Chẳng có thứ vũ khí nào mạnh bằng tinh thần của một dân tộc, tinh thần ấy thể hiện ở mỗi người ra trận bảo vệ tổ quốc. Mọi người cứ thử nghĩ mà coi. Tại sao nước ta nghèo như thế, yếu như thế, nhỏ bé như thế mà chúng ta lại dành chiến thắng trong mọi cuộc chiến chống quân xâm lược.
Vó ngựa của qân Mông Cổ đã giẫm nát cỏ nhiều nước châu Âu, là một đội quân bất khả chiến bại. Song, sau khi đánh bại triều đình nhà Tống, vượt qua biên giới tiến đánh Việt Nam ba lần, với các tướng tài như Ngột-Lương-Hợp-Thai, Toa Đô, Thoát Hoan đều bị quân dân ta đánh bại. Riêng Toa Đô đã bị tử trận, Thoát Hoan chui vào ông đồng khi rút chạy để tránh mũi tên làn đạn của quân ta.
Rồi suốt một ngàn năm Bắc thuộc. Các triều đình phương Bắc muốn đồng hóa dân tộc Việt với các phong tục của người Trung Hoa, đặc biệt là chữ viết. Vừa rồi có một học giả, đã tổng kết về sự ảnh hưởng về ngôn ngữ giữa ngôn ngữ Hán với ngôn ngữ Việt, với ngôn ngữ Hàn và ngôn ngữ Nhật. Người ấy kết luận, người Việt chỉ bị ảnh hưởng ba mươi phần trăm (30%), trong khi hai nước kia bị ảnh hưởng đến sáu mươi phân trăm (60%).
Tiếp đến là một trăm năm bị thực dân Pháp đô hộ, hai mươi năm chiến đấu với đế quốc Mỹ, rồi cuộc chiến với thế lực bành trướng Trung Hoa suốt từ năm 1979 đến nay vẫn chưa thực sự chấm dứt. Mặc dù các thế lực này đã là kẻ thua cuộc nhưng họ chưa từ bỏ lôi kéo nước ta để làm quân cờ trong tay chúng.
Vậy vũ khí nào đã giúp cho dân tộc ta đứng vững trước các thế lực đó? Thưa rằng đó là tinh thần dũng cảm của một dân tộc quật cường. Mọi người đọc tất cả nhật ký và những bức thư để lại cho gia đình của các chiến sĩ và các liệt sĩ của chúng ta, chẳng ai có thể tìm thấy một câu tiếc nuối tuổi thanh xuân mà chỉ thấy toát lên lòng căm thù giặc và sẵn sàng hy sinh cho tổ quốc. Đó mới là thứ vũ khí mạnh nhất, vũ khí ấy đã đối đầu thành công với các loại vũ khí mà Pháp, Mỹ, Trung quốc đã đưa vào chiến trường Việt Nam.
Lịch sử từ xưa tới nay đã chứng minh rằng, những thế lực phi nghĩa, những kẻ cam tâm làm tay sai cho kẻ khác, những kẻ vì đồng tiên mà đi đánh thuê …, thì không bao giờ có được kết quả cuối cùng là chiến thắng một cách vẻ vang.
Hỏi có đội quân nào trước khi ra trận mà chỉ nghĩ đến chiến thắng, không quản hy sinh như quân đội nhân dân Việt Nam?
Đây, người con gái tiễn người yêu ra trận:
“Sáng hôm nay có người còn trông theo toán hùng binh
“Đêm hôm qua không ngủ ngồi thức thêu khăn thắm
“Khăn tặng ai sao vội vàng đi sớm?
“Đôi mắt nàng nhìn lưu luyến bên đường…” (lời một bài hát xưa)
Thấy không? Không có lệ rơi, không có đòi hỏi, chỉ tặng người yêu một chiếc khăn thêu để nhớ về những người ở nhà, nhớ về quê hương. Và một khi xung trận thì lại cất tiếng hát:
Những kẻ đánh thuê để kiếm tiền như ở Ukraine hiện nay thì làm gì có tinh thần, làm gì có ý chí như quân đội của chúng ta. Những kẻ đó tất sẽ thất bại.
Hãy tin lão đi – trước kia Tàu, Pháp, Nhật, Mỹ đều là kẻ bại trận; rồi đến đám đánh thuê cho Mỹ như Nam Hàn, Philippines, Thailand, ngụy Sài gòn đã gặt hái được gì? Chẳng có gì ngoài một trang sử đen tối của dân tộc họ. Ngày nay đến lượt đám đánh thuê cho Ukraine, nếu không bỏ xác ở chiến trường thì cũng chỉ mang nỗi ô nhục suốt đời. Quân đội Ukraine và cả cái chính quyền Ukraine cũng là kẻ đánh thuê cho Mỹ, kết cục cũng chỉ là một kẻ bại trận ê chề mà thôi.
Sau khi thủ đoạn tung những video clip dàn dựng, cắt ghép, sưu tầm từ nhiều năm trước về cảnh “đi bộ đội bị lính cũ bắt nạt hoặc phải làm việc cực nhọc” bị bạn đọc bóc mẽ, vạch trần, một số trang mạng phản động, trong đó có Việt Tân tiếp tục dùng chiêu trò khác nhằm kêu gọi thanh niên trốn tránh nhập ngũ để thực hiện âm mưu chống phá đất nước ta.
Chúng tung tin rằng: Thanh niên nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ quân sự là lãng phí mất 2 năm tuổi trẻ (!)
Nghe luận điệu tuyên truyền “bẩn” này, thấy ngay sự nham hiểm nhưng lại rất ngô nghê của những kẻ có mưu đồ đen tối. Bởi vì chúng cho rằng 2 năm nhập ngũ là lãng phí thời gian, nhưng tuyệt đại đa số người dân Việt Nam đều hiểu rõ Quân đội như trường học lớn, là môi trường rất tốt để thanh niên học tập, rèn luyện, từ đó trưởng thành hơn.
Thực tế nhiều năm qua đã chứng minh, tất cả thanh niên Việt Nam sau một thời gian nhập ngũ đều có sự tiến bộ rõ rệt về nhiều mặt. Hầu như ai hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cũng có sức khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, bản lĩnh, ý thức tổ chức kỷ luật, tác phong... chững chạc hơn, tốt hơn so với trước khi nhập ngũ.
Thực tế là đại đa số các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đều ưu tiên tuyển chọn người đã được học tập, rèn luyện qua môi trường Quân đội, bởi họ thường có phẩm chất, năng lực, uy tín cao hơn.
Thực tế trong các đợt tuyển quân hằng năm thì luôn có hàng vạn thanh niên viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Họ vừa tự giác thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với Tổ quốc, vừa muốn được học tập, rèn luyện trong môi trường Quân đội để trưởng thành, có đủ hành trang cần thiết lập thân, lập nghiệp một cách tự tin, bền vững. Như huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang năm nay có 100% thanh niên nhập ngũ viết đơn tình nguyện nhập ngũ; trong tổng số công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự đầu năm 2024 của tỉnh Hà Giang có gần 70% viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Có những gia đình cả hai, ba anh em ruột cùng xung phong nhập ngũ một đợt (như Nguyễn Khắc Tự Hiền Phúc, Nguyễn Khắc Tự Hiền Nhơn, Nguyễn Khắc Tự Hiền Nhân ở phường Tam Thuận, quận Thanh Khê, TP Đà Nẵng).
Chắc chắn, chẳng có người hiểu biết nào lại dại dột tin vào luận điệu tuyên truyền “bẩn”, rằng “Thanh niên nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ quân sự là lãng phí mất 2 năm tuổi trẻ” (!). Nghe theo lời xúi dại ấy, có khi tự đẩy mình vào ăn chơi sa ngã, vi phạm pháp luật, đánh mất tương lai.
Hàng năm, vào đầu xuân mới hàng vạn thanh niên trên mọi miền của tổ quốc nô nức lên đường nhập ngũ. Đây vừa là nghĩa vụ, là vinh dự cũng là trách nhiệm của thanh niên Việt Nam.
Được học tập, rèn luyện trong môi trường quân đội là điều kiện tốt để thanh niên tô luyện những phẩm chất, nhân cách cần thiết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước.
Có thể nói, môi trường quân đội với kỷ luật nghiêm minh nhưng sẽ giúp cho thanh niên hình thành và phát triển những phẩm chất mà môi trường khác khó có thể mang lại. Khi mới nhập ngũ, thanh niên phải tuân thủ nghiêm khắc với những quy định, điều lệnh, điều lệ quân đội, phải chấp hành mệnh lệnh của người chỉ huy.
Thực tế, thanh niên bước vào quân đội với nhiều đặc điểm tâm lý khác nhau, hội tụ từ nhiều vùng miền khác nhau, những thói quen cũ như sự tùy tiện, buông lỏng, tự do vô kỷ luật thì nay vào quân đội họ phải chuyển hóa một cách nhanh chóng theo yêu cầu quân đội. Đó cũng chính là sự thay đổi từ nhận thức, thói quen, ngôn ngữ, cử chỉ, tác phong… đạt ở mức độ chuẩn hóa và thống nhất trong một tập thể quân sự. Môi trường quân đội cũng giúp cho thanh niên chuyển biến nhanh chóng về mặt nhận thức, đó chính là sự vững vàng về phẩm chất chính trị, về lập trường quan điểm…, từ đó hình thành nên sự đề kháng tốt giúp cho thanh niên luôn có ý thức được nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trong môi trường quân đội, thanh niên cũng được hình thành lối sống mới như quan hệ đồng chí, đồng đội, ý thức tập thể, quan hệ quân - dân, giải quyết các vấn đề lợi ích phù hợp theo chuẩn mực xã hội. Bên cạnh đó, khi thanh niên vào quân đội cũng được hình thành những phẩm chất chuyên môn nghề nghiệp theo các lĩnh vực cụ thể, điều đó sẽ làm cơ sở để mỗi quân nhân có thể vận dụng kiến thức vào cuộc sống sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự của mình.
Trong môi trường quân đội, với đội ngũ cán bộ các cấp, họ vừa là người chỉ huy, vừa là nhà giáo dục có thể giúp quân nhân hình thành những tính cách tốt đẹp như sự trung thực, thẳng thắn, tính kiên cường…, điều này cũng giúp ích cho thanh niên có thể vững bước trong cuộc sống sau này.
Có thể nói, được học tập, rèn luyện ở môi trường quân đội là điều kiện tốt cho thanh niên phát huy trên nhiều lĩnh vực./
Ngay từ khi ra đời, Đảng đã có Cương lĩnh chính trị xác định đúng đắn con đường cách mạng, đây chính là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam vừa ra đời đã nắm được ngọn cờ lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam; giải quyết được tình trạng khủng hoảng về đường lối cách mạng, về giai cấp lãnh đạo cách mạng diễn ra những năm đầu đầu thế kỷ XX, mở ra con đường và phương hướng phát triển mới cho đất nước Việt Nam.
Từ các cao trào cách mạng, Đảng tập hợp quần chúng làm cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới, kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Sau Cách mạng Tháng Tám, Đảng đã lãnh đạo nhân dân cả nước đoàn kết một lòng, tiến hành cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc, đưa cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.
