Thứ Sáu, 31 tháng 3, 2023

PHÊ PHÁN QUAN ĐIỂM “Ở VIỆT NAM KHÔNG CÓ NHÂN QUYỀN”!

     Trong thời gian vừa qua, các thế lực thù địch trong và ngoài nước tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Trong đó, tự do ngôn luận, tự do báo chí đang là một mục tiêu xuyên tạc, bôi nhọ. Mới đây, trên trang “Rfavietnam”, Đài RFA đăng bài “Nhiều tổ chức XHDS kêu gọi Quốc hội Châu Âu gây sức ép mạnh hơn lên Việt Nam về vấn đề nhân quyền” và cho rằng: “Nhà nước độc đảng ở Việt Nam đã vi phạm các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, và quyền người lao động”. Nội dung của bài viết là những luận điệu sai trái, thiếu thiện chí, cố tình đưa ra những nhận định, đánh giá sai lệch, thiếu khách quan về tình hình tự do ngôn luận, tự do báo chí để vu cáo Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền hòng hạ thấp uy tín nước ta trên trường quốc tế.
     Như chúng ta đã biết, tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, trong đó có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí là quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Với quan điểm đề cao vai trò của báo chí là diễn đàn của nhân dân, là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, để nhân dân trình bày những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình. Thông qua đó báo chí thực hiện chức năng phản biện xã hội, đề xuất những ý kiến tâm huyết đối với Đảng, Nhà nước, định hướng dư luận trong quá trình xây dựng, thực thi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự và an toàn xã hội.
     Thực hiện quan điểm đó, Nhà nước Việt Nam đặc biệt quan tâm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, quyền tiếp cận thông tin đã được Hiến pháp (năm 2013), Luật Báo chí (năm 2016), Luật Tiếp cận thông tin (năm 2016), Luật An ninh mạng năm 2018 quy định trách nhiệm của Nhà nước: tạo điều kiện thuận lợi để công dân thực hiện quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận; bảo đảm mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin; bảo đảm cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ, kịp thời, minh bạch, thuận lợi cho công dân. Việt Nam được đánh giá là quốc gia có lượng người dùng internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ sáu trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á. Pháp luật Việt Nam cũng như nhiều quốc gia trên thế giới chỉ cấm báo chí tuyên truyền kích động bạo lực, tuyên truyền cho chiến tranh, gây chia rẽ đoàn kết dân tộc và bài kích chống đối chế độ. Đó là minh chứng sinh động cho việc bảo đảm quyền tự do báo chí ở Việt Nam, phản bác luận điệu vu cáo cho rằng “Tự do báo chí ở Việt Nam ngày càng suy giảm”.
     Mặt khác, không chỉ ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới cũng cho thấy, quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin không phải là quyền tuyệt đối mà là quyền có giới hạn. Tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin được xem là nguyên tắc cơ bản cho một nền dân chủ, thậm chí được ví như là “khí ôxy” trong một xã hội dân chủ và phát triển; nhưng không được cộng đồng quốc tế thừa nhận là quyền tuyệt đối. Các văn kiện quốc tế về quyền con người, như: Tuyên ngôn Thế giới về quyền con người năm 1948 (Điều 29), Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966 (Điều 19) đều khẳng định: việc thực hiện quyền tự do ngôn luận phải kèm theo những nghĩa vụ và trách nhiệm đặc biệt, có thể phải chịu một số hạn chế nhất định được quy định trong luật và là cần thiết nhằm tôn trọng các quyền hoặc uy tín của người khác; bảo vệ an ninh quốc gia hoặc trật tự công cộng, sức khỏe hoặc đạo đức của xã hội. Pháp luật của đa số các nước trên thế giới đều giới hạn quyền này, như: tại Mỹ, Bộ luật Hình sự (Điều 2.385, Chương 115) quy định về sự hạn chế của quyền tự do ngôn luận; tại Đức, Luật An ninh mạng năm 2015 (sửa đổi năm 2018), quy định những dịch vụ mạng xã hội có thể bị phạt lên đến 50 triệu Euro nếu để xảy ra trường hợp người dùng lăng mạ, gây thù oán, hay phát tán các tin tức giả mạo.
     Thực tế cho thấy, ở Việt Nam quyền tự do ngôn luận, bảo đảm nguyên tắc báo chí, nhà báo hoạt động trong khuôn khổ pháp luật và được pháp luật bảo hộ; nghiêm cấm mọi hành vi lạm dụng quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận trên báo chí để xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và công dân. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý theo trình tự, thủ tục luật định, bảo đảm công khai, minh bạch, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không làm oan người vô tội, cũng không bỏ lọt tội phạm. Bên cạnh việc bảo đảm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, Nhà nước Việt Nam đã tập trung xử lý các đối tượng lợi dụng phương tiện này để phục vụ cho mưu đồ chống phá, vi phạm quyền và lợi ích của Nhà nước và công dân theo pháp luật Việt Nam, điều này hoàn toàn phù hợp với luật pháp quốc tế. Thực tế đó là minh chứng vạch trần sự phiến diện, xuyên tạc về “Việt Nam gia tăng đàn áp quyền tự do ngôn luận” và “Tự do báo chí ở Việt Nam ngày càng suy giảm”.
     Tự do ngôn luận, tự do báo chí đối với các chế độ xã hội và nhà nước là một điều kiện bảo đảm quyền con người. Hơn thế nữa còn là một điều kiện quan trọng để phát triển xã hội trên các mặt, từ tư tưởng, chính trị đến kinh tế, xã hội và văn hóa. Tự do ngôn luận, tự do báo chí của người dân Việt Nam đã được hiến định bảo đảm bằng một hệ thống pháp luật minh bạch. Vì vậy, mọi người cần tỉnh táo, đề cao cảnh giác, đấu tranh phản bác mọi luận điệu xuyên tạc về quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí ở Việt Nam./.
Yêu nước ST.

TỈNH TÁO, NHẬN DIỆN ĐÚNG CÁC LUẬN ĐIỆU XUYÊN TẠC VỀ ĐỔI MỚI CHÍNH TRỊ -XÃ HỘI Ở VIỆT NAM!

     Hơn 36 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước phát triển mạnh mẽ, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật, đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt.
     Thế nhưng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn vẫn cố tình phủ nhận những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới trên lĩnh vực chính trị, xã hội. Họ ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại...

Thủ đoạn tinh vi,
khó lường  
     Về chính trị: Trước hết, họ tập trung phê phán, xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ cho rằng, đó là “chế độ đảng trị”, độc tài, mất dân chủ. Họ còn lợi dụng cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng” để xuyên tạc rằng, đó là bằng chứng của vấn đề “Đảng đứng trên luật pháp”, “quyền lực xã hội tập trung vào một số ít cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản”, “Đảng bao biện làm thay Nhà nước”... Vấn đề Nhà nước, họ xuyên tạc rằng: “Nói là Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng...”; “hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả”... Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, họ cho rằng: “Hoạt động chỉ là hình thức, kém hiệu quả”... Vấn đề xã hội, họ cho rằng: "Mất dân chủ, vi phạm nhân quyền...". 
     Nhận diện những vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, các đối tượng thường sử dụng internet, mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo... và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA, RFA, BBC, RFI... để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà họ thường sử dụng, đó là mượn các thông tin, sự kiện có thật đã xảy ra, được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hay được phát tán thông qua mạng xã hội để lồng ghép, biên tập, sửa chữa và thêm thắt các tình tiết ngụy tạo, bóp méo rồi được tung ra như một dạng thông tin chính thống. Sau đó, thông qua các hình thức tán phát, như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, hội luận, ý kiến chuyên gia, người trong cuộc, ngoài cuộc... để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo lịch sử, bóp méo sự thật. Cuối cùng, thông qua sự tương tác, bình luận (comment), ý kiến người đọc, người xem để định hướng dư luận theo ý đồ của họ. Với những thủ đoạn tinh vi, dàn dựng khá bài bản, có thể họ đã lừa phỉnh được một số người còn thiếu thông tin, nhận thức hạn chế, phiến diện. Thậm chí, có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, dao động, đã cố tình hoặc vô ý cổ xúy, tiếp sức cho các luận điệu sai trái, phản động, biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".
     Từ việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên lĩnh vực chính trị-xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng, vấn đề chính trị-xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm, chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn định chính trị, xã hội, mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, tất yếu dẫn tới rối loạn chính trị-xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, dẫn tới xóa bỏ chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta.

Thực tế sinh động,
minh chứng thuyết phục
     Thành tựu sau hơn 36 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn. Đó là, minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Nhìn lại lịch sử, những thành tựu đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính trị-xã hội với bước đi, hình thức phù hợp “toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(1). Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
     Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về năng lực điều hành, quản lý đất nước có nhiều chuyển biến mang tính đột phá. Hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng với quyết tâm cao, hiệu quả thiết thực. Phát huy được mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ nhanh, hiệu quả các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả tích cực.
     Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, với phương châm “Hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”(2) đã phát huy tốt chức năng, vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố được lòng tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn.
     Những kết quả đó khẳng định rằng đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn như hiện nay. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ, như: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy đầy đủ... những hạn chế đó không thể ngày một, ngày hai có thể khắc phục triệt để mà phải có một quá trình khắc phục kết hợp với đổi mới lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vấn đề là Đảng, Nhà nước đã thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục với quyết tâm cao nhất.
     Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế về đổi mới chính trị-xã hội ở Việt Nam trong sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển đất nước là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, là luận cứ đanh thép nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị thời gian qua./.
Yêu nước ST.

VIỆT NAM KIÊN QUYẾT PHẢN ĐỐI ĐÀI LOAN DIỄN TẬP BẮN ĐẠN THẬT Ở ĐẢO BA BÌNH THUỘC QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA CỦA VIỆT NAM!

     Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Đài Loan huỷ bỏ hoạt động diễn tập bắn đạn thật ở vùng biển xung quanh Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam!
     Trả lời câu hỏi về phản ứng của Việt Nam trước việc Đài Loan thông báo tiến hành tập trận bắn đạn thật ở vùng biển xung quanh Ba Bình, thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, Phó Phát ngôn Bộ Ngoại giao Việt Nam Phạm Thu Hằng nêu rõ:
     Như đã nhiều lần khẳng định, việc Đài Loan tổ chức diễn tập bắn đạn thật ở vùng biển xung quanh Ba Bình thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam là hành động xâm phạm nghiêm trọng chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam đối với quần đảo này; đe dọạ hoà bình, ổn định, an toàn, an ninh hàng hải; làm phức tạp thêm tình hình ở Biển Đông.
     Việt Nam kiên quyết phản đối và yêu cầu Đài Loan huỷ bỏ hoạt động trái phép nêu trên; không tái diễn vi phạm tương tự./.
Yêu nước ST.

TRUYỀN LỬA CHO BỘ ĐỘI ĐẶC BIỆT

 Trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên (nay thuộc thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) ngày 19-3-1948 đã mở ra lối đánh đặc công của Quân đội ta. Tiếp nối truyền thống hào hùng, kể từ khi thành lập ngày 19-3-1967 đến nay, Binh chủng Đặc công không ngừng xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, lập nên những chiến công huyền thoại.


Trận đánh đầu tiên


Chúng tôi có dịp trở lại thị xã Tân Uyên và tham quan các di tích lịch sử trên địa bàn, trong đó có di tích Chiến thắng tháp canh cầu Bà Kiên ở khu phố Diên Khánh, phường Thạnh Phước. Chị Lâm Thị Thùy Trang, chuyên viên Phòng Văn hóa và Thông tin thị xã Tân Uyên nhiệt tình giới thiệu với chúng tôi về truyền thống của Đảng bộ, nhân dân và các lực lượng vũ trang thị xã. Với niềm tự hào, chị giới thiệu về Chiến thắng tháp canh cầu Bà Kiên: “Cách đây 75 năm, đêm 18, rạng sáng 19-3-1948, tổ du kích huyện Tân Uyên do đồng chí Trần Công An, Xã đội trưởng xã Thạnh Hội, huyện Tân Uyên chỉ huy đã bí mật tiếp cận mục tiêu, tiêu diệt tháp canh, mở ra cách đánh đặc công mưu trí, sáng tạo, sử dụng lực lượng nhỏ, đánh hiểm, hiệu suất chiến đấu cao. Di tích Chiến thắng tháp canh cầu Bà Kiên đã được UBND tỉnh Bình Dương công nhận là di tích lịch sử cấp tỉnh, theo Quyết định số 674/QĐ-UBND ngày 10-3-2008”.


Năm 1997, tôi được nghe Đại tá Trần Công An (1920-2008) kể lại trận đánh này, khi ông cùng các cựu chiến binh về gặp mặt kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Binh chủng Đặc công. Năm ấy, Đại tá Trần Công An còn mẫn tiệp, nhanh nhẹn. Ông nhớ lại: “Tháp canh cầu Bà Kiên nằm trong hệ thống đồn bốt De Latour của Pháp, được xây rất kiên cố, gồm 3 tầng, mỗi tầng đều có lỗ châu mai, tường gạch dày 40cm, rộng 16m, cao 10m, được bảo vệ bằng hàng rào kẽm gai, đèn pha và mìn, lính canh phòng cẩn mật. Huyện đội Tân Uyên bấy giờ giao nhiệm vụ cho đội du kích do tôi chỉ huy tiêu diệt địch ở tháp canh. Nhận nhiệm vụ, tôi cùng đội du kích nghiên cứu tìm cách đánh địch. Tôi cùng đồng đội vào rừng Cò Mi suốt 3 tháng, lập một tháp canh như thật, rồi luyện tập kỹ thuật, hóa trang để thâm nhập vào tháp sao cho địch không phát hiện được. Khi luyện tập đã thành thục, đêm 18, rạng sáng 19-3-1948, đội du kích quyết định tấn công tháp canh.


