Thứ Sáu, 30 tháng 6, 2023

Tăng cường "nhân cái đẹp, dẹp cái xấu"

 Người tốt, việc tốt phải được tuyên truyền nhiều hơn, biểu dương, khen thưởng, khích lệ, động viên nhiều hơn để tăng cường "nhân cái đẹp, dẹp cái xấu", "lấy cái tích cực đẩy lùi tiêu cực". Đấu tranh, lên án, bài trừ cái xấu là cần thiết, nhưng báo chí, truyền thông nếu tập trung quá nhiều cho việc phản ánh những cái xấu, cái tiêu cực thì vô tình đã để cho cái xấu, cái tiêu cực phủ bóng dư luận, lấn át cái tích cực, cái tốt đẹp vẫn đang diễn ra hằng ngày trong xã hội.

Dân gian có câu:“Tiếng lành đồn gần, tiếng dữ đồn xa” chính là để nêu lên một nhận xét tương đối chính xác về cái tâm lý khá phổ biến trong xã hội, cái xấu thường dễ được đồn thổi, phóng đại, một đồn mười, mười đồn trăm, loang đi nhanh và xa trong dư luận công chúng hơn, cái tốt thì chưa dễ gì đã được dư luận biết đến rộng rãi. Vì vậy người tốt, việc tốt phải được tuyên truyền nhiều hơn, biểu dương nhiều hơn cũng như được khen thưởng, khích lệ động viên nhiều hơn.

 Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người thầy vĩ đại của báo chí cách mạng Việt Nam, Người khai sinh và đặt nền móng cho báo chí cách mạng Việt Nam, chỉ rõ: Công việc viết báo và làm báo là “công tác cách mạng” để “phụng sự Tổ quốc”, “phụng sự Nhân dân”, “phụng sự giai cấp và nhân loại”. “Báo chí là một mặt trận”, “Cây bút là vũ khí sắc bén, bài báo là tờ hịch cách mạng”[1]. Vì thế, “cán bộ báo chí cũng là chiến sĩ cách mạng. Cây bút, trang giấy là vũ khí sắc bén của họ”; đội ngũ những người làm báo “phải có lập trường chính trị vững chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì những việc khác mới đúng. Cho nên, các báo chí của chúng ta đều phải có đường lối chính trị đúng”. Người căn dặn các nhà báo trước khi cầm bút phải tự đặt câu hỏi: “Viết để làm gì?”, “Viết cái gì? Viết cho ai? Viết thế nào?” - Bài học kinh nghiệm sâu sắc nhất cho những người làm báo hôm nay.

Trong cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết đăng trên 2000 bài báo và gần 300 bài thơ, 500 trang truyện và ký, với nhiều bút danh khác nhau. Không chỉ là một cây bút sắc sảo, một nhà báo lỗi lạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là hiện thân của nhà văn hóa kiệt xuất - Người là biểu tượng của sự kết hợp hài hòa tinh hoa văn hóa dân tộc và văn hóa nhân loại - văn hóa Hồ Chí Minh. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Hồ Chí Minh cao mà không xa, mới mà không lạ, to lớn mà không làm ra vĩ đại, chói sáng mà không làm ai choáng ngợp, mới gặp lần đầu đã cảm thấy thân thiết từ lâu”. Tấm gương giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện trong cuộc sống sinh hoạt hằng ngày - đó là đời tư trong sáng, cuộc sống riêng giản dị, thanh bạch và đó cũng là phong cách báo chí Hồ Chí Minh.

Phong cách báo chí Hồ Chí Minh là sự gần gũi, dễ hiểu, dễ nhớ và rất đỗi đời thường, Người đặc biệt quan tâm đến việc nêu gương người tốt, việc tốt để tuyên truyền, giáo dục cho đông đảo quần chúng Nhân dân, Người nói:“Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” [2], Người nhấn mạnh: “Mỗi người tốt, mỗi việc tốt là một bông hoa đẹp, cả dân tộc ta là một rừng hoa đẹp”[3]. Người cho rằng, người tốt, việc tốt ở đâu cũng có, ngành nào, giới nào, địa phương nào, lứa tuổi nào cũng có. Lời dạy của Người về công tác tuyên truyền của báo chí đến nay vẫn vẹn nguyên giá trị.

Báo chí tăng cường đưa tin, nêu gương người tốt, việc tốt chính là góp phần hình thành hệ thống giá trị về tính nhân văn, hun đúc, khơi dậy tinh thần nhân ái của công chúng; nâng cao tính tự giác, sẵn sàng hy sinh lợi ích của cá nhân vì lợi ích chung của cộng đồng, lợi ích của giai cấp, dân tộc. Thực tiễn cho thấy, tuyên truyền, lan tỏa sâu rộng những mặt tích cực trong đời sống kinh tế - xã hội không chỉ có ý nghĩa to lớn trong đấu tranh giành độc lập dân tộc trước đây, mà còn là động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới, xây dựng phát triển đất nước ngày nay. “Nhân cái đẹp, dẹp cái xấu”, “lấy cái tích cực đẩy lùi cái tiêu cực” luôn là phương châm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước ta trong công tác tuyên truyền nhằm xây dựng một xã hội tích cực, tiến bộ, nhân văn.

Trong những năm qua, nhằm không ngừng phát huy sức mạnh, vai trò, sứ mệnh của báo chí cách mạng, Đảng, Nhà nước ta luôn đặc biệt quan tâm, lãnh đạo báo chí, theo đó, Báo chí Việt Nam đã không ngừng phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Theo số liệu của Bộ TT&TT, đến nay, Việt Nam hiện có 808 cơ quan báo chí, bao gồm 138 báo và 670 tạp chí. Và hiện có 42.400 người làm việc trong lĩnh vực báo chí, trong đó báo in và điện tử 24.000 người [4]. Báo chí trở thành cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với Nhân dân, luôn đồng hành với sự phát triển của đất nước.

Đội ngũ những người làm báo không ngừng phát triển về mọi mặt, nhất là vai trò xung kích, tuyến đầu trên mặt trận tư tưởng, văn hóa. Sự trưởng thành, vững vàng về năng lực, phẩm chất chính trị, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ báo chí cả nước ngày càng được khẳng định, đó là những tác phẩm báo chí chất lượng được trao giải thưởng báo chí hằng năm do Hội nhà báo Việt Nam cũng như các cơ quan, bộ, ban ngành Trung ương, địa phương tổ chức. Thông qua các giải thưởng báo chí cũng là một hình thức tôn vinh những người làm báo với những tác phẩm báo chí xuất sắc nhất, đó là sự ghi nhận, đánh giá của các tổ chức đối với thành tựu lao động, hoạt động báo chí của các tác giả, nhằm động viên, khích lệ sáng tạo của người làm báo trong cả nước.

Tuy nhiên, nhìn vào những tác phẩm báo chí được quan tâm, thậm chí vinh danh những năm gần đây cho thấy, phần lớn thuộc về những tác phẩm có đề tài chủ yếu là “gai góc” “nóng” “nhạy cảm” phản ánh các vấn đề tiêu cực, những mảng tối trong xã hội. Các mảng đề tài này dường như vẫn chiếm ưu thế, thậm chí nó như một xu hướng được các tác giả cũng như độc giả, các giám khảo “ưu tiên” hơn những nhóm đề tài khác? Có vẻ ít những tác phẩm báo chí phản ánh về những yếu tố tích cực, những mảng sáng, những mô hình phát triển kinh tế-xã hội, nêu gương người tốt, việc tốt… được đầu tư, quan tâm đúng tầm vóc.

Phải chăng, những hiện tượng tiêu cực trong xã hội đang diễn ra có chiều hướng gia tăng và phức tạp đã vô tình tạo ra nhiều tác phẩm báo chí mảng đề tài đấu tranh với tiêu cực là tất yếu. Hay những giải thưởng báo chí của các tổ chức những năm gần đây đã truyền cảm hứng cho các tác giả đi sâu khai thác mảng đề tài này... Rất khó để giải đáp một cách rõ ràng đâu là nguyên do… Trong khi đấu tranh với cái xấu, cái ác, cái tiêu cực chưa bao giờ là bình yên, phẳng lặng và nó luôn là chủ đề nóng thu hút các nhà báo dấn thân.

