Thứ Tư, 31 tháng 1, 2024

Đấu tranh phản bác việc lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để xuyên tạc, chống phá trên địa bàn tỉnh Gia Lai

Gia Lai là địa phương điển hình cho sự đa dạng về sắc tộc, tín ngưỡng, tôn giáo của

đất nước. Sự đa dạng này một mặt tạo ra những nét phong phú, đa dạng, đặc sắc về

văn hóa, con người, vùng đất của địa phương, là “sức mạnh mềm” đóng góp vào sự

phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, với đặc điểm nêu trên, Gia Lai

cũng là một vùng trọng điểm bị các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị thường

xuyên chống phá quyết liệt 

Yếu tố dân tộc và tôn giáo luôn bị lợi dụng triệt để

Là một tỉnh Bắc Tây Nguyên có vị trí chiến lược quan trọng về quốc phòng, an ninh, có

lịch sử lâu đời, mang đậm bản sắc văn hóa các dân tộc, Gia Lai cũng là nơi hội tụ đa

dạng tín ngưỡng, tôn giáo. Đến cuối năm 2021, toàn tỉnh có trên 417.000 tín đồ của 05

tôn giáo chính (Công giáo, Tin lành, Phật giáo, Cao đài, Baha’i); riêng Tin lành có 24 hệ

phái; có 300 tổ chức tôn giáo trực thuộc và 150 điểm đăng ký sinh hoạt tôn giáo tập

trung; 1 cơ sở đào tạo tôn giáo; 633 chức sắc, 1.968 chức việc và 272 nhà tu hành. Với

đặc điểm trên, có thể xem Gia Lai là địa phương điển hình cho sự đa dạng về sắc tộc,

tín ngưỡng, tôn giáo của đất nước. Sự đa dạng này một mặt tạo ra những nét phong

phú, đa dạng, đặc sắc về văn hóa, con người, vùng đất của địa phương, là “sức mạnh

mềm” đóng góp vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Tuy nhiên, với đặc

điểm nêu trên, Gia Lai cũng là một vùng trọng điểm bị các thế lực thù địch, phản động,

cơ hội chính trị thường xuyên chống phá quyết liệt với âm mưu cơ bản, lâu dài là kích

động ly khai, tự trị, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, gây mất ổn định chính trị, xã hội;

chia rẽ các dân tộc thiểu số với người Kinh; chia rẽ giữa các tôn giáo, giữa cấp ủy,

chính quyền với nhân dân; thực hiện “Diễn biến hoà bình”, làm suy yếu, chuyển hóa từ

bên trong; cao nhất là thành lập “Nhà nước ly khai, tự trị” nhằm chống cách mạng và sự

thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

Để thực hiện âm mưu trên, chúng đã tập trung đẩy mạnh lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn

giáo, đặc biệt là trong vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số để hoạt động chống phá.

Núp dưới chiêu bài dân chủ, nhân quyền; vừa bí mật, vừa “công khai hóa, quốc tế hóa”;

kết hợp tổ chức lực lượng bên ngoài với việc tìm cách thâm nhập tạo dựng ngọn cờ,

lực lượng và ảnh hưởng bên trong bằng nhiều phương thức, thủ đoạn mới. Các thủ

đoạn chính vẫn là kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, cực đoan trong đồng bào dân

tộc thiểu số; vu cáo, tuyên truyền người Kinh lên chiếm đất đai, tài nguyên, thực hiện

chính sách đồng hóa người dân tộc; phân biệt đối xử với người dân tộc, với người theo

đạo; tuyên truyền người cầm đầu và tổ chức FULRO lưu vong được quốc tế công

nhận, ủng hộ là người lãnh đạo các dân tộc thiểu số Tây Nguyên để thành lập “Nhà

nước Đê Ga độc lập”, “Nhà nước riêng của người dân tộc”; xuyên tạc các quy định của

luật pháp quốc tế về nhân quyền, quyền tự quyết dân tộc, tuyên ngôn về quyền của các

dân tộc bản địa của Liên Hợp quốc... và cho rằng lãnh thổ Tây Nguyên là của người

dân tộc thiểu số; gây dựng, phát triển hệ thống tổ chức, cơ sở ngầm FULRO bên trong.


Qua thực tiễn ở địa bàn tỉnh cho thấy, hai yếu tố dân tộc và tôn giáo luôn bị các đối

tượng phản động, thù địch triệt để lợi dụng. Các tôn giáo chưa được công nhận, các tà

đạo, đạo lạ có xu hướng tập trung lôi kéo, tuyên truyền, mở rộng phạm vi, ảnh hưởng

trong các vùng đông đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời, sử dụng yếu tố dân tộc để

tuyên truyền, kích động đồng bào dân tộc thiểu số phải đấu tranh để có “Nhà nước

riêng - Tôn giáo riêng”. Các thế lực thù địch, phản động đã sử dụng “tôn giáo” như

“ngọn cờ” tinh thần để kích động tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai, tự trị dân tộc, tập

hợp lực lượng, lôi kéo quần chúng vào hoạt động chống cấp ủy, chính quyền.

Nguyên nhân của các hiện tượng trên xuất phát từ nhiều yếu tố khách quan và chủ

quan. Gia Lai là tỉnh có địa bàn rộng, dân cư phân bổ không đồng đều, đời sống kinh tế

- xã hội, mặt bằng dân trí so với nhiều địa phương còn thấp. Thời gian trước đây, do

nguồn lực còn hạn chế nên việc đầu cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân

tộc thiểu số chưa được như kỳ vọng, đời sống đồng bào các dân tộc thiểu số trên địa

bàn tỉnh còn nhiều khó khăn, thiếu thốn. Đồng bào dân tộc thiểu số vừa thiếu “cái chữ

trong đầu”, vừa thiếu cả “hạt cơm trong bụng”, bên cạnh đó, nhiều phong tục, tập quán

lạc hậu vẫn in sâu trong tâm thức, đời sống hằng ngày của phần đông đồng bào. Trước

thực tế đó, FULRO và các lực lượng thù địch đã lợi dụng ngay cơ hội này đã tổ chức

tuyên truyền, dụ dỗ đồng bào với luận điệu “không phải làm việc vất vả mà vẫn có cái

ăn, cái mặc, cuộc sống sung túc”; những ai tham gia tích cực sẽ được phong chức

tước khi có “nhà nước Đề Ga” tự trị… Có những thời điểm, hệ thống chính trị và đội

ngũ cán bộ của tỉnh còn xem nhẹ công tác tuyên truyền, vận động quần chúng; vướng

phải sai lầm, khuyết điểm trong công tác quản lý điều hành, dẫn đến quần chúng không

nắm rõ chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, bị

FULRO và các thế lực thù địch lôi kéo, mua chuộc.

Phát huy sức mạnh nội lực, đoàn kết, đồng lòng thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh

tế - xã hội trên địa bàn tỉnh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người dân

Qua một thời gian tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, bóc gỡ, đấu tranh với các đối tượng, tình

hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Gia Lai được giữ vững ổn

định. Trong những năm qua, đảng bộ, chính quyền trong tỉnh đã phát huy sức mạnh nội

lực, đoàn kết, đồng lòng thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời

sống vật chất và tinh thần cho người dân. Các cấp, các ngành đã tập trung thực hiện

các chương trình, dự án, chính sách đầu tư, hỗ trợ góp phần làm cho tình hình kinh tế -

xã hội, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, đưa vùng khó tiến

gần vùng thuận lợi. Các cấp, các ngành trong tỉnh quan tâm nắm tình hình, triển khai

giải quyết các vụ việc liên quan đến an ninh xã hội, thực hiện tốt công tác tiếp công

dân, giải quyết khiếu nại, tăng cường đối thoại với dân và tập trung giải quyết các vụ

việc tồn đọng, kéo dài, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của người dân. Việc thực

hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước trên lĩnh vực dân

tộc, tôn giáo được quan tâm theo hướng: Thận trọng, kiên trì, tế nhị, vững chắc, trọng

dân, gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân. Các cấp ủy, cơ quan, đơn vị, địa

phương trong hệ thống chính trị tích cực tham gia giải quyết các vụ việc liên quan đến

an ninh xã hội, nhất là trong đồng bào dân tộc thiểu số, vùng tôn giáo, thực hiện tốt

công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tăng cường đối thoại với dân và tập trung


giải quyết các vụ việc tồn đọng, kéo dài, bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của

người dân. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội của tỉnh đã đẩy mạnh thực hiện