Trực tiếp đánh tháp canh, tôi cùng hai đồng đội Trần Văn Nguyên và Hồ Văn Lung được trang bị một súng trường với 20 viên đạn, 10 lựu đạn và một thang cao 5m, bí mật tiếp cận địch ở tháp canh cầu Bà Kiên. Cả tổ 3 người hóa trang bôi kín bùn đất, trên người chỉ mặc mỗi chiếc quần xà lỏn, lợi dụng bóng đêm vượt qua hàng rào kẽm gai. Chúng tôi dùng thang cây áp sát vào tường để leo lên tháp canh và ném lựu đạn vào trong. Bị đánh bất ngờ, toàn bộ lính địch trong tháp canh bị tiêu diệt gọn, ta thu về 8 khẩu súng và 20 quả lựu đạn. Lực lượng của ta được bảo toàn. Từ kinh nghiệm đánh tháp canh cầu Bà Kiên, Tỉnh đội Thủ Biên (nay là các tỉnh: Đồng Nai, Bình Dương) và Bộ chỉ huy Khu 7 chỉ đạo các đơn vị vũ trang học tập, huấn luyện và tổ chức những trận đánh tháp canh đạt hiệu suất chiến đấu cao. Cũng từ trận đánh tháp canh cầu Bà Kiên, Huyện đội Tân Uyên đã thành lập Đại đội bộ đội địa phương Nguyễn Văn Nghĩa, nhiệm vụ chủ yếu là công đồn, đánh tháp canh trên địa bàn. Đại đội Nguyễn Văn Nghĩa được công nhận là đơn vị đặc công đầu tiên”.


Sau này, Đại tá Trần Công An còn huấn luyện, tổ chức bộ đội đánh nhiều trận theo lối đánh đặc công đạt hiệu suất chiến đấu cao. Vinh dự hơn là trong cuộc đời quân ngũ, ông có 7 lần được gặp Bác Hồ, được Bác trực tiếp tặng Huy hiệu của Người về những thành tích chiến đấu, đánh địch hiệu quả bằng lối đánh du kích, đặc công.


Người dũng sĩ số 1


Năm 1994, tôi đến gặp Thiếu tướng Mai Năng (1930-2019), Tư lệnh Binh chủng Đặc công, để lấy tư liệu viết bài cho Đặc san Sự kiện và Nhân chứng (nay là Nguyệt san Sự kiện và Nhân chứng). Công việc của Tư lệnh Binh chủng Đặc công rất bận nên ông hẹn dành cho tôi cuộc trò chuyện vào buổi tối. Trong căn phòng riêng, ông kể với tôi về cuộc đời mình, những trận đánh và các chiến dịch ông đã tham gia. Người lính đặc công rắn rỏi lật giở những trang ký ức đầy khói lửa nhưng rất hào hùng. Tôi nghe ông kể mà như vẫn còn thấy vọng về sóng sông Văn Úc (Hải Phòng), sóng biển Cửa Việt (Quảng Trị), sóng giội từ quần đảo Trường Sa (Khánh Hòa)... Những chiến trường ông đã đi qua, những trận đánh do ông chỉ huy đã làm bạt vía quân thù. Nhưng kỷ niệm sâu sắc nhất với ông là trận đánh sân bay Cát Bi (Kiến An, Hải Phòng) ngày 7-3-1954. Các chiến sĩ tham gia trận đánh này được Bác Hồ tặng danh hiệu “Dũng sĩ Cát Bi” và ông được đơn vị bình bầu là “Dũng sĩ số 1”.


Thiếu tướng Mai Năng quê ở thôn Xuân Dương, xã Ngũ Phúc, huyện Kiến Thụy, tỉnh Kiến An (nay là TP Hải Phòng). “Tôi nhập ngũ năm 1950, vào bộ đội địa phương tỉnh Kiến An. Ban đầu, tôi làm liên lạc, nấu ăn, rồi chuyển sang tổ trinh sát, đi xây dựng cơ sở trên địa bàn tỉnh Kiến An-Thiếu tướng Mai Năng kể-Trong hậu phương địch, nhiều địa bàn “trắng” cơ sở của ta, song tôi và các đồng đội đã kiên trì vận động nhân dân, làm cho dân tin tưởng và chở che cho bộ đội. Tháng 7-1953, bộ đội địa phương tỉnh Kiến An được giao nhiệm vụ đẩy mạnh đánh phá, quấy rối ở vùng hậu phương nhằm phân tán lực lượng địch, tạo điều kiện cho bộ đội chủ lực ta hoàn thành mục tiêu của Chiến cục Đông-Xuân 1953-1954. Tỉnh đội Kiến An đã lựa chọn, thành lập một đội gồm các cán bộ, chiến sĩ bộ đội địa phương có kinh nghiệm và quyết tâm chiến đấu cao, do đồng chí Đặng Kinh, Tỉnh đội trưởng (sau này là Trung tướng, Phó tổng Tham mưu trưởng) chỉ huy, có nhiệm vụ đánh vào sân bay Cát Bi, làm tê liệt, cắt đứt cầu hàng không của quân Pháp lên Điện Biên Phủ. Tôi được phân công vào Tổ trinh sát của đội”.


Ngày ấy, sân bay Cát Bi được địch canh phòng cẩn mật, với hệ thống hàng rào 7 lớp và vật cản nổ, mìn dày đặc. Để trinh sát, nắm rõ tình hình bố trí hỏa lực, đồn bốt, tháp canh và hoạt động bố phòng trong sân bay của địch, đồng chí Mai Năng và đồng đội phải xây dựng cơ sở, lấy được lòng tin của nhân dân, vì địch đã tạo nên “vành đai trắng” xung quanh sân bay.


Thiếu tướng Mai Năng nhớ lại: “Sau hơn 7 tháng xây dựng cơ sở, trinh sát nắm địch, 0 giờ ngày 7-3-1954, toàn đội chúng tôi gồm 32 người vào chiếm lĩnh vị trí xuất phát tiến công. Đội chia làm hai mũi vượt sông, vượt qua các hàng rào dây thép gai, bãi mìn vào tiếp cận sân bay. Tôi ở mũi 2 do đồng chí Đỗ Tất Yến làm mũi trưởng. Khi vượt qua hàng rào thứ 5 thì chúng tôi gặp một hồ nước rộng, cản trở việc hành quân. Chúng tôi phải vòng lại theo đường của mũi 1 để vào sân bay, kịp giờ hiệp đồng nổ súng đánh địch. Đến 1 giờ, toàn đội nổ súng, dùng lựu đạn và bộc phá tiêu diệt các hỏa điểm và máy bay của địch. Trận đánh chỉ kéo dài 15 phút, địch hoàn toàn bất ngờ, ta đã phá hủy 59 máy bay chiến đấu và máy bay vận tải cùng một số vũ khí, diệt nhiều tên địch, sau đó rút lui an toàn”.


Trận đánh sân bay Cát Bi đã tiêu hao phương tiện chiến tranh của địch, hỗ trợ đắc lực cho Chiến dịch Điện Biên Phủ và cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công trên các mặt trận, nhất là Điện Biên Phủ. “Để có thắng lợi này, chúng tôi đã có 230 ngày đêm vất vả trinh sát, bám trụ, với quyết tâm rất cao, song trên hết là phải dựa vào dân, xây dựng được cơ sở cách mạng vững chắc chúng tôi mới hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ”, Thiếu tướng Mai Năng khẳng định.


Vận dụng chiến lệ, phát triển cách đánh đặc công


Nhiều trận đánh điển hình làm nên chiến thắng vang dội của Bộ đội Đặc công đã trở thành huyền thoại, khiến kẻ thù khiếp sợ. Bác Hồ không chỉ khen ngợi mà còn tặng Bộ đội Đặc công danh hiệu “Đặc biệt” trong buổi lễ ra mắt Binh chủng Đặc công. Quốc hội cũng đã tặng Bộ đội Đặc công 16 chữ vàng “Đặc biệt tinh nhuệ, anh dũng tuyệt vời, mưu trí táo bạo, đánh hiểm thắng lớn”...


“Từ nhiều năm qua, Đảng ủy, Bộ tư lệnh Binh chủng Đặc công đã chỉ đạo các cơ quan, đơn vị đặc công toàn quân nghiên cứu tổng kết, đúc rút kinh nghiệm, biên soạn chiến lệ, tài liệu để huấn luyện, vận dụng vào tác chiến trong điều kiện mới. Toàn binh chủng hiện đã biên soạn hàng trăm chiến lệ, tổng kết các trận đánh của đặc công làm tài liệu huấn luyện bộ đội và nghiên cứu phát triển nghệ thuật tác chiến đặc công. Hằng năm, nhân dịp ngày lễ, kỷ niệm truyền thống, các cơ quan, đơn vị tổ chức gặp mặt các thế hệ, tổ chức để cựu chiến binh, những người trực tiếp chiến đấu đến nói chuyện, trao đổi kinh nghiệm chiến đấu với bộ đội. Qua đó, bộ đội không chỉ nâng cao trình độ kỹ thuật, chiến thuật mà còn được giáo dục truyền thống, khơi dậy niềm vinh dự, tự hào và xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, từ đó tạo động lực phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ...”, Đại tá Hoàng Anh Dũng, Trưởng phòng Tuyên huấn (Cục Chính trị Binh chủng Đặc công) cho biết.



SUỐT MỘT ĐỜI BÁC ĐÃ NGHĨ VỀ TA!

 

Suốt một đời Bác đã nghĩ về ta

Đến phút cuối tim Bác trào lên bút

Chữ xô dòng, lòng Bác buốt thương dân.

Ôi miền Nam không kịp nữa về thăm

Nỗi nhớ toả trên mọi nhà mọi ngõ,

Phút chia biệt Bác nói lời đoàn tụ

Câu dặn dò nghe ấm vị hàn huyên.

Bác đi rồi còn trao lại niềm tin

Con không khóc, nhưng cứ trào nước mắt

”... đến ngày đó, tôi sẽ đi khắp hai miền Nam Bắc”

Bác Hồ ơi! Ngày đó chẳng còn xa

Ai ngờ đâu, tháng 9 mồng 3...

Quá thương đời và lo nỗi dân đau,

Bác cố tránh nói những lời ly biệt

Mượn câu thơ để khuây lòng thương tiếc.

Ôi lòng Người đo sao hết mông mênh

Nghĩ việc gì Bác cũng nghĩ từ dân

Nói về Đảng cũng vì dân mà nói,

Nước còn giặc, dân còn khi lạnh đói

Bác đắng lòng trong mỗi miếng cơm ăn,

Thắng quân thù dẫu phải mấy mươi năm

Nhưng hạt thóc rụng giữa đồng Bác tiếc.

Nguồn biển lớn uống muôn đời không hết

Vẫn kính nhường từng hạt nước trong sông.

Bác Hồ ơi! Vị muối mặn con ăn

Đã kết đậm bao tình thương của Bác,

Manh áo ấm con mặc khi trở rét

Đã dệt vào trăm mối Bác lo toan.

Phút giã từ trong ánh mắt đăm đăm

Nỗi ưu ái lại trào lên lần chót:

Hãy giữ đức cho trong, giữ lòng cho khiết

Sống kiệm cần, tương kết tương thân...

Ôi giọng Người hiền như giọng cha ông

Cứ mộc mạc mà thấm vào mãi mãi,

Con nghe Bác hiểu thêm tầm thời đại

Sáng thêm lòng nhân ái Việt Nam ta.

Trọn một đời Bác chung thuỷ gần xa

Trăm ơn nghĩa luôn nặng đằm bên dạ.

Lời vĩnh biệt đã thành lời cảm tạ

Giọng khiêm nhường ôm bốn bể anh em.

Thế kỷ này đâu phải đã bình yên

Trái tim lớn nặng niềm đau mặt đất.

Tình bè bạn, phút ra đi, còn nhắc

Dao cắt lòng nhưng vẫn ngập yêu tin.

Lần đầu tiên Bác nói đến niềm riêng,

Cả nước khóc nghe những lời dặn cuối.

Ôi trời rộng và núi cao vời vợi

Sông biển nào sánh được Bác thương ta!

Bữa cơm ăn vẫn quen nhút quen cà,

Lúc nhắm mắt xin dâng đừng tang chế.

Thơ: Thấm trong Di chúc 



SỨC NÓNG THÔNG TIN VÀ HẬU QUẢ KHÓ LƯỜNG

 


Mạng xã hội là nơi cung cấp, khai thác, phản hồi thông tin nhanh chóng hiệu quả. Đồng thời, cũng là nơi để các đối tượng chống phá lợi dụng nhằm làm nóng thông tin mà điển hình gần đây nhất như vụ giáo viên cắt tóc nữ sinh; việc Hiệu trưởng của một trường cấp tiểu học tác động vật lý vào mặt giáo viên hoặc như việc “bơm nịnh nhau” của các “thợ diễn” Gameshow đã gây bức xúc trong cộng đồng. Phải khẳng định, hành động cắt tóc học sinh, tác động vật lý vào mặt giáo viên trước tập thể trường, lớp là việc làm rất đáng tiếc ở môi trường giáo dục và sự việc của các thợ diễn cũng đã gây ra nhiều điều tiếng chẳng hay ho gì. Tuy nhiên, khi tiếp cận thông tin hoặc tham gia bình luận một vấn đề nào đó. Chúng ta, đều phải tìm hiểu kỹ và có cái nhìn khách quan, nhiều góc độ; đưa ra những nhận định cụ thể, đúng đối tượng tránh việc “đánh đồng” làm ảnh hưởng đến tập thể, cộng đồng khiến dư luận thêm hoang mang, gây khó cho việc xử lý của các cơ quan chức năng liên quan.  


Từ vụ việc giáo viên cắt tóc học sinh tại lớp học. Nhìn từ góc độ Nhà trường cho thấy. Đa số các trường đều đã có những quy định riêng để duy trì nền nếp trường lớp. Việc quy định Học sinh không được sử dụng điện thoại, không được nhuộm tóc, không được để tóc bổ đôi, không được hút thuốc lá điện tử, không được xăm trổ... Đó là quy định rất cần thiết để môi trường giáo dục thực sự là nơi phát triển Nhân - Đức - Trí - Thể - Mĩ mà mỗi học sinh bắt buộc phải thực hiện cũng như mong muốn của các bậc phụ huynh khi gửi gắm con em mình. 


Xét về góc độ gia đình. Trước tiên, trên cương vị bậc làm cha, làm mẹ phải tự soi, tự sửa lại mình. Soi lại cách dạy con; Soi lại việc khai thác, sử dụng công nghệ của con mình; Soi lại trách nhiệm, vai trò phối kết hợp cùng nhà trường trong việc quản lý, dạy bảo thế hệ trẻ. Từ đó, xem mình đã cùng nhà trường làm tốt các vấn đề đó chưa? còn vướng mắc ở đâu để cùng bàn và đưa ra phương pháp quản lý thuyết phục các cháu đang ở độ tuổi "muốn thể hiện mình". Chỉ có như vậy, mỗi đứa trẻ sau khi hoàn thành việc học tập để bước ra đời sống xã hội mới có được nền móng, kiến thức toàn diện, phát triển vững chắc trước muôn vàn cám dỗ cũng như khả năng trụ vững trước những sóng gió cuộc sống.  