Trong muôn vàn thử thách, vừa khắc phục hậu quả chiến tranh, vừa phá thế bao vây cấm vận, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta củng cố, xây dựng đất nước, bảo vệ chủ quyền quốc gia. Với bản chất cách mạng, khoa học, đứng vững trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng ở sức mạnh và ý chí toàn dân tộc, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng nước ta vượt qua bao khó khăn thử thách, giành thắng lợi vẻ vang.
(Nguồn ảnh: Internet)
Với những thắng lợi đã giành được trong 88 năm qua, nước ta từ một nước thuộc địa nửa phong kiến đã trở thành một quốc gia độc lập, tự do, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa; nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội; đất nước ta đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển, đang đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, có quan hệ quốc tế rộng rãi, có vị thế ngày càng quan trọng trong khu vực và trên thế giới.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp, như: Bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng; tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; trung thành với lợi ích giai cấp, lợi ích dân tộc, gắn bó mật thiết với nhân dân; kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Đảng; giữ gìn đoàn kết nội bộ, đoàn kết quốc tế,…
Những truyền thống đó là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Đây cũng là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ đảng viên. Và hơn thế nữa, nó còn có ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để.
Thực tiễn 88 năm qua đã khẳng định: Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam thật sự là đội tiên phong của giai cấp công nhân; đồng thời, là đội tiên phong của nhân dân lao động và toàn dân tộc Việt Nam. Chào mừng kỷ niệm 88 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vô cùng tự hào vì đất nước ta có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hoà bình và tiến bộ của nhân loại.
Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mỗi cán bộ, giảng viên, học viên, nhân viên, chiến sĩ Trường Đại học Chính trị càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thực hiện thắng lợi mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội./.
Công tác truyền thông, tuyên truyền về dân tộc, tôn giáo từ lâu luôn đóng vai trò vô cùng quan trọng trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của nước ta hiện nay. Bởi đây là một vấn đề nhạy cảm, cần được thông tin một cách đúng đắn để nâng cao nhận thức của đồng bào. Qua đó, bài trừ mê tin dị đoan, ngăn ngừa việc lợi dụng các vấn đề về tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật, kích động chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây mất an ninh trật tự và làm mất ổn định an ninh quốc gia. Bởi vậy, cần có sự xử lý tinh tế, sáng tạo và quyết liệt để nâng cao hơn nữa hiệu quả truyền thông trong vấn đề này.
Trong quá trình thực hiện chiến lược "diễn biến hòa bình" chống Việt Nam, các thế lực thù địch, đối tượng phản động trong và ngoài nước luôn chú ý lợi dụng vấn đề tôn giáo, coi đây là một trong những mũi tiến công chủ đạo nhằm thay đổi thể chế chính trị tại Việt Nam. Do đó, việc nhận diện và đấu tranh với hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo chống Đảng, Nhà nước có ý nghĩa quan trọng trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Tính đến tháng 9/2023, Việt Nam có 43 tổ chức tôn giáo thuộc 16 tôn giáo được công nhận và cấp đăng ký hoạt động, với gần 26 triệu tín đồ, chiếm khoảng 27% dân số cả nước. Ngoài ra, còn có khoảng 140 tổ chức tôn giáo chưa được công nhận tư cách pháp nhân với khoảng 1 triệu tín đồ, đa phần sinh hoạt tại gia hoặc thuê, mượn địa điểm sinh hoạt tôn giáo, không có cơ sở thờ tự. Thời gian qua, Đảng, Nhà nước luôn nhất quán chính sách tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của công dân, tình hình tôn giáo và công tác tôn giáo tại Việt Nam đã đạt được nhiều kết quả hết sức quan trọng, được dư luận trong nước và quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo được kịp thời bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng thực tiễn đời sống tín ngưỡng, tôn giáo và phù hợp với những điều ước quốc tế mà Việt Nam đã tham gia. Các tổ chức tôn giáo được tạo thuận lợi trong hoạt động và ngày càng phát triển về mọi mặt; đồng bào các tôn giáo ngày càng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội, gắn bó, đồng hành với dân tộc. Một số lễ trọng của các tôn giáo lớn như: Lễ Phật đản, Lễ Giáng sinh… đã trở thành lễ hội chung của đông đảo nhân dân, góp phần xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tuy nhiên, các thế lực thù địch không chấp nhận thực tế trên và chúng ráo riết tìm mọi cách lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta. Đặc biệt, những năm gần đây, lợi dụng chính sách đối ngoại và chính sách tôn giáo của ta ngày càng cởi mở hơn, các đối tượng gia tăng lợi dụng vấn đề tôn giáo để tạo sức ép từ bên ngoài, tìm cách gây mất ổn định an ninh chính trị ở bên trong, nhằm tiến tới xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Nổi lên hiện nay là một số hoạt động sau:
Một là, tuyên truyền xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta vi phạm quyền tự do tôn giáo. Lợi dụng tính chất nhạy cảm của tôn giáo và một số hạn chế, thiếu sót của chính quyền các địa phương trong công tác tôn giáo, thời gian qua, các thế lực thù địch cùng với bọn phản động trong và ngoài nước đã ra sức tuyên truyền xuyên tạc về tình hình tôn giáo và chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Các đối tượng cho rằng, hệ thống chính sách pháp luật về tôn giáo của Việt Nam không tương đồng với luật pháp quốc tế về quyền con người, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo; thậm chí, chúng còn trắng trợn xuyên tạc việc xây dựng, ban hành quy định pháp luật về tôn giáo là "thòng lọng" đối với hoạt động của các tôn giáo; xuyên tạc việc xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực đất đai, xây dựng, hành chính, dân sự… liên quan chức sắc, tín đồ tôn giáo là "đàn áp tôn giáo". Một số cá nhân, tổ chức bên ngoài nhiều lần đơn phương đưa ra cái gọi là "Báo cáo", "Phúc trình" thường niên về tình hình tôn giáo quốc tế; trong đó có nhiều nội dung sai sự thật về tình hình, kết quả công tác tôn giáo tại Việt Nam, qua đó gây áp lực đòi ta phải thay đổi chính sách pháp luật về tôn giáo, lấy vấn đề "tự do tôn giáo" làm điều kiện trong đàm phán hợp tác, đầu tư phát triển tại Việt Nam.
Đáng chú ý, những năm gần đây, lợi dụng sự phát triển mạnh mẽ trên lĩnh vực thông tin, truyền thông, một số đối tượng cực đoan trong các tôn giáo triệt để lợi dụng Internet, mạng xã hội để tán phát, chia sẻ nhiều tài liệu có nội dung vu cáo Đảng, Nhà nước "đàn áp tôn giáo"; công kích số chức sắc, tín đồ tôn giáo tiến bộ, yêu nước, tham gia các tổ chức chính trị - xã hội; kêu gọi các nước lấy vấn đề tự do tôn giáo để làm điều kiện trong việc đàm phán, ký kết các thỏa thuận hợp tác song phương cũng như đa phương, qua đó tìm cách can thiệp công việc nội bộ của Việt Nam. Đặc biệt, có chức sắc còn công khai đòi xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản tại Việt Nam, tuyên truyền, cổ xúy quan điểm đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, cho rằng "tự do tôn giáo" là quyền, không chịu sự quản lý của Nhà nước, đòi phi chính trị hóa lực lượng vũ trang và xây dựng xã hội dân sự Việt Nam theo mô hình các nước phương Tây.
Hai là, lợi dụng các vấn đề tiêu cực trong xã hội, các vụ việc phức tạp liên quan tôn giáo để kích động chức sắc, tín đồ gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành tựu là cơ bản, không tránh khỏi một số hạn chế, khiếm khuyết trong công tác điều hành, quản lý Nhà nước trên một số lĩnh vực như: kinh tế, y tế, môi trường, giáo dục, đất đai, tư pháp…
Lợi dụng vấn đề này, các thế lực thù địch, đối tượng phản động trong và ngoài nước đã và đang ráo riết triển khai nhiều chiến dịch tuyên truyền nhằm thổi phồng các tiêu cực trong xã hội, quy chụp mọi tồn tại, hạn chế hiện nay là do sai lầm trong công tác lãnh đạo của Đảng, yếu kém trong công tác điều hành, quản lý của Chính phủ; từ đó, chúng móc nối, lôi kéo, kích động chức sắc, tín đồ các tôn giáo tổ chức các cuộc tập trung đông người tuần hành, biểu tình với danh nghĩa bảo vệ cuộc sống của người dân, bảo vệ người yếu thế để chống chính quyền; tăng cường phát triển lực lượng chống đối trong các tôn giáo, tạo thế liên tôn, liên kết trong - ngoài nhằm âm mưu tiến hành các cuộc tập dượt cho "cách mạng màu", "cách mạng đường phố" tại Việt Nam.
Điển hình như, lợi dụng sự cố ô nhiễm môi trường biển miền Trung do Công ty TNHH gang thép Hưng Nghiệp Formosa Hà Tĩnh gây ra năm 2016, một số chức sắc cực đoan trong Công giáo với sự hậu thuẫn của các tổ chức phản động bên ngoài đã tổ chức cho hàng ngàn giáo dân tuần hành, biểu tình gây rối an ninh trật tự, chống người thi hành công vụ, chiếm giữ quốc lộ, tỉnh lộ… Các hoạt động này đã gây tình hình phức tạp nghiêm trọng về an ninh trật tự, trực tiếp xâm hại đến hoạt động bình thường của chính quyền cơ sở, làm giảm sút niềm tin của một bộ phận chức sắc, tín đồ tôn giáo đối với vai trò lãnh đạo của Đảng, công tác quản lý Nhà nước của các cấp chính quyền.
Đặc biệt, những năm gần đây, trước tình hình tranh chấp, khiếu kiện và vi phạm pháp luật về đất đai, xây dựng liên quan tôn giáo diễn ra phức tạp, một số đối tượng cực đoan trong tôn giáo đã lợi dụng chiêu bài "bảo vệ quyền lợi của giáo hội" để kích động số đông quần chúng tín đồ gây rối an ninh trật tự, chống người thi hành công vụ, gây ảnh hưởng để việc phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều địa phương. Thậm chí, nhiều vụ việc bị "chính trị hóa", "quốc tế hóa", từ vụ việc khiếu kiện đất đai đơn thuần đã trở thành điểm nóng về an ninh trật tự, điển hình như vụ 178 Nguyễn Lương Bằng, 42 Nhà Chung (Hà Nội), vụ giáo xứ Cồn Dầu (Đà Nẵng), vụ chùa Liên Trì (TP. Hồ Chí Minh)… đã bị các thế lực thù địch lợi dụng can thiệp công việc nội bộ của Việt Nam.