Có thời điểm, thông tin có tính chất tiêu cực tràn ngập trên báo chí, truyền thông. Nào là quan chức nọ, cán bộ kia bị xử lý kỷ luật do có nhiều sai phạm, tiêu cực, tham nhũng, vi phạm pháp luật… những câu chuyện ở tỉnh A, tổ chức B, việc C… người ta lạm dụng chức vụ, quyền hạn, vi phạm tập trung dân chủ dẫn đến nhiều sai phạm nghiêm trọng đến mức phải xử lý kỷ luật, khởi tố, bắt giam…, những tin tức kiểu này vô tình tạo ra bức tranh màu xám bao trùm dư luận.

Phải khẳng định, báo chí đã góp phần không nhỏ trong đấu tranh phòng chống tham nhũng, tệ quan liêu, lãng phí…, không ít các vụ việc tiêu cực đã được báo chí phanh phui, đưa ra công luận… Nhưng bất cập nảy sinh cũng không ít, nhiều hoạt động báo chí chưa đúng với tôn chỉ mục đích, tiêu cực trong hoạt động báo chí… Theo đó, không chỉ doanh nghiệp mà nhiều cán bộ chân chính cũng có tâm lí rất e ngại với giới báo chí, thậm chí cá biệt có những cán bộ, quan chức phải bạt hồn, khiếp vía với những phóng viên chính thức và phi chính thức lợi dụng việc chống tiêu cực để hù dọa… ép các đối tượng liên quan phải mua chuộc, đưa tiền…, hệ lụy kéo theo không ít phóng viên bị bắt giam vì tội tống tiền.

Với vai trò đặc biệt của mình, báo chí có nhiệm vụ đi tiên phong, phát hiện, phản ánh, phê phán những vấn đề tiêu cực, những cái bảo thủ, trì trệ lạc hậu, kiên quyết đấu tranh với cái xấu, không dung túng, không khoan nhượng, không thỏa hiệp với tiêu cực, nhằm làm minh bạch tất cả thông tin cho Nhân dân biết, đây chính là hoạt động của báo chí chân chính, từ đó góp phần củng cố lòng tin của Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước ta.

Có câu “ngọn cờ nào phong trào ấy”. Tuy nhiên, để đẩy lùi cái xấu, cái tiêu cực thì báo chí cũng nên tăng cường tuyên truyền, nêu gương nhiều hơn về những điển hình người tốt, việc tốt, những yếu tố tích cực, những mảng sáng về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội… Quan trọng hơn là mang ánh sáng trong lành tỏa ra cộng đồng, đẩy lùi, thu hẹp và xóa dần bóng tối, nhằm lan tỏa những thứ tốt đẹp đang diễn ra trong cộng đồng để bức tranh xã hội có nhiều màu sắc tích cực hơn, ý nghĩa hơn.

Nên chăng, Hội Nhà báo Việt Nam, các bộ, ban ngành Trung ương và địa phương cần khuyến khích, đầu tư, động viên, dành nhiều giải thưởng hơn cho những tác phẩm báo chí mảng đề tài phản ánh, tuyên truyền về gương người tốt, việc tốt thay vì để mảng đề tài đấu tranh với tiêu cực chiếm ưu thế. Tuyên dương, khen thưởng nói chung luôn là nguồn động viên, khích lệ to lớn cho tổ chức, cá nhân cũng như bất kỳ lĩnh vực gì, việc gì…, nó không chỉ là phần thưởng có giá trị về vật chất, tinh thần dành cho đối tượng được khen thưởng, nó còn là nguồn động lực chính tạo ra các hoạt động thi đua sáng tạo, lao động sản xuất…trong cộng đồng xã hội.

Người tốt, việc tốt phải được tuyên truyền nhiều hơn, biểu dương, khen thưởng, khích lệ động viên nhiều hơn để tăng cường "nhân cái đẹp, dẹp cái xấu", "lấy cái tích cực đẩy lùi tiêu cực". Đấu tranh, lên án, bài trừ cái xấu là cần thiết, nhưng báo chí, truyền thông nếu tập trung quá nhiều cho việc phản ánh những cái xấu, cái tiêu cực thì vô tình đã để cho cái xấu, cái tiêu cực phủ bóng dư luận, lấn át cái tích cực, cái tốt đẹp vẫn đang diễn ra hằng ngày trong xã hội./.

________________________________________

[1] Hồ Chí Minh - Toàn tập 14, Nxb CTQG, H. 2011, tr.540

[2] Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H. 2011, tr. 284

[3] Hồ Chí Minh -  Toàn tập, Tập 1, Nxb CTQG, H.1996, tr. 263

[4] https://ictvietnam.vn/hoan-thanh-sap-xep-cac-co-quan-bao-chi-theo-quy-hoach-phat-trien-57229.html

Khắc Trường - hochiminh.vn - 21.06.2023

Bàn về “liên văn hóa” từ 3 nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa

 Với bất kỳ dân tộc nào, trong bối cảnh mở cửa hội nhập đều phải đối mặt với sự xâm lăng văn hóa. Như một quy luật, chỉ có sức mạnh văn hóa nội sinh mới có thể tạo ra một sức đề kháng đủ mạnh để chống lại sự xâm lăng này. Văn hóa bản địa càng mạnh sẽ biến hại thành lợi, sẽ đồng hóa ngược lại văn hóa ngoại sinh, biến nó thành cái của mình.

KHÁI NIỆM “LIÊN VĂN HÓA”

Trước sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng lớn, con người càng phải cần đến nhau hơn, để đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ, san sẻ. Đó cũng là tiền đề cho sự giao lưu văn hóa diễn ra như một tất yếu và ngày càng sâu sắc. Do vậy, nghiên cứu liên văn hóa được đặt ra như là một nhu cầu tự thân. Đó cũng là một quy luật phát triển của văn hóa nói chung - luôn có sự kế thừa, tiếp nối, phát triển và nâng cao.

Không chỉ là sự tiếp xúc, liên văn hóa chủ yếu là sự xuyên thấm, tương tác, đối thoại lẫn nhau giữa các nền văn hóa, chú ý tới sự phân tích, chọn lựa, hiệu quả giao tiếp, tiếp thu những tri thức mới để tạo ra các giá trị văn hóa mới - kết quả của sự giao thoa văn hóa.

Vì giao tiếp làm nên văn hóa, đồng thời văn hóa làm nên giao tiếp, do vậy thuật ngữ liên văn hóa (intercultural) thực chất là giao tiếp liên văn hóa (Intercultural communication). Trong bối cảnh toàn cầu hóa, liên văn hóa mở rộng, khái quát thành trào lưu triết học liên văn hóa, hướng đến những điểm tương đồng trên nền tảng những khác biệt văn hóa. Là một xu hướng tất yếu, liên văn hóa không chỉ là nhận thức đời sống từ cái nhìn dân tộc, mà đa chiều hơn, hướng đến những giá trị phổ quát, nhân loại, hay được gọi là mẫu số chung của văn hóa toàn cầu.

DÂN TỘC HÓA, ĐẠI CHÚNG HÓA, KHOA HỌC HÓA - BA TRỤ CỘT CỦA “LIÊN VĂN HÓA”

Cùng với nhiều nội dung quan trọng khác, Đề cương văn hoá Việt Nam năm 1943 (Đề cương) đã xác định 3 nguyên tắc dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa trong xây dựng nền văn hóa mới. Dưới ánh sáng của triết học liên văn hóa hiện đại, có thể thấy Đề cương đã đi trước thời đại, soi đường cho hôm nay và mai sau.

Nhìn một cách chung nhất, có thể ví liên văn hóa như một cây xanh cắm sâu chùm rễ khỏe khoắn vào mảnh đất truyền thống dân tộc và nhân loại rồi vươn cao lá cành quang hợp ánh sáng tư tưởng của thời đại, nhờ vậy, những trái cây tác phẩm của nhà văn hóa đã kết tinh những giá trị tinh hoa để tỏa ra hương vị tư tưởng đặc sắc. Quá trình ấy chính là liên văn hóa được biểu hiện cụ thể trong tác phẩm. Mức độ liên văn hóa đậm nhạt, giàu có, phong phú... khác nhau tùy thuộc vào cái tôi chủ thể nhà văn hóa. Có thể khái quát những điều ấy tương ứng với 3 nguyên tắc: dân tộc hóa, đại chúng hóa, khoa học hóa mà Đề cương đã đề cập.