Thuật toán cho phép các nền tảng mạng xã hội tự tổng hợp, tạo sức lan từ mỗi sự kiện hoặc vấn đề nóng nếu nhiều người cùng tương tác. Do vậy, nếu chúng ta tiếp cận thông tin thiếu kiểm chứng, chủ quan, muốn thể hiện mình, muốn tỏ ra “ có đẳng cấp” cũng đồng nghĩa với việc tiếp tay cho vấn đề đó lan nhanh hơn, đi xa hơn. Từ đó, khiến sự việc khó kiểm soát, tạo dư luận không tốt cho cộng đồng hoặc gây khó cho công tác xử lý. 


Cắt tóc học sinh tại lớp, tác động vật lý vào mặt giáo viên thuộc cấp là việc làm thiếu tính giáo dục. Bởi, nếu tách từ Giáo Dục thành 2 chữ riêng biệt thì chữ Giáo có nghĩa là dạy dỗ, chỉ bảo, hướng dẫn. Còn chữ Dục của từ giáo dục có nghĩa là chăm sóc, nuôi nấng, sinh thành. Như vậy việc cắt tóc học sinh trước mặt cả lớp là việc làm thiếu ý nghĩa. Cho con mang điện thoại dùng trong giờ học; nhuộm tóc xanh, tóc đỏ; xăm trổ; hút hít; tác phong nhem nhuốc đến trường thì trách nhiệm đó thuộc về gia đình. Gia đình chưa cắt nghĩa được chữ Dục. Giáo dục muốn phát triển phải có sự vào cuộc của cả Gia đình - Nhà trường - Xã hội. Chỉ có như vậy mới đào tạo được những con người “vừa hồng, vừa chuyên”, mới có những thành quả giáo dục đạt chất lượng cao. Cũng như thực tế, trong các gameshow truyền hình hiện nay, rất nhiều người hoạt động trong lĩnh vực giải trí luôn xưng mình là nghệ sỹ, khiến cho khái niệm này bị lẫn lộn giá trị và việc tôn vinh lẫn nhau của một số người bị cộng đồng cho là cách làm, cách PR thô thiển.


Thực tế cho thấy, hiện nay rất nhiều cơ sở giáo dục còn để học sinh thản nhiên hút thuốc lá điện tử trong lộ giới mình quản lý, nhiều học sinh còn mang tệ nạn xã hội vào học đường, nhiều người hoạt động trong lĩnh vực giải trí có những phát ngôn thiếu chuẩn mực, bậy bạ trước công chúng nhưng cả Nhà trường và cơ quan quản lý văn hóa các cấp yếu kiểm soát, thiếu xử lý kịp thời. Hay, vì lý do nào đó mà sợ ảnh hưởng đến thành tích chung nên chưa đưa ra biện pháp giải quyết mang tính thống nhất, toàn diện, triệt để dẫn đến hệ quả khó lường, gây bất bình trong công chúng. Tình trạng trên nếu để kéo dài sẽ dẫn đến việc "tự hòa tan" trước luồng văn hóa ngoại lai, lệch chuẩn với giáo dục, xa rời văn hóa truyền thống. 


Thành quả phát triển công nghệ giúp mọi người tiếp cận thông tin nhanh hơn, giao lưu rộng hơn và trách nhiệm đấu tranh với những hành động, phát ngôn gây sốc, gây nhiễu cộng đồng phải là trách nhiệm của tất cả mọi người chứ không phải của riêng ai. Mỗi người đóng góp một lời bình luận có tính xây dựng, mang tính xác nhận, định hướng; thể hiện rõ tính đấu tranh với những cái xấu, việc làm chưa đúng là hành động cần thiết góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN cả trên đất liền, trên không, trên biển và cả trên không gian mạng xã hội./.


KHÚC QUANH LỊCH SỬ...

 

Ngày hôm qua 29/3, trong cuộc điện đàm cấp cao giữa Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng và Tổng thống Mỹ Joe Biden, Tổng thống Mỹ đã chính thức gửi lời mời Tổng bí thư Việt Nam thăm chính thức cấp nhà nước đến Mỹ.


Thời gian cụ thể của chuyến thăm sẽ do hai bên sắp xếp. Nhưng theo nhiều nguồn tin thì nó sẽ được diễn ra trong tháng 7/2023.


Trước đó, năm 2015 Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã đến Mỹ. Đó được coi là chuyến thăm "vô tiền khoáng hậu", khi lần đầu tiên trong lịch sử, Tổng Bí thư của một Đảng được đón tiếp tại Nhà Trắng (năm 2015 bác Trọng chỉ giữ chức Tổng Bí thư, và Nhà Trắng hay nói đúng hơn phòng Bầu Dục là nơi Mỹ chỉ tiếp nguyên thủ quốc gia).


Việc đón tiếp đặc biệt này thể hiện sự công nhận khác biệt giữa hai thể chế nhà nước. Và cũng từ đây, lằn ranh "Quốc - Cộng" đã bị xóa bỏ. Cũng phải thôi, lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc mới là giá trị cốt lõi, vì những giá trị ấy, người ta sẽ biết "buông bỏ" để tìm đến nhau.


Việt Nam cần Mỹ? Mỹ cần Việt Nam? Tùy giai đoạn mà cả hai cần hay không cần nhau, đó là do lịch sử, bởi lịch sử luôn có những khúc quanh! Chỉ mong cụ Tổng có sức khỏe tốt để chuẩn bị cho chuyến bay dài, còn nâng cốc với ông Joe Biden, như năm 2015 đã từng vậy!


P/s: Tỉ lệ dữ trự USD so với các đồng tiền khác trên toàn cầu đang tụt giảm nghiêm trọng, từ 72% năm 1999 xuống còn 59% năm 2022. Đã có nhiều quốc gia chấp nhận thanh toán mua dầu mỏ bằng Nhân Dân Tệ thay vì đồng bạc xanh (dollar), tương lai của Petrodollar khá mịt mờ. 


Nga đang thục hiện chiến lược chuyển trục sang châu phi, châu á rất thành công.


 Quan hệ Nga - Trung gắn bó, hợp tác, phát triển cực kỳ tốt đẹp sau gần 60 năm ghẻ lạnh.


  Khối Brics chắc chắn sẽ thêm khoảng 20 thành viên trong năm nay.


Nói vậy đủ hiểu hiện giờ trong quan hệ Việt - Mỹ ai cần ai hơn! Song chúng tớ vẫn luôn kiên định lập trường của mình trong quan hệ Quốc tế và giữ vững độc lập, tự chủ.



 Thư gửi cán bộ, nhân viên đang thực hiện nhiệm vụ GGHB ở ngoài nước của Thiếu tướng Hoàng Kim Phụng, Cục trưởng Cục GGHB Việt Nam 30/03/2023 


Thân gửi Thủ trưởng Mạc Đức Trọng, các Đồng chí Chỉ huy trưởng Lực Lượng Việt Nam tại các Phái Bộ, các Đồng Chí Tổ trưởng, các “Chiến Sỹ Mũ Nồi Xanh” Tại các Phái Bộ UNMISS, MINUSCA, UNISFA và Trụ sở LHQ,


Hôm nay, tôi viết thư này tới các Đồng Chí trong một bối cảnh rất đặc biệt, đó là ngày tôi bàn giao chức vụ Bí Thư Đảng ủy, Cục trưởng Cục Gìn giữ Hoà bình Việt Nam và chuẩn bị nghỉ chờ hưu từ ngày 01-04-2023. Tôi có mấy lời tri ân và tạm biệt, đến các Đồng chí!


Sự nghiệp GGHB LHQ của Đảng, Nhà nước, Quân đội ta là một lĩnh vực tác chiến mới mà các Đồng chí và tôi vinh dự được Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng BQP tin tưởng giao phó cho chúng ta gánh vác. Chúng ta đã vào cuộc bằng cả trái tim và khối óc của mình, bằng sự hăm hở của sức trẻ được cống hiến cho Tổ quốc. Trong gần 10 năm qua, các Đồng chí cùng tôi đã bền Bỉ, kiên cường dành hết tâm huyết, sức lực (kể cả Xương máu) để làm rạng rỡ hình ảnh Bộ Đội Cụ Hồ, làm lan tỏa những giá trị Nhân văn của một dân tộc Việt Nam yêu chuộng hoà bình trước bạn bè thế giới!


Lực lượng GGHB LHQ của Việt Nam chính thức ra đời khi Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng BQP ký quyết định thành lập Tổ sỹ quan đầu tiên gồm 5 Đồng chí (tháng 12-2013) và tôi được chỉ định làm Tổ trưởng.


Gần 10 năm xây dựng và trưởng Thành, chúng ta đã có được Trung tâm GGHB Việt Nam, rồi Cục GGHB Việt Nam như ngày nay. Từ 2 Sỹ quan đầu tiên được triển khai tháng 6-2014, đến nay ta đã có 1 Đội Công Binh với quy mô 184 đồng chí, một Bệnh viện dã chiến cấp 2 (với 63 Đồng chí) và 26 Sỹ quan hoạt động độc lập từ Trụ sở LHQ tại New York (Mỹ) đến các Phái Bộ LHQ tại Nam Xu Đăng, Cộng Hoà Trung Phi và khu vực Abyei. Chúng ta còn mở rộng Sự tham gia sang cả lĩnh vực hợp tác huấn luyện cùng Liên mình Châu Âu (EU) tại Cộng hoà Trung Phi với sự góp sức của 2 Sỹ quan “Mũ nồi xanh”.


Kết quả của chúng ta trong gần 10 năm qua đã được lãnh đạo LHQ, chỉ huy Phái Bộ, bạn bè quốc tế hoạt động cùng tại các Phái Bộ, được Chính quyền và nhân dân nước sở tại ngưỡng mộ và đánh giá cao. Những kết quả “hoàn thành xuất sắc” nhiệm vụ mà Chỉ huy phái bộ đánh giá về các đồng chí, những luống rau xanh mà các đồng chí trồng ở mảnh đất khô cằn Châu Phi, những chiếc khẩu trang các đồng chí tự tay may tặng trong Đại dịch Covid19, những giờ lên lớp cho trẻ nhỏ và khám bệnh từ thiện cho người dân… tại các Phái bộ LHQ đã trở thành những “nghĩa cử biết nói” để chúng ta đến gần hơn với bạn bè quốc tế, để chúng ta đền đáp Công ơn của các dân tộc Á, Phi, Mỹ la tinh đã ủng hộ chúng ta trong các cuộc đấu tranh giải phóng đất nước và bảo vệ tổ quốc trước đây, Đồng thời cũng góp phần vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc từ xa trong tình hình mới

Các đồng chí thân mến!


Trong gần 10 Năm qua, chúng ta đã được Sự chỉ đạo sát sao và Sự quan tâm hết mực của Quân ủy Trung ương, Thủ trưởng BQP, Thủ trưởng BTTM, Tổng cục Chính trị, được sự ủng hộ to lớn của các Ban, Bộ, Ngành, sự đồng hành của các cơ quan đơn vị trong toàn quân (trong đó cần nhắc đến Bệnh viện Quân y 175, Học Viện Quân y, Binh chủng Công binh, Binh chủng Đặc Công và nhiều đơn vị đóng góp quân khác) với Cục GGHB Việt Nam. Cục chúng ta đã vinh dự được Chủ tịch nước tặng thưởng 1 Huân chương BVTQ hạng nhì, 1 Huân chương BVTQ hạng Ba. Cá nhân tôi vinh dự được nhận 3 Huân chương BVTQ (1 hạng nhất và 2 hạng Ba) và nhiều bằng khen, giấy khen khác. Cũng ở Cương vị là người đứng đầu các lực lượng GGHB Việt Nam, tôi đã được Đảng, Nhà nước thăng quân hàm cấp tướng (tháng 2-2019).


Tôi luôn ý thức rằng: Trong mỗi tấm Huân Chương mà tôi đeo trên ngực, trong mỗi tia sáng lấp lánh của ngôi sao trên Cầu vai tôi là cả gánh nặng của những giọt mồ hôi mà các bạn cùng tôi đã đổ xuống, là những giọt nước mắt của vợ (chồng), của con các đồng chí khi các đồng chí xa Nhà sang Phái Bộ, là máu xương mà Liệt Sỹ Đỗ Anh đã dâng hiến cho Sự nghiệp cao cả này!


Các đồng chí thân mến!


Hôm nay, tôi viết mấy dòng này để chia tay các đồng chí. Tôi về nghỉ sau hơn 42 năm phục vụ trong Quân đội, nhưng các đồng chí tiếp tục ở lại, tiếp tục làm việc và cống hiến. Chia tay các đồng chí là chia tay những người anh em cùng chiến hào, những người đã Đồng cam cộng khổ với tôi và cũng là những người góp phần làm lên hai Chữ “Tự hào” khi tôi nghĩ về cuộc đời binh ngũ của mình !


Chúc các đồng chí mạnh khỏe và thành công!


Chào thân ái,


Thiếu tướng HOÀNG KIM PHỤNG - Cục trưởng Cục Gìn giữ hoà bình Việt Nam

NGƯỜI LÃNH ĐẠO DÂN TIN YÊU

 Bác nay 79 tuổi xuân 

55 tuổi Đảng chí nhân sáng ngời 

Vì dân vì nước trọn đời 

Bác người lãnh đạo tuyệt vời dân tin 


Công minh sáng suốt thanh liêm 

Đốt lò đưa vận nước lên mạnh giàu 

Chống tham nhũng diệt mọt sâu 

Điều dân mong ước từ lâu đã thành


Trọng tình nghĩa giữ thanh danh 

Đức tài hội tụ tiếng lành vang xa 

Tổng bí thư của nước ta 

Bác Nguyễn Phú Trọng dân ca ngợi nhiều 


Bạn bè quốc tế tin yêu 

Tuổi cao chí lớn sớm chiều lo toan 

Gánh gồng việc nước gian nan 

Thời kì đại dịch muôn vàn khó khăn 


Giữ nền kinh tế vững chân 

Khi cơn suy thoái lây lan toàn cầu

Ngoại giao kết bạn năm châu 

Cương nhu đúng lúc tre đâu cúi đầu 


Chủ quyền toàn vẹn khắc sâu 

Dang tay giúp bạn ta đâu ngại ngần 

Việt Nam vị thế nâng tầm 

Là nhờ lãnh đạo có tâm có tài 

Dân tin Đảng mạnh không sai

Việt Nam vững bước tương lai sáng ngời./.