Ba là, gắn vấn đề tôn giáo với vấn đề dân tộc để kích động tư tưởng ly khai, tự trị. Lợi dụng một số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn gặp nhiều khó khăn về kinh tế, văn hóa, xã hội, trình độ dân trí thấp, phong tục tập quán lạc hậu…, thời gian qua các thế lực thù địch và bọn phản động lập ra nhiều tổ chức núp bóng dưới danh nghĩa tôn giáo để tập hợp, lôi kéo đồng bào dân tộc; để từ đó, dùng thần quyền, giáo lý chi phối họ tham gia các hoạt động chống Đảng, Nhà nước.
Điển hình như: tại Tây Nguyên, năm 1999, số đối tượng FULRO lưu vong ở Mỹ đã tuyên bố thành lập cái gọi là “Nhà nước Đềga”, đồng thời chúng móc nối với số đối tượng phản động trong các dân tộc thiểu số ở hai tỉnh Đắk Lắk, Gia Lai lập ra cái gọi là “Tin lành Đề ga” để lôi kéo, tập hợp đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên tham gia “Nhà nước Đề ga” dưới ngọn cờ tôn giáo và dân tộc để kích động ly khai thành lập nhà nước cho người dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên; tại Tây Nam Bộ, số đối tượng phản động tăng cường sử dụng Internet, báo, đài nhằm kích động tư tưởng “ly khai” vào vùng đồng bào dân tộc Khmer theo Phật giáo Nam tông, lập “Chính phủ Khmer Krôm lưu vong”, tiến đến thành lập “Nhà nước Khmer Krôm” trên vùng đất Tây Nam Bộ…; tại vùng dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc, số đối tượng phản động, cốt cán hoạt động “Nhà nước Mông” chủ trương phát triển cơ sở trong đạo Tin lành để tập hợp lực lượng, ráo riết móc nối, lôi kéo số chức sắc, số cầm đầu các điểm nhóm đạo Tin lành tham gia thành lập “Nhà nước Mông” tự trị…
Trên cơ sở nhận diện hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo chống Đảng, Nhà nước nói trên, thời gian tới để góp phần đấu tranh làm thất bại âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch, các ban ngành chức năng và cấp ủy, chính quyền các địa phương cần tập trung thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, tăng cường công tác tuyền truyền về chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong lĩnh vực tôn giáo và âm mưu, hoạt động lợi dụng tôn giáo chống Đảng, Nhà nước để cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nâng cao cảnh giác, tuân thủ nghiêm pháp luật về tín ngưỡng tôn giáo cũng như quy định khác liên quan. Công tác tuyên truyền cần được tiến hành thường xuyên, liên tục và với nhiều hình thức đa dạng, đi vào đời sống của người dân.
Hai là, tiếp tục quan tâm củng cố hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh và nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác quản lý Nhà nước về tôn giáo. Làm tốt công tác kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước về tôn giáo để chủ động phát hiện những sơ hở, thiếu sót và kịp thời có biện pháp khắc phục. Tổ chức tốt việc nắm bắt tâm tư, giải quyết những nguyện vọng chính đáng của đồng bào chức sắc, tín đồ các tôn giáo.
Ba là, đẩy mạnh phong trào toàn dân bảo vệ An ninh Tổ quốc, nhất là địa bàn trọng điểm, phức tạp về tôn giáo. Phải coi đây là một công tác trọng tâm, cơ bản đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của cấp ủy Đảng, sự điều hành quản lý của chính quyền và huy động được các ngành, các cấp cùng tham gia.
Bốn là, thực hiện tốt công tác tranh thủ chức sắc, người có uy tín trong các tôn giáo nhằm thúc đẩy xu hướng hoạt động tôn giáo thuần túy, tuân thủ pháp luật và đồng hành cùng dân tộc. Chú trọng phát huy vai trò của chức sắc, người có uy tín trong tôn giáo trong công tác phòng ngừa, đấu tranh, ngăn chặn làm thất bại âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn giáo chống Đảng, Nhà nước và góp phần giải quyết những vấn đề phức tạp nảy sinh trong tôn giáo.
Năm là, kiên quyết đấu tranh với các hoạt động lợi dụng vấn đề tôn giáo chống Đảng, Nhà nước. Trong đó, tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch; kiên quyết xử lý các hành vi lợi dụng tôn giáo để vi phạm pháp luật, đảm bảo tính thượng tôn pháp luật.
XUYÊN TẠC, KÍCH ĐỘNG
VỀ NHIỆM VỤ BẢO VỆ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA TRÊN BIỂN
Thời gian qua, trên các trang mạng
xã hội, các thế lực thù địch, phản động, một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện
chí với Việt Nam đã trắng trợn xuyên tạc chủ trương, đường lối, chính sách đối
ngoại của Đảng, Nhà nước ta có liên quan về vấn đề chủ quyền biển, đảo Việt
Nam.
Họ vu cáo rằng, Đảng, Nhà nước và
Quân đội ta “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển, đảo và lợi ích quốc gia
trên biển”, “lúc nào cũng chỉ muốn đối thoại, đàm phán hòa bình nên để nước
ngoài lấn tới...”; "không đủ năng lực và không đủ quyết tâm để bảo vệ chủ
quyền biển, đảo”...
Từ đây, các đối tượng ra sức
xuyên tạc sự thật về mối quan hệ giữa Việt Nam với các nước có biển trong khu vực
Biển Đông; tuyên truyền chủ nghĩa dân tộc cực đoan, tâm lý bài nước này, thân
nước kia; kích động sự chống đối Đảng, Nhà nước; hạ thấp vị thế, vai trò, sức mạnh
của Quân đội; phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Họ kêu gọi Đảng,
Nhà nước ta phải từ bỏ chính sách đối ngoại quốc phòng “4 không”, đòi Đảng ta
“thực hiện liên minh quân sự” để bảo vệ chủ quyền biển, đảo, bảo vệ lợi ích quốc
gia trên biển...
Có thể thấy, những luận điệu trên
hoàn toàn là sự xuyên tạc trắng trợn, kích động với dụng ý phá hoại. Sự thật là
nhiệm vụ bảo vệ biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc luôn được Đảng, Nhà nước,
Quân đội ta đặc biệt coi trọng, đang được tiến hành một cách đồng bộ, bài bản,
kiên quyết, kiên trì, kiên cường và khôn khéo.
Thứ nhất, đường lối, chính sách,
các chiến lược, kế hoạch... phát triển đất nước của Đảng, Nhà nước ta từ trước
đến nay đều khẳng định rất rõ ràng, biển, đảo là một bộ phận lãnh thổ thiêng
liêng của Tổ quốc; lợi ích quốc gia trên biển là vấn đề trọng yếu, thường xuyên
và lâu dài của Việt Nam. Ngay từ thời điểm đang phải dồn toàn lực để giải phóng
miền Nam, thống nhất đất nước, dù khó khăn trăm bề, Đảng, Nhà nước, Quân đội ta
đã kịp thời đưa lực lượng, phương tiện đi giải phóng các đảo từ tay chế độ cũ,
thể hiện tầm nhìn trong việc bảo vệ chủ quyền biển, đảo quốc gia.
Trong suốt những năm qua, Việt
Nam luôn kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo và tất cả lợi
ích hợp pháp, chính đáng trên biển Việt Nam đã được luật pháp quốc tế và Hiến
pháp, pháp luật Việt Nam quy định. Đảng, Nhà nước, Quân đội ta đã nhiều lần
phát ngôn công khai, khẳng định rõ lập trường, quan điểm nêu trên.
Hệ thống quan điểm của Đảng ta về
công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo ngày càng được hoàn thiện, phát
triển. Điều đó được thể hiện rõ qua các văn kiện của mỗi kỳ đại hội Đảng. Gần
đây nhất, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định, bổ sung, phát triển những
quan điểm cơ bản về nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong tình hình mới.
Trong đó, Đảng đã xác định quan điểm nhất quán và đề ra các biện pháp giải quyết
vấn đề trên biển hiện nay.
Thứ hai, Đảng, Nhà nước và Quân đội
ta luôn ưu tiên dành mọi nguồn lực tốt nhất cho nhiệm vụ giữ vững chủ quyền biển,
đảo; kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố,
tăng cường quốc phòng, an ninh tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn,
biên giới, hải đảo.
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta
chủ trương đẩy mạnh phát triển kinh tế biển, tạo điều kiện thuận lợi để ngư dân
yên tâm bám biển, làm giàu từ biển. Nhiều ngành kinh tế biển được chú trọng như
khai thác dầu khí, vận tải biển, điện gió ngoài khơi, du lịch biển, đảo, phát
triển kinh tế các đảo, đẩy mạnh nghiên cứu khoa học... Tất cả hoạt động kinh tế
biển đó thể hiện tính chất của nền quốc phòng toàn dân, thực hiện sách lược gắn
kinh tế với quốc phòng, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo.
Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII về Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt
Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 xác định: “Việt Nam phải trở thành quốc
gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an
toàn; phát triển bền vững kinh tế biển gắn liền với bảo đảm quốc phòng, an
ninh, giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ”.
Thứ ba, trong bối cảnh tình hình
thế giới và khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, Đảng, Nhà nước ta chủ
trương thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình hữu
nghị, hợp tác và phát triển, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại; bảo
đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến
chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi.
Đảng, Nhà nước ta thực hiện triết
lý “Ngoại giao cây tre” mà bản chất là mềm mại, khôn khéo nhưng rất kiên cường,
quyết liệt. Mục tiêu lớn nhất là tránh được xung đột, không để xảy ra chiến
tranh, giữ gìn môi trường hòa bình để phát triển đất nước, nhưng đồng thời bảo
vệ được lợi ích quốc gia-dân tộc với quyết tâm cao nhất. Chúng ta biết nhu, biết
cương, biết thời thế, biết thực lực, biết mình, biết người, biết tiến, biết lui
đúng lúc, hợp thời. Đó cũng là thực hiện triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến”,
“Lạt mềm buộc chặt” mà ông cha ta đã đúc rút từ các bài học đấu tranh dựng nước
và giữ nước.
Chúng ta xác định, giải quyết
tranh chấp trên Biển Đông là vấn đề lâu dài, kiên trì hợp tác tìm kiếm biện
pháp hòa bình để giải quyết tranh chấp, bảo vệ lợi ích chính đáng của nước ta,
đồng thời tôn trọng lợi ích chính đáng của các nước trên cơ sở tuân thủ luật
pháp quốc tế. Chúng ta không đi với nước này để chống lại nước kia; không thụ động
chịu tác động hay sự lôi kéo của bất cứ nước nào, nhất là tránh việc trở thành
con bài trong tay các nước lớn.
Thứ tư, Đảng, Nhà nước ta luôn
chăm lo xây dựng lực lượng hải quân, cảnh sát biển, biên phòng, dân quân tự vệ
biển và lực lượng kiểm ngư vững mạnh, với trang bị, phương tiện ngày càng đồng
bộ, hiện đại đủ sức quản lý, bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Các lực lượng nêu trên
luôn có tinh thần, quyết tâm cao, kiên quyết, kiên trì, kiên cường thực hiện tốt
các nhiệm vụ được giao, không có chuyện “không kiên quyết bảo vệ chủ quyền biển,
đảo và lợi ích quốc gia trên biển”... như kẻ xấu xuyên tạc, vu cáo.