Cuộc vận động “Làm thay đổi nếp nghĩ, cách làm trong đồng bào dân tộc thiểu số để

từng bước vươn lên thoát nghèo bền vững” với 10 nội dung thay đổi nếp nghĩ và 10 nội

dung thay đổi cách làm, góp phần thực hiện hiệu quả công tác vận động quần chúng,

công tác giảm nghèo trong đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh nhiệm vụ phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, việc tuyên truyền nâng cao

nhận thức, nhận diện, đấu tranh phản bác đối với các âm mưu, hoạt động “diễn biến

hòa bình”, xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà

nước, công tác lãnh đạo, điều hành của cấp ủy, chính quyền địa phương, trong đó có

nhiều thông tin làm rõ các thành tựu trên lĩnh vực dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn

giáo được các cấp, các ngành chú ý triển khai. Các phương tiện thông tin đại chúng,

báo, đài địa phương đã đa dạng hóa hình thức, nâng cao chất lượng thông tin, tăng

cường các thông tin được trình bày bằng ngôn ngữ, chữ viết đồng bào, loại hình báo

ảnh, phát thanh, truyền hình tiếng dân tộc. Một số ấn phẩm tuyên truyền phòng, chống

phục hồi hoạt động FULRO, Tin lành Đê Ga, các tà đạo, đạo lạ... được biên soạn, dịch

3 ngôn ngữ (Kinh - Jrai - Bahnar) đã giúp nhận diện rõ phương thức, âm mưu, thủ

đoạn, các luận điệu lừa phỉnh, lợi dụng vấn đề dân tộc, tự do tín ngưỡng, tự do tôn giáo

để lôi kéo quần chúng tham gia hoạt động chống phá, đồng thời cung cấp thông tin về

chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước về chính sách dân tộc, tự do tôn giáo;

vận động đồng bào tại các thôn, làng tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, giữ

vững quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội tại địa phương nơi sinh sống. Ngành

Tuyên giáo, Dân vận, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tỉnh cũng đã triển khai nghiên cứu các

đề tài khoa học về thực trạng công tác thông tin tuyên truyền trong vùng đồng bào dân

tộc thiểu số, đề xuất cho cấp ủy, chính quyền xây dựng hệ thống giải pháp đưa chủ

trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với đồng bào

dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh một cách hiệu quả.

Khai thác và tận dụng các thế mạnh của internet, mạng xã hội, các cấp ủy, chính

quyền, đặc biệt là lực lượng đoàn viên, thanh niên trên địa bàn tỉnh cũng đã chú trọng

sử dụng các công cụ, phương tiện của mạng xã hội để đẩy mạnh công tác thông tin,

tuyên truyền theo hướng phủ xanh thông tin tích cực, chủ động dẫn dắt, định hướng

luồng thông tin trên không gian mạng liên quan đến vấn đề dân tộc, tôn giáo. Hiện nay,

toàn tỉnh đã xây dựng hơn 800 trang, cổng thông tin điện tử, trang mạng xã hội thực

hiện công tác tuyên truyền, đấu tranh, phản bác. Hình thức thể hiện thông tin trên mạng

cũng được triển khai theo hướng dễ nhận biết, dễ tiếp thu, tập trung vào thanh niên,

học sinh thông qua các video clip, video ngắn (Stories), Infographic hoặc bài viết ngắn

có dịch sang tiếng dân tộc thiểu số, từ đó cung cấp các thông tin chính thống một cách

nhanh, phù hợp với tâm lý, thói quen của một bộ phận người dân. Đây cũng là kênh

hữu hiệu để nắm bắt tình hình tư tưởng, dư luận, những vấn đề nổi lên mà nhân dân

đang quan tâm, chú ý, từ đó giúp các cấp, các ngành nắm bắt tình hình, kịp thời chỉ

đạo, định hướng xử lý các tình huống phát sinh ở cơ sở.

Qua việc thực hiện đồng bộ các giải pháp nêu trên, tình hình an ninh chính trị, trật tự an

toàn xã hội trong vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng có đạo trong những năm qua


được giữ vững ổn định. Đồng bào dân tộc thiểu số, đồng bào có đạo yên tâm sinh

sống, lao động sản xuất trên mảnh đất quê hương, thực hiện tốt phương châm sống tốt

đời, đẹp đạo.

Những thành tựu, kết quả trong phát triển kinh tế - xã hội làm cơ sở vững chắc phản

bác lại thông tin xuyên tạc, bịa đặt

Tuy nhiên, công tác đấu tranh triệt phá hoạt động lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo

để phá hoại cách mạng trên địa bàn tỉnh Gia Lai vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức.

Hoạt động của các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị vẫn tập trung vào

những vấn đề như sau:

Thứ nhất, ý đồ lâu dài, không thay đổi, trước sau như một của các tổ chức phản động

vẫn là phủ nhận những thành tựu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, quốc

phòng, an ninh của đất nước, địa phương; phá hoại khối đại đoàn kết giữa các dân tộc,

các tôn giáo trên địa bàn; làm suy giảm niềm tin của nhân dân với sự lãnh đạo của

Đảng, chính quyền các cấp; thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, tiến tới “bạo

loạn” và hướng đến thành lập “Nhà nước Đê Ga” trên địa bàn Tây Nguyên.

Thứ hai, các tổ chức phản động lưu vong dưới sự hậu thuẫn của các thế lực thù địch

bên ngoài vẫn tiếp tục đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền chống phá vào địa bàn; củng

cố tổ chức, phục hồi hoạt động FULRO, “Tin lành Đê Ga”, lôi kéo, kích động người dân

tộc thiểu số trốn ra nước ngoài. Đặc biệt, chúng liên tục sử dụng vỏ bọc để phát triển

nhiều điểm nhóm, các tổ chức núp bóng danh xưng tôn giáo như tà đạo “Hà Mòn”,

“Tơlơi Phrâu Hiam”, “Bơ Khăp Phrâu”, “Blung Hlơu”, “Sang Pơpũ Ană Cữ”… thay thế

“Tin lành Đê Ga” nhằm che dấu bản chất phản động, đánh lừa nhận thức của quần

chúng.

Thứ ba, chúng tập trung tuyên truyền, móc nối, lôi kéo số người có uy tín trong dân tộc

thiểu số ở trong và ngoài nước nhằm tạo dựng thành “ngọn cờ” tập hợp lực lượng; số

học sinh, sinh viên, thanh niên trong các dân tộc thiểu số; người từng giữ vai trò cầm

đầu, cốt cán, tham gia hoạt động FULRO, “Tin lành Đê Ga”; số cầm đầu, cốt cán các tổ

chức tà đạo, đạo lạ, “hiện tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới”, trong đó chú ý chuyển giao

thế hệ, tập trung tuyên truyền, phát triển lực lượng ở giới trẻ có khả năng tiếp cận, sử

dụng được công nghệ thông tin... để phục vụ việc trao đổi thông tin, tình hình, chuyển

tài liệu cho bên ngoài; đăng tải, phát tán trên không gian mạng các hình ảnh, video liên

quan đến hoạt động chống đối cấp ủy, chính quyền.

Thứ tư, đối tượng cầm đầu các tổ chức phản động, FULRO lưu vong tăng cường móc

nối, tuyển chọn, lôi kéo số người dân tộc thiểu số Tây Nguyên trong các trại tạm cư

tham gia tổ chức phản động, phát triển lực lượng “nòng cốt”, đào tạo, huấn luyện để

đưa trở lại chống phá.

Để giữ vững các thành quả đã đạt được, đấu tranh hiệu quả với âm mưu, thủ đoạn của

các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị như trên, xuất phát từ yêu cầu thực

tiễn, thì phải thực sự chăm lo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống mọi mặt của


người dân, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số; đồng thời, quan tâm tuyên truyền,

vận động để người dân phát huy quyền làm chủ của mình trong các tiến trình kinh tế -

xã hội của địa phương, lấy thực tiễn những thành tựu, kết quả trên mọi mặt để làm cơ

sở vững chắc phản bác lại các thông tin xuyên tạc, bịa đặt. Quyết tâm không để các thế

lực chống đối lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo để kích động, chống phá trong thời

gian đến cần nghiên cứu, xem xét thực hiện một số giải pháp sau:

Một là, tiếp tục quan tâm đẩy mạnh phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, nâng cao đời

sống cho đồng bào dân tộc thiểu số, thực hiện tốt chính sách dân tộc, đảm bảo nguyên

tắc “bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển”, tăng cường củng cố

khối đại đoàn kết dân tộc. Có chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp, ngôn

ngữ, chữ viết dân tộc; tăng cường công tác thông tin, giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao

trình độ dân trí cho đồng bào dân tộc thiểu số.