LẠI NHỮNG ĐÁNH GIÁ SAI LỆCH VỀ SÁCH TRẮNG TÔN GIÁO Ở VIỆT NAM

 

Mới đây, ngày 9/3/2023, Bộ Thông tin và Truyền thông và Ban Tôn giáo Chính phủ đã ra mắt Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam. Cuốn sách cung cấp những thông tin cơ bản về tôn giáo ở Việt Nam; chính sách tôn giáo ở Việt Nam; thành tựu cũng như thách thức của Việt Nam trong việc bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo. Qua đó khẳng định chính sách nhất quán của Việt Nam về tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo.

Sau khi Bộ Thông tin và Truyền Thông, Ban Tôn giáo Chính phủ ra mắt Sách trắng, ngay lập tức một số trang báo điện tử như VOA, RFI, RFA… cùng nhiều trang mạng của các tổ chức, cá nhân chống đối đã có những bài viết, bình luận sai trái, đánh giá một cách tiêu cực về cuốn sách này. Họ cho rằng, việc cho ra đời cuốn sách này là “bức bình phong” nhằm che đậy các vi phạm kéo dài tại Việt Nam... Đánh giá này được dựa trên nhận định của số đối tượng cực đoan, chống đối trong các tôn giáo như Thích Vĩnh Phước, một thành viên thuộc tổ chức Giáo hội Phật giáo Việt Nam thống nhất; linh mục Đinh Hữu Thoại, thuộc Dòng Chúa Cứu Thế Việt Nam; Lê Quang Hiển, thuộc tổ chức Phật giáo Hòa Hảo thuần túy… Các cá nhân trên đều là thành viên của tổ chức bất hợp pháp với danh xưng “Hội đồng Liên tôn Việt Nam”; đều thuộc các phần tử chống đối, có quá trình tu tập kém, ít chăm lo cho việc đạo nên uy tín, năng lực yếu kém, không được trọng dụng. Từ đó, số này tỏ ra bất mãn và đã ly khai khỏi các tôn giáo, tổ chức tôn giáo, sau đó liên kết lại với nhau thành lập một tổ chức bất hợp pháp mang danh nghĩa tôn giáo để phục vụ ý đồ, động cơ cá nhân chứ không đại diện cho bất kỳ một tổ chức tôn giáo nào. Do đó, những phát ngôn, nhận định mà họ chia sẻ với phóng viên của các trang báo điện tử nêu trên cũng chỉ mang tính chủ quan, phiến diện một chiều, mang tính thù địch với Việt Nam của một nhóm nhỏ có chung lợi ích.

Thực tế, trong thời gian Đảng, Nhà nước ta luôn quan tâm đến nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo chính đáng của nhân dân. Nhờ đó mà số lượng chức sắc, tín đồ, cơ sở thờ tự ngày càng tăng, quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo của nhân dân được đảm bảo tốt hơn, các cơ sở thờ tự ngày càng được khang trang, quan hệ quốc tế của các tôn giáo ngày càng được mở rộng...

Đặc biệt, các hoạt động tôn giáo lớn đã trở thành lễ hội của người dân Việt Nam như: Giáo hội Phật giáo Việt Nam 3 lần đăng cai tổ chức Đại lễ Phật đản Liên hợp quốc VESAK; ngày Lễ Giáng sinh của người Công giáo ở khắp mọi miền đất nước cũng đã trở thành một lễ hội thu hút sự quan tâm của đông đảo người dân Việt Nam... Vừa qua, giáo tỉnh Hà Nội cũng đã tổ chức thành công Đại hội Giới trẻ tại Khu Di tích lịch sử Đền Hùng với sự tham gia của Tổng Giám mục Marak zelewki – Đặc phái viên không thường trú của Tòa Thánh Vatican tại Việt Nam cùng các vị lãnh đạo giáo hội và khoảng 15 nghìn giáo dân là thanh niên, học sinh, sinh viên người Công giáo...

Nếu như thực sự khách quan thì phóng viên của VOA, RFI, RFA, BBC… cần dẫn chứng thêm những nhận định, quan điểm của những vị lãnh đạo trong các tổ chức giáo hội đã được Nhà nước ta công nhận tư cách pháp nhân, họ mới chính là người đại diện cho giáo hội, cho lợi ích của đại đa số chức sắc, tín đồ trong các tôn giáo Việt Nam.

Do đó, một lần nữa cần khẳng định, việc phê phán Sách trắng Tôn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam là một chiêu trò nhằm chính trị hóa, quốc tế hóa vấn đề tôn giáo ở Việt Nam hòng phủ nhận những thành quả từ những chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta.


XIN ĐỪNG "NÉM ĐÁ" VÀO TẤM LÒNG THẦY CÔ

 

Giáo dục luôn là lĩnh vực được quan tâm hàng đầu của bất cứ xã hội nào, bởi đó là ngành nghề đào tạo con người, định hình tương lai của thời đại. Vì vậy, bất cứ một hiện tượng, vấn đề nào nổi lên liên quan đến giáo dục đều được bình luận, phản ứng dữ dội thông qua truyền thông đại chúng.

Ngẫm về "người thầy" ngày nay

Nghề giáo mang tính đặc thù riêng bởi đó là ngành đào tạo con người. Ngoài truyền đạt kiến thức, dạy nghề thì người thầy còn phải hướng dẫn các học trò của mình hướng tới những giá trị về đạo đức, nhân cách, sống có lí tưởng, hoài bão mà nghĩ tới tương lai. Chính vì thế mà những người thầy dù ở thời kì nào cũng mang một vị thế rất riêng.

Là người đang công tác trong ngành giáo dục, đã nhiều năm đứng lớp nên tôi vẫn có thói quen là thường xuyên theo dõi chủ đề giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng. Lĩnh vực giáo dục gần đây được đặc biệt nhắc đến nhiều một phần do đây là thời kì quá độ để đổi mới giáo dục - hướng tới một phương pháp dạy và học hướng trung tâm về phía người học.

Thời kinh tế thị trường - thời mà văn hóa, đạo đức truyền thống ít nhiều đã thay đổi về mặt quan điểm qua thời gian. Có những người thầy, người cô đã tự đ.ánh m.ất m.ình, không vượt qua được những c.ám d.ỗ, không ý thức được vai trò và lý tưởng nghề nghiệp, chạy theo lối sống thực dụng. Điều này đồng nghĩa với sự thật là hình tượng "người thầy" đang bị th.ách th.ức trước xã hội hiện tại.

Những bài viết về thầy cô, về ngành giáo dục thì phản ánh điều tốt cũng nhiều, nhưng nêu cái đáng chê trách cũng không ít. Sự thật là điều tốt lại khiến cho dư luận hoài nghi. Cái xấu, cái chưa tốt, chưa phù hợp, cái bất cập thì nhận được quá nhiều những l.ời th.ị ph.i, bàn tán…

Hình ảnh "người thầy" trên mạng xã hội

Thời đại 4.0 giúp mỗi công dân đều có thể tương tác với thông tin và một bài báo đăng tải sẽ nhận được nhanh chóng phản hồi của bạn đọc. Có những phản hồi trúng, đúng, cảm thông nhưng có những phản hồi rất vô lối, phiến diện, thiếu kiểm soát về mặt ngôn ngữ nhằm th.óa m.ạ ngành giáo dục, nhắm vào thầy cô đang đứng lớp. Cho dù bài báo đó không đề cập đến những cái xấu, cái th.a h.óa của ngành và không nói trên bình diện chung, chỉ đề cập đến một sự việc, hiện tượng.

Khi các trang mạng xã hội chia sẻ lại các bài báo thì không biết bao nhiêu những bình luận, l.ời l.ẽ t.ục t.ĩu hướng vào cá nhân vi phạm. Cao trào, người tham gia mạng xã hội không kiểm soát được cảm xúc, k.éo cả ngành giáo dục vào để x.úc ph.ạm, đánh đồng, chỉ trích.

Những ai đang làm nghề giáo sẽ cảm nhận được những áp lực và hiểu hơn hết những bất cập trong ngành giáo dục. Vì thế, những bài báo được đăng tải cũng là tiếng lòng của thầy cô đang nói về những điều chưa phù hợp để góp phần hướng tới cái tốt, cải thiện hệ thống chính sách để ngành giáo dục và các thầy cô có thể toàn tâm cho giảng dạy, để giữ trọn vai trò của một người thầy.

Mỗi gia đình, mỗi bậc cha mẹ chỉ có 1-2 con mà đôi lúc chúng ta còn phiền muộn, m.âu th.uẫn trong nuôi dạy con cái. Chúng ta luôn cảm thấy thiếu thời gian gần gũi, tâm sự với con em mình. Vẫn còn đó nhiều gia đình phải b.ất l.ực trước con cái, trong khi các bậc phụ huynh được toàn quyền dạy dỗ.

Vậy thì, với phương châm "cô giáo như mẹ hiền" - các thầy cô đi qua bao thế hệ học trò, mỗi ngày dạy hàng trăm học sinh, hàng trăm tính cách khác nhau thì sẽ ắt sẽ khó khăn hơn rất nhiều.

Nên giữ thái độ công bình khi nêu quan điểm về giáo dục

Một bài báo phản ánh một cá nhân, một người thầy chưa tốt, chưa phù hợp với đạo đức của ngành cũng khiến hàng triệu thầy cô chạnh buồn. Nỗi đ.au đ.ớn tăng thêm rất nhiều khi cộng đồng mạng "té nước theo mưa" ch.ửi b.ới, m.iệt th.ị các thầy cô và ngành giáo dục. Nói như cộng đồng mạng là "n.ém đ.á" cả ngành giáo dục.

Nói lên tiếng nói cá nhân là tự do phát ngôn của mỗi người, phản hồi các bài báo cũng là tương tác cần thiết giữa bạn đọc với tòa soạn báo và tác giả. Song, chúng ta bình luận như thế nào để xây dựng giá trị cao đẹp của cuộc đời? Nếu ta bình luận về một việc cụ thể, đúng sai về mặt quan điểm, bám sát vào nội dung bài viết thì không nói làm gì. Nhưng nhiều bạn đọc bình luận theo kiểu m.ạt s.át, x.úc ph.ạm thì có nên không?

Nói về danh nghĩa "phụ huynh học sinh" - gần đây rất nhiều người hiểu quyền lực vô hình của 4 chữ này. Đa số những bình luận, phản hồi trên mạng xã hội là của người đã trưởng thành. Trong số đó có người xưng là cán bộ công chức ngành này, ngành khác, rồi nêu danh nghĩa phụ huynh học sinh… Chúng ta có gia đình và có con cái đồng nghĩa với việc có quyền lên tiếng về quyền trẻ em. Tuy nhiên, trách nhiệm bảo ban, dạy dỗ con em mình cũng thuộc về chúng ta. Nếu chúng ta có lòng cảm thông chia sẻ với những khó khăn của người khác sẽ là tấm gương cho con em mình nữa!

Chỉ vì một vài hiện tượng, một sự việc mà ch.ửi cả ngành, cả hàng triệu con người sao? Nhà giáo có niềm tự hào nghề nghiệp rất lớn và vì vậy càng tự trọng - xin đừng làm t.ổn th.ương họ.

Người Việt Nam ta từ xưa đến nay vẫn coi trọng lễ giáo, nghĩa tình đối nhân xử thế. Xã hội càng hiện đại càng đòi hỏi mỗi con người trưởng thành chúng ta lưu giữ những giá trị tốt đẹp của dân tộc. Giữ được sự công bình trong lời ăn - tiếng nói là việc tu thân - tề gia như người xưa vẫn dạy.


CẢNH GIÁC VỚI ÂM MƯU XÚI GIỤC, KÍCH ĐỘNG THANH NIÊN

 Đúng vào dịp tuổi trẻ cả nước tổ chức các hoạt động chào mừng kỷ niệm 92 năm Ngày thành lập Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, các thế lực thù địch, phản động, bất mãn gia tăng chống phá với các luận điệu, như: “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên”; "nhiệm vụ của thanh niên là phải đứng lên đấu tranh chống độc tài, đòi tự do, dân chủ”.

Có thể thấy, âm mưu lợi dụng “tự do, dân chủ” để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta là vấn đề không mới. Tuy nhiên, dịp này, các thế lực phản động tập trung hướng vào kêu gọi, kích động đối tượng thanh niên càng cho thấy dã tâm và sự nham hiểm của chúng. Nếu những người trẻ tuổi thiếu hiểu biết và bản lĩnh sẽ dẫn tới hoài nghi, dao động, phai nhạt lý tưởng, bị kẻ xấu kích động, lôi kéo.

Thực tiễn đã chứng minh, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng, bảo đảm quyền tự do, dân chủ, chăm lo cho lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các tầng lớp nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đặc biệt, trong suốt quá trình cách mạng, Đảng, Nhà nước luôn đặt niềm tin và đánh giá cao vai trò, vị trí, sứ mệnh to lớn của thanh niên; xác định thanh niên là rường cột của nước nhà, Đoàn Thanh niên là cánh tay đắc lực, là đội hậu bị tin cậy của Đảng. Cả hệ thống chính trị quan tâm, chăm lo cho thanh niên và tổ chức đoàn, phát huy vai trò xung kích của thanh niên trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tạo điều kiện cho thanh niên có đại diện của mình trong các cơ quan Nhà nước, đồng thời ban hành nhiều chủ trương, chính sách phát huy quyền làm chủ và lắng nghe ý kiến của thanh niên... Cùng với đó, cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, tin tưởng giao nhiệm vụ, thử thách, cổ vũ, động viên thanh niên và các tổ chức của thanh niên thực hiện những chương trình, dự án, nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh... tạo thuận lợi để thanh niên trưởng thành, đảm trách những vị trí ngày càng quan trọng trong hệ thống chính trị.

Thực tế trên là rất rõ ràng và không ai có thể phủ nhận. Qua đó càng cho thấy, luận điệu quy chụp “Đảng, Nhà nước chà đạp lên tự do, dân chủ của thanh niên” là hoàn toàn sai trái. Âm mưu xúi giục, kích động thanh niên "đứng lên đòi tự do, dân chủ, chống độc tài” của các thế lực thù địch là hết sức phản động, thâm độc. Do vậy, mỗi người dân nói chung, thanh niên nói riêng cần hết sức cảnh giác, tỉnh táo để không rơi vào cái bẫy nham hiểm của những kẻ dã tâm chống phá đất nước, luôn tìm mọi cách "chọc gậy bánh xe", gây chia rẽ, mất đoàn kết trong nội bộ nước ta.