Cũng có thể ví liên văn hóa như cấu trúc một tòa lâu đài có nền móng vững chắc là văn hóa dân tộc (dân tộc hóa), trên đó là tư tưởng, tâm hồn, trí tuệ được trổ nhiều cửa sổ ngôn ngữ để đón các luồng gió văn hóa bốn phương (khoa học hóa), có nhiều cửa chính đón độc giả (đại chúng hóa) từ khắp nơi ghé thăm, chiêm ngưỡng, học tập...

Dân tộc hóa quyết định bản sắc văn hóa.

Văn hóa là quá trình kiến tạo mã và giải mã, trong đó biểu tượng là một mã cơ bản, do vậy có một định nghĩa coi văn hóa là sự tập hợp hệ thống các biểu tượng. Tự thân biểu tượng luôn mang một chiều sâu văn hoá, theo thời gian được bồi đắp, tích luỹ thêm các lớp mã ý nghĩa mới. Là hạt giống của cây văn hoá cổ xưa gieo vào mảnh đất đương đại, nảy mầm, lớn lên cho hoa quả ý nghĩa mới, biểu tượng luôn mang tính truyền thống. Giải mã biểu tượng là một cách tìm về truyền thống. Không am hiểu sâu sắc “mẫu gốc” và hoàn cảnh lịch sử văn hoá, không tri giác tường tận mảnh đất đương đại, không thể tạo ra biểu tượng mới. Thiếu vốn cổ không thể tạo mã và giải được mã.

Hồ Chí Minh đã dạy: “Những người cộng sản chúng ta phải rất quý trọng cổ điển. Có nhiều dòng suối tiến bộ chảy từ ngọn núi cổ điển đó. Càng thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin, càng phải coi trọng những truyền thống tốt đẹp của cha ông”(1). Đây là một lý luận mang kinh điển nhưng được mềm hóa thành hình tượng: phải xây dựng một nền văn hóa tiến bộ, hiện đại bắt nguồn từ truyền thống, dựa vào truyền thống.

Cũng chính Hồ Chí Minh từng căn dặn các văn nghệ sĩ: “Làm công tác văn nghệ mà không tìm hiểu sâu vốn của dân tộc thì không làm được đâu”(2). Cần thấy rõ hơn sự vĩ đại của quan niệm này ở chỗ gặp gỡ với triết học liên văn hóa có xu hướng đào sâu vào quá khứ để tìm nguồn mạch nuôi dưỡng, làm giàu có hiện tại.

Như vậy, chỉ có văn hóa truyền thống dân tộc mới tạo ra bản sắc, mà trong thời toàn cầu hóa hiện nay bản sắc được coi như là sứ giả trung thành, tin cậy nhất trong việc gắn kết và gắn nối với văn hóa toàn cầu. Về thực chất và trên thực tế văn hóa truyền thống góp phần chủ yếu trong việc làm giàu có cho gia tài văn hóa quốc gia.

Với bất kỳ dân tộc nào, trong bối cảnh mở cửa hội nhập đều phải đối mặt với sự xâm lăng văn hóa. Như một quy luật, chỉ có sức mạnh văn hóa nội sinh mới có thể tạo ra một sức đề kháng đủ mạnh để chống lại sự xâm lăng này. Văn hóa bản địa càng mạnh sẽ biến hại thành lợi, sẽ đồng hóa ngược lại văn hóa ngoại sinh, biến nó thành cái của mình.

Đại chúng hóa - tính nhân dân vừa là thuộc tính vừa là phẩm chất của văn hóa.

Ở bất kỳ thời nào thì quần chúng nhân dân cũng vừa là chủ thể sáng tạo vừa là đối tượng thẩm mỹ, cũng là chủ thể tiếp nhận. Vấn đề có ý nghĩa quyết định là quan điểm tư tưởng và thái độ phản ánh của người nghệ sĩ sáng tạo ra tác phẩm có vì nhân dân, tôn trọng nhân dân hay không. Một tác phẩm có tính nhân dân luôn căn cứ từ hai phương diện cơ bản là nội dung (phản ánh cuộc sống của dân, tâm tư, tình cảm, ước nguyện, quyền lợi... của nhân dân) và hình thức (phù hợp với thị hiếu của nhân dân, được nhân dân ưa thích, trong sáng, giản dị, dễ hiểu…).

Hiện thực là nguồn gốc của nhận thức. Là một hình thái ý thức nên văn nghệ càng phải cắm sâu vào mảnh đất hiện thực để hút lấy chất dinh dưỡng cuộc đời. Chỉ có từ đời sống, bắt nguồn từ đời sống mới có thể nảy nở những tài năng. Không có cách nào khác, muốn rèn luyện tài năng thì người nghệ sĩ phải trở về cái gốc của nghệ thuật là đời sống nhân dân. Để phát hiện những năng khiếu, điều kiện cần có của tài năng cũng phải tìm từ đời sống. Trong lịch sử văn hóa nhân loại chưa có thiên tài nghệ thuật nào không được gieo hạt, nảy mầm, bắt rễ, lớn lên, trưởng thành từ cái nôi đời sống. Các cây đại thụ văn chương thế giới, trước khi có những trước tác đồ sộ, họ cũng đều là những người lăn lộn với cuộc đời.

Rất tiếc ở ngày hôm nay, tính nhân dân ở ta đang bị coi nhẹ. Một sô giáo trình lý luận văn học, văn hóa gần đây dành số trang nhiều hơn giới thiệu về lý thuyết nước ngoài nhưng xa lạ với văn hóa Việt. Nhiều luận án, luận văn không tha thiết với đề tài cách mạng, kháng chiến, truyền thống mà hướng về “thời thượng” với hậu hiện đại, tính dục, đổ vỡ, bi kịch... Nếu không kịp thời điều chỉnh, có thể đẩy sáng tác ngày một xa hơn với cuộc sống, với nhân dân, với cách mạng.

Khoa học hóa - “chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”.    

Vì là những tư tưởng khoa học nhất, tiến bộ nhất nên chỉ có Chủ nghĩa Mác và tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường thì văn hóa hôm nay mới phát triển mạnh mẽ, mới có thể “chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”.

Từ cách nhìn liên văn hóa hiện đại, thế giới hôm nay càng thấy ở chủ nghĩa Mác một tầm cỡ tư tưởng lớn của nhân loại. Như một thấu kính hội tụ khổng lồ tự kết tinh những ánh sáng tinh hoa trước đó của thế giới, chủ nghĩa Mác trở thành mặt trời tư tưởng vĩ đại của nhân loại soi đường cho các dân tộc đi lên hạnh phúc. Hiện nay trước tác của Mác được giới nghiên cứu phương Tây quan tâm, có hàng triệu độc giả chào đón, nghiên cứu, tìm hiểu. Ở thời điểm nhân loại bước vào cuộc hội nhập toàn cầu mạnh mẽ và sâu rộng, người ta càng thấy bộ Tư bản phát ra những ánh sáng khoa học mới mẻ đi trước thời đại gợi dẫn những quy luật, không chỉ về kinh tế, mà còn về chính trị, văn hóa, xã hội...

Cuộc Hội thảo khoa học Quốc tế “Hồ Chí Minh và Ấn Độ” (Ho Chi Minh and India) tổ chức ngày 14/5/2022 tại Kolkata, Ấn Độ; trước đó, tháng 10/2019 là Hội thảo “Hồ Chí Minh toàn cầu” (Global Ho Chi Minh), tổ chức tại New York, Mỹ cùng nhiều hội thảo quốc tế khác đều khẳng định ở Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh là sự hội tụ tuyệt đẹp ba luồng văn hóa: văn hóa yêu nước Việt Nam; văn hóa hòa bình, bình đẳng, bác ái của nhân loại tiến bộ; văn hóa giải phóng con người của Chủ nghĩa Mác. Các nhà nghiên cứu quốc tế đều nhấn mạnh hình ảnh Hồ Chí Minh không chỉ là vị anh hùng giải phóng dân tộc, còn là cầu nối giữa Việt Nam với thế giới và nhân cách của Người mang tầm ảnh hưởng toàn cầu. Điều này khẳng định sự tôn trọng của giới học giả thế giới đương đại với Hồ Chí Minh. Tư tưởng và những giá trị văn hoá cao đẹp của Người đang được cả nhân loại đón nhận.

VỐN CỔ DÂN TỘC - ĐIỂM TỰA CHO PHÁT TRIỂN

Từ góc nhìn liên văn hóa xin chứng minh trong văn hóa Việt có những tác phẩm lớn mang đậm bản sắc dân tộc sánh ngang với thế giới. Đó là tài sản văn hóa vô giá của chúng ta.