Hai là, tập trung củng cố hệ thống chính trị cơ sở ở vùng dân tộc thiểu số, đảm bảo đội

ngũ cán bộ cơ sở có đủ trình độ, năng lực, có uy tín với nhân dân, có khả năng tập hợp

đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của

Nhà nước. Phát hiện, khắc phục những sơ hở, thiếu sót của cán bộ chính quyền trong

thực hiện chủ trương, chính sách, pháp luật, nhất là chính sách dân tộc, tôn giáo. Quan

tâm công tác đảm bảo an ninh chính trị nội bộ nhằm đảm bảo đoàn kết nội bộ, loại trừ

biểu hiện tiêu cực trong nội bộ, phát hiện và có hình thức xử lý phù hợp với cán bộ có

tư tưởng dân tộc hẹp hòi, bị địch tác động, lôi kéo tham gia tổ chức và hoạt động chống

chính quyền; nâng cao nhận thức và trách nhiệm trong đảm bảo an ninh trật tự tại cơ

sở. Tăng cường công tác tranh thủ các tín đồ, chức sắc, người có uy tín trong dân tộc,

tôn giáo và vận động quần chúng, xây dựng thế trận an ninh nhân dân vững chắc trên

các địa bàn vùng dân tộc thiểu số.

Ba là, cần tập trung giải quyết dứt điểm các vụ việc mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện,

nhất là về đất đai liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số còn tồn đọng, đang có xu

hướng diễn biến phức tạp, đồng thời chủ động phòng ngừa, giải quyết hiệu quả các vụ

mới phát sinh, không để các thế lực thù địch, phản động lợi dụng. Các ngành chức

năng cần tham mưu tập trung đấu tranh với các tổ chức ly khai, tự trị, tổ chức bất hợp

pháp mang danh nghĩa tín ngưỡng, tôn giáo trong dân tộc thiểu số. Với những “hiện

tượng tín ngưỡng, tôn giáo mới” hình thành, phát triển trong một hoặc nhóm dân tộc

cần tập trung làm rõ bản chất của các tổ chức này, kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, xóa

bỏ các hiện tượng, tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo có yếu tố tiềm ẩn phức tạp, như đối

tượng cầm đầu, cốt cán có âm mưu thông qua các tổ chức tín ngưỡng, tôn giáo mới

nhằm tuyên truyền, phát triển tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ly khai, tự trị dân tộc...

Bốn là, tiếp tục đổi mới nội dung tuyên truyền, vận động theo hướng ngắn gọn, cụ thể,

dễ hiểu, từ thấp đến cao, phải sử dụng người thực, việc thực ở địa phương để minh

chứng; phải nắm chắc luận điệu tuyên truyền, kích động của đối tượng, mức độ tác

động ảnh hưởng đến quần chúng, từ đó xây dựng nội dung phù hợp nhằm phản bác

luận điệu của đối phương. Hình thức, phương pháp vận động phải phù hợp với đặc

điểm tâm lý, phong tục, tập quán, sinh hoạt cộng đồng của đồng bào dân tộc thiểu số;

kết hợp chặt chẽ giữa các hình thức vận động rộng rãi, tập trung, cá biệt, trong đó chú


ý khai thác, sử dụng hiệu quả internet, mạng xã hội để thông tin 

Bắt tạm giam đối tượng lợi dụng quyền tự do để xuyên tạc sự thật

Tạo tài khoản trên mạng xã hội để chia sẻ nhiều thông tin, hình ảnh chưa được kiểm

chứng, có nội dung bịa đặt, xuyên tạc, loan truyền thông tin sai sự thật, xúc phạm Đảng

Cộng sản Việt Nam, lãnh tụ, lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nên một đối tượng ở Ninh Thuận

đã bị khởi tố, bắt tạm giam.

Nguồn tin từ Cơ quan CSĐT Công an TP Phan Rang – Tháp Chàm (Ninh Thuận) ngày 29/6

cho biết, vừa tống đạt quyết định khởi tố bị can và thực thi lệnh bắt tạm giam về tội danh

“Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp

pháp của tổ chức, cá nhân” đối với Lê Thạch Giang (SN 1957, trú ở khu phố 4, phường

Kinh Dinh, TP Phan Rang – Tháp Chàm).

Kết quả điều tra bước đầu cho thấy từ tháng 8/2022, Lê Thạch Giang tạo tài khoản “Bọn

cường quyền” trên mạng xã hội để livestream, đăng tải clip, hình ảnh, bài viết liên quan đến

việc cưỡng chế, thu hồi đất của các cơ quan chức năng.

Không dừng lại ở đó, người đàn ông này còn kêu gọi nhiều người xem những trang mạng

xấu - độc, để kích động tâm lý cho một số phần tử xấu chống đối các chủ trương, đường

lối, chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước. Thậm chí Lê Thạch Giang còn chia sẻ

nhiều thông tin, hình ảnh chưa được kiểm chứng, có nội dung bịa đặt, xuyên tạc, loan

truyền thông tin sai sự thật, xúc phạm Đảng Cộng sản Việt Nam; lãnh tụ, lãnh đạo Đảng và

Nhà nước.

Theo Cơ quan CSĐT Công an TP Phan Rang – Tháp Chàm, Lê Thạch Giang là đối tượng

có 1 tiền án 6 tháng tù không giam giữ về tội “Cố ý làm hư hỏng tài sản, 1 tiền án về tội 18

tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Hữu Toàn (Báo Công an nhân dân) 

Phạt tù đối tượng sử dụng mạng xã hội để tuyên truyền chống Nhà nước

 Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Đặng Đăng Phước 8 năm tù về tội “Làm, tàng trữ,

phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình sự 2015. 

Ngày 6/6, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk đã mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án hình sự

đối với bị cáo Đặng Đăng Phước (sinh năm 1963), trú tổ dân phố 7A, phường Tân Lợi,

thành phố Buôn Ma Thuột, nguyên giáo viên dạy môn Âm nhạc tại Trường Cao đẳng

sư phạm Đắk Lắk về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu,

vật phẩm nhằm chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117

Bộ luật Hình sự 2015.

Theo cáo trạng, từ năm 2012, Đặng Đăng Phước bắt đầu sử dụng mạng Internet để

tham gia vào các hoạt động chống đối do một số đối tượng trong và ngoài nước phát

động.

Cụ thể, Phước đã đăng tải, chia sẻ hơn 200 bài viết có nội dung công kích lãnh đạo cấp

cao và chính quyền, xuyên tạc tình hình chính trị, xã hội trong nước; công khai bôi nhọ,

nói xấu lực lượng công an; lợi dụng các vấn đề đang được xã hội và cộng đồng mạng

quan tâm để xuyên tạc tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước; thường xuyên

tham gia các hội, nhóm, diễn đàn trên mạng xã hội để ủng hộ hoạt động của các nhóm

chống đối như “No U”, “Phổ biến Hiến pháp”...

Bên cạnh đó, Đặng Đăng Phước còn thường xuyên tìm cách lôi kéo những đối tượng

bất mãn, chống đối trên địa bàn tỉnh tham gia các phiên tòa xét xử một số đối tượng vi

phạm pháp luật rồi căng băng-rôn, cản trở hoạt động của các cơ quan chức năng, kích

động, gây phức tạp về an ninh trật tự; tụ tập hát những nhạc phẩm có nội dung kích

động, phá hoại về tư tưởng, xuyên tạc chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,

phỉ báng chính quyền nhân dân.

Những hành động của Phước đã vi phạm các quy định của ngành Giáo dục, trái với

đạo đức nhà giáo, vi phạm pháp luật.

Các hành vi đó đã diễn ra trong một thời gian dài. Mặc dù đã được các cơ quan, lực

lượng chức năng nhiều lần mời làm việc để tuyên truyền, vận động, giải thích, nhắc

nhở nhưng Phước không chấp hành.

Được một số tổ chức, cá nhân phản động bên ngoài tung hô, bày các chiêu thức luồn

lách, Phước ngày càng ngông cuồng, thách thức cơ quan chức năng.

