và càng không có chủ nghĩa xã hội. Vì thế, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc, mục tiêu, đồng thời là điều kiện kiên quyết để làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.

Trong bối cảnh hiện nay, mỗi cán bộ, đảng viên phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện các quy định của Ban Bí thư, Bộ Chính trị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương về trách nhiệm nêu gương; xây dựng hình tượng cán bộ, đảng viên trong sạch, liêm khiết; kiên quyết khắc phục sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên; nâng cao lập trường cách mạng; bản chất giai cấp công nhân của Đảng. Ra sức học tập tư tưởng, đạo đức, phong cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đẩy mạnh đấu tranh chống tham nhũng dưới mọi hình thức; nêu cao tính đảng, tính gương mẫu trong quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; thường xuyên giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng đi đôi với việc tích cực tự đổi mới, tự chỉnh đốn; xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong thời kỳ mới.

Bốn là, thực hiện nghiêm nguyên tắc, tập trung dân chủ; không ngừng chăm lo xây dựng khối đoàn kết, thống nhất trong Đảng, gắn bố mật thiết với nhân dân.

Tập trung dân chủ là nguyên tắc tổ chức cơ bản, là nhân tố quyết định sức mạnh và sự thống nhất của Đảng. Do đó, cần nhận thức đúng nội dung, bản chất của tập trung dân chủ; mối quan hệ biện chứng giữa tập trung với dân chủ; trên cơ sở đó mọi cán bộ, đảng viên đều có quyền tham gia vào việc quyết định công việc của Đảng, có quyền được thông tin, thảo luận, tranh luận, nêu ý kiến riêng, bảo lưu ý kiến, cụ thể hóa thành các quy chế, quy định, nhất là việc dân chủ thảo luận xây dựng chủ trương, nghị quyết và lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện. Thường xuyên tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng kèn cựa, địa vị, tranh giành quyền lực, cũng như cục bộ địa phương; bố trí đúng cán bộ, đặc biệt là người đứng đầu cơ quan, đơn vị; xây dựng tình yêu thương, tôn trọng lẫn nhau vì lợi ích chung. Xây dựng khối đoàn kết, thống nhất là một truyền thống tốt đẹp của Đảng, đồng thời là nhân tố tạo nên sức mạnh vô địch của cách mạng nước ta.

Thực tiễn trong những bước ngoặt của cách mạng, trong những lúc khó khăn, nguy hiểm, sự đoàn kết thống nhất trong Đảng là nguồn sức mạnh, là nhân tố quan trọng, quy tụ sức mạnh của toàn dân tộc, vượt qua mọi khó khăn, thử thách. Sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng phải được xây dựng trên cơ sở đường lối chính trị đúng đắn, tình cảm cách mạng trong sáng, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; đồng thời thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Hiện nay, trước yêu cầu phát triển của cách mạng có nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn rất phức tạp, chưa sáng tỏ, trong Đảng cần có thảo luận, tranh luận. Đây là quy luật bình thường và lành mạnh trong Đảng, phản ánh bước trưởng thành của Đảng. Chúng ta phải kiên quyết đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù lợi dụng việc Đảng ta mở rộng dân chủ thảo luận để khuếch trương các ý kiến trái ngược nhau, sau đó quy chụp cho Đảng ta là bắt bớ, xử lý những người có quan điểm bất đồng.

Về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của giai cấp, của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác”. “Tất cả đường lối, phương châm, chính sách của Đảng đều chỉ nhằm nâng cao đời sống của nhân dân” - đây là yếu tố quan trọng hàng đầu bảo đảm cho sự thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch. Thực tiễn cho thấy, nhờ quán triệt quan điểm lấy dân làm gốc của Đảng, chăm lo giữ gìn sự đoàn kết gắn bó giữa Đảng với nhân dân, Đảng ta đã khơi dậy các tiềm năng từ nhân dân, tạo ra nguồn lực mới cho Đảng. Ngược lại, ở đâu và lúc nào tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên xa dân, quan liêu thậm chí trù dập, ức hiếp dân thì Đảng mất chỗ dựa từ nhân dân, bị dân xa lánh.