Quan niệm coi trọng con người đã tạo ra ở văn hóa Việt những bài học đạo lý làm người, thương yêu con người, căm ghét cái ác, tinh thần hướng thiện được kết tinh rồi tỏa sáng ở những hình tượng nghệ thuật thẩm mỹ đặc sắc. Không ngẫu nhiên Chử Đồng Tử được phong là “Tứ bất tử”. Truyền thuyết Chử Đồng Tử trước hết là sự minh hoạ sinh động, cụ thể rất mực cảm động và chân thực cho chữ Hiếu; là sự giao thoa các tư tưởng triết học lớn: Phật giáo, Nho giáo, Lão giáo. Truyện còn là bài ca ca ngợi tình yêu hôn nhân tự do như là một mối tình đẹp nhất, chung thuỷ, bình đẳng và dân chủ. Có thể nói, truyền thuyết về Chử Đồng Tử là một truyện cổ về tình yêu hay hiếm hoi không chỉ ở nước ta mà còn so với cả thế giới. Nếu không có một sức mạnh nhân văn cao cả, một tình thương lớn lao với những con người dưới đáy, thì từ hàng ngàn năm trước, người xưa không thể sáng tạo ra được những chi tiết, hình tượng đầy nghịch cảnh mà tuyệt vời trong sáng như vậy.

Nơi Quan Thế Âm Bồ Tát sinh ra (Ấn Độ cổ đại) thì hầu hết là đàn ông nhưng sang Việt Nam thì đều trở thành Phật Bà. Điều này có thể hiểu bản sắc “thiên tính nữ” đã tạo ra độ khúc xạ để thay đổi cho phù hợp. Vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính toả sáng vào bầu trời văn hoá Việt Nam đã hàng mấy thế kỷ, làm mê đắm, thổn thức hàng triệu trái tim bao thế hệ bởi được thu nhận những ý nghĩa nhân văn tận thiện, tận mỹ. Bởi được xây cất bằng vật liệu tư tưởng về con người của văn hoá dân gian, văn hoá Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo nên đa dạng, nhiều vẻ về cấu trúc hình tượng. Bởi được khúc xạ và tích hợp từ nhiểu nguồn mỹ học nên đa nghĩa và phát ra những ánh sáng văn hoá lạ, độc đáo.  

Là sự hợp lưu ánh sáng từ quan niệm lành mạnh, khoẻ khoắn, táo bạo của dân gian; quan niệm từ bi hỷ xả của đạo Phật; từ nền nếp khắt khe của Nho giáo tác phẩm Quan Âm Thị Kính đã tạo ra những hình tượng mang tính ám ảnh. Tại sao Thị Kính tốt, hiền lành cam chịu như thế mà bị oan, mà oan thảm, oan hai ba lần? Hạt nhân hợp lý ở đâu? Cái ý bật thoát ra thật sâu sắc: trong xã hội đầy tai ương, mâu thuẫn, phi lý thì người tốt, cái tốt không tồn tại được. Mà muốn cho cái tốt, người tốt tồn tại thì phải thay đổi cả xã hội ấy. Đó là việc không thể. Dân gian biết rõ thế. Mà người tốt cái tốt thì rất cần được bênh vực, nên dân gian đã làm một cuộc hoán vị thân phận mà đổi ngôi cho họ. Đó cũng là một cách trốn tránh cái phi lý ở đời. Cuối cùng nhân vật được đổi thành kiếp Phật. Đây vừa là quan niệm nhà Phật “Đời là bể khổ!” nhưng cũng là quan niệm “hoá kiếp” nhân ái của tín ngưỡng tình thương trong dân gian. Quan niệm con người ta phải có chữ “Nhẫn” làm đầu và ở hiền gặp lành trong văn hoá Việt đã gặp gỡ tinh thần “cứu độ” Phật giáo để cùng đưa Thị Kính hoá thân thành Quan Âm trong vòng hào quang thánh thiện của tình người.

Nhìn từ lý thuyết đối thoại văn hóa hiện đại sẽ thấy Thị Kính chủ yếu đối thoại với chính mình, với phận mình, còn Thị Mầu đối thoại với cả xã hội, với cả kiếp người! Nhưng không có Thị Kính thì không có Thị Mầu! Dân gian đã mượn bối cảnh, quan niệm nhà Phật để mạnh mẽ vượt qua mọi ràng buộc cấm đoán mà phát biểu quan niệm khỏe khoắn về cái chất trần gian phải có ở mỗi người. Đậm đà một tinh thần nhân văn, khát khao một tinh thần dân chủ, cháy bỏng một khát vọng yêu và được yêu, sâu sắc một tinh thần nữ quyền. Vở chèo cổ Quan Âm Thị Kính là một viên ngọc văn hoá toả sáng vào cả tương lai, góp phần làm rạng rỡ thêm bản sắc Việt.

Trên sâu khấu tuồng cổ, ông cha ta cũng để lại một viên ngọc vô giá bằng vở tuồng Trương Ngáo mang đậm cảm quan dân gian về Phật giáo gần gũi, đời thường, bình đẳng với con người. Hành trình của Trương Ngáo đến Tây phương đòi nợ Phật hay là hành trình của con người kiếm tìm sự thật? Đó là những triết lý lớn chỉ có ở những tác phẩm lớn. Trên mọi cuộc hành trình, cuộc đời cũng như khoa học; nghệ thuật cũng như tôn giáo; lao động cũng như tình yêu... cái đáng quý là quá trình khám phá, tìm hiểu chứ không ở mục đích. Tính hiện đại của vở tuồng chính là ở sự phân tích quá trình biến đổi nhân vật Trương Ngáo từ chưa biết đến biết, từ sự ngờ nghệch, ngốc nghếch đến minh triết sáng láng. Ý nghĩa cơ bản của tác phẩm như muốn đưa ra một bài học: muốn thay đổi, làm mới mình phải “lên đường”, tức phải bước vào quá trình học hỏi, dù có phải trải qua bao khó khăn. Điều quan trọng nhất là người ta phải có đủ ý chí, trí tuệ và niềm tin thì mới có thể tìm được chân lý của đời mình. Cái lõi thẳm sâu bên trong của vở tuồng là những khao khát nhân văn thánh thiện, luôn muốn vươn lên thế giới của cái đẹp, cái hạnh phúc!

Tạm dẫn chứng một vài tác phẩm thuộc vốn cổ của dân tộc như trên cũng đủ rút ra kết luận: cây nhân cách người có tươi tốt là nhờ được trồng vào mảnh đất truyền thống để hút chất dinh dưỡng văn hóa đạo lý và vươn cao cành lá quang hợp ánh sáng lý tưởng của thời đại. Đạo đức xã hội hôm nay đang xuống cấp nghiêm trọng, phải chăng có lý do là chưa được như vậy?

ĐỂ DÂN TỘC HÓA, ĐẠI CHÚNG HÓA, KHOA HỌC HÓA TỐT HƠN

Một là, bên cạnh việc tiếp thu lý luận văn nghệ nước ngoài, cơ bản hơn cần có chiến lược nghiên cứu tiếp thu, kế thừa, phát triển lý luận văn nghệ của cha ông.

Xin nhắc lại dạy sáng suốt, sâu sắc và vô cùng tinh tế của Hồ Chí Minh: “Muốn thấy hết cái hay, cái đẹp của nghệ thuật dân tộc ta, thì phải đừng bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn này nọ của nghệ thuật phương Tây... phải dựa trên tiêu chuẩn của ta. Tiêu chuẩn ấy là gì? Đó là nền mỹ học ẩn chứa trong thực tiễn truyền thống nghệ thuật dân gian, dân tộc”(3). Lý thuyết nước ngoài bao giờ cũng có độ vênh lệch, chưa nói đến có sự áp đặt, khiên cưỡng. Mỹ học của cả một nền văn học dân gian rồi văn học cổ trung đại là một kho vàng tư tưởng, theo phong tục và tư duy truyền thống của nước “thi ca chi bang” (đất nước của thơ) nên còn chìm ẩn trong các sáng tác văn chương. Phải bỏ công sức, phải học chữ Hán Nôm, suy ngẫm tìm tòi chất vàng ấy còn đang ẩn sâu trong các hình tượng thẩm mỹ. Có cả một nền mỹ học mà cha ông ta, theo con đường liên văn hóa đã học tập, tiếp thu, kế thừa, kết tinh, phát triển và nâng cao còn đang nằm trong nhiều trước tác. Truyền thống lý luận của ta ít khi hiển ngôn mà thường thể hiện dưới dạng tác phẩm, ở thời hiện đại cũng có nhiều, như một câu thơ của Phạm Tiến Duật: “Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng/ Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay”. Đây là quan niệm về chủ thể: nghệ sỹ phải quên mình, làm mới mình để sáng tạo cái đẹp. Tác phẩm nghệ thuật phải có chức năng làm đẹp và nuôi dưỡng sự sống…!?