Kết thúc phiên tòa, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt bị cáo Đặng Đăng Phước 8 năm tù

về tội “Làm, tàng trữ, phát tán hoặc tuyên truyền thông tin, tài liệu, vật phẩm nhằm

chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” theo Điều 117 Bộ luật Hình

Một số biện pháp phòng chống tự diễn biến vụ tự chuyển hoá trong đảng viên

Để phòng ngừa, ngăn chặn, các cấp ủy, tổ chức đảng cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần sâu sắc, kiên định hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Quá trình tuyên truyền, giáo dục, cần tiếp tục khẳng định bản chất cách mạng, khoa học, giá trị của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam. Đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, phát triển, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với thực tiễn Việt Nam; hoàn thiện hệ thống quan điểm về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Hết sức chú trọng phòng ngừa nguy cơ sa vào giáo điều, xét lại, sai lầm về đường lối. Qua đó, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

      Hai làđẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII). Có thể khẳng định rằng, kết quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng vừa qua, nhất là trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí với nhiều vụ án lớn đưa ra xét xử, được nhân dân đồng tình ủng hộ, đã góp phần quan trọng giáo dục, rèn luyện, cảnh tỉnh cán bộ, đảng viên. Vì vậy, các cấp ủy, tổ chức đảng cần đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; thực hiện đồng bộ, hiệu quả các giải pháp mà Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) xác định, gắn với thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII) về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Trong đó, cần duy trì nghiêm các chế độ, nền nếp, nguyên tắc sinh hoạt Đảng; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, tự phê bình và phê bình, “tự soi”, “tự sửa”, khắc phục tình trạng nể nang, né tránh, ngại va chạm và có biện pháp bảo vệ người trung thực, dám đấu tranh với những vấn đề tiêu cực, sai trái. Ở những nơi có vấn đề phức tạp, nơi có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, cấp trên gợi ý kiểm điểm và trực tiếp dự, chỉ đạo. Đề cao vai trò nêu gương của bí thư cấp ủy, người chủ trì cơ quan, đơn vị về phẩm chất đạo đức, lối sống, tác phong công tác để cán bộ, đảng viên và quần chúng noi theo. Cùng với đó, cần đẩy mạnh cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí ở tất cả các cấp, các ngành. Đây là nhiệm vụ khó khăn, phức tạp, lâu dài, song toàn Đảng cần nêu cao quyết tâm chính trị, cũng như tổ chức thực hiện; có như vậy mới củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng. Bên cạnh việc điều tra, xét xử các vụ án tham nhũng đã phát hiện, các cơ quan chức năng cần chủ động nghiên cứu, tham mưu ban hành các quy định, cơ chế đủ mạnh để ngăn ngừa hành vi tham nhũng, cũng như quan hệ “lợi ích nhóm”, đặc quyền, đặc lợi, “tư duy nhiệm kỳ”; phát huy tốt vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng,… đối với nhiệm vụ này, cũng như công tác xây dựng Đảng.

      Ba làđẩy mạnh công tác quản lý, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là về phẩm chất đạo đức, lối sống. Suy thoái về đạo đức, lối sống là nguồn gốc dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Vì thế, Đại hội XII của Đảng tiếp tục xác định xây dựng Đảng về đạo đức là một nội dung của công tác xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh. Theo đó, toàn Đảng cần coi trọng xây dựng cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, lối sống trong sạch, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; có sức đề kháng, tự bảo vệ, miễn dịch trước những âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch, những tác động tiêu cực của mặt trái cơ chế thị trường, hội nhập quốc tế. Đồng thời, có lề lối, tác phong công tác khoa học, gần dân, trọng dân, hiểu dân, học dân, tận tụy phục vụ nhân dân. Đối với từng cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư cấp ủy, cần nêu cao trách nhiệm trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch, đăng ký thực hiện hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về xây dựng, chỉnh đốn Đảng và Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XII). Đồng thời, cần chú trọng gắn chặt công tác giáo dục với công tác quản lý và tự quản lý của đảng viên, nhất là các mối quan hệ trong cuộc sống, sinh hoạt ở nơi cư trú, để kịp thời phát hiện, ngăn chặn những biểu hiện vi phạm; kiên quyết đấu tranh chống các biểu hiện tiêu cực, cục bộ, “lợi ích nhóm”, cơ hội, “nói không đi đôi với làm”, “nói nhiều làm ít”, thiếu tu dưỡng, rèn luyện về bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên

Nhận diện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù trong thời kỳ mới

 ĐẢNG BỘ TỈNH QUẢNG NGÃI


Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

Chống phá cách mạng Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay, các thế lực thù địch có sự điều chỉnh về thủ đoạn “diễn biến hòa bình” rất nguy hiểm. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này.


Trong tình hình mới, đấu tranh chống "diễn biến hòa bình" luôn nhiệm vụ cấp bách, cần làm ngay và thường xuyên của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong đó, năm 1994 Đảng xác định âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch là “4 nguy cơ trước mắt” của Đảng. Tới nay, cùng với các nguy cơ đã được Đảng chỉ ra, nguy cơ âm mưu “diễn biến hòa bình” vẫn đang tồn tại, thậm chí có phần gay gắt, phức tạp hơn.

Đáng chú ý, thời gian gần đây các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình” với cấp độ ngày càng gay gắt, quyết liệt, hòng làm gây hỗn loạn về tư tưởng, tạo ra “những khoảng trống” để nhằm mục đích xóa bỏ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Các thế lực thù địch tập trung lợi dụng triệt để sử dụng Internet, các trang mạng xã hội, để truyền bá các quan điểm sai trái, tung tin xuyên tạc đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vu cáo, bịa đặt, bôi nhọ hình ảnh các đồng chí lãnh đạo cấp cao nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, làm giảm niềm tin của  Nhân dân với Đảng, Nhà nước.

Âm mưu, thủ đoạn của thế lực thù địch không mới nhưng được đẩy mạnh và điều chỉnh

Khái niệm “Diễn biến hòa bình” không mới và cũng không lạ đối với mọi người. Người ta biết đến cụm từ này từ thập niên 20 của thế kỷ XX, khi chủ nghĩa đế quốc sử dụng “Diễn biến hòa bình” để chống phá các nước đối địch, nhất là nước Nga - Nhà nước Xô-viết công nông đầu tiên trên thế giới vừa ra đời từ sau Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.

Và hiện nay, “Diễn biến hòa bình” có nhiều cách gọi khác nhau, đó là “chuyển hóa hòa bình”, “biến đổi hòa bình”,“cạnh tranh hoà bình”, “vượt trên hòa bình”, “chính sách giải phóng”, “chiến thắng không cần chiến tranh”, “chiến tranh không có tiếng súng”, “phương pháp phi vũ trang”… Có thể khẳng định “Diễn biến hòa bình” là cuộc chiến tranh - cuộc đấu tranh về hệ tư tưởng, thể chế chính trị. Chiến lược “diễn biến hòa bình” liên tục được điều chỉnh, bổ sung trở thành một chiến lược tổng hợp, dùng biện pháp “phi vũ trang” là chủ yếu nhằm chống phá, tiến tới lật đổ chế độ chính trị ở các nước xã hội chủ nghĩa.

Chúng ta thấy ngay từ đầu “Diễn biến hòa bình” không phải do chủ nghĩa đế quốc phát kiến, nhưng hiện là “sản phẩm” của họ và trên cơ sở tiếp thu tư tưởng quân sự cổ đại của nhân loại, vận dụng phù hợp với hoàn cảnh cụ thể của từng thời điểm, từng giai đoạn, nhằm giành thắng lợi quyết định trong “cuộc chiến” sống còn với các quốc gia khác hệ tư tưởng, đối địch.

Mục tiêu của chiến lược “diễn biến hòa bình” là nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn cầu. Để đạt được mục đích đó, các thế lực thù địch đặt ra những mục tiêu cụ thể như: (1) Xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, thay thế bằng hệ tư tưởng tư sản; (2) Âm mưu thực hiện “đa nguyên chính trị”, “đa đảng đối lập” trong các nước xã hội chủ nghĩa; (3) Gây mâu thuẫn nội bộ, phá vỡ sự đồng thuận xã hội và khi có thời cơ thì lôi kéo, tiến hành bạo loạn chính trị; (4) Làm suy yếu, chệch hướng phát triển của nền kinh tế, tiến tới chi phối, lũng đoạn, khống chế kinh tế trong các nước xã hội chủ nghĩa; (5) Chuyển hoá văn hoá, đạo đức, lối sống xã hội chủ nghĩa theo “giá trị Mỹ”, phương Tây; (6) Thực hiện âm mưu “phi chính trị hoá” để “vô hiệu hoá” quân đội trong các nước xã hội chủ nghĩa.

Như vậy, có thể hiểu “Diễn biến hoà bình” là chiến lược cơ bản nhằm lật đổ chế độ chính trị của các nước tiến bộ, trước hết là các nước xã hội chủ nghĩa từ bên trong, chủ yếu bằng các biện pháp phi quân sự do chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động, đứng đầu là Mỹ tiến hành.