Thứ năm, Đảng, Nhà nước quan tâm
đẩy mạnh công tác tuyên truyền về chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Công tác tuyên truyền đã thông tin kịp thời, minh bạch, chính xác để người dân
trong nước, người Việt Nam ở nước ngoài và cộng đồng quốc tế hiểu cơ sở pháp
lý, chứng cứ lịch sử và sự quản lý thực tế của Việt Nam trên các vùng biển, đảo
ở Biển Đông; hiểu rõ quan điểm, lập trường của Đảng, Nhà nước ta về giải quyết
vấn đề chủ quyền trên Biển Đông; từ đó, xây dựng niềm tin, ý chí quyết tâm, tạo
đồng thuận của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.
Do đó, những luận điệu xuyên tạc
chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước ta trong nhiệm
vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo rõ ràng là xuất phát từ những mưu đồ đen tối, âm
mưu kích động, phá hoại, chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ mối quan hệ
Việt Nam với các nước trên thế giới, cần phải được nhận diện, lên án, đấu tranh
kịp thời.
PHÊ PHÁN LUẬN ĐIỆU
“NHÂN QUYỀN CAO HƠN CHỦ QUYỀN”, “QUYỀN CON NGƯỜI LÀ PHI GIAI CẤP”
Quyền con người là các đặc quyền
tự nhiên, bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của tất cả mọi người, được ghi nhận, bảo
đảm bằng pháp luật quốc gia và quốc tế. Thực chất, không có quốc gia nào trên
thế giới chấp nhận “nhân quyền cao hơn chủ quyền” và trong từng quốc gia luôn
có giai cấp đóng vai trò trung tâm. Thế nên, những ai cổ xúy cho quan điểm
“nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “quyền con người là phi giai cấp” là hoàn toàn
sai trái, cần phải bác bỏ.
Sự phi lý của luận điểm “nhân quyền
cao hơn chủ quyền”
Quyền con người (nhân quyền) là tổng
hợp các quyền và tự do cơ bản để đánh giá địa vị pháp lý của cá nhân. Quyền con
người và pháp luật luôn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó, quyền con
người là vấn đề quan trọng của mọi hệ thống pháp luật; khi thực tiễn lịch sử đã
minh chứng quyền con người chỉ có thể ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật.
Quyền con người vốn là vấn đề thuộc
lĩnh vực đạo đức, song trong bối cảnh tồn tại giai cấp đối kháng, quyền con người
luôn bị một số quốc gia phương Tây chính trị hóa. Lâu nay, các nước phương Tây
thường rêu rao cái gọi là “nhân quyền cao hơn chủ quyền”, “quyền lực nhà nước ở
một quốc gia không được đàn áp nhân quyền”. Về thực chất, quan điểm này đã đối
lập quyền con người với chủ quyền quốc gia. Họ lập luận một cách phi lý rằng, vấn
đề quyền con người không thuộc công việc nội bộ của một nước.
Thậm chí, một số nước phương Tây
còn quy chụp rằng: “Việc Việt Nam nhấn mạnh chủ quyền quốc gia cao hơn tất cả,
trên thực tế là lấy danh nghĩa duy trì chủ quyền quốc gia để duy trì quyền lực
thống trị của Đảng Cộng sản Việt Nam”(!).
Việc cho rằng “nhân quyền cao hơn
chủ quyền” là hoàn toàn phi lý. Bởi lẽ, muốn hiện thực hóa được các quyền con
người phải có các tiền đề, điều kiện nhất định. Điều kiện tiên quyết là đất nước
phải được độc lập, chủ quyền quốc gia phải được tôn trọng theo luật pháp quốc tế
và Hiến chương Liên hợp quốc.
Thực tiễn lịch sử Việt Nam và nhiều
nước trên thế giới trải qua đấu tranh giành độc lập, giữ vững chủ quyền dân tộc
đã chứng minh, đất nước bị nô lệ thì người dân không có tự do, các quyền con
người sẽ bị chà đạp nghiêm trọng. Do vậy, các dân tộc bị áp bức đã quyết tâm
giành và giữ nền độc lập.
Tất yếu, chủ quyền quốc gia không
tách khỏi nhân quyền và nhân quyền không thể cao hơn chủ quyền. Cho nên có thể
khẳng định: Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là điều kiện tiên quyết để bảo
đảm quyền con người.
Mặt khác, để bảo đảm quyền con
người, trước hết và chủ yếu thuộc trách nhiệm của mỗi quốc gia. Trách nhiệm có
tính chất pháp lý này đã được Liên hợp quốc quy định trong các văn kiện nhân
quyền quốc tế, chẳng hạn như: Nghị quyết 2625 của Đại hội đồng Liên hợp quốc
ngày 24-10-1970 đã đưa ra Tuyên bố về những nguyên tắc của Luật Quốc tế điều chỉnh
quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp
quốc, trong đó khẳng định các nguyên tắc, như nguyên tắc chủ quyền quốc gia,
nguyên tắc bình đẳng chủ quyền của các quốc gia, nguyên tắc không can thiệp vào
những vấn đề thuộc thẩm quyền của các quốc gia khác.
Chính Liên hợp quốc cũng nhấn mạnh:
“Không quốc gia nào, kể cả Liên hợp quốc, có quyền can thiệp vào công việc thực
chất thuộc thẩm quyền quốc gia”. Xét cho cùng, trong luật pháp quốc tế, quốc
gia giữ vị trí quan trọng nhất. Do vậy, “nhân quyền cao hơn chủ quyền” là một
đòi hỏi phi lý.
Trên thế giới đã có nhiều nước lớn
nhân danh “nhân quyền cao hơn chủ quyền” để can thiệp vào công việc nội bộ của
quốc gia khác, vi phạm Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, dẫn đến
nhiều hệ lụy như bất ổn chính trị, xáo trộn sự ổn định xã hội, kinh tế không
phát triển. Điều đó chỉ nhằm phục vụ lợi ích cho các thế lực cường quyền.
Hơn ai hết, mỗi người dân Việt
Nam đều thấu hiểu độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia là đòi hỏi hàng đầu trong
việc bảo đảm và thực thi quyền con người. Bản chất của Nhà nước Việt Nam là nhà
nước vì con người và bảo vệ quyền con người. Trong thực tiễn cách mạng Việt
Nam, ngay sau khi giành được độc lập, quyền con người, quyền công dân đã được
Hiến pháp năm 1946 ghi nhận và sau đó tiếp tục được củng cố, mở rộng trong các
Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013.
Điều 3 Hiến pháp năm 2013 đã hiến
định: “Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân; công nhận, tôn
trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi người có cuộc sống ấm
no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện”.
Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày
9-11-2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII tiếp tục khẳng định:
“Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo
vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành
chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội”.
Do vậy, quyền con người luôn cần
phải được bảo vệ bằng chủ quyền quốc gia. Thực tiễn và cơ sở pháp lý đó không một
ai, không một thế lực nào có thể bác bỏ được.
Không có cái gọi là “quyền con
người là phi giai cấp” trên thế giới
Hiện nay, có một số nhà khoa học
nhân danh “tự do học thuật” đã lớn tiếng rêu rao luận điểm “quyền con người là
phi giai cấp” làm cho không ít người mơ hồ về vấn đề này. Thực chất, những người
đưa ra luận điểm này cố tình đánh tráo khái niệm, đã “tự diễn biến”, “tự chuyển
hóa” xa rời bản chất giai cấp công nhân; phá vỡ sự thống nhất giữa tính đảng và
tính khoa học trong nghiên cứu khoa học. Ý đồ sâu xa hơn, các “học giả” đưa ra
luận điểm “quyền con người là phi giai cấp” nhằm phủ nhận quan điểm của Đảng ta
về quyền con người.
Thực tiễn lịch sử đã chứng minh,
trong xã hội có phân chia giai cấp đối kháng, bản chất quyền con người và thực
hiện quyền con người luôn mang tính giai cấp sâu sắc. Bởi lẽ, con người sinh ra
vốn đã có đặc quyền, đó là quyền tự nhiên.
Các quyền này tồn tại dưới dạng
những nhu cầu, do chính phẩm giá con người quy định. Nhưng để trở thành quyền,
những nhu cầu ấy cần phải được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Song, pháp luật
luôn gắn liền với nhà nước, luôn bị chi phối bởi các thể chế chính trị cụ thể.
Cho nên, nội dung của pháp luật luôn nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị
trong xã hội. Khi pháp luật thừa nhận quyền của giai cấp thống trị cũng đồng thời
hạn chế quyền của giai cấp đối lập, không thể có quyền trừu tượng siêu giai cấp,
quyền con người phi giai cấp chỉ là ảo tưởng.
Bên cạnh đó, sự tồn tại của giai
cấp thống trị luôn gắn liền với sự tồn tại của xã hội. Nhằm bảo vệ địa vị thống
trị và do kết quả đấu tranh giai cấp nên bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng đều
buộc phải thừa nhận những mức độ nhất định về quyền của các giai cấp khác. Sự
phát triển của lịch sử nhân loại luôn khẳng định sự kế thừa và phát triển của
các giai đoạn lịch sử về sau đối với giai đoạn trước, luôn vận động theo quy luật
tiến tới những giá trị tiến bộ, văn minh, nhân đạo, nhân văn. Do vậy, tính giai
cấp luôn gắn liền với tính nhân loại của quyền con người.
Trong phạm vi quốc gia, quan điểm
giai cấp thể hiện ở các chính sách bảo vệ hệ thống chính trị và chế độ xã hội
hiện hữu, bảo vệ lợi ích giai cấp cầm quyền và các giai cấp, tầng lớp xã hội đã
đấu tranh bảo vệ xã hội đó. Trên phạm vi quốc tế, tính giai cấp của quyền con
người được thể hiện trong cuộc đấu tranh giữa lực lượng cách mạng, tiến bộ với
các lực lượng phản động, phản tiến bộ.
Trong thế kỷ 20, tính giai cấp của
quyền con người được biểu hiện bằng cuộc đấu tranh giữa hệ thống tư bản chủ
nghĩa với hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN). Hiện nay, cuộc đấu tranh này biểu
hiện dưới hình thức thúc đẩy sự tiến bộ xã hội và đấu tranh chống lại chiến lược
“diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của thế lực phản động đối với các nước đi
theo con đường XHCN và độc lập dân tộc.
Trong xã hội Việt Nam, tính giai
cấp của quyền con người thống nhất với tính nhân loại, tính phổ cập của quyền
con người. Điều đó đã được thể hiện rõ trong các văn kiện pháp lý quan trọng
như: Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, Hiến pháp các năm 1946, 1959, 1980, 1992 và
2013, cùng với hơn 13.000 văn bản quy phạm pháp luật. Đặc biệt, Hiến pháp năm
2013 đã dành hẳn chương II để hiến định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ
bản của công dân. Hiến pháp năm 2013 là dấu mốc quan trọng trong việc bảo vệ
quyền con người ở Việt Nam, vì Hiến pháp đề cập toàn diện các quyền con người
và cách thức tổ chức, bộ máy bảo đảm và bảo vệ quyền con người.