SỞ HỮU TOÀN DÂN VỀ ĐẤT ĐAI KHÔNG PHẢI LÀ NGUYÊN NHÂN CỦA THAM NHŨNG, TIÊU CỰC

 Về bản chất, sở hữu toàn dân về đất đai không phải là nguồn gốc của nạn tham nhũng, tiêu cực và thực tế phức tạp hiện nay về đất đai. Thực trạng quản lý, sử dụng đất đai đang đặt ra nhiều vấn đề phải giải quyết bắt nguồn không phải từ bản chất vốn có của sở hữu toàn dân về đất đai, mà bắt nguồn từ sự yếu kém kéo dài trong việc không hiện thực hóa thiết chế thực hiện chế độ sở hữu toàn dân về đất đai; bắt nguồn từ hệ lụy yếu kém trong quản lý đất đai.

Luật Đất đai năm 2013 và phương thức Nhà nước thực hiện luật nói trên có nhiều điểm chưa hợp lý cần phải khắc phục. Vấn đề gây bức xúc nhất hiện nay ở nước ta là ở chất lượng, thái độ thực thi Luật Đất đai của cơ quan và công chức nhà nước chưa tốt, tồn tại quá nhiều trường hợp lạm dụng quyền lực công phục vụ cho mục tiêu riêng của cá nhân, của gia đình, của nhóm lợi ích. Một số trường hợp cơ quan nhà nước thu hồi đất của dân không đúng quy định của pháp luật. Sự giàu có bất thường của không ít đại gia kinh doanh bất động sản ở nước ta thời gian qua có tác động từ mức chênh lệch giá quá lớn trong các dự án chuyển đổi đất nông nghiệp thành đất đô thị và giá đất đền bù cho người có quyền sử dụng đất hợp pháp. Tình trạng quy hoạch bị điều chỉnh tùy tiện, quy hoạch treo, tình trạng đất thu hồi bị bỏ hoang còn người mất đất lâm vào tình trạng thất nghiệp, khó khăn... cho thấy quản lý của Nhà nước chưa tương xứng với yêu cầu cần phải có trong chế độ sở hữu toàn dân.

Những vấn đề này không thể giải quyết bằng cách chuyển toàn bộ quyền quản lý đó cho khu vực tư nhân thông qua tư hữu hóa hoặc đa dạng hóa sở hữu đất đai. Vì làm như vậy thì chỉ khiến tình hình thêm phức tạp, những rủi ro khó lường hết hậu quả. Ngược lại, chỉ có thể giải quyết tốt các vấn đề này bằng việc đẩy mạnh cải cách trong các cơ quan nhà nước, minh bạch hóa, công khai hóa cơ chế quản lý, sử dụng đất đai; siết chặt kỷ luật và trách nhiệm giải trình của công chức và chuyển giao cho người dân những quyền mà người sử dụng đất thực thi có lợi hơn cơ quan nhà nước.

Để hạn chế tình trạng thu hồi đất một cách tùy tiện ảnh hưởng tới lợi ích của người sử dụng đất, Nghị quyết số 18-NQ/TW ngày 16-6-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII đã định hướng quy định cụ thể hơn về thẩm quyền, mục đích, phạm vi thu hồi đất, điều kiện, tiêu chí cụ thể việc Nhà nước thu hồi đất để phát triển KT-XH vì lợi ích quốc gia, công cộng. Tiếp tục thực hiện cơ chế tự thỏa thuận giữa người dân và doanh nghiệp trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất để thực hiện các dự án đô thị, nhà ở thương mại.

Đồng thời, có lẽ cần nghiên cứu phân chia địa tô chênh lệch giữa xã hội (mà Nhà nước là đại diện), người có đất bị thu hồi và người nhận đất sử dụng cho mục đích mới trong giá đất thu hồi. Nhà nước cũng phải nâng cao năng lực sử dụng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất với tư cách công cụ quản lý vì lợi ích quốc gia. Thực hiện được tốt những định hướng trên sẽ hạn chế được tác động tiêu cực của các nhóm lợi ích vào lĩnh vực đất đai.

Sở hữu toàn dân về đất đai tạo điều kiện để Nhà nước XHCN bảo vệ lợi ích của người dân tốt nhất. Những sai lầm và thiếu sót của cơ quan nhà nước thời gian qua trong lĩnh vực đất đai không phải là bản chất của Nhà nước XHCN và có thể sửa chữa được. Vì thế, cần tỉnh táo nhận thức rõ mưu đồ của kẻ xấu xuyên tạc chính sách đất đai của Đảng, Nhà nước ta hòng kích động, gây bất ổn môi trường CT-XH của nước ta. Từ đó, các cơ quan, bộ, ngành, đơn vị, địa phương cần vận động nhân dân tích cực đóng góp ý kiến chất lượng, hiệu quả cho dự thảo Luật Đất đai (sửa đổi), kịp thời nhận diện, đấu tranh với các luồng ý kiến sai trái.

Lợi ích của Đảng luôn thống nhất với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân

Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”, với tư cách là “đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam”, trước sau như một, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tuyệt đối trung thành và làm hết sức mình để bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân; đồng thời không ngừng củng cố và nâng cao sức mạnh, vị thế, uy tín của đất nước Việt Nam trên trường quốc tế. Việc Đảng ta luôn trung thành và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc bởi trước hết, Đảng ta là con nòi của dân tộc Việt Nam. Lịch sử hơn 90 năm qua đã khẳng định, ở Việt Nam, không lực lượng chính trị nào có đủ uy tín, bản lĩnh, trí tuệ, năng lực lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Bởi ở nước ta từng xuất hiện một số tổ chức đảng khác nhưng vì không đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, thậm chí có tổ chức đảng còn phản bội, đi ngược lại lợi ích của dân tộc nên tự đào thải và bị lịch sử loại bỏ. Nhờ lãnh đạo toàn dân, toàn quân thực hiện thắng lợi sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử sau hơn 3 thập niên đổi mới mà Đảng ta đã chứng minh được vị thế, năng lực cầm quyền của mình, từ đó thuyết phục được nhân dân, lãnh đạo nhân dân thực hiện mục tiêu, lý tưởng cao đẹp của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Lợi ích của Đảng thống nhất với lợi ích của toàn dân tộc, của nhân dân, của quốc gia, đó là bằng chứng sinh động thể hiện “ý Đảng, lòng dân” hòa quyện, gắn bó chặt chẽ với nhau. Đó cũng là lý do căn cốt, là điểm tựa niềm tin lớn nhất mà nhân dân trao quyền, ủy quyền lãnh đạo của mình cho Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói về vai trò của Đảng trong bảo vệ, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc không thể không nhắc đến những thành quả to lớn trong công cuộc đổi mới đất nước. Với mức tăng GDP hằng năm trung bình khoảng 7% trong hơn 35 năm qua, hiện nay Việt Nam đứng trong top 40 nền kinh tế có quy mô GDP lớn nhất thế giới, top 16 nền kinh tế mới nổi thành công nhất. Tính đến năm 2022, quy mô nền kinh tế ước đạt gần 400 tỷ USD; thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 4.000USD; quy mô thương mại khoảng 750 tỷ USD, thuộc nhóm 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại quốc tế. Việt Nam là nơi hội tụ của hàng vạn nhà đầu tư đến từ 140 quốc gia, vùng lãnh thổ, với gần 35.000 dự án FDI đang hoạt động có tổng vốn đầu tư gần 430 tỷ USD. Không chỉ vậy, Việt Nam thuộc nhóm nước đạt mức cao chỉ số phát triển con người (HDI). Năm 2020, tỷ lệ nghèo đa chiều theo chuẩn quốc tế giảm còn 4,8% (so với 9,9% năm 2016). Việt Nam đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ MDG-2015 và đang nỗ lực thực hiện Mục tiêu phát triển bền vững SDG-2030 của Liên hợp quốc. Nhiều quốc gia trên thế giới coi Việt Nam là một hình mẫu đáng tham khảo, học hỏi kinh nghiệm về việc giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội. Vì là một đảng “tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính” nên trong quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn tự đổi mới, tự chỉnh đốn để không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu để ngang tầm với sứ mệnh mà nhân dân giao phó. Sai đâu sửa đấy, dám nhìn thẳng vào khuyết điểm, thừa nhận khuyết điểm và kiên quyết khắc phục, sửa chữa khuyết điểm không chỉ là dũng khí, bản lĩnh của một đảng mác xít chân chính mà còn thể hiện tinh thần cầu thị của Đảng để không phụ lòng tin của nhân dân và dân tộc. Việc Đảng ta kịp thời sửa sai trong chủ trương thực hiện cải cách ruộng đất những năm 50 của thế kỷ trước; kiên quyết từ bỏ chế độ tập trung quan liêu bao cấp và thực hiện đường lối đổi mới toàn diện vào giữa thập niên 80 của thế kỷ trước và những năm gần đây thực hiện quyết liệt việc thanh lọc, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên sai phạm để làm trong sạch Đảng cũng không ngoài mục đích bảo vệ những lợi ích chính đáng của đại đa số nhân dân, bảo vệ sự liêm chính của quốc gia, bảo vệ những thành quả cách mạng của toàn thể dân tộc Việt Nam đã chung tay góp sức giành được trong gần 80 năm qua. Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính Từ bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn đổi mới mạnh mẽ được Đảng ta khởi xướng từ năm 1986, với sự nỗ lực bền bỉ của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta, đến nay, “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay” như Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định. Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động phức tạp và diễn biến khó lường hiện nay, Đảng ta vẫn kiên định với phương châm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc ở Việt Nam không phải là lợi ích quốc gia, dân tộc hẹp hòi, cực đoan như có kẻ từng rêu rao, xuyên tạc. Bởi lẽ, những năm qua, Đảng ta đề ra chủ trương, đường lối và Nhà nước ban hành chính sách, pháp luật luôn xuất phát từ lợi ích quốc gia, dân tộc, đặt trong mối quan hệ hợp tác cùng phát triển, tôn trọng lợi ích chính đáng của các quốc gia và cộng đồng quốc tế. Mặt khác, trong quan hệ đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta đã quán triệt, thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi, với phương châm “Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”. Phương châm này thể hiện nhận thức nhất quán của Đảng là giải quyết hài hòa giữa lợi ích của dân tộc và lợi ích chung của nhân loại, giữa lợi ích quốc gia và lợi ích quốc tế chân chính của giai cấp công nhân. Những năm gần đây, uy tín của Việt Nam không ngừng được củng cố, tăng cường trên trường quốc tế khi được tín nhiệm bầu vào các cơ quan quan trọng của Liên hợp quốc, như: Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, Ủy ban Di sản thế giới của UNESCO nhiệm kỳ 2013-2017, Hội đồng kinh tế-xã hội của Liên hợp quốc (ECOSOC) nhiệm kỳ 2016-2018. Năm 2020, Việt Nam đồng thời đảm nhiệm 3 trọng trách: Ủy viên không Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Chủ tịch ASEAN và Chủ tịch AIPA. Từ một nước gần như bị bế quan tỏa cảng, sau gần 4 thập niên, đến nay, Việt Nam đã có thiết lập quan hệ ngoại giao với 190 quốc gia, trong đó thiết lập quan hệ ổn định lâu dài với 30 đối tác chiến lược và toàn diện. Đặc biệt, các chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam và Công an nhân dân Việt Nam đã tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình (PKO) đạt nhiều kết quả tích cực, được cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao. Như vậy, từ những cơ sở, thành quả nêu trên, có thể khẳng định rằng, dù thời cuộc có nhiều biến động, thế giới có nhiều đổi thay nhưng Đảng Cộng sản Việt Nam đã, đang là lực lượng chính trị duy nhất có đủ vị thế, trí tuệ, năng lực, uy tín để lãnh đạo nhân dân Việt Nam thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới, bảo vệ độc lập chủ quyền và xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN, đồng thời đó cũng là bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc. Vì thế, mọi sự xuyên tạc Đảng Cộng sản Việt Nam không quan tâm bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc đều không có giá trị và bị thực tiễn bác bỏ./.

Đằng sau luận điệu xuyên tạc “Đảng làm thay Nhà nước”