Ở Việt Nam, thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” các thế lực thù địch đặc biệt coi trọng việc phá hoại tư tưởng, coi đó là mũi nhọn, là con đường ngắn nhất dẫn tới sự xói mòn về niềm tin của nhân dân với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh các đặc trưng chủ yếu như: tuyên truyền xuyên tạc nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam; đẩy mạnh hoạt động xuyên tạc lịch sử; thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội và công an…

Đáng chú ý, thời gian gần đây, các thế lực thù địch tích cực đẩy mạnh thực hiện một số thủ đoạn chống phá mới, đó là: Tìm cách đẩy nhanh quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, đưa ra những luận điệu lập lờ, lẫn lộn giữa hai mặt tích cực và tiêu cực, giữa tư tưởng xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa đến đảng viên và nhân dân. Khuyến khích những quan điểm lệch lạc và những khuynh hướng xã hội “dân chủ” kiểu Mỹ và phương Tây hòng làm cho người dân thấy hoài nghi về “xã hội Việt Nam” và mơ tưởng về một “xã hội khác” được cổ xúy là tốt đẹp hơn.

Các thế lực thù địch điều chỉnh thủ đoạn chống phá, bằng cách ngoài việc công kích trực diện vào nền tảng tư tưởng, chúng tuyên truyền kích động gây mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ. Với mưu đồ gây chia rẽ nội bộ, làm cho Đảng ta “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” từ bên trong, chúng ra sức tuyên truyền, bịa đặt về các phe phái trong Đảng, nhất là lợi dụng việc đấu tranh chống tham nhũng để xuyên tạc là thanh trừng nội bộ. Chúng còn thường xuyên dựng chuyện, thổi phồng những sai lầm, thiếu sót của một số cán bộ, đảng viên, qua đó gây hoang mang, tạo bức xúc trong dư luận xã hội, kích động người dân gây mất an ninh, trật tự...

Chúng còn sử dụng nhiều cách thức tác động tinh vi, xảo quyệt đối với từng đối tượng cụ thể, trong đó đối với các tầng lớp nhân dân, chúng lợi dụng việc tiếp cận thông tin còn hạn chế, đưa những thông tin sai lệch, nhằm tạo khoảng trống trong tư tưởng nhân dân, làm cho nhân dân hoài nghi, mất niềm tin với chế độ, Đảng và nhà nước, từ đó chúng kích động các hoạt động gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

Âm mưu, thủ đoạn của chúng còn xuyên tạc, bóp méo các sự kiện chính trị, các vụ việc phức tạp, nhạy cảm. Lợi dụng các sự kiện chính trị quan trọng liên quan đến các vấn đề phân định biên giới, lãnh thổ, tranh chấp Biển Đông, ô nhiễm môi trường, hay những vấn đề liên quan đến công tác cứu trợ bão lụt, công tác phòng chống COVID-19 lợi dụng tung tin thất thiệt trên các trang mạng xã hội gây hoang mang trong dư luận, tạo nên sự hiểu nhầm của người dân, sự hoài nghi vào cấp ủy, chính quyền các cấp.

Những biểu hiện trên đây tuy không hoàn toàn là những thủ đoạn mới trong chiến lược “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, nhưng về cơ bản đó là những dấu hiệu đặc trưng, nổi bật nhất, thể hiện tính chất tinh vi, xảo quyệt và sự nguy hiểm, thâm độc của nó đã và đang không ngừng tăng lên. Hiện nay, các thế lực thù địch thường xuyên thay đổi các chiến lược. Vì vậy, chúng ta phải luôn tỉnh táo, nhận diện đúng, bình tĩnh xem xét, phân tích, để vạch trần bản chất và có biện pháp phòng, chống hiệu quả. Tuyệt đối không được mơ hồ, mất cảnh giác, dẫn tới bị động, lúng túng trong cuộc chiến “không khói súng” nhưng đầy cam go, quyết liệt này.

Cuộc đấu tranh này được Đảng và nhà nước ta xác định là vẫn còn tiếp tục. Vì thế, chúng ta cần đề cao cảnh giác, chủ động tấn công, đổi mới tư duy, có phương thức, biện pháp thích hợp, tăng cường tuyên truyền sâu rộng, kịp thời, chính xác các quan điểm, tư tưởng, lý luận của Đảng, phản bác một cách mạnh mẽ, quyết liệt để kịp thời ngăn chặn sự chống phá về tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch dưới bất cứ hình thức nào.

Điều quan trọng là làm cho tư tưởng, lý luận của Đảng thấm sâu trong mọi cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, nhất là với thế hệ trẻ để chính họ là những chủ thể mạnh mẽ, vững chắc làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn, phương thức chống phá của các thế lực thù địch.

Những nguyên nhân dẫn đến suy thoái trong Đảng và cách phòng tránh

 những lý tưởng chính trị tốt đẹp, đạo đức trong sáng, bằng khát vọng là để phục vụ, cống hiến và đem lại lợi ích cho Tổ quốc, cho nhân dân... Trong Di chúc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật sự trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(3). Để có được những phẩm chất tốt đẹp đó, mỗi cán bộ đảng viên phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức như việc rửa mặt hàng ngày. Vì: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống mà do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày có được. Cũng giống như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(4). Nhưng trên thực tế, một số cán bộ, đảng viên do thiếu tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng mà sa vào chủ nghĩa cá nhân, lợi dụng chức vụ để “thăng quan phát tài”, địa vị của họ trở thành công cụ trục lợi. Những người đó, không có nhiều tri thức, kỹ năng chuyên môn, nhưng lại có thừa những thủ đoạn, mưu mô nhằm củng cố địa vị và tăng cường lợi ích cho bản thân. Miệng họ luôn giao giảng lý tưởng, đạo đức cách mạng nhưng bên trong lòng họ luôn tìm cách luồn lách tham ô, tham nhũng,… tìm mọi cách che đậy khuyết điểm, nịnh trên, nạt dưới, mua chuộc lòng người, kéo bè, kết phái, tranh công, đổ lỗi… Họ không thấy hoặc cố tình không chập nhận sự thật rằng mình đã và đang suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; đã “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, tìm mọi cách che dấu khuyết điểm, dẫn đến ngày càng trượt dài trên con đường suy thoái. Do lo sợ bị phát hiện, xử lý mà mất quyền, mất chức, mất bổng lộc, uy tín; sợ phải chịu hình phạt của Nhà nước, Đảng, tổ chức… mà không còn đủ dũng khí để nhận trách nhiệm, thừa nhận những khuyết điểm, hạn chế của bản thân mình và tổ chức mình; thờ ơ, bàng quan.