Hồ Chí Minh nói: “Phải mở rộng kiến thức của mình về văn hóa thế giới,... nhưng đồng thời lại phải tránh nguy cơ trở thành những kẻ bắt chước. Văn hóa của các dân tộc khác cần phải nghiên cứu toàn diện, chỉ trong trường hợp đó mới có thể tiếp thu được nhiều hơn cho văn hóa của chính mình”(4). Ở đây toát lên mấy vấn đề lý luận: cần tiếp thu đa dạng các nền văn hoá khác nhau, nhưng là tiếp thu cái tiến bộ; phải chủ động, không bắt chước, biết tiếp thu cái gì là đặc sắc mà mình còn thiếu. Muốn thế phải nghiên cứu nền văn hoá mình cần tiếp thu một cách toàn diện, hệ thống. Cần thấm thía hơn lời dạy của Hồ Chí Minh về tính chỉnh thể của văn hoá, phải nắm bắt cái chỉnh thể tìm ra cái đặc sắc cá thể để tiếp nhận.

Hai là, với người nghệ sĩ - chủ thể sáng tạo văn hóa.

Cùng với tôn trọng sự tự do sáng tạo, Đảng, Nhà nước cần đặc biệt quan tâm việc bồi dưỡng tư tưởng chính trị, quan điểm, lập trường cho văn nghệ sĩ. Văn học nghệ thuật là vấn đề tư tưởng. Lá cành của cây xanh nhà văn phải luôn quang hợp ánh sáng lý tưởng cách mạng, nếu không cây sẽ bị héo và quả sẽ sài đẹn. Tình cảm đúng đắn nhất, chân lý nhất là tự do sáng tạo vì mục đích vì nước vì dân. Tư tưởng sẽ chuyển hóa để rồi trở thành máu thịt tác phẩm. Để có tư tưởng phải là quá trình lâu dài từ thấu hiểu (nhận thức) sâu sắc cuộc sống đến thấu cảm (đồng điệu, hòa nhập) vào hình tượng, cộng cảm (tiếp nhận, chia sẻ, lan tỏa) với nhân sinh để có một mẫu sỗ văn hóa chung mới có thể truyền cảm một cách sâu xa (nghệ thuật) tới đối tượng tiếp nhận.

Các tổ chức Hội nên tổ chức những chuyến đi sâu, dài ngày vào thực tế, người nghệ sĩ sẽ được hiểu kỹ hơn một mảng đời sống, sẽ có những vui buồn thật sự, cảm thông và chia sẻ với người lao động. Được sống, hít thở, đập cũng nhịp đập trái tim của cuộc sống người nghệ sỹ mới có thể kiến trúc mô hình và xây dựng tác phẩm từ mô hình và chất liệu ngoài cuộc sống, gắn liền với đời sống, vì đời sống!./.

_______________________

(1) Trần Đương: Bác Hồ như chúng tôi đã biết. Nxb. Thanh niên, H, 2009, tr.166.

(2) Lữ Huy Nguyên (sưu tầm, biên soạn): Bác Hồ với văn nghệ sĩ. Nxb. Văn học, H, 1995, tr.83.

(3) Mịch Quang: Khơi nguồn mỹ học dân tộc. Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2004, tr.8, 9.

(4) Nhiều tác giả: Hồ Chí Minh với văn nghệ sĩ, văn nghệ sĩ với Hồ Chí Minh, Nxb. Hội Nhà văn, H, 2011, t.3, tr.56.

PGS. TS. NGUYỄN THANH TÚ - tuyengiao.vn - 12.06.20234.

Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc độc lập, tự cường và sáng tạo của Hồ Chí Minh

Ngày lãnh tụ Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước, là dịp để chúng ta tôn vinh những cống hiến vĩ đại của Người. Con đường cứu nước, giải phóng dân tộc độc lập, tự cường, sáng tạo Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua đã giành được những thành tựu to lớn, là minh chứng khẳng định đi theo con đường mà Người đã lựa chọn, dân tộc Việt Nam sánh vai vẻ vang với cường quốc năm châu.

1. Trong hoàn cảnh nước mất, nhà tan, cả dân tộc bị dìm trong máu lửa, tình hình đen tối như không có đường ra. Với ý chí, hoài bão lớn lao và tư duy mới, ngày 5-6-1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành, đã rời đất nước ra nước ngoài (phương Tây) đi tìm con đường cứu nước phù hợp, đúng đắn “xem người ta làm thế nào để rồi trở về giúp đồng bào mình”. Người đi tìm một con đường đúng đắn chứ không đi cầu ngoại viện. Điều đó đã thể hiện ý chí tự lực, tự cường và một khát vọng lớn, tầm nhìn thời đại. Sau khi đi qua nhiều nước, nhiều châu lục, đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp (thành viên của Quốc tế II), tìm hiểu về cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga. Ngày 18-6-1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới Nguyễn Ái Quốc gửi Bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Verssailles (Vecxây) đòi những quyền dân tộc tự quyết. Sự kiện đó tạo ra tiếng vang lớn cho Việt Nam và Đông Dương, thức tỉnh cả dân tộc về quyền sống của mình. Ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chính của dân tộc mình được bồi đắp trong tư tưởng và sự nghiệp đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọi người Việt Nam yêu nước.

Tháng 7-1920, Nguyễn Ái Quốc đọc toàn văn tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin và nhận thấy tác phẩm “là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”. Điều này đã làm chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, từ chủ nghĩa yêu nước đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm thấy ở lý luận cách mạng, khoa học đó con đường cứu nước đúng đắn, gắn liền sự nghiệp giải phóng dân tộc với sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người của chủ nghĩa cộng sản.

Tư tưởng Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh không ngoài mục tiêu nào khác - là giành độc lập cho dân tộc gắn liền tất yếu với thực hiện quyền tự do, dân chủ, hạnh phúc của đồng bào. Cuối tháng 12-1920, tại Đại hội XVIII của Đảng Xã hội Pháp (Thành phố Tours), Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán thành quan điểm của V.I.Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Trả lời câu hỏi của một đồng chí Pháp, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những gì tôi muốn, đấy là tất cả những gì tôi hiểu”[1]. Trong những năm hoạt động ở Pháp (1917-1923), Nguyễn Ái Quốc đã kiên quyết phản đối sự cai trị thực dân của Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, quyết tâm đòi quyền độc lập. Trong lần gặp ông Xarô tháng 6-1922, Nguyễn Ái Quốc nói rõ: “Cái mà tôi cần nhất trên đời là đồng bào tôi được tự do, Tổ quốc tôi được độc lập”. Trước đó (2-1921), Nguyễn Ái Quốc nói với Bộ trưởng Thuộc địa Pháp: “Nếu nước Pháp trả lại nền độc lập cho chúng tôi, ông sẽ thấy là chúng tôi biết cầm quyền cai trị lấy”[2].

Ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm đấu tranh vì nền độc lập và phát triển đất nước của Nguyễn Ái Quốc là kiên quyết, kiên cường, không thế lực cường quyền nào có thể đe dọa và dập tắt.

2. Tự lực, tự cường của Nguyễn Ái Quốc là không phụ thuộc vào người khác, vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập về những vấn đề quan hệ quốc tế. Hầu hết các Đảng Cộng sản ở Châu Âu tức ở các nước tư bản chủ nghĩa đi chiếm các thuộc địa, đều có quan điểm là cách mạng ở các thuộc địa phụ thuộc vào cách mạng ở các nước tư bản (chính quốc), cách mạng ở các thuộc địa không thể thắng lợi khi cách mạng vô sản ở chính quốc chưa thắng lợi. Nguyễn Ái Quốc không tán thành quan điểm đó. Người cho rằng, với ý chí đấu tranh và khát vọng độc lập, tự do, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc vào cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Chẳng những cách mạng ở thuộc địa có thể thắng lợi mà còn giúp đỡ giai cấp vô sản ở chính quốc trong sự nghiệp đấu tranh. Tháng 5-1921, tại Paris, Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ: “Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”[3].