Bám sát những diễn biến của công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta, các thế lực thù địch cố tình lật ngược bản chất, đánh tráo khái niệm, phủ bóng đen tối lên đời sống chính trị-xã hội của đất nước ta. “Đổi trắng thay đen” là một trong những thủ đoạn chủ yếu, xuyên suốt của họ trong quá trình chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”. Họ thực hiện ý đồ chống phá với âm mưu ngày càng thâm độc hơn; thủ đoạn, giải pháp ngày càng toàn diện, quyết liệt hơn; hình thức, lực lượng ngày càng tinh vi, mở rộng hơn. Tuy nhiên, dù được che đậy dưới nhiều chiêu bài, được ngụy trang dưới nhiều hình thức và được tiến hành với tần suất, thời lượng ngày càng lớn trên không gian mạng thì “con cáo” cũng không thể che giấu được “cái đuôi” phản nghịch, phản động. Càng đẩy mạnh những cái gọi là “phân tích”, “nhận định”, “đánh giá”, “nhận diện”, “dự báo”... về “môi trường chính trị ở Việt Nam”, nhiều đối tượng cực đoan, bất mãn, phản động lưu vong ở nước ngoài càng lộ rõ thái độ hằn học, bản chất xảo trá, ý đồ phản quốc, hại dân... Sau một thời gian liên tục tung ra những luận điệu xuyên tạc, cho rằng nội bộ Đảng đang có sự “phân hóa sâu sắc”, cuộc “đấu đá”, “tranh giành” quyền lực giữa các “phe cánh” đang diễn biến “khốc liệt”; thời gian gần đây, họ thực hiện chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc về cơ chế lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Họ rêu rao xuyên tạc, chỉ trích Đảng Cộng sản Việt Nam đang “lấn át”, “làm thay” vai trò, chức năng của Nhà nước. Theo dõi những diễn biến của thủ đoạn chống phá đất nước do các đối tượng có tư tưởng thù địch thực hiện trên không gian mạng thời gian gần đây, chúng ta thấy, họ bám vào những sự kiện thời sự trong đời sống chính trị-xã hội của đất nước để “ký sinh” tư tưởng thù địch. Ảnh minh họa: TTXVN Ảnh minh họa: TTXVN Sau khi Trung ương Đảng, Chính phủ, Quốc hội thực hiện các thủ tục miễn nhiệm đối với một số đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng và Nhà nước theo quy định của pháp luật và Điều lệ Đảng, làn sóng tuyên truyền xuyên tạc lại rộ lên. Truyền thông có tư tưởng thù địch đã tung lên không gian mạng nhiều sản phẩm dưới các hình thức như bài viết, video, phỏng vấn trực tuyến, tọa đàm... với các nội dung xuyên tạc, cho rằng: Môi trường chính trị ở Việt Nam đang có biến động lớn bởi sự “độc tài”, “độc đoán” của chế độ “Đảng trị”... Sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chúc Tết toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và kiều bào trên thế giới trong đêm Giao thừa Tết Quý Mão 2023, nhiều đối tượng có tư tưởng thù địch nhân cơ hội này đã đẩy chiến dịch tuyên truyền xuyên tạc, chống phá lên mức độ, tần suất cao hơn. Họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam đang “lấn át”, “lấn quyền”, “làm thay”, “vô hiệu hóa” vai trò, chức năng của Nhà nước... Cách để họ gây hoang mang, dao động trong tâm lý xã hội là kiểu lập ngôn “hóng hớt”, “cắt ngọn” thông tin, lấy hiện tượng để suy diễn, xuyên tạc bản chất. Họ cố tình bẻ cong luận điểm, ngụy tạo luận cứ, luận chứng nhằm lèo lái công chúng hiểu sai lệch bản chất vấn đề. Họ cổ xúy hận thù, kích động gây mất đoàn kết, chia rẽ nội bộ, phá hoại công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực vốn đang đi đúng hướng và rất được lòng dân của Đảng, Nhà nước ta. Trước những sản phẩm truyền thông xấu độc nêu trên, đại đa số cán bộ, đảng viên, công dân có nhận thức đúng đắn, lập trường chính trị tư tưởng vững vàng đều hiểu rõ đây là âm mưu, thủ đoạn chống phá đất nước của các đối tượng cơ hội, thù địch. Chúng ta đều biết, lời chúc Tết của lãnh đạo Đảng, Nhà nước trong đêm Giao thừa Tết Nguyên đán hằng năm là một nghi thức văn hóa truyền thống của dân tộc. Hiến pháp, pháp luật không quy định vấn đề này. Chính vì vậy, việc Tổng Bí thư hay Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước chúc Tết nhân dịp đón Tết cổ truyền của dân tộc là căn cứ vào tình hình thực tế và phân công trong lãnh đạo chủ chốt của Đảng. Bám vào một hoạt động thể hiện truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc để suy diễn, xuyên tạc, chỉ trích “Đảng làm thay chức năng của Nhà nước” là kiểu lập luận quy chụp, võ đoán, vô căn cứ với ý đồ xấu. Cùng với đó, việc Đảng, Nhà nước, Chính phủ, Quốc hội thực hiện các thủ tục miễn nhiệm đối với một số đồng chí lãnh đạo cấp cao, đã được thực hiện theo đúng trình tự pháp luật và Điều lệ Đảng trên cơ sở đáp ứng nguyện vọng cá nhân. Bám vào những sự kiện này để xuyên tạc, cho rằng Đảng “độc tài”, “độc đoán”, “chuyên quyền”, “lấn át”, “làm thay”... Nhà nước là kiểu lập ngôn “đổi trắng thay đen” nhằm lật ngược bản chất vấn đề. Cán bộ, đảng viên và mỗi công dân cần thống nhất cao về nhận thức để thấy rõ âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, chống phá của các thế lực thù địch. Đằng sau những luận điệu xuyên tạc “Đảng làm thay chức năng của Nhà nước” là chiến dịch hạ bệ cá nhân lãnh đạo, bóp méo, bôi đen vai trò lãnh đạo, bản chất tốt đẹp của Đảng ta. Mục đích của họ là phá hoại cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, gây rối ren đời sống xã hội, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng... Tiếp tục hoàn thiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là trong thời kỳ Đảng lãnh đạo đất nước đổi mới đã chứng minh, cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” là phương thức vận hành tổng thể của hệ thống chính trị ở nước ta. Cơ chế này là sự vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của Đảng, Nhà nước và quần chúng nhân dân trong lịch sử, xuất phát từ thực tiễn cách mạng Việt Nam và thế giới. Cơ chế này được Đảng ta đề ra từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V (năm 1982) và xác định rõ tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (năm 1986) của Đảng. Thực tiễn vận hành cơ chế cho thấy, có những giai đoạn, thời điểm lịch sử và tổ chức trong hệ thống chính trị, việc nhận thức, thực hiện cơ chế vẫn còn những hạn chế nhất định. Và đây chính là một trong những kẽ hở mà các thế lực thù địch lợi dụng khoét sâu, chống phá. Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII (Nghị quyết số 27-NQ/TW) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới, đã chỉ rõ: Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn chưa được luận giải đầy đủ, thuyết phục; tổ chức bộ máy nhà nước, hệ thống pháp luật còn một số bất cập, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Quyền lực Nhà nước chưa được kiểm soát hiệu quả, cơ chế kiểm soát quyền lực chưa hoàn thiện; vai trò giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị-xã hội và nhân dân chưa được phát huy mạnh mẽ; ý thức chấp hành pháp luật của một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên và nhân dân chưa nghiêm... Nhận thức đầy đủ những bất cập, hạn chế trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật để đổi mới, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII xác định: Tiếp tục cụ thể hóa, thể chế hóa, hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ" và phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng". Mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích và hạnh phúc của nhân dân; phát huy đầy đủ quyền làm chủ, tính tích cực, sáng tạo của nhân dân. Hoàn thiện cơ chế để phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị... tăng cường và bảo đảm Đảng gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân về những quyết định của mình... Đảng ta nêu rõ quan điểm: Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ... Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân... Tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện... Chúng ta thấy rõ, Nghị quyết Trung ương 6 khóa XIII đã thể hiện tư duy mới, quan điểm mới của Đảng cả về lý luận và thực tiễn trên cơ sở kế thừa thành tựu, khắc phục hạn chế để tiếp tục hoàn thiện, thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Những giải pháp, việc làm kịp thời, nhân văn, kiên trì, kiên quyết, không có vùng cấm, bất kể người đó là ai... trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý cán bộ vi phạm của Đảng, Nhà nước ta trong thời gian gần đây là sự minh chứng rõ ràng đối với hiệu lực, hiệu quả “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Công tác đấu tranh được thực hiện trên tinh thần thượng tôn pháp luật, chấp hành nghiêm Điều lệ Đảng, cụ thể hóa nghị quyết của Đảng vào thực tiễn. Những kẻ tung tin xuyên tạc cho rằng “Đảng làm thay Nhà nước” đã không hiểu hoặc cố tình không hiểu cơ sở lý luận và thực tiễn, chủ ý “cắt ngọn” thông tin để lèo lái dư luận theo ý đồ xấu. Cán bộ, đảng viên và công chúng yêu nước cần thống nhất cao về nhận thức, tỉnh táo nhận diện, đấu tranh, vạch rõ âm mưu đen tối của các đối tượng thù địch. Đó cũng là cách để chúng ta góp phần thực hiện tốt cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, tiếp tục duy trì, phát huy thành quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên tinh thần: “Tiền hô hậu ủng, nhất hô bá ứng, trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”...

Ngăn chặn trẻ hóa bệnh suy thoái

Thời gian gần đây, dư luận tích cực trên không gian mạng bày tỏ bức xúc trước việc nhiều đối tượng phản động lưu vong ở nước ngoài thường xuyên lên mạng xã hội tung tin xuyên tạc, nói xấu đất nước, xúc phạm danh dự lãnh đạo Đảng, Nhà nước, gây rối an ninh chính trị. Điều đáng bàn ở đây là đại đa số những đối tượng phản động này đều còn trẻ. Trước khi quay lưng, phản bội Tổ quốc, họ từng là những trí thức trẻ, từng có thời gian là công chức, viên chức, công tác trong các cơ quan, đơn vị thuộc hệ thống chính trị ở một số địa phương. Do bất mãn với tổ chức, non kém về tư tưởng chính trị, bị chủ nghĩa cá nhân chi phối, họ đã bị căn bệnh suy thoái tấn công. Từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, họ đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, biến mình trở thành những con rối cho các thế lực thù địch ở hải ngoại giật dây. Sau khi ra nước ngoài sống lưu vong, chúng trở thành những kẻ phản bội, càng ngày càng điên cuồng thực hiện các hành vi phản quốc. Tranh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo. Tranh minh họa: Tạp chí Tuyên giáo. Dù chỉ là những thành phần cá biệt, nhưng thực trạng này cho thấy khi căn bệnh suy thoái trẻ hóa, mức độ nguy hiểm đối với môi trường chính trị và đời sống xã hội là vô cùng lớn. Hằng ngày, hằng giờ, chúng ra rả các luận điệu phản động trên không gian mạng làm cho một bộ phận giới trẻ trong nước bị tác động, ảnh hưởng bởi tư tưởng thù địch, dẫn đến dao động, bi quan, phai nhạt niềm tin. Nhìn rộng ra, sâu hơn những vụ án tham nhũng lớn được đưa ra ánh sáng công lý thời gian qua, chúng ta thấy hành vi tham nhũng, suy thoái đều liên quan đến những cán bộ có chức quyền. Cán bộ có chức quyền càng to, ảnh hưởng của suy thoái càng lớn. Tuy nhiên, để đến lúc phải điều tra, xử lý thì đó là giải pháp “trị bệnh”. Làm sao để cán bộ, đảng viên không “nhúng chàm” thì phải coi trọng “phòng bệnh”, ngăn ngừa các mầm mống dẫn đến suy thoái ngay từ khi còn trẻ. Biểu hiện phổ biến của tình trạng trẻ hóa bệnh suy thoái là sự thờ ơ, bàng quan với lợi ích dân tộc, chỉ tập trung lo kiếm tiền, không quan tâm đến các phong trào hành động cách mạng, phong trào thi đua yêu nước, không thiết tha vào Đảng. Đối với cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trẻ thì đó là biểu hiện né tránh đấu tranh, dĩ hòa vi quý, mũ ni che tai, tư tưởng cầu an, lười học chính trị, lười nghiên cứu nghị quyết... Thực trạng này ở một bộ phận không nhỏ người trẻ đã được Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh, đó là “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”. Khi một người trẻ bị hổng kiến thức lý luận chính trị, không được bồi đắp tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống đến nơi đến chốn thì đến lúc anh ta giàu lên, rất dễ trở thành những “trọc phú” thời đại mới. Khi những “trọc phú” ấy tìm cách “chui” vào hệ thống chính trị để thăng tiến thì nguy hại cho tổ chức đảng, cho vận mệnh chính trị của đất nước là rất khó lường. Thực tế đã chứng minh không ít người giàu có sau khi có chân trong hệ thống chính trị, hành vi kiểu “trọc phú” của họ đã gây ra những hệ lụy phức tạp cho tổ chức. Đối với những người trẻ “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”, từ suy thoái đạo đức, lối sống đến suy thoái tư tưởng chính trị là khoảng cách rất mong manh. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XII đã nêu rõ: Sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc... Không thể cứ hô hào chung chung Ở phường 14, quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh, ông Nguyễn Văn Thôn được coi là một trong những người rất có uy tín. Ông là Anh hùng LLVT nhân dân, từng hoạt động tình báo trong lòng địch. Sau khi thực hiện thành công phi vụ cài bom cho nổ tung kho vũ khí lớn của địch ở sân bay Biên Hòa năm 1972, ông bị chỉ điểm và bị địch bắt. Trong thời gian bị giam cầm tại khám Chí Hòa (Sài Gòn), ông Thôn nhiều lần chạm mặt những tướng cướp khét tiếng như Điền Khắc Kim, Lâm “chín ngón”... Danh tiếng của những “đại ca” giang hồ này khiến bất cứ tù nhân nào cũng e sợ, nhưng với Nguyễn Văn Thôn thì ngược lại. Khi biết ông là tác giả của vụ nổ long trời lở đất ở sân bay Biên Hòa, ngay cả các “đại ca” giang hồ cũng bày tỏ sự thán phục, kính nể. “Tôi chẳng phải là người có võ nghệ cao cường gì, nhưng họ nể là vì mình có bản lĩnh. Người có bản lĩnh thì ở đâu, lúc nào cũng giữ được vị thế, giá trị của mình, kể cả khi đứng trước giang hồ cộm cán. Bản lĩnh ấy phải thông qua giáo dục, rèn luyện, tu dưỡng mới có được. Thiếu và yếu bản lĩnh thì càng làm to càng dễ “chết”. Tiêu cực, suy thoái là từ trong suy nghĩ, tư duy mà ra. Đổ lỗi do cơ chế, khách quan chỉ là cách ngụy biện của người kém bản lĩnh. Ngụy biện cho cái sai cũng là một dạng suy thoái”, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Văn Thôn “chốt” như vậy khi chúng tôi phỏng vấn. Những năm gần đây, ông Thôn luôn là nhân tố “truyền lửa” cho các tổ chức trong hệ thống chính trị ở địa phương. Cấp ủy, chính quyền và các cơ quan, đoàn thể coi ông là vốn quý trong công tác giáo dục, bồi đắp lý tưởng cách mạng cho thế hệ trẻ. Dẫn một câu chuyện cụ thể như vậy để thấy, giáo dục, tuyên truyền, xây dựng bản lĩnh chính trị nhằm ngăn ngừa nguy cơ suy thoái trong giới trẻ phải thực hiện ngay từ cơ sở, thông qua những việc làm, chương trình cụ thể. Nếu chỉ tuyên truyền kiểu hô hào chung chung, rất khó để đưa thông điệp, tư tưởng thấm vào tư duy người trẻ. Bởi, trong kỷ nguyên 4.0, sự tiếp nhận, sàng lọc, đào thải thông tin diễn ra rất gay gắt. Chỉ những thông tin thực sự hấp dẫn, có ích, có sức thuyết phục mới có sức mạnh cảm hóa. Tìm những nhân tố tích cực, điển hình, đặc biệt là những người có uy tín trong cộng đồng dân cư để làm gương giáo dục là cách làm không mới, nhưng luôn luôn đòi hỏi chúng ta phải quan tâm đổi mới cách làm, thực hiện bằng trách nhiệm, tâm huyết cao nhất mới mong có kết quả. Vài dẫn chứng từ thực tiễn Ngày 22-3, Ban Đại diện Báo Quân đội nhân dân tại TP Hồ Chí Minh nhận được thư mời của Quận ủy quận 7, TP Hồ Chí Minh mời tham dự cuộc tọa đàm giữa Thường trực Quận ủy với bí thư, cấp ủy chi bộ chung cư và đại biểu cán bộ, đảng viên trên địa bàn quận. Sự kiện sẽ diễn ra vào ngày mai (24-3). Nhận thấy đây là hoạt động rất hữu ích, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với đồng chí Võ Khắc Thái, Bí thư Quận ủy quận 7. Đồng chí Võ Khắc Thái cho biết: Cuộc tọa đàm nhằm tìm giải pháp kiện toàn, phát triển tổ chức, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của chi bộ đảng, phát huy vai trò nòng cốt của cán bộ, đảng viên ở các khu chung cư trên địa bàn quận. Quận 7 là địa bàn có rất nhiều khu chung cư. Cộng đồng dân cư ở các khu chung cư đa số là người trẻ, trong đó có nhiều cán bộ, đảng viên. Nhận thức rõ vai trò của chi bộ đảng và cán bộ, đảng viên ở các chung cư, lãnh đạo quận chủ trương đẩy mạnh các hình thức, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng các chi bộ chung cư vững mạnh. Chi bộ sát cánh cùng Ban quản trị chung cư triển khai các hình thức, biện pháp quản lý, tuyên truyền pháp luật, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng đến với mọi cán bộ, đảng viên và người dân. Đây là một trong những hình thức sinh động, hiệu quả để đưa nghị quyết của Đảng thấm sâu vào đời sống xã hội. Thông qua các hình thức tọa đàm để lan tỏa tinh thần, thông điệp, ý nghĩa giáo dục đến với cộng đồng dân cư nhằm bồi đắp lý tưởng cách mạng, thiết thực phòng, chống suy thoái trong giới trẻ... Đây là một dẫn chứng sinh động từ thực tiễn. Chung cư là một đặc trưng của đời sống xã hội ở các đô thị lớn. Công tác quản lý nhân khẩu, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội không thể tách rời công tác giáo dục, tuyên truyền chính sách, xây dựng môi trường văn hóa. Đặc trưng đó đã tạo môi trường thuận lợi để cấp ủy địa phương đẩy mạnh xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là chi bộ chung cư. Các hoạt động tọa đàm đã được Quận ủy quận 7 chỉ đạo, triển khai nhiều lần trong hệ thống chính trị các cấp và các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp, trường học... trong thời gian qua. Những hình thức hoạt động tương tự như trên cũng đã được cấp ủy ở nhiều địa phương, đơn vị tổ chức. Trực tiếp tham dự và theo dõi các hoạt động này, chúng tôi nhận thấy đó là không gian, môi trường được nhiều người quan tâm. Với tinh thần dân chủ, thẳng thắn, các cuộc đối thoại, tọa đàm giúp cấp ủy, người lãnh đạo các cấp nắm chắc thực tế từ cơ sở, qua đó kịp thời điều chỉnh, bổ sung chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo. Trong môi trường học đường, doanh nghiệp, tổ chức Đoàn Thanh niên các cấp, những hình thức như: Thi kể chuyện tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh bằng tiếng Anh; thi Olympic Triết học, tư tưởng Hồ Chí Minh; thi “Rung chuông vàng” tìm hiểu lịch sử Đảng... rất được bạn trẻ yêu thích. Đó là những cách làm năng động, sáng tạo để dẫn dắt người trẻ trở thành chủ thể bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Đó cũng là cách “lấy xây để chống”, góp phần ngăn chặn tình trạng trẻ hóa bệnh suy thoái.

Bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh

Một số người bị dao động về lập trường tư tưởng, hùa theo luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động khi cho rằng “không có tư tưởng Hồ Chí Minh”. Sinh thời, tuy Chủ tịch Hồ Chí Minh khiêm tốn tự nhận mình không phải là nhà tư tưởng, nhưng trên thực tế, trong quá trình hoạt động cách mạng, tư tưởng của Người đã dần được hình thành và được bạn bè thế giới công nhận. Đảng ta khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”(1). Trong đó tiêu biểu là tư tưởng về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội với nội dung cốt lõi là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Trước khi khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh xuất hiện thì thế giới đã thừa nhận có tư tưởng Hồ Chí Minh. Tổ chức UNESCO khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là hiện thân khát vọng của các dân tộc trong việc bảo vệ bản sắc dân tộc của mình và tiêu biểu cho sự thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau”(2). Nhiều nhà khoa học, nhà lãnh đạo, các tổ chức tiến bộ trên thế giới đã thừa nhận Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng. Thực tiễn những thành tựu to lớn mà cách mạng Việt Nam đạt được nhờ vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh qua từng giai đoạn cách mạng đã củng cố vững chắc điều này. Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang, tháng 3-1961. Ảnh tư liệu Bác Hồ với đồng bào các dân tộc Hà Giang, tháng 3-1961. Ảnh tư liệu Thứ hai, cố tình đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với Chủ nghĩa Mác-Lênin và đường lối của Đảng. Một số người có nhận thức lệch lạc khi một mặt họ cho rằng, tư tưởng Hồ Chí Minh khác và đối lập với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất; mặt khác, họ lại “tôn vinh” tư tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp giá trị, vai trò của Chủ nghĩa Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Hai quan điểm này đều không đúng cả về lịch sử và logic. Về mặt lịch sử, Chủ nghĩa Mác-Lênin chính là nguồn gốc quan trọng dẫn tới hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Về mặt logic, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú Chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử mới. Vì thế, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với Chủ nghĩa Mác-Lênin về bản chất chứ không hề có sự mâu thuẫn, đối lập như suy luận, xuyên tạc của một số người. Về quan điểm thứ nhất, một số người đã hùa theo các luận điệu xuyên tạc, nhận thức lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không theo chủ nghĩa cộng sản, chỉ nhấn mạnh đến đoàn kết chứ không nhấn mạnh đến đấu tranh. Luận điệu này đã làm dư luận hoài nghi về bản chất khoa học, cách mạng của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, gây ra tâm lý hoang mang, dao động, chia rẽ sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức trong Đảng, làm giảm sút niềm tin của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Về quan điểm thứ hai, một số người cho rằng, Chủ nghĩa Mác-Lênin từng có giá trị nhưng đã bị lịch sử vượt qua. Những người này còn ngụy biện rằng, cho dù chưa bị lịch sử vượt qua thì Chủ nghĩa Mác-Lênin cũng chỉ phù hợp với các nước phương Tây, còn tư tưởng Hồ Chí Minh mới phù hợp với Việt Nam. Do đó, họ ra sức kêu gọi “chỉ cần theo tư tưởng Hồ Chí Minh, bỏ qua Chủ nghĩa Mác-Lênin”. Từ đó họ cho rằng, nên đưa Chủ nghĩa Mác-Lênin ra khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng, chỉ nên giữ lại tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. Đây là quan điểm nhân danh đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, song thực chất nhằm phủ nhận cả Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, bởi trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã có Chủ nghĩa Mác-Lênin. Nếu tách tư tưởng Hồ Chí Minh khỏi cội nguồn lý luận quan trọng nhất là Chủ nghĩa Mác-Lênin thì bản thân tư tưởng Hồ Chí Minh cũng không còn những đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn như vốn có. Bên cạnh đó, một số người đã cố tình vin vào cớ hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống” như trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4, khóa XII của Đảng đã chỉ ra để thổi phồng những khuyết điểm của một số cán bộ thoái hóa, biến chất mà bỏ qua những ưu điểm mang tính bản chất của đa số cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính trị. Từ đó, họ cho rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam ngày nay cũng đã thoái hóa, biến chất, khác xa với lý tưởng, khát vọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ yêu cầu phải bỏ Điều 4 trong Hiến pháp năm 2013, tức là xóa bỏ quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội. Xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc làm thường xuyên, mang bản chất cách mạng của Đảng ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Một Đảng mà giấu giếm khuyết điểm của mình là một Đảng hỏng. Một Đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó, vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm kiếm mọi cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một Đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc chắn, chân chính”(3). Vậy mà, khi Đảng kiên quyết đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống tham nhũng, loại trừ các vấn nạn trong công tác cán bộ nhằm làm trong sạch Đảng, lấy lại niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ thì một số người lại có nhận thức lệch lạc, cố tình vu khống, quy kết là Đảng ta “đấu đá nội bộ”, “đấu tranh giữa các phe phái vì quyền lực”. Họ làm ra vẻ khách quan khi dùng tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh làm “hệ quy chiếu” để đánh giá, phán xét Đảng. Danh nghĩa là họ đề cao Hồ Chí Minh nhưng thực chất lại đang hạ thấp tư tưởng Hồ Chí Minh, từ đó phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn hiện nay. Điều này gây hoang mang, mất niềm tin, chia rẽ nội bộ, đặc biệt, nó có thể làm một bộ phận dân chúng, thậm chí ngay cả một số ít văn nghệ sĩ, trí thức từng tin tưởng và kính trọng Hồ Chí Minh cũng có thể trở nên lung lay tư tưởng, rệu rã niềm tin vào Đảng, vào chế độ xã hội chủ nghĩa. Thứ ba, phủ nhận giá trị thực tiễn và sức sống của tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay. Một số người đã có nhận thức rất lệch lạc khi cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhà dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”, “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì tư tưởng Hồ Chí Minh không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Những người này ra sức phủ nhận sự cần thiết và hiệu quả của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Lý do họ đưa ra là Hồ Chí Minh là bậc thánh nhân trong khi chúng ta là người bình thường; Hồ Chí Minh là người đi theo chủ nghĩa khổ hạnh trong khi chúng ta đang có cuộc sống bình thường ở thế giới hiện đại. Thực tế, Chủ tịch Hồ Chí Minh không phải là người theo chủ nghĩa khổ hạnh và cũng chưa bao giờ tỏ ra mình là bậc thánh nhân, mà Người luôn yêu cầu cán bộ góp ý cho mình, rằng: “Nếu tôi có vết nhọ trên trán, các đồng chí trông thấy, lại lấy cớ “nể Cụ” không nói, là tôi mang nhọ mãi”(4). Những người này đã cố tình không hiểu rằng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh là học tinh thần tinh túy trong tư tưởng, phương pháp, phong cách của Người để vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào trong thực tiễn như sinh thời Người đã học tập, vận dụng sáng tạo thành công Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của cách mạng Việt Nam, chứ không phải học rồi “làm theo” một cách máy móc để cho giống hoặc thành một “Hồ Chí Minh thứ hai”. Do đó, đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là chủ trương đúng đắn của Đảng, hợp với lòng dân và có giá trị thiết thực trong việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh là một trong số rất ít nhân vật trong lịch sử đã trở thành một phần của huyền thoại ngay từ khi còn sống. Cho đến nay, tư tưởng của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc. Giá trị đó không chỉ đối với dân tộc Việt Nam mà còn đối với nhân loại; không chỉ được khẳng định trong thế kỷ 20, mà còn được thể hiện trong hiện tại và tương lai. Đấu tranh chống các nhận thức lệch lạc, luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tư tưởng Hồ Chí Minh chính là nhằm bảo vệ nội dung và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong bối cảnh hiện nay. Để việc đấu tranh chống các luận điệu xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh thực sự thuyết phục, chúng ta phải có cái nhìn khách quan, tôn trọng sự thật lịch sử, không được chủ quan, áp đặt, thiên kiến hoặc máy móc trong việc nhận định, đánh giá, phản bác các luận điệu xuyên tạc tư tưởng của Người. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần quán triệt, thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, đó là: “Kiên định và không ngừng vận dụng, phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong từng giai đoạn”.

Tỉnh táo, nhận diện đúng các luận điệu xuyên tạc về đổi mới chính trị - xã hội ở Việt Nam