Đến nay, Việt Nam đã là thành viên
của hầu hết điều ước quốc tế chủ yếu về quyền con người, trong đó có hai công ước
quốc tế về quyền con người năm 1966. Theo quy định của Luật Nhân quyền quốc tế,
khi điều ước quốc tế có hiệu lực đối với các quốc gia thành viên thì quốc gia
phải tận tâm thực hiện điều ước, theo nguyên tắc tôn trọng, bảo vệ và thực hiện
điều ước quốc tế.
Như vậy, ở Việt Nam, quyền con
người của tất cả mọi người đều được tôn trọng và bảo đảm, không có sự phân biệt
giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, giới tính. Điều 16 Hiến pháp năm 2013 hiến
định: “1. Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 2. Không ai bị phân biệt đối
xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội”. Thực chất bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam nằm trong mục tiêu xây dựng xã hội “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định
nhất quán phương châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát,
dân thụ hưởng”. Cốt lõi của việc thực hiện và bảo đảm quyền con người là trong
mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước luôn
"lấy dân làm gốc”.
Trong tác phẩm “Một số vấn đề lý
luận, thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Xã hội XHCN là xã hội hướng
tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, dựa trên nền tảng lợi ích chung của toàn xã
hội hài hòa với lợi ích chính đáng của con người, khác hẳn về chất so với các
xã hội cạnh tranh để chiếm đoạt lợi ích riêng giữa các cá nhân và phe nhóm, do
đó cần và có điều kiện để xây dựng sự đồng thuận xã hội thay vì đối lập, đối
kháng trong xã hội”.
Như vậy có thể khẳng định rằng,
quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá
trị chung của các dân tộc. Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, quyền con
người là một phạm trù lịch sử và biến đổi trong lịch sử; là kết tinh của xã hội
loài người trên 5 phương diện: Tái sản xuất vật chất, tinh thần, con người, nhu
cầu và ý thức.
Suy cho cùng, quyền con người gồm
các quyền sống, quyền lao động và quyền tự do. Các quyền này thể hiện 3 phương
diện cơ bản nhất của đời sống xã hội của con người: Con người trước hết phải được
tồn tại (quyền sống); con người phải được hoạt động (quyền lao động) và con người
phải được khẳng định, được phát triển (quyền tự do). Quyền con người gắn với
nhà nước và pháp luật, giành lấy quyền con người là mục tiêu cơ bản của cách mạng
XHCN.
Ngày nay, quyền con người được
xem là thước đo sự tiến bộ và trình độ văn minh của các xã hội, không phân biệt
chế độ chính trị, trình độ phát triển và bản sắc văn hóa. Đồng thời, quyền con
người chứa đựng những giá trị chung toàn nhân loại, nhưng chỉ trong điều kiện độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; các quyền sống, quyền lao động, quyền mưu cầu
hạnh phúc mới bảo đảm cho mỗi người và cho mọi dân tộc.
Những năm qua, Đảng và Nhà nước
ta luôn xác định bảo đảm quyền con người thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ
XHCN ở nước ta, là trách nhiệm của hệ thống chính trị. Bảo đảm quyền con người
của nhân dân Việt Nam, đồng thời tôn trọng quyền con người của các dân tộc khác
nhằm thúc đẩy hòa bình, phát triển ở mỗi quốc gia và trên thế giới thông qua đối
thoại, hợp tác quốc tế.a
80 NĂM XỨNG DANH ĐỘI
QUÂN VĂN HÓA
Quân đội nhân dân Việt Nam xứng
đáng được gọi là đội quân văn hóa, vì đã thể hiện nổi bật trên 3 phương diện:
Quân đội là một trường học lớn nuôi dưỡng và phát triển những phẩm chất, giá trị
văn hóa cho mỗi quân nhân, từ binh nhì đến vị tướng; một nền nếp sinh hoạt, hoạt
động văn hóa toàn diện, tự nguyện, chủ động, sôi nổi, vui nhộn và sáng tạo trở
thành nhu cầu tự thân của bộ đội; khả năng sáng tạo những đỉnh cao trong tất cả
lĩnh vực văn hóa, đặc biệt trong sáng tác văn học và các lĩnh vực nghệ thuật.
Một kỷ niệm thời thơ ấu cách đây
70 năm vẫn hằn sâu trong trí nhớ của tôi. Hồi ấy, năm 1954, sau Chiến thắng Điện
Biên Phủ, bộ đội về làng tôi rất đông. Các anh đóng quân tại đình làng. Những
buổi chiều tối, bọn trẻ chúng tôi lại tụ tập để các anh dạy hát, dạy múa. Tôi vẫn
nhớ không khí ngày ấy lúc nào cũng rộn ràng lời ca, tiếng hát về tình đoàn kết
Việt-Trung-Xô. Tôi biết hát và biết múa từ đó.
Sau này, khi trở thành giảng viên
đại học, tôi được tiếp xúc với rất nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật nổi tiếng
của các tác giả mặc áo lính. Đặc biệt, khi trở thành người chiến sĩ thực thụ, rồi
hoạt động trên lĩnh vực văn hóa, văn nghệ trong Quân đội, tôi thấu hiểu nhiều
hơn, sâu hơn về đồng đội mình, về Quân đội của chúng ta. Dịp kỷ niệm 40 năm
Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam (22-12-1944 / 22-12-1984), trả lời phỏng
vấn trên đài truyền hình, tôi nhắc lại ý kiến các nhà nghiên cứu đã đúc kết: Chức
năng cơ bản của Quân đội ta là đội quân chiến đấu, đội quân công tác và đội quân
lao động sản xuất.
Song, từ trong thực tiễn 40 năm,
cùng với việc hoàn thành xuất sắc 3 chức năng trên, đã hình thành và phát triển
một đặc trưng riêng có của Quân đội ta là một đội quân văn hóa. Có lẽ, đội quân
văn hóa này thể hiện nổi bật trên 3 phương diện: Quân đội là một trường học lớn
nuôi dưỡng và phát triển những phẩm chất, giá trị văn hóa cho mỗi quân nhân, từ
binh nhì đến vị tướng; một nền nếp sinh hoạt, hoạt động văn hóa toàn diện, tự
nguyện, chủ động, sôi nổi, vui nhộn và sáng tạo trở thành nhu cầu tự thân của bộ
đội; khả năng sáng tạo những đỉnh cao trong tất cả lĩnh vực văn hóa, đặc biệt
trong sáng tác văn học và các lĩnh vực nghệ thuật.
“Ở đâu có bộ đội, ở đó có tiếng hát” và “Tiếng
hát át tiếng bom”. Những câu tổng kết ấy là hình ảnh tượng trưng cho môi trường
Quân đội-môi trường văn hóa tốt đẹp, lành mạnh, phong phú mới hình thành và định
hình nhân cách văn hóa của quân nhân cách mạng-Bộ đội Cụ Hồ. Suốt 80 năm qua,
môi trường Quân đội luôn là điểm sáng của các giá trị văn hóa. Hàng triệu bà mẹ,
người cha đã trao con em mình cho Quân đội với niềm tin lớn lao rằng, con mình
sẽ trưởng thành với những phẩm chất cao đẹp của Bộ đội Cụ Hồ, của CON NGƯỜI (viết
hoa). Điều đó là một sự thật lịch sử suốt 80 năm qua! Không thể tính hết được từ
trong những người lính bình thường, những binh nhì, binh nhất tuổi mười tám,
đôi mươi, trải qua những thử thách khắc nghiệt và sống trong môi trường được
rèn luyện của Quân đội đã trở thành những con người của Đảng, những anh hùng,
những người chỉ huy tài năng, những nhà khoa học, những trí thức lớn, những nhà
văn hóa, văn nghệ sĩ nổi tiếng... Và hàng triệu người lính trở về với đời thường
vẫn giữ vững phẩm giá văn hóa Bộ đội Cụ Hồ. Đội quân văn hóa, theo ý nghĩa sâu
xa nhất của nó, chính là đội quân Bộ đội Cụ Hồ-một giá trị văn hóa quân sự độc
đáo và thuần túy Việt Nam. Đó cũng chính là một giá trị lớn của văn hóa Việt
Nam hiện đại.
Gần đây, Tạp chí Văn nghệ Quân đội
có gửi cho tôi bộ sách gồm 5 quyển "Tổng tập nhà văn Quân đội", độ
dày của bộ sách khoảng 30cm, trong đó có 366 tác giả, mỗi người chỉ được chọn một
vài bài tiêu biểu. Tôi lẩn thẩn thử tính toán: Nếu gộp tất cả tác phẩm đã xuất
bản trong 80 năm qua của các nhà văn đã và đang mặc quân phục, có lẽ độ dài của
nó phải khoảng 300-400m, hoặc đến 1-2km. Đó là một hiện tượng khó tưởng tượng nổi.
Vâng, văn chương không chỉ tính bằng độ dài, song trong hàng nghìn tác phẩm đó
có rất nhiều tác phẩm đã đi vào lòng người, tạo nên sức mạnh cổ vũ, vẫy gọi lớn
lao các thế hệ thanh niên cầm súng chiến đấu, giải phóng, bảo vệ Tổ quốc và trở
thành người bạn thân thiết, tin cậy của nhân dân trong suốt 80 năm qua. Tên tuổi
nhiều nhà văn Quân đội đã trở thành dấu mốc quan trọng trong những bước ngoặt lịch
sử của văn học hiện đại Việt Nam như chặng đường “nhập cuộc” những năm đầu chống
thực dân Pháp, như sự có mặt trên khắp các chiến trường miền Nam trong những
tháng năm chống Mỹ, cứu nước và cả dấu hiệu khởi đầu cho sự đổi mới văn học từ
giữa những năm 80 của thế kỷ trước...
Không chỉ văn học, trong môi trường
Quân đội, từ những chiến sĩ cầm súng chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã xuất hiện
và nở rộ những tài năng trong các loại hình nghệ thuật: Âm nhạc, mỹ thuật, sân
khấu, điện ảnh, múa, nhiếp ảnh... và hàng nghìn nghệ sĩ biểu diễn như đạo diễn,
diễn viên... Họ đã trực tiếp tạo nên diện mạo mới của nền nghệ thuật hiện đại
Việt Nam. Trong đó, tôi không đủ sức kể hết có hàng trăm tài năng lớn không chỉ
của Quân đội mà của cả dân tộc, đất nước ta.
Nếu liệt kê danh sách, khó có thể
đầy đủ. Cho phép tôi nghĩ đến một danh hiệu cao quý, độc đáo mà các anh, các chị
đã là những người tạo dựng nên: Chiến sĩ-nghệ sĩ, nghệ sĩ-chiến sĩ. Đó là danh
hiệu chung của hàng vạn người đã và đang khoác trên mình bộ quân phục, trong họ
đồng thời mang những phẩm chất, bản lĩnh cao đẹp của người lính và tài năng thực
thụ của nhà văn, của nghệ sĩ. Xin nghiêng mình tưởng nhớ những người đã cống hiến,
hy sinh trong các cuộc chiến đấu giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, những người đã
qua đời nhưng suốt đời giữ gìn giá trị văn hóa sáng ngời trong nhân cách của
mình: Chiến sĩ-nghệ sĩ.