Với tư duy mới và sự nhìn nhận thực tế, Nguyễn Ái Quốc đặt vấn đề, chế độ cộng sản có thể áp dụng được ở Châu Á nói chung và Đông Dương nói riêng không, ngay từ năm 1921, Nguyễn Ái Quốc đã nêu rõ: “xét những lý do lịch sử cho phép chủ nghĩa cộng sản thâm nhập vào châu Á dễ dàng hơn là ở châu Âu”[4]. Tư duy khoa học và sự phân tích sâu sắc thực tiễn lịch sử, Nguyễn Ái Quốc luôn nuôi dưỡng ý chí đấu tranh và phát triển đất nước theo con đường mới - con đường xã hội chủ nghĩa. Tháng 6-1923, Nguyễn Ái Quốc rời nước Pháp sang Liên Xô tiếp tục sự nghiệp đấu tranh cách mạng theo con đường của chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản cũng với những nhận thức mới mẻ của bản thân mình. Nguyễn Ái Quốc đã có thư gửi lại các bạn cùng hoạt động ở Pháp, nêu rõ quyết tâm, ý chí và phương pháp đấu tranh để giải phóng dân tộc mình khỏi ách cai trị thực dân: “Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”[5].

 

3. Khẳng định ý chí độc lập, tự cường, nhưng Nguyễn Ái Quốc luôn nhận rõ mối quan hệ mật thiết, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau giữa cách mạng vô sản ở các nước tư bản và cách mạng giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Người coi hai cuộc cách mạng đó như hai cánh của con chim. Cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa cần thiết do một Đảng cách mạng chân chính - Đảng Cộng sản lãnh đạo theo lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin hoàn toàn có thể chuyển hóa, phát triển theo con đường cách mạng vô sản. Điều đó bảo đảm cho sự nghiệp giải phóng dân tộc hoàn toàn và triệt để, đồng thời đi tới giải phóng xã hội, giải phóng con người. Tư tưởng đó là nhất quán trong Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh và mang giá trị biện chứng trong sự vận động xã hội của thời kỳ mới. Khi hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc thường xuyên đề nghị Quốc tế Cộng sản đặt đúng vị trí, vai trò của cách mạng thuộc địa. Quốc tế cộng sản cần tích cực giúp đỡ cách mạng thuộc địa về lý luận và phương pháp đấu tranh, đào tạo cán bộ cho các dân tộc thuộc địa. Phát biểu tại Đại hội V Quốc tế Cộng sản trong phiên họp ngày 1-7-1924, Nguyễn Ái Quốc đã thẳng thắn phê phán các Đảng Cộng sản ở các nước Châu Âu mà giai cấp tư sản ở đây chiếm giữ thuộc địa, đã làm rất ít để giúp đỡ cho phong trào cách mạng ở các thuộc địa. Nguyễn Ái Quốc cho rằng V.I.Lênin là người quan tâm đầy đủ và luôn luôn cổ vũ, hướng dẫn phong trào cách mạng thuộc địa phát triển đúng đắn: “Theo Lênin, cách mạng ở phương Tây muốn thắng lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch và vấn đề dân tộc, như Lênin đã dạy chúng ta, chỉ là một bộ phận của vấn đề chung về cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản”[6].

Ý chí tự lực, tự cường trong tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc có điều đặc biệt là phải đánh giá và thấy rõ sức mạnh của tinh thần yêu nước và chủ nghĩa dân tộc chân chính của người Việt Nam. Từ người yêu nước nhiệt thành, Nguyễn Ái Quốc trở thành người cộng sản kiên trung, từ người đấu tranh cho độc lập tự do của dân tộc mình trở thành chiến sĩ quốc tế tiêu biểu. Ở Nguyễn Ái Quốc là sự hòa quyện, thống nhất giữa lập trường giai cấp với lập trường dân tộc, giữa chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hoạt động quốc tế sôi nổi khi Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp (1919) và tiếp đó là Đảng Cộng sản Pháp (1920). Tại Pháp, Nguyễn Ái Quốc cùng với các nhà hoạt động cách mạng các nước Angiêri, Marốc, Tuynidi, Mađagatxca… thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa (4-10-1921) và xuất bản báo Le Paria (Người cùng khổ). Khi hoạt động trong Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc càng thấm nhuần sâu sắc và thấy rõ vai trò, bản chất của chủ nghĩa quốc tế vô sản. Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản giao nhiệm vụ tới Quảng Châu (Trung Quốc). Tại đây, Người thực hiện cả hai trách nhiệm dân tộc và quốc tế. Với cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đào tạo cán bộ, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tổ chức phong trào cách mạng, chuẩn bị những điều kiện để thành lập Đảng cách mạng, xuất bản báo Thanh niên (21-6-1925). Về trách nhiệm quốc tế, Nguyễn Ái Quốc liên lạc với các nhà cách mạng ở Châu Á: Trung Quốc, Triều Tiên, Ấn Độ, Xiêm (Thái Lan), Inđônêxia, Miến Điện,… và tham gia thành lập Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9-7-1925).

Nhận thức của Nguyễn Ái Quốc về ý chí tự lực, tự cường đòi hỏi phải phát triển sức mạnh của toàn dân tộc và kết hợp với sự đoàn kết và ủng hộ quốc tế. Trong tác phẩm Đường Cách mệnh (1927), Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh “cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không phải của một hai người”. Ý chí của người dẫn đường phải trở thành ý chí của toàn dân. Phải có sách, báo để tuyên truyền, giác ngộ mọi người. Cuốn sách Đường Kách mệnh: “chỉ ước ao sao đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”[7]. Cách mạng Việt Nam phát triển trong xu thế phát triển chung của cách mạng thế giới, do vậy Quốc tế Cộng sản, giai cấp vô sản các nước và các dân tộc thuộc địa trên khắp thế giới sẽ hết lòng giúp cho. “Nhưng muốn người ta giúp cho, thì trước mình phải tự giúp lấy mình đã”[8]. Mùa Xuân năm 1930, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sáng lập Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Cương lĩnh ngắn gọn, rõ ràng và thể hiện rõ tinh thần độc lập, tự chủ, phù hợp với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam, được Nguyễn Ái Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định đấu tranh giải phóng dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc thực dân và chế độ phong kiến đã suy tàn, để cho nước Nam được hoàn toàn độc lập.

                           ******************

Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời; dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh, hai cuộc kháng chiến thắng lợi, đất nước thống nhất, nhân dân Bắc - Nam sum họp một nhà. Đó là thành quả của cuộc đấu tranh kiên cường của cả dân tộc Việt Nam, là thành quả của ý chí tự lực, tự cường, khát vọng độc lập, tự do, phát triển đất nước mà Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh nêu cao và được cả dân tộc nhận thức và hành động. Ý chí tự lực tự cường, khát vọng độc lập, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân được Hồ Chí Minh giáo dục sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, toàn quân đã mang lại độc lập cho dân tộc, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân, thỏa niềm khát khao, ước nguyện cả cuộc đời của Bác Hồ.

________________________________________

[1] Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb Chính trị quốc gia, H, 1993, tập 1, tr.94.

[2] Hồ Chí Minh Biên niên tiểu sử, Nxb CTQG, H, 1993, tập 1, tr.96.

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 2011, tập 1, tr.48.

[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.47.

[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.209.

[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 1, tr.299.

[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.283.

[8] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, tập 2, tr.320.

TS. DƯƠNG MINH HUỆ - hochiminh.vn - 07.06.2023

Lấy phiếu tín nhiệm không phải là thanh trừng nội bộ

 Sau hơn 2 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc và đầy tinh thần trách nhiệm, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương giữa nhiệm kỳ (khoá XIII) đã thành công tốt đẹp. Một trong những thành công của Hội nghị Trung ương lần này là việc lấy phiếu tín nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư (khóa XIII) đã đạt được mục đích, yêu cầu đề ra. Tuy nhiên, một số quan điểm sai trái, thù địch lại cho rằng “lấy phiếu tín nhiệm tại Hội nghị Trung ương là một chiêu bài thanh trừng nội bộ của Đảng”! Rõ ràng đây chỉ là những luận điệu sai trái, cố tình không thấy những kết quả tích cực của việc lấy phiếu tín nhiệm trong công tác cán bộ của Đảng.