Thế nhưng, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị, bất mãn vẫn cố tình phủ nhận những thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước, nhất là đổi mới trên lĩnh vực chính trị, xã hội. Họ ra sức xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta trên tất cả lĩnh vực: Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại... Thủ đoạn tinh vi, khó lường Về chính trị: Trước hết, họ tập trung phê phán, xuyên tạc, chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam nắm quyền lãnh đạo đất nước, họ cho rằng, đó là “chế độ đảng trị”, độc tài, mất dân chủ. Họ còn lợi dụng cụm từ “dưới sự lãnh đạo của Đảng” để xuyên tạc rằng, đó là bằng chứng của vấn đề “Đảng đứng trên luật pháp”, “quyền lực xã hội tập trung vào một số ít cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản”, “Đảng bao biện làm thay Nhà nước”... Vấn đề Nhà nước, họ xuyên tạc rằng: “Nói là Nhà nước pháp quyền, nhưng trên thực tế, luật pháp không được tôn trọng...”; “hệ thống tổ chức, bộ máy cồng kềnh, hoạt động kém hiệu quả”... Đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, họ cho rằng: “Hoạt động chỉ là hình thức, kém hiệu quả”... Vấn đề xã hội, họ cho rằng: "Mất dân chủ, vi phạm nhân quyền...". Nhận diện những vấn đề trên là một hoạt động khó khăn, phức tạp. Bởi lẽ, các đối tượng thường sử dụng internet, mạng xã hội Facebook, YouTube, Twitter, Zalo... và các phương tiện truyền thông khác như các đài phát thanh, truyền hình VOA, RFA, BBC, RFI... để tuyên truyền xuyên tạc, chống phá bằng những thủ đoạn hết sức tinh vi, thâm độc, khó lường. Một trong những thủ đoạn nguy hiểm nhất mà họ thường sử dụng, đó là mượn các thông tin, sự kiện có thật đã xảy ra, được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng hay được phát tán thông qua mạng xã hội để lồng ghép, biên tập, sửa chữa và thêm thắt các tình tiết ngụy tạo, bóp méo rồi được tung ra như một dạng thông tin chính thống. Sau đó, thông qua các hình thức tán phát, như bình luận theo chuyên đề, kể chuyện lịch sử, hội luận, ý kiến chuyên gia, người trong cuộc, ngoài cuộc... để xuyên tạc, bịa đặt, bóp méo lịch sử, bóp méo sự thật. Cuối cùng, thông qua sự tương tác, bình luận (comment), ý kiến người đọc, người xem để định hướng dư luận theo ý đồ của họ. Với những thủ đoạn tinh vi, dàn dựng khá bài bản, có thể họ đã lừa phỉnh được một số người còn thiếu thông tin, nhận thức hạn chế, phiến diện. Thậm chí, có cả một bộ phận cán bộ, đảng viên còn mơ hồ, dao động, đã cố tình hoặc vô ý cổ xúy, tiếp sức cho các luận điệu sai trái, phản động, biểu hiện của "tự diễn biến", "tự chuyển hóa". Ảnh minh họa / Tuyengiao.vn Ảnh minh họa / Tuyengiao.vn Từ việc nhận rõ bản chất âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đối với công cuộc đổi mới đất nước nói chung, đổi mới trên lĩnh vực chính trị-xã hội nói riêng, chúng ta thấy rằng, vấn đề chính trị-xã hội ở Việt Nam luôn là mối quan tâm, chống phá hàng đầu của các đối tượng này. Bởi đây là vấn đề hệ trọng, liên quan đến sự ổn định và phát triển đất nước. Mục tiêu sâu xa của chúng là gây mất ổn định chính trị, xã hội, mất lòng tin của quần chúng đối với Đảng, Nhà nước, tất yếu dẫn tới rối loạn chính trị-xã hội, khủng hoảng và sụp đổ, dẫn tới xóa bỏ chế độ chính trị, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội, thành quả cách mạng của đất nước, nhân dân ta. Thực tế sinh động, minh chứng thuyết phục Thành tựu sau hơn 36 năm đổi mới toàn diện đất nước đã khẳng định tính đúng đắn, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mô hình phát triển đất nước do Đảng, nhân dân ta lựa chọn. Đó là, minh chứng thuyết phục nhất để bác bỏ những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch. Nhìn lại lịch sử, những thành tựu đất nước đã đạt được trong công cuộc đổi mới, trong đó có đổi mới chính trị-xã hội với bước đi, hình thức phù hợp “toàn diện, đồng bộ, thường xuyên, hiệu quả cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(1). Cho đến nay, ở Việt Nam, không có tổ chức chính trị nào có thể thay thế được vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, về năng lực điều hành, quản lý đất nước có nhiều chuyển biến mang tính đột phá. Hoạt động của Nhà nước về thể chế hóa, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, nghị quyết của Đảng với quyết tâm cao, hiệu quả thiết thực. Phát huy được mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; tháo gỡ nhanh, hiệu quả các điểm nghẽn, vướng mắc; đề cao trách nhiệm của người đứng đầu gắn với phát huy sức mạnh đồng bộ của cả hệ thống chính trị; phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ cương; thực hiện tốt sự phối hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành đất nước; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển. Chính phủ và các bộ tập trung hơn vào quản lý, điều hành vĩ mô và năng động giải quyết những vấn đề lớn, quan trọng. Cải cách hành chính tiếp tục được chú trọng và đạt kết quả tích cực. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội, với phương châm “Hướng mạnh về cơ sở, địa bàn dân cư, thực hiện tốt vai trò giám sát và phản biện xã hội”(2) đã phát huy tốt chức năng, vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân, là cầu nối quan trọng giữa Đảng và nhân dân. Củng cố được lòng tin, sự gắn bó của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Những kết quả tích cực đó tạo ra nhiều thay đổi lớn trong đời sống xã hội, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, mở rộng hơn, người dân được thông tin, giám sát hoạt động của các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị, quyền làm chủ của nhân dân trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực kinh tế và chính trị được phát huy tốt hơn. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách ngày càng thích ứng với thông lệ quốc tế, tính nghiêm minh trong thực hiện cao hơn. Những kết quả đó khẳng định rằng đổi mới chính trị ở Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trực tiếp là cơ sở để đất nước có được bước phát triển to lớn như hiện nay. Mặt khác, những hạn chế, yếu kém, sai lầm, khuyết điểm được Đảng, Nhà nước thẳng thắn chỉ rõ, như: Đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi mới kinh tế, năng lực và hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số hạn chế, vướng mắc chậm được giải quyết, thậm chí kéo dài trong một số nhiệm kỳ, làm cho vận hành của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong một số trường hợp thiếu thống nhất, thông suốt; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế và quản lý đất nước; chưa chế định rõ, đồng bộ, hiệu quả cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát quyền lực nhà nước ở các cấp. Từ đó, nhiều tiềm năng, thế mạnh của đất nước chưa được phát huy đầy đủ... những hạn chế đó không thể ngày một, ngày hai có thể khắc phục triệt để mà phải có một quá trình khắc phục kết hợp với đổi mới lâu dài, khó khăn, phức tạp. Vấn đề là Đảng, Nhà nước đã thẳng thắn nhìn nhận và khắc phục với quyết tâm cao nhất. Từ thực tiễn thành tựu và những hạn chế về đổi mới chính trị-xã hội ở Việt Nam trong sự phát triển của đất nước cho thấy, những kết quả đạt được là cơ bản, to lớn và có ý nghĩa lịch sử, càng khẳng định con đường, mô hình phát triển đất nước là đúng hướng; những hạn chế, thiếu sót khuyết điểm không làm thay đổi bản chất, tính đúng đắn, ưu việt của chế độ chính trị, nền tảng tư tưởng và vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, là luận cứ đanh thép nhất phản bác những luận điệu xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị thời gian qua.

Đấu tranh làm thất bại âm mưu của các thế lực thù địch

Trước diễn biến phức tạp của các vụ khiếu nại, tố cáo và âm mưu, thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch, Phòng An ninh xã hội thuộc Cục An ninh nội địa (Bộ Công an) là đơn vị trực tiếp tổng hợp, phân tích, đánh giá, dự báo tình hình, âm mưu, hoạt động, lợi dụng các vấn đề xã hội xâm phạm an ninh quốc gia. Từ đó, tham mưu, đề xuất giải pháp, phương án chỉ đạo, hướng dẫn kiểm tra công tác nghiệp vụ của Công an địa phương và tổ chức thực hiện , phối hợp với các đơn vị, cơ quan liên quan phòng ngừa, phát hiện, đấu tranh với âm mưu, hoạt động lợi dụng các vấn đề xã hội xâm phạm an ninh quốc gia. Điển hình như trong những tháng đầu năm 2022, tình hình khiếu kiện vượt cấp ở Trung ương khá phức tạp, Phòng An ninh xã hội đã tham mưu lãnh đạo Cục nhiều lần họp bàn với các đơn vị K01, K02, Công an Hà Nội, Ban Tiếp công dân Trung ương thống nhất công tác tiếp và vận động, hỗ trợ người khiếu kiện về địa phương; tấn công chính trị, đấu tranh với số đầu đơn, cốt cán quá khích, gây rối ANTT; điện mật gửi Công an các địa phương liên quan đề nghị tham mưu cử Tổ công tác ra Hà Nội phối hợp vận động, đưa người khiếu kiện về địa phương, bảo đảm an ninh, trật tự. Kết quả đã vận động được hơn 300 người khiếu kiện về 20 địa phương; phối hợp Công an Hà Nội và các lực lượng chức năng vận động, giải tỏa trên 80 lượt với hơn 1.500 lượt người khiếu kiện rời khỏi các khu vực bảo vệ, đảm bảo ANTT. Để vạch trần âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phần tử chống đối, giữ vững ANCT, TTATXH, đẩy mạnh công cuộc phát triển đất nước trong tình hình hiện nay, cần tập trung làm tốt một số nội dung cơ bản sau: - Một là, lấy ổn định lòng dân làm nguyên tắc cơ bản trong toàn bộ công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo; tăng cường lòng tin của quần chúng nhân dân vào nhà nước và chính quyền các cấp về giải quyết khiếu kiện; tăng cường trách nhiệm của cơ quan và cán bộ nhà nước trong giải quyết khiếu kiện. Các cơ quan chức năng liên quan ưu tiên giải quyết các quyền lợi chính đáng của quần chúng nhân dân (nhất là trên lĩnh vực thường xảy ra khiếu nại, tố cáo như: đất đai; thực hiện các chế độ, chính sách…) đảm bảo hài hòa giữa lợi ích chung của Nhà nước với các quyền lợi chính đáng của người dân; xử lý cán bộ sai phạm trước, người dân sau. Hai là, nâng cao nhận thức cho cấp ủy, chính quyền, các ban, ngành trong giải quyết khiếu nại, tố cáo. Để giải quyết các vụ việc khiếu nại, tố cáo, các cơ quan chức năng cần nắm chắc văn bản pháp luật liên quan, bảo đảm xử lý đúng trình tự, đủ thủ tục, tiến hành tốt công tác thanh tra, kiểm tra. Cán bộ công tác trong lĩnh vực tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo phải nắm chắc các quan điểm, chủ trương, phương châm, nguyên tắc của Đảng, Nhà nước, có sự phân công vai trò, trách nhiệm cụ thể, tập trung giải quyết dứt điểm đối với các vụ khiếu kiện phức tạp, kéo dài, chủ động đối thoại trực tiếp với nhân dân, nhằm “tháo ngòi nổ”, giảm bức xúc của người dân, ổn định tình hình, không để xảy ra sơ hở, thiếu sót, hạn chế đến mức thấp nhất điều kiện các thế lực thù địch, bọn phản động trong, ngoài nước lợi dụng kích động, lôi kéo tập hợp lực lượng chống Đảng, Nhà nước, tạo môi trường thuận lợi cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Ba là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền vận động quần chúng nhất là các quy định của pháp luật liên quan đến lĩnh vực khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh; âm mưu, phương thức, thủ đoạn của các đối tượng lợi dụng khiếu kiện vi phạm pháp luật thông qua nhiều hình thức thiết thực, phù hợp với đặc điểm tâm lý, trình độ, văn hóa của người dân. Chú trọng vận động cá biệt đối với số có uy tín ảnh hưởng trong cộng đồng; vận dụng các phong tục, luật tục, quy định ở địa phương để cụ thể hóa xây dựng và duy trì phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc, góp phần giải quyết tranh chấp, khiếu kiện ngay từ cơ sở. Bốn là, chủ động đấu tranh vô hiệu hóa hoạt động của các đối tượng lợi dụng các vụ việc khiếu kiện phức tạp, nhất là các vụ khiếu kiện đông người, áp dụng đồng bộ các biện pháp nghiệp vụ để nắm chắc tình hình, nhất là ý đồ, phương thức, thủ đoạn hoạt động lợi dụng khiếu kiện của các đối tượng, để chủ động huy động lực lượng, áp dụng biện pháp phù hợp đấu tranh, ngăn chặn. Tập trung phát hiện và kiên quyết đấu tranh không để các đối tượng lợi dụng các hội nhóm dưới chiêu bài “dân oan”, “vì môi trường”, “chống tham nhũng”... ở các địa phương thành lập các tổ chức nhằm chống Đảng, Nhà nước; không để đối tượng kích động, lôi kéo tụ tập đông người lên Trung ương, trụ sở cơ quan Đảng, Nhà nước biểu tình trái pháp luật, phá rối an ninh. Năm là, nâng cao hiệu quả mối quan hệ phối hợp giữa các lực lượng trong công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo. Các cơ quan, ban ngành chức năng cần xây dựng các quy chế phối hợp trong nắm tình hình, tham mưu giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện, nhất là các vụ việc phức tạp, kéo dài để huy động sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị. Tiếp tục phát huy thế trận an ninh nhân dân, phong trào toàn dân bảo vệ ANTQ từ đó kiểm tra, giám sát hoạt động của cán bộ chính quyền cơ sở tại các địa phương, kiên quyết xử lý nghiêm các trường hợp lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để kích động gây mất ANTT, cũng như các cán bộ có sai phạm, biểu hiện tham nhũng, tiêu cực. Trong suốt hơn 35 năm qua, công cuộc đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã giành được nhiều thắng lợi đáng kể. Nền kinh tế ngày càng phát triển, an ninh quốc phòng ngày càng được củng cố và giữ vững, đời sống Nhân dân ngày càng được cải thiện, vai trò, vị thế của Việt Nam ngày càng cao trên trường quốc tế. Tuy nhiên, đất nước ta vẫn đang đứng trước những vấn đề tác động ảnh hưởng đến tình hình an ninh, trật tự, như cơ cấu kinh tế dịch chuyển chậm; công tác quy hoạch và quản lý theo quy hoạch, nhất là quy hoạch phát triển sản xuất, xây dựng hạ tầng, khu dân cư, đô thị còn chắp vá, ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người dân. Bên cạnh mặt tích cực của phát triển kinh tế xã hội đã nảy sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp, như vấn đề đô thị hoá dẫn đến đất sản xuất ngày càng bị thu hẹp, chính sách đền bù, bồi thường lại chưa thoả đáng, chính sách quản lý đất đai còn nhiều bất cập, lỏng lẻo, nhiều kẽ hở, dẫn đến tham ô, tham nhũng; việc sắp xếp lại các doanh nghiệp, học sinh, sinh viên ra trường không có công ăn việc làm ngày càng nhiều, lao động dư thừa, tình trạng không có việc làm tăng; tổ chức Đảng, chính quyền cơ sở, cán bộ nhiều nơi còn yếu kém, mất dân chủ, suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo không dứt điểm, đùn đẩy, né tránh… Để làm sáng rõ tính công minh, chính đáng và rộng đường dư luận, các cấp chính quyền cũng cần tăng cường hơn nữa công tác tiếp dân, đối thoại với công dân để khi giải quyết mỗi vụ việc đều bảo đảm chính xác, khách quan, có tình, có lý và có tính thuyết phục cao. Đồng thời, cùng với việc có biện pháp quyết liệt để đấu tranh, xử lý có hiệu quả, triệt để tình trạng khiếu nại, tố cáo sai sự thật, vượt cấp, cơ quan chức năng cần tập trung xử lý dứt điểm các vụ khiếu nại, tố cáo còn tồn đọng, những vụ việc phức tạp đã kéo dài và công khai kết quả trước dư luận công chúng. Những vụ việc đã được giải quyết thỏa đáng, đúng quy định của pháp luật cần có các biện pháp thuyết phục, tuyên truyền, vận động để các đương sự nghiêm túc chấp hành. Cùng với đó, cần kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm các cán bộ lợi dụng kẽ hở, lợi dụng sự phức tạp và chồng chéo của các văn bản để gây khó khăn, nhũng nhiễu, “dọa” dân, làm phức tạp thêm vụ việc nhằm đạt các mục đích xấu khi người dân có việc cần khiếu nại, tố cáo. Thực hiện tốt được những giải pháp trên thì khiếu nại, tố cáo sẽ không còn là “mảnh đất màu mỡ” để các thế lực thù địch lợi dụng làm công cụ chống phá Đảng, Nhà nước.