Tôi tự hỏi vì sao Quân đội ta lại
có được truyền thống và đặc trưng độc đáo trên? Chắc chắn chưa thể đầy đủ, tôi
tự tìm câu trả lời. Cuộc chiến đấu chính nghĩa vì mục tiêu sống còn của cả dân
tộc: Độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội trở thành lời hiệu triệu các thế hệ
thanh niên ưu tú vào Quân đội. Những thử thách khốc liệt đến tận cùng, sự kiên
cường rèn luyện và trụ vững đã tạo nên những nhân cách đẹp và tài năng lớn. Xin
cảm ơn môi trường Quân đội-trường học lớn đã ươm mầm, nuôi dưỡng những nhân
cách và tài năng đó. Xin cảm ơn nhân dân bình dị và vĩ đại, những người chiến
sĩ từ binh nhì đến vị tướng qua các thế hệ đã trở thành nguyên mẫu, là nguồn cảm
hứng bất tận cho những sáng tạo nghệ thuật về đề tài yêu nước của những nghệ
sĩ-chiến sĩ. Xin biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh-lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, người
Cha thân yêu của lực lượng vũ trang. Riêng đối với những người lính làm nên đội
quân văn hóa, xin được phép nhận rằng, với tư cách nhà thơ, nhà văn cách mạng,
Bác Hồ kính yêu trở thành tấm gương ngời sáng và người đồng nghiệp vĩ đại của tất
cả những người sáng tạo và hoạt động văn hóa, văn học, nghệ thuật Quân đội.
Truyền thống và đặc trưng đội
quân văn hóa của Quân đội nhân dân Việt Nam nhất định sẽ được bảo vệ, giữ gìn,
phát triển trong hiện tại và tương lai, không chỉ vì bản thân văn hóa, hoạt động
văn hóa mà sâu xa hơn, tiếp tục xây dựng và phát triển đội quân văn hóa này
chính là một thành tố hữu cơ, không thể thiếu, góp phần trực tiếp nâng cao chất
lượng và sức mạnh tổng hợp của mục tiêu xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ và hiện đại trong thời kỳ mới của sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
KHÚC TRÁNG CA NHỮNG
NGƯỜI LÍNH GIỮ BIỂN
Trên hành trình mang mùa xuân đến
với Nhà giàn DK1, các tàu trực trên biển thuộc Vùng 2 Hải quân, tôi được chứng
kiến những người lính hải quân công tác, sinh hoạt, học tập. Giữa trùng dương
mênh mông, họ mạnh mẽ, can trường, hiên ngang, dạt dào sức sống. Họ như những cột
mốc chủ quyền góp phần tạo nên dáng hình đất nước từ phía khơi xa.
“Biển trời bao la, đẹp như gấm
hoa...”. Câu hát ấy thật ngọt ngào và lắng sâu khi ngợi ca về Tổ quốc. Góp phần
dệt nên những “gấm hoa” ấy là những con người sẵn sàng hy sinh để “non sông
nghìn thuở vững âu vàng”. Dịp ra thăm các nhà giàn DK1, tôi cùng đồng đội được
nghe, được hát khúc tráng ca tri ân những người lính giữ biển.
Những ngày đầu xuân mới, nắng ấm
trải dài trên bờ biển biếc xanh. Cầu cảng Hải đoàn 129 (Quân chủng Hải quân) nhộn
nhịp bóng người. Họ là những cán bộ, chiến sĩ hải quân chuẩn bị cho hải trình
ra khơi làm nhiệm vụ. Trong phút giây luyến lưu có cái bắt tay thật chặt, nồng ấm
của đồng đội, có cái ôm hôn thắm thiết của người thân. Tôi vui bước cùng người
chiến sĩ, hân hoan xen chút hồi hộp lần đầu tiên với hành trình ra biển lớn.
Sóng vỗ thân tàu Trường Sa 04 (Hải
đội 1, Lữ đoàn 125, Vùng 2 Hải quân). Tàu kéo 3 hồi còi rộn rã rồi rẽ sóng để lại
luồng nước tung bọt trắng xóa. Mênh mông biển biếc xanh. Trong ào ạt tiếng
sóng, tiếng gió, dường như nghe đâu đây lời người xưa vọng về. Thuở mở cõi, những
đoàn hùng binh đã cưỡi thuyền mộc, vượt ngàn khơi ra với đảo xa. Khi can qua,
những con tàu không số lặng thầm và bí hiểm làm nên những kỳ tích trên sóng biển
quê hương. Biển mặn ngàn năm vẫn vậy, mênh mang, hoang hoải.
Thiếu tá Nguyễn Duy Tuyên, Trợ lý
Tuyên huấn, Phòng Chính trị, Vùng 2 Hải quân, có vóc người chắc đậm, da nâu đằm,
miệng cười rạng rỡ thiện lành. Những tháng năm gắn bó với các con tàu đã khiến
người cán bộ chính trị ấy vững vàng, am tường như một thủy thủ. Giản dị và chân
thành, những chuyện anh kể như lời tâm sự với biển. Đứng trên mặt boong tàu,
tôi khẽ thốt lên:
- Biển mênh mang sẽ xóa nhòa tất
cả phải không đồng chí?
Lặng hồi lâu, anh diễn cảm:
- Không! Biển nặng tình nên ngậm
mặn dưới đáy sâu. Bao lớp người đã qua lưu dấu tên mình trên biển biếc. Và biển
ôm trọn nỗi đau vào lòng để nước muôn đời mặn chát, xót thương.
Tàu rùng mình, gối đầu lên sóng.
Khi thì sóng đội lên cao 4-5m, lúc lại nhún xuống sâu hoắm khiến người ngồi
trên mặt sàn phải nẩy lên, chao đảo, liêng biêng. Cái điệp khúc đó cứ lặp đi lặp
lại hàng ngàn lần. Hơn 200 hải lý nhọc nhằn, tàu thả neo gần Nhà giàn DK1/15
Phúc Nguyên. Sóng vươn cao ngạo nghễ như muốn thách thức. Tàu đứng đó lựa sóng
khẽ chao phải rồi sang trái như cái lắc đầu mệt mỏi. Trên tàu, những đôi mắt
nhìn biển trân trân. Gió ào ào như muốn bứt người xuống biển. Sóng bạc đầu trắng
xóa gầm gừ, gào thét, phi nước kiệu phóng vào thân tàu.
Mặc sóng, kệ gió, các thành viên
trong đoàn công tác khẩn trương làm lễ tưởng niệm các liệt sĩ nằm lại giữa biển
khơi. Lễ vật đủ đầy, khói hương ngan ngát. Tàu gióng 3 hồi còi. Cờ Tổ quốc, cờ
hải quân được kéo lên trong tiếng nhạc "Hồn tử sĩ" trầm hùng. Trong lời
tưởng niệm, Đại tá Trần Hồng Hải, Phó chính ủy Vùng 2 Hải quân tưởng nhớ, tri
ân các liệt sĩ. Mỗi sự kiện, mỗi tên người được nhắc lại bi tráng.
Cách đây hơn 30 năm, Nhà giàn
DK1/3 phải gồng mình đương đầu với cơn bão số 10 có sức giật trên cấp 12 đổ bộ
vào khu vực Nam Biển Đông đêm 4, rạng sáng 5-12-1990. Dưới sự chỉ huy của Trung
úy Bùi Xuân Bổng, Chỉ huy trưởng và Thượng úy Trần Hữu Quảng, Phó chỉ huy trưởng
chính trị, bộ đội nhà giàn đã ra sức chống chọi với bão tố.
Ông Bùi Xuân Bổng (khi về hưu
mang quân hàm Trung tá, nguyên Chỉ huy trưởng Nhà giàn DK1/3; hiện đang ở phường
11, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) kể lại: “Giữa đêm đen, cuồng
phong ập xuống. Thượng úy Trần Hữu Quảng đã nêu cao vai trò người bí thư chi bộ
động viên đồng đội sát cánh bên nhau. Trong cận kề giữa sự sống và cái chết,
anh đã nhường chiếc phao cá nhân và miếng lương khô cuối cùng của mình cho người
chiến sĩ. Nhà giàn bị quật đổ, 8 cán bộ, chiến sĩ bị cuốn xuống biển. Giữa trận
cuồng phong, Thượng úy Trần Hữu Quảng; Thượng úy QNCN Trần Văn Là, quân y; chiến
sĩ Hồ Văn Hiền, nhân viên cơ điện đã anh dũng hy sinh”. Sau này công tác ở các
nhà giàn khác nhau cho đến khi nghỉ hưu (năm 2019), ông Bổng vẫn không thể nào
quên những đồng đội đã ra đi trong cái đêm khắc nghiệt, kinh hoàng ấy.
Thật là linh thiêng! Cứ ngỡ chúng
tôi không thể đứng vững trên mặt hầm hàng thì biển bỗng thôi dậy sóng khi nghe
lời khấn nguyện. Trời cũng ngưng những hạt mưa rơi. Phía trước là Nhà giàn
DK1/15 Phúc Nguyên vững chãi, sừng sững giữa biển. Hơn 15 năm trước, nơi đây,
Nhà giàn DK1/6 đã phải gồng mình chống lại trận cuồng phong. Mùa biển động năm
1998, cơn bão số 8 tràn về kéo theo lốc xoáy. Gió vươn cao trùm lấy Nhà giàn
DK1/6. Bấy nhiêu khung sắt, giá đỡ bị rung lắc dữ dội. Nhà giàn chao đảo nhưng
bộ đội vẫn kiên trì bám trụ, giữ vững thông tin liên lạc. Bão tố thì hung tàn
mà sức người thì có hạn, nhà giàn bị đổ. Có 9 đồng chí bị hất tung xuống biển.
Lực lượng cứu hộ đã làm hết sức nhưng chỉ cứu được 6 đồng chí. Còn 3 đồng chí gồm:
Đại úy Vũ Quang Chương, Chỉ huy trưởng; Chuẩn úy QNCN Lê Đức Hồng, Chuẩn úy
QNCN Nguyễn Văn An đã hòa mình mãi mãi vào sóng nước biển khơi.
Trong giờ phút hiểm nguy, Chuẩn
úy QNCN Lê Đức Hồng cố gắng bám máy đến hơi thở cuối cùng để giữ vững thông tin
liên lạc với sở chỉ huy. Khi nhà giàn bị đổ, anh chỉ kịp gửi lời chào “vĩnh biệt
đất liền” rồi ra đi giữa biển khơi. Còn Chuẩn úy QNCN Nguyễn Văn An ra đi để lại
nỗi đau cho người vợ trẻ và cậu con trai nhỏ mới chào đời chưa kịp nhìn mặt bố.