       Bốn là, tự phê bình và phê bình trong sinh hoạt Đảng chưa kiên quyết, triệt để, còn nể nang, né tránh, “dĩ hòa vi quý”
Tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển của Đảng. Đấu tranh tự phê bình và phê bình là một trong những biện pháp quan trọng hàng đầu để các tổ chức đảng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên, công tác này ở không ít tổ chức đảng chưa kiên quyết và thiếu hiệu quả. Thực tế cho thấy, cấp trên không trong sạch thì không thể đòi hỏi cấp dưới trong sạch, cấp trên không làm kiên quyết thì cũng không thể đòi hỏi cấp dưới làm kiên quyết, cấp trên dĩ hòa vi quý thì nhất định cấp dưới cũng theo đó mà làm. Cấp trên có khuyết điểm thì không dám chỉ ra khuyết điểm của cấp dưới. Họ sẽ tìm cách xoa dịu, che lấp khuyết điểm của người khác để khuyết điểm của mình không bị tố giác, phanh phui… Do đó, trách nhiệm và khuyết điểm liên quan đến tự phê bình và phê bình trong Đảng thuộc về người đứng đầu cơ quan, đơn vị.
       Thực trạng đó do bệnh cá nhân chủ nghĩa, “mũ ni che tai”, ngại va chạm nên né tránh trách nhiệm, trước hết là người đứng đầu làm ngơ, bỏ qua hoặc sợ trách nhiệm, sợ mất thành tích, mất cán bộ nên đã xuê xoa, không kiên quyết, triệt để. Chính vì tự phê bình và phê bình không nghiêm dẫn đến những khuyết điểm không được khắc phục, sửa chữa, rồi lại bị dụ dỗ, lôi kéo vào những việc làm trái với quy định, lâu ngày dần dần sa vào chủ nghĩa cá nhân, dẫn đến suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
       Năm là, cán bộ chủ trì, người đứng đầu ở một số tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị thiếu gương mẫu.
       Người đứng đầu có thẩm quyền và trách nhiệm cao nhất trong mọi hoạt động của cơ quan, đơn vị, nên có vai trò quyết định đối với việc phòng, chống, ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên ở cơ quan đơn, vị mình. Nhưng cũng phải thẳng thắn thấy rằng, việc quy định trách nhiệm của người đứng đầu đối với vấn đề này nhìn chung chưa thật rõ, nhất là trách nhiệm khi để xảy ra các vụ việc tiêu cực, khuyết điểm trong cơ quan, đơn vị. Có những cơ quan, đơn vị khi cán bộ, đảng viên lợi dụng chức quyền để tham nhũng, làm ăn phi pháp, làm giàu bất chính, nhưng không được cấp ủy đảng, người đứng đầu kiểm tra, làm rõ và xử lý kịp thời. Bên cạnh đó, “người đứng đầu các cấp chưa có quyết tâm chính trị cao; việc cụ thể hóa các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư thành chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện ở một số địa phương, đơn vị còn chung chung, chỉ đạo thiếu quyết liệt, trông chờ, ỷ lại cấp trên…”(5).
       Sáu là, những tồn tại, bất cập trong đời sống xã hội. Đây là nguyên nhân, vừa là hệ quả khiến nhiệm vụ đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên của Đảng gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
Những bất cập, yếu kém trong công tác quản lý nhà nước về kinh tế, xã hội; tình trạng pháp luật thiếu đồng bộ, cơ chế giám sát quyền lực chưa rõ ràng, hiệu quả; sự phân hóa xã hội trên nhiều lĩnh vực ngày càng gia tăng; những tiêu cực xã hội khiến khoảng cách lớn giữa người làm ăn chân chính, lương thiện với những người suy thoái đạo đức, làm ăn bất chính để có được của cải bất chính ngày càng gia tăng… Hiện thực đó tác động tiêu cực tới tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, kéo theo “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong những cán bộ, đảng viên thiếu lập trường, thiếu bản lĩnh và thiếu niềm tin.
       Trong khi đó, “việc xử lý cán bộ, đảng viên vi phạm còn nương nhẹ, nể nang, thiếu cương quyết. Chưa có cơ chế khen thưởng những tập thể, cá nhân tổ chức thực hiện nghị quyết sáng tạo, có hiệu quả và xử lý nghiêm những tập thể, cá nhân không thực hiện hoặc thực hiện không nghiêm túc... Chậm ban hành quy định xử lý tổ chức, cá nhân có biểu hiện suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(6). Trong một số trường hợp cụ thể còn biểu hiện bao che, dung túng, tiếp tay cho vi phạm.

Một số biện pháp đấu tranh hiệu quả với các thế lực thù địch


Đấu tranh với mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá Đại hội XII của Đảng là một hoạt động thường xuyên trong chuỗi hoạt động đấu tranh làm thất bại chiến lược “Diễn biến hòa bình” của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Để đạt được mục tiêu, yêu cầu của cuộc đấu tranh này, phải chủ động nhận diện, vạch trần bộ mặt thật và thủ đoạn của những kẻ chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; đồng thời có những giải pháp đấu tranh khôn khéo, phù hợp với tình hình, làm thất bại mọi mưu đồ của chúng. Trong đó, cần tập trung triển khai những giải pháp cơ bản sau:

Một là, tiếp tục kiên định mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, khắc phục nguy cơ chệch hướng xã hội chủ nghĩa trong đường lối đổi mới của Đảng. Mọi thủ đoạn chống phá Đại hội XII của Đảng về chính trị đều nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng, từ bỏ mục tiêu, làm chệch hướng chủ nghĩa xã hội, hòng đưa nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Lâu nay, các thế lực thù địch thường rêu rao: “Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội sai lầm nghiêm trọng”; rằng “đó là mô hình dẫn loài người đến diệt vong”, “đưa đất nước đến chỗ không thể phát triển”, v.v. Và, trước thềm Đại hội XII của Đảng thì những luận điệu tuyên truyền cũ rích đó của chúng tiếp tục được nhai lại hòng hạ thấp uy tín của Đảng ta. Vì vậy, để làm thất bại thủ đoạn của chúng, trước hết phải coi trọng kết hợp giữa xây và chống. Một mặt, phải chủ động đấu tranh với mọi luận điệu tuyên truyền sai trái, thù địch. Mặt khác, chúng ta cần khẳng định những thành tựu đã đạt được và điều quan trọng là toàn Đảng, toàn dân, toàn quân phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu không bao giờ thay đổi, là vấn đề có tính nguyên tắc, bài học xuyên suốt trong quá trình đổi mới đất nước. Công tác tuyên truyền phải tiếp tục khẳng định “Đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo; con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là phù hợp với thực tiễn của Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử”1. Để khẳng định vấn đề đó hợp quy luật, điều quan trọng là làm rõ những quan điểm có tính nguyên tắc về đổi mới. Đổi mới không phải là từ bỏ mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đó là một sự nghiệp khó khăn, phức tạp và lâu dài, nhưng là con đường hợp quy luật để có một nước Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong tư tưởng chỉ đạo đổi mới có một vấn đề mang ý nghĩa chiến lược, đó là: phải thấu triệt nguyên tắc “kiên định, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”. Tuyệt đối không được xa rời nguyên tắc đó. Bởi nếu không tuân thủ nguyên tắc, sẽ dễ dẫn đến sai lầm về chính trị, nhất là khi quyết sách, giải quyết những vấn đề nhạy cảm (còn có ý kiến khác nhau), như: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhận thức đối tác, đối tượng trong hội nhập quốc tế; vấn đề động lực phát triển đất nước, v.v. Đây cũng là những nội dung mà các thế lực thù địch đang tập trung tìm cách xuyên tạc, bóp méo. Do đó, trong quá trình chuẩn bị cũng như thảo luận về Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XII của Đảng, các ý kiến đóng góp phải thật sự dân chủ, trách nhiệm, trí tuệ, nhưng cũng hết sức tỉnh táo, tránh để xảy ra sơ hở để các thế lực thù địch và phần tử cơ hội chính trị lợi dụng chống phá.

Đối với thủ đoạn tung luận điệu xuyên tạc trên các trang mạng, phát tán tờ rơi hòng làm lung lạc niềm tin của nhân dân và cán bộ, đảng viên đối với Đảng, hoặc mơ hồ về quan điểm của Đảng ta; chúng ta cần vạch trần bản chất phản động và động cơ của bọn chúng. Cần phải chỉ rõ đó là những luận điệu xuyên tạc đường lối, quan điểm của Đảng, hòng phủ nhận mục tiêu, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Cùng với đó, phải có biện pháp quản lý các trang mạng xã hội, công tác xuất bản các ấn phẩm, tài liệu Đại hội, để cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân tiếp xúc, nghiên cứu những văn bản chính thống, nhằm tăng tính hiệu quả của việc tham gia góp ý vào dự thảo các văn kiện của Đảng.

Bên cạnh đó, cần tổ chức tốt hệ thống truyền thông, tuyên truyền sâu rộng đường lối, quan điểm của Đảng đến với quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên. Nâng cao hiệu quả đấu tranh trực diện với những quan điểm sai trái, phủ nhận quan điểm, đường lối của Đảng trên các trang mạng in-tơ-nét, blog, sách, báo, ấn phẩm…; kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các đối tượng cơ hội chính trị, tăng cường công tác an ninh, kịp thời phát hiện và bóc gỡ những tổ chức phản động. Đồng thời, phát huy tính chủ động, nhạy bén, bản lĩnh chính trị vững vàng, trí tuệ sâu sắc và tính chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong việc bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng.

Hai là, tiếp tục khẳng định tính đúng đắn và tầm quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đối với công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam. Mục đích của các thế lực thù địch chống phá Đại hội XII của Đảng về tư tưởng nhằm làm cho Đảng ta xa rời, dẫn đến từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thay vào đó là hệ tư tưởng tư sản; làm cho nhân dân mất niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng. Do đó, để đấu tranh làm thất bại các âm mưu, thủ đoạn trên, trước hết phải khẳng định: Đổi mới không phải là xa rời chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và không ngừng phát triển học thuyết đó, lấy đó làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, làm cơ sở phương pháp luận quan trọng nhất để phân tích tình hình, hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới.