Hiện nay, trước yêu cầu xây dựng và chỉnh đốn Đảng, mỗi cán bộ, đảng viên cần tiếp tục nhận thức sâu sắc, có biện pháp tích cực, thiết thực để góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, trong đó nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức. Đẩy mạnh thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; giữ gìn và phát huy bản chất tốt đẹp của Đảng; ngăn chặn, khắc phục có hiệu quả tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu; đẩy mạnh thực hiện quy chế dân chủ, xây dựng củng cố và thực hiện các thiết chế dân chủ, tăng cường các hình thức dân chủ trực tiếp. Đồng thời, Đảng cần đẩy mạnh việc chăm lo xây dựng và củng cố các cơ quan nhà nước trong sạch, vững mạnh./.

 

Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới  

(Quanlynhanuoc.vn) – Các thế lực thù địch đã và đang ra sức tuyên truyền những quan điểm sai trái, xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng trên các lĩnh vực, trong đó có lĩnh vực quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Vì vậy, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của địch về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc là nhiệm vụ cấp bách hiện nay.

 

Ảnh minh họa

Thực tiễn hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn và từng bước được hiện thực hoá. “Đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử1. Trên lĩnh vực quốc phòng, an ninh (QPAN), chúng ta đã: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, lợi ích quốc gia – dân tộc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước. Tư duy về QPAN, đối tác, đối tượng, bảo vệ tổ quốc có bước phát triển mới và ngày càng hoàn thiện”2.

Tuy nhiên, trên lĩnh vực QPAN cũng còn những hạn chế, bất cập: “Việc quán triệt, tổ chức, triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có lúc, có nơi hiệu quả chưa cao. Công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược về quốc phòng, an ninh có lúc chưa thật chủ động”3. Các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội ráo riết đẩy mạnh hoạt động chống phá toàn diện công cuộc đổi mới, xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (BVTQ) của Đảng ta. Cùng với đó: “Công tác đấu tranh phản bác, ngăn chặn các thông tin xấu độc, quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao”4. Vì vậy, để quán triệt, thực hiện đúng đắn, hiệu quả các quan điểm, chủ trương của Đảng về QPAN, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong tình hình mới, cần nhận diện và kiên quyết đấu tranh phản bác làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn hoạt động chống phá của các thế lực thù địch.

Bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch

Trong suốt quá trình lãnh đạo đất nước, mặc dù Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo Nhân dân đạt được nhiều thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Song, các thế lực thù địch, phần tử cơ hội phản động chúng ra sức tuyên truyền, xuyên tạc, bôi nhọ, phủ nhận những thành quả cách mạng của nước ta trong hơn 90 năm qua, nhất là những thành tựu to lớn, toàn diện, có ý nghĩa lịch sử của đất nước ta sau hơn 35 năm đổi mới. Thông qua chiến lược “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch xác định lĩnh vực QPAN và lực lượng vũ trang là một trong những mục tiêu trọng yếu phải tập trung phá hoại, làm suy yếu. Tham vọng ngông cuồng và ảo tưởng của chúng là nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với lĩnh vực QPAN và lực lượng vũ trang. “Phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, làm cho lực lượng vũ trang xa rời mục tiêu, lý tưởng, mất phương hướng chính trị, không thực hiện đúng chức năng,… luôn là mục tiêu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Vì thế, chúng tập trung phá hoại bằng nhiều thủ đoạn hết sức đa dạng, tinh vi và thâm độc, trong đó, thông tin xuyên tạc về lĩnh vực QPAN, mà trọng điểm là quân đội và công an.

Những thông tin và luận điệu xuyên tạc liên quan đến lĩnh vực QPAN mà các thế lực thù địch tung ra hoàn toàn là những thông tin vu khống, bịa đặt, không đúng sự thật về tình hình QPAN của đất nước. Đó là những thông tin không có căn cứ khoa học, thực tiễn, hoặc là những thông tin, luận điệu dựa trên những sự kiện QPAN có thật, đã và đang diễn ra nhưng được lập luận theo lối xảo trá, “đánh lận con đen”, thêu dệt, thổi phồng một cách vụng về, nhằm xuyên tạc bản chất, hướng người nghe, người đọc đến những suy diễn tiêu cực, kích động người tiếp nhận thông tin tiến hành các hoạt động biểu tình, chống phá gây mất trật tự an ninh, an toàn xã hội.