26 năm sau, có dịp liên lạc với anh Nguyễn Tiến Anh (con trai đồng chí Nguyễn
Văn An, quê ở Ninh Bình), tôi được nghe những lời tâm sự chân thành: “Dẫu chưa
một lần được gặp bố nhưng nghe chuyện kể lại, em vô cùng xúc động và tự hào về
bố. Mỗi lần ra biển, em tưởng bố vẫn đứng đó, hiên ngang, vững chãi trên nhà
giàn dõi theo từng bước em đi”.
Trong khói hương ngan ngát, Đại
tá Trần Hồng Hải tiếp tục đọc lời khấn nguyện các liệt sĩ: Phạm Tảo, Lê Tiến Cường,
Tạ Ngọc Tú, Hồ Văn Hiền, Dương Văn Bắc. Các anh đã dũng cảm hy sinh thân mình
khi thực hiện nhiệm vụ mà không chút do dự. Xin tạc lòng ghi nhớ công ơn cán bộ,
chiến sĩ nhà giàn đã hóa thân vào sóng nước đại dương. Gương hy sinh của các đồng
chí trở thành biểu tượng cao đẹp, tô thắm phẩm chất anh hùng của người chiến sĩ
hải quân. Giữa trập trùng biển nhớ, lời tưởng niệm bỗng vang lên trầm hùng, thiết
tha: "Ngỡ ngưng bom đạn chiến trường/ Mà sao sinh tử vẫn thường xảy ra/
Trong cơn hồng thủy phong ba/ DK1 bản hùng ca lưu đời"...
Tôi đứng bên mạn tàu nhẹ nhàng thả
những bông cúc vàng theo sóng ra xa. Đứng kế bên, Thiếu tá Nguyễn Duy Tuyên khẽ
trao một cánh hạc giấy trắng. Hàng ngàn con hạc trắng được gấp bởi đôi bàn tay
các em học sinh tiểu học, trung học cơ sở trên địa bàn thành phố Long Khánh (Đồng
Nai) gửi đoàn công tác để tưởng niệm các liệt sĩ. Đó là lời tri ân của thế hệ
trẻ hôm nay đối với lớp người đi trước đã hy sinh vì Tổ quốc. Gió cuốn hạc giấy
ra xa, hòa vào biển khơi, đem theo lời tâm tình của quê hương, nhẹ ru những người
con nằm lại giữa trùng dương sóng vỗ: "Hương trầm quyện khói tỏa quanh/
Vòng hoa đất mẹ dệt thành huân chương".
Cả đoàn thủy thủ và khách trên
tàu đều xúc động, tưởng nhớ tri ân các liệt sĩ. Đã có những giọt nước mắt khẽ
rơi hòa vào muối biển mặn mòi. Thế hệ hôm nay sẽ không bao giờ quên các anh-những
con người bất tử trong lòng dân tộc. Chúng tôi sẽ mãi hát khúc tráng ca về các
anh. Có mặt trong đoàn tưởng niệm, Thượng úy Nguyễn Mạnh Tuấn, Chính trị viên
tàu Trường Sa 04 tâm sự: “Mỗi lần ra với nhà giàn hay thực hiện nhiệm vụ ngoài
biển, ngang qua những nơi cán bộ, chiến sĩ hải quân nằm lại, chúng tôi đều thắp
nén hương thơm tưởng nhớ công ơn các liệt sĩ, cầu mong hải lộ bình an, mọi sự
hanh thông, thuận lợi”.
Giữa ào ạt sóng vỗ, các liệt sĩ vẫn
được những người lính biển gọi tên. Tổ quốc ghi công, Biển Đông không bao giờ
xóa nhòa. Linh hồn các anh neo lại nơi đây để chở che cho những con tàu vươn
khơi mạnh mẽ, để các nhà giàn luôn vững chãi giữa trùng khơi.
NUÔI DƯỠNG VÀ TRAO
TRUYỀN LÒNG YÊU NƯỚC CHO THẾ HỆ TRẺ
Cũng như mọi dân tộc trên thế giới,
lòng yêu nước luôn có sẵn trong huyết quản mỗi người Việt Nam. Do ở vào một
hoàn cảnh lịch sử rất đặc biệt, đối với người Việt Nam, lòng yêu nước không chỉ
là một tình cảm cao đẹp mà còn là một giá trị thiêng liêng và yêu nước không phải
chỉ cầm súng để bảo vệ Tổ quốc mà còn phải đem hết sức mình ra để làm cho đất
nước trở nên cường thịnh, phồn vinh.
Sinh cơ lập nghiệp trên một vùng
đất có vị thế địa chính trị hết sức đặc biệt, từ bao đời nay, dân tộc ta luôn
phải đối mặt với những thử thách hiểm nghèo. Đất nước tươi đẹp nhưng nằm ở vị
trí giao thoa thường xuyên với các nền văn hóa khác. Những lý do ấy đã tạo ra
cho chúng ta thách thức ngặt nghèo. Nếu không duy trì và phát huy được sức mạnh
truyền thống yêu nước, chúng ta có nguy cơ không giữ được độc lập dân tộc, dễ bị
khuất phục và đồng hóa. Do đó, với dân tộc Việt Nam, truyền thống yêu nước còn
là cội nguồn sức mạnh để duy trì sự tồn vong của dân tộc.
Bài học thứ nhất là cội nguồn sức
mạnh truyền thống yêu nước bắt nguồn từ tình yêu quê hương xứ sở; yêu đồng bào
mình và niềm tự hào về văn hóa, về truyền thống đã làm nên những kỳ tích trong
lịch sử. Có thể coi những điều này là hằng số bất biến của bất cứ dân tộc nào
khi nói tới lòng yêu nước. Tầm mức của lòng yêu nước thường chịu tác động của 3
yếu tố. Trước hết, đó là lòng tin vào tiền đồ của đất nước. Yêu nước không thể
có khi người ta thiếu sự tin cậy vào tiền đồ của đất nước. Thứ hai là lòng tin
vào những người cầm lái vận mệnh của đất nước. Thứ ba là sự tự tin vào chính
mình. 3 yếu tố này thường chịu tác động bởi thăng trầm lịch sử.
Có thời điểm, truyền thống yêu nước
bị suy giảm, bị mất tác dụng là do tác động không thuận chiều của 3 yếu tố
trên, bài học lớn nhất rút ra từ lịch sử là những người cầm lái vận mệnh đất nước
phải giữ được mối quan hệ chặt chẽ với toàn dân. Ý chí toàn dân là nhân tố quyết
định sức mạnh truyền thống yêu nước. Với 3 lần đánh thắng quân Mông-Nguyên xâm
lược, quân và dân nhà Trần đã làm nên những mốc son chói lọi trong lịch sử dựng
nước và giữ nước hào hùng của dân tộc. Thắng lợi đó là minh chứng hùng hồn, khẳng
định sự chỉ đạo sáng suốt, tài tình của vương triều Trần cùng tinh thần tự lực,
tự cường, ý chí cố kết cộng đồng và quyết tâm bảo vệ non sông, bờ cõi của quân
dân Đại Việt.
Một câu chuyện người ta hay nhắc
tới là cuộc gặp có tính lịch sử vào năm 1995 giữa Đại tướng Võ Nguyên Giáp và cựu
Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert McNamara, những người từng chỉ huy hai bên chiến
tuyến, gặp mặt trực tiếp sau khi Việt-Mỹ bình thường hóa quan hệ. Khi đó, ông
McNamara phát biểu rằng nếu như người Mỹ hiểu con người và lịch sử Việt Nam như
thời điểm năm 1995, chiến tranh Việt Nam có thể đã không xảy ra.
Bài học thứ hai là giáo dục truyền
thống. Truyền thống đã có trong dòng máu của mỗi người nhưng không phải tự
nhiên mà có, nên phải được duy trì, khơi dậy và nuôi dưỡng bền bỉ, thường
xuyên. Đại hội XIII của Đảng đã phát một tín hiệu: “Đất nước ta chưa bao giờ có
được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”; đồng thời xác định
mục tiêu: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Đây là
khát vọng chính đáng, vì lợi ích của toàn dân, có cơ sở từ những điều kiện và
cơ hội chín muồi. Chúng ta khơi dậy cái sẵn có trong huyết quản mỗi người Việt
Nam, đó là lòng yêu nước. Yêu nước không chỉ là cầm súng để bảo vệ Tổ quốc mà
còn phải làm cho đất nước trở nên cường thịnh, phồn vinh. Làm sao để thế hệ trẻ
luôn tự hào, tự tin là điều rất quan trọng. Giáo dục lịch sử, truyền thống yêu
nước trong nhà trường cũng vậy, không phải là đưa những bài học khô cứng, bắt học
sinh học thuộc mà phải khơi dậy ý thức tự hào, tự tin để người học yêu thích
môn Lịch sử, tự thân muốn tìm hiểu. Bắt buộc xưa nay chưa phải là giải pháp
hay, mà khơi dậy, khuyến khích mới là cách làm căn cơ, tích cực.
Bài học thứ ba là sự gương mẫu của
lãnh đạo. Lịch sử đã để lại rất nhiều bài học. An Dương Vương mất nước không phải
vì không yêu nước, nhưng rõ ràng ông đã có những ứng xử sai lầm. Ông ưu ái đặc
biệt với người con rể nước ngoài. Câu chuyện ấy vừa tạo ra mối nguy trong nội bộ
chính quyền vừa khiến người dân không tin ông, thấy ông không còn là người đại
diện cho nhân dân. Triều đại nhà Hồ mất nước cũng vì sự phiền hà, lòng dân oán
phản. Nhà Nguyễn luôn cảnh giác người dân, dùng những hình phạt để tạo nỗi khiếp
sợ quyền uy mà không tạo ra sức mạnh dân tộc nên thua... Đó là những bài học
xương máu về việc những người cầm lái vận mệnh đất nước đánh mất lòng tin của
nhân dân.
Bài học thứ tư là chăm lo sức
dân. Đây là nguồn lực lớn nhất của mỗi quốc gia. Năm 1300, tức là cách đây hơn
700 năm, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn-Đức Thánh Trần-trước khi mất hai
tháng đã tâu với Vua Trần Anh Tông: “Thời bình, phải khoan thư sức dân để làm kế
sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”. Đến nay, bài học này vẫn nguyên
giá trị, chăm lo đến đời sống của dân, tạo ra sức mạnh để đảm nhận được các vị
trí nền tảng của quốc gia. Nhân dân phải được coi là động lực để chính quyền thực
hiện các chính sách của mình, nhưng đồng thời cũng là mục tiêu hướng tới của
các chính sách của Nhà nước.
Bài học có ý nghĩa bao trùm khi
nói tới duy trì, phát huy truyền thống yêu nước là chúng ta phải giáo dục cho
các thế hệ kế tiếp về niềm tự hào và tự tin để nuôi dưỡng lòng yêu nước. Tự tin
là một trong những nội dung rất cần cho giáo dục truyền thống hiện nay. Nếu chỉ
kể về lịch sử, về những chiến thắng, chiến công, không chừng tuổi trẻ sẽ thấy
đó là chuyện của cha ông, không phải chuyện của mình. Khi mỗi người tự tin vào
chính mình và rộng ra là tự tin đến vận mệnh dân tộc mình sẽ góp phần dung dưỡng
lòng yêu nước.