Cần phải thấy rằng, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư là một trong những nội dung đổi mới rất quan trọng trong công tác cán bộ của Đảng ta, bắt đầu được tiến hành từ nhiệm kỳ khóa XI đến nay. Mục đích của việc lấy phiếu tín nhiệm là để thực hiện tốt hơn các chủ trương, nghị quyết, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ cấp cao của Đảng có đủ phẩm chất, năng lực, ngang tầm nhiệm vụ; giúp các đồng chí được lấy phiếu tín nhiệm “tự soi”, “tự sửa”, tiếp tục phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống và không ngừng nâng cao trách nhiệm nêu gương, trình độ, năng lực công tác để hoàn thiện bản thân, góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân đối với Đảng.

Vì vậy, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư khóa XIII tại Hội nghị Trung ương giữa nhiệm kỳ lần này đã tuân thủ đúng quy định, quy trình của Đảng đối với công tác cán bộ. Theo đánh giá của Trung ương, việc lấy phiếu tín nhiệm đã đánh giá đúng phẩm chất, năng lực, kết quả cụ thể thực hiện chức trách được giao và uy tín của người được lấy phiếu tín nhiệm bảo đảm tính dân chủ, khách quan, công tâm, công khai, minh bạch theo đúng Quy định số 96-QĐ/TW và Kế hoạch số 16-KH/TW của Bộ Chính trị, đồng thời là sự cụ thể hóa nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình của Đảng.

Học thuyết Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta đều khẳng định, tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, tự phê bình và phê bình là vấn đề có ý nghĩa then chốt trong việc xây dựng Đảng vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực cầm quyền, lãnh đạo xây dựng đất nước thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Là người tổ chức, giáo dục, rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến vấn đề tự phê bình và phê bình của Đảng. Người quan niệm, “phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của đồng chí mình, tự phê bình là nêu ưu điểm và vạch khuyết điểm của mình”. Vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tự phê bình và phê bình, Đảng ta luôn khẳng định tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng, là thước đo trình độ dân chủ trong Đảng, là ý thức trách nhiệm của Đảng với Nhân dân. Thực tế đã chứng minh, ở đâu, giai đoạn nào, dù hoàn cảnh có khó khăn gian khổ đến mấy nhưng tự phê bình và phê bình được tiến hành thường xuyên, có hiệu quả thì ở đó, giai đoạn đó, tổ chức đảng phát huy được vai trò tiền phong gương mẫu và ngược lại ở nơi nào, thời điểm nào tự phê bình và phê bình không được tiến hành thường xuyên hoặc làm qua loa, hình thức là ở đó mất dân chủ, nội bộ mất đoàn kết, tổ chức đảng không còn phát huy được vai trò lãnh đạo của mình. Một trong những nguyên nhân dẫn đến các vụ việc tiêu cực, tham nhũng ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương đã được Đảng ta chỉ ra trong thời gian qua là do tự phê bình và phê bình trong nội bộ ít được quan tâm, tính chiến đấu trong sinh hoạt không được đề cao. Nhiều trường hợp “mũ ni che tai”, thờ ơ, thấy sai không đấu tranh, thấy đúng không bảo vệ, đùn đẩy, né tránh, ngại va chạm dẫn đến nội bộ mất đoàn kết, tổ chức đảng yếu kém không phát huy được vai trò lãnh đạo của mình.

Do đó, thành công của việc lấy phiếu tín nhiệm của Ban Chấp hành Trung ương đối với các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư khóa XIII đã cho thấy, Đảng ta luôn tuân thủ đúng nguyên tắc tập trung, dân chủ, tự phê bình và phê bình trong công tác cán bộ. Đây là “hòn đá thử vàng” đối với mỗi đồng chí cán bộ cấp cao của Đảng; đồng thời cho thấy quyết tâm của Đảng ta trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là trong công tác cán bộ.

Quyết tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất, năng lực, tâm huyết, trách nhiệm cao, luôn hết lòng vì nước, vì dân… đã và sẽ luôn là mục tiêu, quyết tâm lãnh đạo của Đảng ta. Đó cũng chính là minh chứng thuyết phục nhất, phản bác những luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động chống phá Đảng, Nhà nước ta trong thời gian qua.

VŨ HẢI - quankhu2.vn - 13.06.2023

Việt Nam giữ vững lập trường bảo vệ lẽ phải

 Trong bối cảnh quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ ngày càng đi vào thực chất và đạt được nhiều thành tựu quan trọng qua 10 năm thiết lập quan hệ Đối tác toàn diện, các thế lực thù địch đã có nhiều bài viết xuyên tạc, dẫn dắt dư luận đi ngược lại đường lối, chủ trương, chính sách ngoại giao của Việt Nam, kêu gọi nước ta chọn phe trong quan hệ với các nước lớn và trong quan hệ với Hoa Kỳ. Đây là những âm mưu sai trái, phản động, đi ngược lại quan điểm, chính sách ngoại giao đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.

Trên trang Blog Đối thoại, các thế lực thù địch đã tán phát bài “Tổng thống Biden, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng điện đàm: Chưa khẳng định về đối tác chiến lược, nêu ra nhân quyền”; trên trong Blog Đài Á châu tự do (RFA) tán phát bài “Việt – Mỹ đối thoại chính trị, an ninh, quốc phòng lần thứ 12” với nội dung xuyên tạc cuộc đối thoại chính trị, an ninh, quốc phòng Việt Nam – Hoa Kỳ lần thứ 12; Bên cạnh đó, nhiều bài viết đã xuyên tạc mục đích chuyến thăm Việt Nam của Ngoại trưởng Hoa Kỳ tới Việt Nam vừa qua và đường lối đối ngoại, chính sách mở cửa, hội nhập quốc tế của Việt Nam, gây chia rẽ mối quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ… Tất cả những chiêu trò trên đều cho thấy, mẫu số chung của các bài viết này là, một mặt họ dùng chiêu trò chê bai, kích bác chính sách quốc phòng “4 không” và đường lối ngoại giao độc lập, tự chủ của nước ta; họ coi đó là sự “mềm yếu”, “nhu nhược” trước những nước lớn đầy tham vọng về yêu sách chủ quyền, lãnh thổ, luôn giở trò cưỡng bức, bắt nạt Việt Nam và các nước nhỏ trong khu vực, nhất là trên Biển Đông. Mặt khác, họ tìm cách đưa ra giải pháp để Việt Nam “chọn phe”, “liên minh” quân sự với các nước khác, cụ thể là với Hoa Kỳ để bảo toàn chủ quyền lãnh thổ, biển đảo… Đây là những âm mưu hết sức thâm độc mà nếu không cảnh giác, nghe theo những luận điệu này, chắc chắn sự ổn định, hòa bình, độc lập của nước ta sẽ bị ảnh hưởng và lệ thuộc!

Thực tiễn cho thấy, chính sách quốc phòng “4 không” và chính sách ngoại giao “không chọn phe” của Việt Nam đã thể hiện sự độc lập hoàn toàn về đường lối chính trị, đường lối quốc phòng, đường lối ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta. Những chủ trương, chính sách quốc phòng và ngoại giao của Việt Nam không hề “mềm yếu”, “nhu nhược” đến mức phải lệ thuộc, nghe ai và không ai có thể “tác động”, “lôi kéo” được Việt Nam trong việc xác lập những tuyên bố, duy trì và thực hiện các chủ trương, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, kể cả là các nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Thực tế lịch sử chiến tranh và ngoại giao của nhiều nước trên thế giới đã chứng minh tính chất hai mặt (tích cực và tiêu cực) của việc liên minh quân sự, ngoại giao để chống lại nước khác đã tạo sự quan ngại sâu sắc và gây ra nhiều bất ổn về an ninh cho các nước trong khu vực. Tình hình thế giới hiện nay đã cho thấy, nơi nào còn liên minh quân sự và liên minh ngoại giao để chống lại nước khác thì nơi đó không có hòa bình, hoặc trong tình trạng căng thẳng, cận kề “miệng hố chiến tranh”. Và thực tế cũng chứng minh rằng, một khi lợi ích của các nước lớn đã đạt được hoặc không đạt được thì lợi ích của các đồng minh, các nước nhỏ sẽ bị “chối bỏ” một cách nhanh chóng; thậm chí là sự áp đạt một cách vô lý. Từ thực tế đó, việc thực hiện chính sách quốc phòng “4 không” (không tham gia liên minh quân sự; không liên kết với nước này để chống nước kia; không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự hoặc sử dụng lãnh thổ Việt Nam để chống lại nước khác; không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế) và đường lối ngoại giao “không chọn phe”, chỉ chọn công lý và lẽ phải của Việt Nam là hoàn toàn đúng đắn và phù hợp. Điều đó cũng khẳng định quyền tự quyết và uy tín, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Trong mối quan hệ giữa Việt Nam – Hoa Kỳ, kể từ khi bình thường hóa quan hệ ngoại giao năm 1995, từ chỗ là thù địch trong chiến tranh, hai nước đã chuyển sang bình thường hóa quan hệ, trở thành bạn bè, đối tác toàn diện của nhau từ năm 2013 và không ngừng phát triển quan hệ lên một tầm cao mới. Trong thời gian qua, lãnh đạo hai nước đã có nhiều chuyến thăm song phương với tinh thần làm sâu sắc, phong phú hơn quan hệ đối tác toàn diện; đã phối hợp chặt chẽ, ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn, thể chế khu vực và quốc tế. Đây là cơ sở và động lực quan trọng để quan hệ hai nước ngày càng thực chất vì lợi ích của mỗi quốc gia, đóng góp vào hòa bình, ổn định của thế giới.