Đảng ta, khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt. Kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch”5.

Để xuyên tạc, phủ nhận quan điểm, chủ trương của Đảng về QPAN, BVTQ các thế lực thù địch, cơ hội phản động đã tập trung tuyên truyền, xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vì sợ mất vị trí, vai trò lãnh đạo, cầm quyền đất nước và xã hội mà ám ảnh, hù dọa về âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ, về nguy cơ xung đột vũ trang, chiến tranh xâm lược,… lấy đó làm cái cớ để tuyệt đối hóa, đề cao nhiệm vụ củng cố QPAN, BVTQ, xem nhẹ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Thâm độc hơn, chúng triệt để lợi dụng những khó khăn về kinh tế – xã hội để tuyên truyền, xuyên tạc Đảng, Nhà nước ta tập trung quá nhiều nguồn lực cho QPAN, quân đội, công an gây lãng phí nguồn lực, đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, tiêu cực, không ai kiểm soát được, làm cho đất nước rơi vào tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Chúng tìm mọi thủ đoạn để phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với quân đội nói riêng và sự nghiệp QPAN, BVTQ nói chung. Chúng đòi “phi chính trị hóa” quân đội, tách quân đội khỏi sự lãnh đạo của Đảng; hô hào: “Quân đội nên trung lập, đứng ngoài chính trị” và “chỉ tuân theo pháp luật”,… xuyên tạc, phủ nhận bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp, mục tiêu lý tưởng chiến đấu, chức năng, nhiệm vụ của quân đội; thổi phồng hạn chế, khuyết điểm và vu cáo, nói xấu, bôi nhọ các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy cao cấp của quân đội,…

Để thực hiện các hoạt động tuyên truyền xuyên tạc, ngoài việc sử dụng các phương tiện truyền thống, hiện nay chúng triệt để lợi dụng Internet với các trang mạng của một số đài nước ngoài phát tiếng Việt, đặc biệt là Facebook và Blog (với khả năng siêu kết nối, Facebook đang là lựa chọn số một cho hoạt động tuyên truyền, xuyên tạc của chúng). Đối tượng chúng hướng đến để tuyên truyền những thông tin, luận điệu xuyên tạc là các tầng lớp nhân dân, nhưng trọng tâm, trọng điểm là giới trẻ (thanh niên, học sinh, sinh viên) nhằm tạo lập lực lượng đối lập với Đảng, Nhà nước ta. Các hoạt động thông tin và luận điệu xuyên tạc trên lĩnh vực QPAN được tiến hành ở mọi thời điểm, nhưng cường độ cao và quyết liệt nhất vẫn là vào các ngày lễ lớn của dân tộc, khi diễn ra sự kiện chính trị quan trọng của đất nước, các hoạt động đối ngoại, nhất là đối ngoại QPAN hoặc khi tình hình an ninh, chính trị – xã hội, tình hình biên giới, biển, đảo có những diễn biến phức tạp, nhạy cảm.

Mục đích của những thông tin và luận điệu xuyên tạc của chúng là phủ định sự lãnh đạo của Đảng ta đối với quân đội và công an, vô hiệu hóa quân đội, công an khi đất nước có biến động; làm xấu hình ảnh của quân đội và công an trước Nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhằm tạo ra sự nghi ngờ, gây tâm lý hoang mang trong Nhân dân, làm xói mòn niềm tin của Nhân dân vào đường lối lãnh đạo, cách thức giải quyết sự việc liên quan đến QPAN của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, truyền bá tư tưởng, đạo đức, lối sống phương Tây vào quân đội, công an, làm cho cán bộ, chiến sĩ mơ hồ, lơi lỏng nhiệm vụ, rơi vào lối sống thực dụng, từng bước tác động nhằm làm phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, tính Nhân dân, tính dân tộc và truyền thống tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”. Các thế lực thù địch, cơ hội phản động đã sử dụng nhiều chiêu thức, thủ đoạn mới vô cùng tinh vi, nham hiểm và ngụy tạo dưới lớp vỏ là “yêu nước, vì dân, khách quan, khoa học”,… Song thực chất đây là những luận điệu hết sức phản động, phản khoa học hòng gây hoang mang, hoài nghi, làm giảm sút lòng tin của cán bộ, đảng viên (CBĐV) và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng đối với nhiệm vụ QPAN, BVTQ trong tình hình mới.

 Đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch

Quán triệt quan điểm của Đảng: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, vùng trời, vùng biển; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển”6. Với phương châm: “Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, phản động và cơ hội chính trị”7, cần thực hiện tốt một số biện pháp sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức, tinh thần cảnh giác cách mạng của CBĐV và quần chúng nhân dân trước những thông tin và luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về QPANBVTQ.

Đây là nhiệm vụ, giải pháp quan trọng hàng đầu và có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đấu tranh phản bác các luận điệu sai trái, thù địch về lĩnh vực QPAN, BVTQ. Bởi vì, chỉ có nhận thức đúng tính chất nguy hại về bản chất, âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động về lĩnh vực này mới có ý thức cảnh giác, đề phòng. Do đó, công tác giáo dục, tuyên truyền cho CBĐV, quần chúng nhân dân về lĩnh vực QPAN phải đặc biệt coi trọng, phải làm cho CBĐV và quần chúng nhân dân thấy rõ đâu là thông tin chính thống, đâu là thông tin bịa đặt, nhằm dụng ý xấu để cảnh giác. Đổi mới nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục đối với CBĐV, các tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ, nhằm nâng cao “sức đề kháng”, khả năng chủ động đấu tranh, phản bác những quan điểm sai trái, thù địch.

Công tác tuyên truyền phải được tiến hành một cách kiên trì, bền bỉ, thường xuyên, liên tục, chú trọng những vùng có lịch sử chính trị – xã hội phức tạp, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, nơi đông đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo sinh sống; địa bàn có vị trí chiến lược về QPAN. Nội dung cần tập trung tuyên truyền làm rõ đường lối, quan điểm của Đảng về nhiệm vụ QPAN; vị trí, vai trò của công tác QPAN, mối quan hệ giữa an ninh và quốc phòng, giữa phát triển kinh tế, xã hội với bảo đảm QPAN; an ninh biên giới, an ninh biển; chủ quyền biển đảo; quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại; làm rõ âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động về nhiệm vụ QPAN, BVTQ trong tình hình mới. Phương thức tuyên truyền cần đa dạng, phong phú, thông qua hệ thống các tổ chức, phương tiện thông tin đại chúng, báo chí, các trang mạng xã hội, qua giáo dục, phổ biến, bồi dưỡng kiến thức QPAN cho các đối tượng.

Hai là, cung cấp thông tin về lĩnh vực QPAN đến CBĐV và quần chúng nhân dân một cách kịp thời, chính xác, khách quan, trung thực.

Đây là giải pháp rất quan trọng, nhất là trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực có nhiều biến động hết sức nhanh chóng, phức tạp, khó lường; các cường quốc cạnh tranh gay gắt, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển, đảo diễn ra căng thẳng, quyết liệt, phức tạp, tiềm ẩn nhiều yếu tố gây mất ổn định. Trong điều kiện đất nước có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức; đặc biệt là những tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Đông đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới nặng nề, phức tạp đối với sự nghiệp xây dựng và BVTQ. QPAN là lĩnh vực đặc thù, có liên quan trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia, dân tộc.

Trong thời đại phát triển của cách mạng khoa học công nghệ thông tin bùng nổ, một sự kiện xảy ra chỉ trong thời gian rất ngắn đã lan khắp toàn cầu. Vì vậy, càng chủ động giữ vững trận địa thông tin, cung cấp thông tin chính thống, kịp thời và minh bạch, càng ngăn chặn được các luồng thông tin thất thiệt, thổi phồng, bóp méo, xuyên tạc sự việc, hoặc suy diễn tiêu cực, gây hoang mang, lo lắng, bán tín bán nghi trong xã hội. Tuy nhiên, trừ các thông tin bí mật quân sự, bí mật quốc gia, các thông tin khác, nhất là về các sự kiện lớn, đột xuất, phức tạp, nhạy cảm, có thể gây bất ổn xã hội, thì luôn cần có thông tin chính thống, kịp thời từ cơ quan chức năng, từ người có thẩm quyền phát ngôn cho báo chí, đó chính là sự định hướng dư luận nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả nhất.