Biện pháp rất quan trọng, có tính quyết định đến việc giữ vững nền tảng tư tưởng của Đảng, đó là chủ động nắm chắc tình hình tư tưởng, tâm trạng xã hội; kịp thời phát hiện những hoạt động chống phá về tư tưởng, gây hoang mang, dao động niềm tin, mơ hồ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. Chủ động đấu tranh với luận điệu mà chúng đang rêu rao, tuyên truyền trên các trang mạng xã hội, như: “làm gì có kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, “không có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”...; hoặc luận điệu đòi “đa nguyên, đa đảng”, đòi “từ bỏ chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh”,… để từ đó có biện pháp dự báo, phòng ngừa, đấu tranh, phản bác một cách trực tiếp trên những phương tiện thông tin đại chúng. Mặt khác, phải tăng cường công tác tuyên truyền, làm cho nhân dân nhận rõ những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong 30 năm đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở đó, củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp tuyên truyền, giáo dục bằng nhiều hình thức đa dạng, có sức hấp dẫn để tạo sự thẩm thấu và lan tỏa nhanh hơn, sâu rộng hơn, làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân “chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của toàn xã hội”.

Kiên quyết đấu tranh đẩy lùi những biểu hiện suy thoái trong Đảng

 


Nhằm kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng ấy, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định, trong đó có Quy định về những điều đảng viên không được làm. Tuy nhiên, việc quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quy định ấy của các tổ chức đảng và đảng viên chưa nghiêm, nhiều nơi buông lỏng...

Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương 4 khóa XIII nhận thấy nội dung của các nghị quyết, chỉ thị, quy định đã ban hành đến nay cơ bản vẫn còn phù hợp và đáp ứng được yêu cầu của công tác quản lý, giáo dục và rèn luyện đội ngũ CB, ĐV. Nhưng thực tiễn luôn biến đổi, vận động không ngừng. Trước yêu cầu mới của tình hình nhiệm vụ, Ban Chấp hành Trung ương nhận thấy cần thiết phải bổ sung, hoàn thiện thêm một số nội dung quan trọng về rèn luyện tư tưởng chính trị, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống của CB, ĐV.

Việc bổ sung, hoàn thiện này không ngoài mục đích góp phần ngăn ngừa, khắc phục một cách mạnh mẽ và quyết liệt hơn những biểu hiện suy thoái, tiêu cực của CB, ĐV; giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.

Cùng với đó Đảng ta cũng nhận thấy, có một số nội dung qua thực tiễn chưa đầy đủ, rõ ràng, có nội dung khó áp dụng, gây khó khăn khi phải xem xét vi phạm của CB, ĐV; có nội dung quy định của Đảng và Nhà nước đã thay đổi, do đó cần phải được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình mới.

Để các “tế bào” của Đảng luôn khỏe mạnh

Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên luôn là một yêu cầu nhiệm vụ thường xuyên, liên tục, cấp bách thuộc về công tác xây dựng Đảng. Đối với mỗi tổ chức cơ sở đảng, đặc biệt là tại các chi bộ - nơi đảng viên trực tiếp sinh hoạt và thực hiện nhiệm vụ thì công tác càng phải được nhấn mạnh. Để tiếp tục thực hiện có hiệu quả cao nhất Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII, Đảng ta đã đề ra các nhóm nhiệm vụ, giải pháp. 

Tuy nhiên, đi vào cụ thể trước hết chúng ta cần đổi mới nội dung, phương pháp phân tích, đánh giá chất lượng đảng viên. Công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện, phát triển, sàng lọc đảng viên phải được tăng cường. Đối với những người vi phạm nghiêm trọng Điều lệ Đảng, những điều đảng viên không được làm và pháp luật Nhà nước, cần kiên quyết đưa ra khỏi Đảng.

Mặt khác, trong mọi hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng cần phải giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ; đề cao trách nhiệm của người chủ trì lãnh đạo, chỉ đạo cơ quan, đơn vị, địa phương. Cấp uỷ các cấp phải xây dựng và thường xuyên bổ sung quy chế lãnh đạo và quy chế làm việc, thực hiện nghiêm Quy chế chất vấn trong sinh hoạt Đảng, bảo đảm cho mọi đảng viên đều được thực hiện quyền tham gia vào các công việc của Đảng. Công tác kiểm tra, giám sát được nhận thức đầy đủ và thực hiện nghiêm túc, góp phần phát hiện và khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha, ngăn chặn kịp thời những hành vi tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong bộ máy Đảng, Nhà nước.

Đặc biệt, phải thực hiện nghiêm, có hiệu quả cụ thể hơn nữa Quy định về những điều đảng viên không được làm mà Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII mới bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện; kiên quyết khắc phục cho được những hạn chế, bất cập, thiếu sót trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, đáp ứng được yêu cầu của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và công tác quản lý, giáo dục nâng cao chất lượng đội ngũ CB, ĐV nói riêng trong tình hình mới

Ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hoá"


Văn kiện Đại hội XII của Đảng chỉ rõ: “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”[1],... chưa được ngăn chặn, đẩy lùi. Trong những căn bệnh của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống là căn bệnh nguy hiểm hàng đầu, là căn nguyên gây ra nhiều căn bệnh khác. Không phải ngẫu nhiên mà trong các bài giảng huấn luyện cho cán bộ từ năm 1925, Nguyễn Ái Quốc-Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy”.

Nhìn lại bài học sụp đổ của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu những năm 90 của thế kỷ XX, cho chúng ta thấy: “Một trong những nguyên nhân sai lầm quan trọng nhất của Đảng Cộng sản Liên Xô là từ bỏ Chủ nghĩa Mác - Lênin. Thông qua công cuộc cải tổ, Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Liên Xô mà đứng đầu là Tổng Bí thư Goóc-ba-chốp lúc đó đã loại dần những người cộng sản trung thành với Chủ nghĩa Mác - Lênin. Không chỉ có thế, ông còn cho rằng, học thuyết Mác - Lênin đã lỗi thời”. Trong bài viết: “Vì sao Đảng Cộng sản Liên Xô tan rã” đăng trên Tạp chí Cộng sản từ năm 1992, tác giả Nguyễn Phú Trọng đã nhận định:“Chính là vì người ta hiểu sai và làm sai chủ nghĩa Mác - Lênin”. Đây là điều đáng lo ngại nhất và cũng là nguy cơ lớn nhất đối với một đảng cầm quyền, như Lênin và Hồ Chí Minh đã từng cảnh báo.

Tại Hội nghị triển khai Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng và các chỉ thị, nghị quyết khóa XII ngày 27/5/2016, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: Trong khi ở nhiều nơi, đời sống nhân dân còn khó khăn, nhiều yêu cầu thiết yếu của quần chúng chưa được bảo đảm, thì có những cán bộ, đảng viên chỉ lo thu vén cá nhân, xoay xở làm giàu, ăn uống chè chén bê tha; thậm chí có người vô trách nhiệm với dân, vô cảm trước những khó khăn, đau khổ của quần chúng. Một số người còn lợi dụng chức quyền để đục khoét, vơ vén của cải của Nhà nước, của tập thể trở thành những con sâu mọt tệ hại của xã hội. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng đó là, sự thiếu tu dưỡng, rèn luyện, giảm sút ý chí chiến đấu; sa vào chủ nghĩa cá nhân, quên trách nhiệm, bổn phận trước Đảng, trước dân; ngại khó, ngại khổ, ngại va chạm; bất chấp đạo lý, dư luận; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm của một bộ phận cán bộ, đảng viên không gương mẫu, nói không đi đôi với làm, thiếu quyết tâm chỉ đạo còn diễn ra ở một số tổ chức Đảng, cấp ủy viên. Cho nên, giải pháp hàng đầu là đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống của một số cán bộ, đảng viên, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong Đảng; chính là tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cùng với đó phải đổi mới, nâng cao hiệu quả giáo dục chính trị tư tưởng, đã đến lúc, Đảng phải có các quy định nghiêm khắc với những đảng viên nhạt phai lý tưởng, suy giảm niềm tin, nói, viết trái với nền tảng tư tưởng và đường lối của Đảng. Trên cơ sở đó, xử lý kỷ luật nghiêm minh, kiên quyết khai trừ những đối tượng thoái hóa, biến chất về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống ra khỏi Đảng.

Tại hội nghị lần này, Trung ương tập trung trí tuệ, sức lực, phát huy cao nhất trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, xác định rõ trách nhiệm của tập thể Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và mỗi đồng chí Ủy viên Trung ương trong thảo luận, quyết nghị từng nội dung, vấn đề theo chương trình, kế hoạch đề ra. Kết quả của Hội nghị Trung ương lần này cho thấy quyết tâm rất lớn của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư trong lãnh đạo, chỉ đạo, giải quyết những vấn đề quan trọng, tạo điều kiện và động lực để đất nước phát triển nhanh, bền vững; đặc biệt, tập trung xác định hệ thống các giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng-nhiệm vụ cấp bách và không thể chậm trễ hiện nay.