Thế nên, những âm mưu chia rẽ, xuyên tạc mối quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ mà các thế lực thù địch, phản động tung tin, kích động là hoàn toàn sai trái, đi ngược lại xu hướng phát triển và mong muốn của nhân dân hai nước; đi ngược lại đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng và Nhà nước ta.

VŨ HẢI - quankhu2.vn - 19.06.2023

Nhận diện thủ đoạn “làm phai nhạt niềm tin”

 Dùng thông tin để đánh vào niềm tin, làm cho niềm tin cách mạng của nhân dân, của người trẻ tuổi bị phai nhạt, qua đó “tẩy não”, định hướng tới hành động đấu tranh bất bạo động, từ bỏ sự lãnh đạo của Đảng, từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là âm mưu xuyên suốt của các thế lực thù địch. Nhận diện thủ đoạn của các thế lực thù địch là yêu cầu cấp thiết hiện nay.

Một trong những thủ đoạn thâm độc mà các thế lực thù địch tiến hành là triệt để dựa vào những thông tin xảy ra trong nước, nhất là thông tin về đời sống chính trị, sau đó suy diễn, quy chụp và bôi xấu chủ trương, đường lối lãnh đạo của Đảng. Những đối tượng thường sử dụng phương thức này thông qua Đài châu Á Tự do (RFA); BBC tiếng Việt; Đài Phát thanh quốc tế Pháp (RFI)... Bên cạnh đó, nhiều tài khoản mạng xã hội trên YouTube, Facebook… và các blogger (những người viết blog và đăng trên internet) cũng dùng phương thức này.

Gần đây nhất RFA suy diễn phát biểu của một đồng chí lãnh đạo Đảng tại buổi tiếp xúc cử tri rằng: “Việc bật đèn xanh để cán bộ từ chức và rút lui khỏi hệ thống là cách phe Đảng chặt đứt vây cánh của những phe đối lập, nhằm thâu tóm toàn bộ quyền lực”. Như vậy, chúng đã bỏ qua đối tượng tham nhũng, tiêu cực, phần quan trọng nhất trong câu nói mà đồng chí lãnh đạo Đảng đề cập là: “Cho nên khuyến khích là thôi. Nếu đã vi phạm rồi, thấy tay nhúng chàm rồi, thì tốt nhất là xin thôi đi”; “Cán bộ không làm được việc thì tốt nhất là rút lui trong danh dự”…

Hay như sau khi bế mạc Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, cả RFA và RFI, BBC đều đăng tải nhiều bài viết, trích dẫn ý kiến đánh giá phủ nhận kết quả cuộc họp. Ví dụ, chúng cho rằng, việc Ban Chấp hành Trung ương lấy phiếu tín nhiệm đối với các Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư khóa XIII chỉ là “tuồng cũ, kép cũ”. Trên tài khoản Hội Anh em dân chủ, Nguyễn Văn Đài “đưa ra căn cứ” cho rằng, nhân dân phải được biết về kết quả lấy phiếu tín nhiệm ấy vì nó không phải là bí mật quốc gia. Nếu nhân dân không được biết năng lực, uy tín những người “phục vụ mình” thì việc Đảng tuyên bố vì lợi ích của nhân dân chỉ là nói suông.

Nghiên cứu bài phát biểu khai mạc Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, chúng ta thấy chúng cố tình lờ đi những vấn đề định hướng có tính mấu chốt nhất. Như về việc lấy phiếu tín nhiệm là: “... giúp các đồng chí được lấy phiếu tín nhiệm “tự soi”, “tự sửa”, tiếp tục phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống và không ngừng nâng cao trách nhiệm nêu gương, trình độ, năng lực công tác, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, góp phần củng cố, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng”. Phát biểu rõ nghĩa đến từng chi tiết mà chúng vẫn xuyên tạc, bóp méo thì không thể chấp nhận được.

Thủ đoạn tiếp theo mà các thế lực thù địch hay sử dụng đó là vin vào các vụ việc cán bộ, đảng viên bị kỷ luật, bị ra tòa, bị phạt tù để quy đồng, đổ cho “lỗi hệ thống”. Ví dụ như chúng ra sức tuyên truyền, bảo vệ Trịnh Xuân Thanh, một quan chức tham nhũng, tiêu cực phải hầu tòa.

Thủ đoạn nữa chúng thường xuyên thực hiện là thêu dệt các câu chuyện của cán bộ lãnh đạo để bôi nhọ, nói xấu. Đặc biệt, chúng thường xuyên đưa thông tin nhập nhèm về đời tư, về mối quan hệ và tài sản của lãnh đạo. Hay là thường xuyên đăng tải những clip về Cảnh sát giao thông, Cảnh sát cơ động 141 xử lý người vi phạm để quy chụp rằng, bản chất của Công an Việt Nam là lợi dụng quyền lực pháp luật, bắt người vi phạm chung chi, nếu không sẽ lập biên bản xử phạt nặng theo chế tài, quy định hiện hành. Hoặc chúng lợi dụng những vụ việc xảy ra trong quân đội để lôi kéo, kích động người dân không cho con em thực hiện Luật Nghĩa vụ quân sự.

Một thủ đoạn khác rất nguy hiểm của các thế lực thù địch là ra sức bôi nhọ các thương hiệu hàng hóa Việt Nam, nhất là những mặt hàng xuất khẩu. Bên cạnh thủ đoạn này, chúng còn móc nối với các phần tử cơ hội chính trị, những kẻ trở cờ, bất đồng chính kiến trong nước để lôi kéo ra nước ngoài học tập miễn phí hoặc tài trợ tiền, tài liệu, thậm chí là vũ khí để chống đối lực lượng chức năng.

Trong điều kiện thông tin trên không gian mạng và mạng xã hội tràn lan, chưa có khả năng kiểm soát dứt điểm thì những thông tin xấu độc từng phút, từng giây tác động tới người dân. Để phòng, chống những âm mưu của các thế lực thù địch, mỗi cán bộ, đảng viên cần nêu cao cảnh giác, không làm lọt, lộ các thông tin bảo mật theo quy định của pháp luật. Các cấp ủy cơ sở cần nắm chắc diễn biến tư tưởng, kịp thời tổng hợp thông tin và phổ biến, định hướng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Tổ chức Đoàn các cơ quan, đơn vị, địa phương, nhất là tổ chức Đoàn các học viện, nhà trường cần có chương trình hoạt động để thu hút, tập hợp thanh niên hướng tới phát triển khoa học công nghệ và tổ chức chương trình tình nguyện, không để sinh viên, thanh niên bị tiêm nhiễm thông tin xấu độc và bị lôi kéo, tiếp tay cho thế lực thù địch.

Bên cạnh đó, việc đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng được các cấp, ngành, địa phương quan tâm thực hiện, song cần chú trọng chỉ rõ âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam để cán bộ, đảng viên, nhân dân nắm rõ. Đó chính là cách phòng, chống “diễn biến hòa bình” hiệu quả nhất.

Phúc Lợi - hanoimoi.com.vn - 29.05.2023