Để thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII một cách có hiệu quả, trước hết, cấp ủy từng cấp, trực tiếp là bí thư cấp ủy cần nắm vững những nội dung trọng tâm, cốt yếu được Trung ương thảo luận và quyết nghị tại hội nghị lần này, nhất là những điểm mới về biểu hiện của sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống đã được Trung ương chỉ ra. Đó vừa là cơ sở, vừa là điều kiện để cấp ủy các cấp tổ chức học tập, quán triệt, triển khai thực hiện phù hợp với điều kiện thực tế ở từng địa phương, đơn vị. Trên cơ sở nhận thức đúng, nắm vững nội dung và hệ thống giải pháp cơ bản của Hội nghị Trung ương để cấp ủy các cấp nghiên cứu xây dựng kế hoạch, chương trình hành động phù hợp và thiết thực.

Trước hết, tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Phải khẳng định đây là giải pháp không mới nhưng đó là giải pháp cơ bản luôn được Đảng ta nhấn mạnh suốt hơn 86 năm qua. Trong tình hình hiện nay, cần phải có những cách làm mới hơn, thiết thực hơn.

Những vụ việc gần đây, như vụ của Trịnh Xuân Thanh lộ ra nhiều vấn đề trong giáo dục, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên. Tại sao trong một tổ chức Đảng có người đứng đầu luôn mẫu mực, đi chiếc xe ô tô không thuộc hạng sang và không cần mua sắm xe mới thì một cán bộ cấp tỉnh lại chạy siêu xe tư nhân gắn biển xanh mà đồng chí, đồng đội xung quanh không thấy phản cảm, không phê phán, đấu tranh? Ngoài kẽ hở về quản lý kê khai tài sản thì dường như trong Đảng ta, trực tiếp từ cấp chi bộ lâu nay dường như đã buông lỏng, xem nhẹ giáo dục, kiểm tra, giám sát cán bộ, đảng viên về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Nếu như những biểu hiện “lệch chuẩn”, những dấu hiệu bất thường về đạo đức, lối sống sớm được phát hiện, chấn chỉnh ngay từ chi bộ đảng, từ nơi đảng viên công tác, thì có lẽ sự tha hóa, trượt dài trên những vũng bùn tội lỗi sẽ được ngăn chặn

Đảng một lòng vì dân!

 

Khi nói tới mối quan hệ giữa Đảng ta với nhân dân, thi sĩ Chế Lan Viên có những câu thơ rất ấn tượng: “Nghĩ vóc dáng những Trường Sơn, dung mạo những đồng bằng/ Những mâm cơm ta có gì, Trung ương phải nghĩ” và “Mưa tám trăm ly, Bác phải lội bùn/ Hạn cháy lúa, Thủ tướng cùng dân đi tát nước...”.

 Sự ra đời của Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.
Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh là hiện thân trọn vẹn nhất cho sự kết hợp đó, là tiêu biểu sáng ngời cho sự kết hợp giai cấp và dân tộc, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
Việc thành lập Đảng là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử công nhân và của cách mạng Việt Nam, chứng tỏ giai cấp vô sản nước ta trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng, chấm dứt thời kì khủng hoảng về vai trò lãnh đạo và đường lối trong phong trào cách mạng Việt Nam. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã thuộc quyền lãnh đạo tuyệt đối của giai cấp công nhân mà đội tiên phong là Đảng cộng sản.
Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập  hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.
Với chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, ĐCSVN đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. St

 Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 5/6/1911 người thanh niên Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Người đã đi qua nhiều nước của châu Âu, châu Phi, châu Mỹ và đã phát hiện ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

Năm 1917, Người trở lại nước Pháp, đến Paris và năm 1919 gia nhập Đảng Xã hội Pháp.

Tháng 6/1919, thay mặt những người yêu nước Việt Nam, với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc, Người gửi bản yêu sách 8 điểm tới Hội nghị Vécxây.

Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc “Đề cương về vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lênin và từ tư tưởng đó, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc Việt Nam.

Tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp (tháng 12/1920), Nguyễn Ái Quốc bỏ phiếu tán thành Quốc tế III (Quốc tế Cộng sản do Lênin sáng lập) và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, trở thành người Cộng sản đầu tiên của Việt Nam. Đó là một sự kiện lịch sử trọng đại, không những Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước đến với lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghĩa Mác-Lênin, mà còn đánh dấu bước chuyển quan trọng của con đường giải phóng dân tộc Việt Nam: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản.

Từ đây, cùng với việc thực hiện nhiệm vụ đối với phong trào cộng sản quốc tế, Nguyễn Ái Quốc xúc tiến truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin, vạch phương hướng chiến lược cách mạng Việt Nam và chuẩn bị điều kiện để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, chuẩn bị về lý luận cho sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam. Người nhấn mạnh: cách mạng muốn thành công phải có đảng cách mạng chân chính lãnh đạo; Đảng phải có hệ tư tưởng tiên tiến, cách mạng và khoa học dẫn đường, đó là hệ tư tưởng Mác-Lênin.

Người đã viết nhiều bài báo, tham gia nhiều tham luận tại các đại hội, hội nghị quốc tế, viết tác phẩm “Bản án chế độ thực dân Pháp” và tổ chức ra các tờ báo Thanh niên, Công nông, Lính cách mệnh, Tiền phong, nhằm truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào Việt Nam. Năm 1927, Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức xuất bản tác phẩm “Đường cách mệnh” (tập hợp các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc ở lớp huấn luyện chính trị của Hội Việt Nam cách mạng thanh niên). Đó là sự chuẩn bị về đường lối chính trị tiến tới thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Người khẳng định, muốn thắng lợi thì cách mạng phải có một đảng lãnh đạo, Đảng có vững, cách mạng mới thành công cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy.

Trong thời gian này, Người cũng tập trung cho việc chuẩn bị về tổ chức và cán bộ. Người lập ra Hội Việt Nam cách mạng thanh niên (năm 1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc) và gửi cán bộ đi học tại trường Đại học Phương Đông (ở Liên Xô trước đây) và trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc) nhằm đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam.

Nhờ hoạt động không mệt mỏi của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà những điều kiện thành lập Đảng ngày càng chín muồi.

Cuối năm 1929, những người cách mạng Việt Nam trong các tổ chức cộng sản đã nhận thức được sự cần thiết và cấp bách phải thành lập một Đảng Cộng sản thống nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã chủ động tổ chức và chủ trì Hội nghị hợp nhất Đảng tại Hương Cảng, Trung Quốc từ ngày 6 tháng 1 đến ngày 7/2/1930.

Hội nghị đã quyết định hợp nhất các tổ chức Đảng (Đông Dương Cộng sản Đảng, An Nam Cộng sản Đảng, Đông Dương Cộng sản Liên đoàn) thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị thảo luận và thông qua các văn kiện: Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản. Những văn kiện đó do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo, được Hội nghị hợp nhất Đảng thông qua là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Hội nghị thông qua lời kêu gọi của Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến đồng bào, đồng chí trong cả nước nhân dịp thành lập Đảng.

Hội nghị hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như là một Đại hội thành lập Đảng. Những văn kiện được thông qua tại Hội nghị hợp nhất do Nguyễn Ái Quốc chủ trì chính là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch hằng năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng. St

 Ý nghĩa của sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

Hội nghị hợp nhất các tổ chức đảng cộng sản ở Việt Nam thành một Đảng Cộng sản duy nhất - Đảng Cộng sản Việt Nam - theo một đường lối chính trị đúng đắn, tạo nên sự thống nhất về tư tưởng, chính trị và hành động của phong trào cách mạng cả nước, hướng tới mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp, là sự khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân Việt Nam và hệ tư tưởng Mác-Lênin đối với cách mạng Việt Nam. Sự kiện Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại, một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam, đánh dấu một mốc son chói lọi trên con đường phát triển của dân tộc ta.

Sự ra đời của Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của nhân dân Việt Nam, là sự kiện gắn liền với tên tuổi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh.

Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và việc ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng là giải phóng dân tộc theo phương hướng cách mạng vô sản, chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam. Chính đường lối này là cơ sở đảm bảo cho sự tập hợp lực lượng và sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc cùng chung tư tưởng và hành động để tiến hành cuộc cách mạng vĩ đại giành những thắng lợi to lớn sau này. Đây cũng là điều kiện cơ bản quyết định phương hướng phát triển, bước đi của cách mạng Việt Nam trong suốt 86 năm qua.

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang. Đồng thời cách mạng Việt Nam cũng góp phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã hội. ST