Trong thời đại công nghệ phát triển
như hiện nay, việc giáo dục truyền thống yêu nước cho thế hệ trẻ được thể hiện
qua các thang bậc. Thứ nhất, giới trẻ được tiếp cận một khối lượng dữ liệu khổng
lồ. Những dữ liệu rất sống động, tràn ngập trên tất cả các phương tiện. Dữ liệu
rất quan trọng nhưng nếu không có sự hướng dẫn để phân tích, xử lý, dữ liệu
không làm nên điều gì, thậm chí còn gây nhiễu. Lọc dữ liệu và tìm ra thông tin
là thang bậc thứ hai và là trách nhiệm của chúng ta. Thứ ba là thu được kiến thức
gì từ việc chắt lọc thông tin. Tiếp đến, từ kiến thức phải tiến thêm một bước nữa
để kiến thức ngấm vào người, trở thành sự thông tuệ. Cuối cùng là sự cảm nhận,
phát triển tiềm năng và hỗ trợ người khác. Việc đó cũng giống như giữa một bó
lá, chúng ta cô lại thành viên thuốc bổ cho người uống, chỉ cần một liều lượng
vừa phải thôi nhưng nó ngấm và thấm, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay.
Cùng với 3 hằng số bất biến về
lòng yêu nước và 3 yếu tố chịu tác động bởi thăng trầm lịch sử, chúng ta cần
suy nghĩ làm thế nào để giáo dục thế hệ trẻ không chỉ yêu nước mà còn thấm ngấm
những giá trị truyền thống đó để biến thành sức mạnh thời đại. Chúng ta có thể
nhìn thấy người ta bỏ hàng chục triệu đồng mua vé vào sân vận động để xem một
nhóm nhạc của Hàn Quốc, trong khi có mấy người bỏ tiền để mua cuốn sách lịch sử.
Tại sao lại như vậy? Phải chăng, tuổi trẻ hiện vẫn bị hút, bị hướng vào những sở
thích cá nhân? Tôi cho rằng điều đó là chính đáng nhưng chưa đúng hướng. Nếu
con người chỉ biết chạy theo những ham thích cá nhân thì con người ấy rất khó
có thể làm được điều gì lớn hơn ngoài bản thân mình. Không thể mang những hình
mẫu, những công thức để áp đặt mà phải tìm giải pháp, cách thức khoa học và phù
hợp, hướng người ta tìm tới.
Một yêu cầu đang đặt ra là cầu nối
giữa dân với lãnh đạo cần được mở rộng, được làm sâu sắc thêm và hiệu quả hơn.
Để nuôi dưỡng tinh thần yêu nước, phải chú ý đến đời sống nhân dân. Khi đời sống
của nhân dân được cải thiện, như mảnh đất có màu mỡ thì mới gieo trồng được những
hạt giống tích cực.
NGƯỜI ANH HÙNG TUỔI
BÁCH NIÊN
Đầu tháng 12-2023, Hà Nội đón đợt
không khí lạnh tăng cường, chúng tôi nhận niềm vui bất ngờ khi Đại tá, Anh hùng
LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ-người anh hùng đã hơn 100 tuổi đời, 78 năm tuổi Đảng-nhận
lời tiếp chuyện tại nhà riêng ở ngõ 305, tổ 10, phường Ngọc Thụy (Long Biên, Hà
Nội).
Lời hứa là vàng
Đúng hẹn-20 giờ, dù được anh Nguyễn
Phú Hồng-con trai út của Đại tá, Anh hùng LLVT Nguyễn Phú Vỵ trực tiếp đưa vào
nhà nhưng chúng tôi vẫn thấy lo. Lo là bởi giờ này, ở tuổi bách niên, chắc cụ Vỵ
đã đi nghỉ ngơi. Thế nhưng khi mở cửa đón khách, cụ Vỵ nói cười vui vẻ:
"Đã hứa tiếp các anh là phải giữ lời chứ!"
Và câu chuyện giữa ông cụ với
chúng tôi cũng xuyên suốt bằng mạch nguồn của lời hứa như vậy!
Trước Cách mạng Tháng Tám năm
1945, người thanh niên nông thôn Nguyễn Phú Vỵ quê ở Phúc Xá-bãi giữa sông Hồng
(nay là phường Ngọc Thụy, quận Long Biên) xin vào làm công nhân Nhà máy Điện
Yên Phụ. Cùng với nhóm bạn trai làng, Nguyễn Phú Vỵ khai tăng tuổi (từ tuổi thật
sinh năm 1924 thành sinh năm 1922) để được nhập ngũ. Mang khí thế hừng hực, sục
sôi của Hà Nội mùa đông năm 1946, Nguyễn Phú Vỵ đã Nam tiến cùng đồng đội đánh
giặc. Miệt mài đánh trận, ông bị thương và được tổ chức cho ra Bắc điều trị.
Trước lúc tạm biệt đồng đội, ông hứa sẽ quay trở lại mặt trận tiếp tục chiến đấu.
Ra Bắc chữa trị vết thương, rồi
theo sự phân công của tổ chức, ông tham gia chiến đấu ở hầu khắp vùng Đồng bằng
Bắc Bộ với hơn 30 trận đánh lớn, nhỏ. Trong thời gian này, ông hứa với mẹ sẽ có
lúc về phép để... cưới vợ. Giữ đúng lời hứa, ông "tranh thủ" về quê
xây dựng gia đình với cô thôn nữ Nguyễn Thị Thành-người con gái nết na mà trước
đó chưa biết mặt. Vợ chồng chưa quen hơi, nhưng vì lời hứa với đồng đội, ông lại
vội trở ra chiến trường và thêm hai lần nữa bị thương ngoài mặt trận.
Nói về chồng, cụ bà Nguyễn Thị
Thành xúc động kể: "Phúc đức của tổ tiên để lại nên hòn tên mũi đạn tránh
ông ấy. Đã không biết bao nhiêu lần ông lên đường, rồi trở về, rồi lại lên đường...
Chiến tranh không thể biết trước điều gì, nhưng ông ấy luôn giữ đúng lời hứa với
bố mẹ, với tôi và với cả đồng chí, đồng đội".
Tiếp lời vợ, cụ Nguyễn Phú Vỵ nói
như thể giải thích: “Đời quân ngũ có nhiều kỷ niệm, có nhiều lời hứa mà tôi đã
thực hiện. Đó không chỉ là sự quyết tâm của riêng mình mà phải chăng, đó còn là
sự may mắn, hoặc là sự sắp đặt ngẫu nhiên nào đó của tạo hóa”.
Nắm cơm để lại
Năm 1954, sau Chiến dịch Điện
Biên Phủ toàn thắng, Đại đoàn Đồng Bằng của Nguyễn Phú Vỵ còn nhiều trận đánh
giải phóng tỉnh Nam Định. Trong trận chiến đấu ở Hải Hậu, đồng chí nuôi quân
phát cho mỗi cán bộ, chiến sĩ một nắm cơm, là khẩu phần ăn tối. Trên đường cơ động,
bộ đội tranh thủ ăn, người nào chưa kịp ăn thì để dành, dùng sau trận đánh. Tiểu
đội ông Vỵ có chiến sĩ tên Bảo, người nhỏ con nên Tiểu đội trưởng Nguyễn Phú Vỵ
rất thương, hay mang vác giúp các loại vật dụng. Trước khi bước vào trận đánh lần
ấy, ông Vỵ ghép hết tư trang của Bảo để mang hộ, chỉ để nắm cơm cho đồng đội
mang theo, ăn cho bảo đảm sức khỏe.
- Em chưa đói, để sáng mai ăn cho
đỡ nhớ nhà anh ạ-chiến sĩ Bảo nói vậy. Nào ngờ trong trận đánh, người đồng đội
đã anh dũng hy sinh khi nắm cơm ấp trên bụng còn hơi ấm. Nắm cơm ấy được đặt
làm lễ chung cho các chiến sĩ hy sinh trong trận đánh trên chính quê hương của
Bảo.
Theo cụ Nguyễn Phú Vỵ, thời kháng
chiến chống thực dân Pháp và cả kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đất nước, Quân
đội còn nghèo, khẩu phần ra trận với những nắm cơm gạo tẻ độn cả ngô, khoai là
chủ yếu. "Nắm cơm không chỉ quý ở cốt thực mà còn chan chứa nghĩa tình đồng
chí, đồng bào. Thực tế, có những lúc đồng đội anh dũng hy sinh thì người còn sống
sử dụng súng đạn của đồng đội để tiếp tục đánh giặc, còn cơm thì..."-nói đến
đây, nước mắt cụ Vỵ lăn dài trên đôi gò má nhăn nheo. Chúng tôi cảm nhận được ẩn
chứa sâu xa trong ký ức những người đã kinh qua trận mạc như cụ Vỵ, để hiểu rằng
vì sao trên bàn thờ tổ tiên mỗi gia đình, lúc thắp hương không thể thiếu những
bát cơm trắng.
Làng có hai anh hùng
Quê hương cụ Vỵ ở làng Phúc Xá
xưa. Cụ Vỵ nhớ lại, nhà cụ lúc ấy nằm ở vị trí bãi giữa sông Hồng. Sau này nước
lớn, lũ lụt, sạt lở... nên chuyển vào trong đê thuộc địa giới hành chính phường
Ngọc Thụy bây giờ.
Có điều rất thú vị, cũng rất tự
hào, trong số những thanh niên làng Phúc Xá tòng quân ra trận đánh giặc, cùng với
chàng trai Nguyễn Phú Vỵ còn có người em họ Nguyễn Phú Xuyên Khung, sau này là
Đại tá và cũng được truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân.
Đại tá Nguyễn Phú Xuyên Khung là
người chỉ huy đào hào để bộ đội ta đặt khối bộc phá gần 1.000kg, điểm hỏa trên
đồi A1 đêm trước ngày chiến thắng trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong dòng họ
Nguyễn Phú, Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ là anh con bác ruột và Anh
hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Xuyên Khung là em con chú.
Hoàn thành nhiệm vụ, hai người
anh hùng-hai người lính Cụ Hồ trở về quê hương, tiếp tục cống hiến sức lực, trí
tuệ và vui với cuộc sống thường ngày. Các cụ khi khỏe vẫn làm vườn, phụ giúp
con cháu, tham gia xây dựng quê hương ngày một tươi đẹp. Được biết, Anh hùng
LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ là người đầu tiên tham gia thành lập Hội Cựu chiến
binh phường Ngọc Thụy. Rất nhiều buổi trò chuyện của người anh hùng đã “tiếp lửa”
cho nhiều thế hệ học sinh, thanh niên, giúp các bạn trẻ hiểu thêm, tự hào hơn về
lịch sử vẻ vang, hào hùng của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Hơn 100 tuổi đời, 78 năm tuổi Đảng,
Anh hùng LLVT nhân dân Nguyễn Phú Vỵ đã dành trọn cuộc đời cống hiến cho quê
hương, đất nước. Trong gia đình cụ Vỵ, các con, cháu, chắt... đều siêng năng phấn
đấu, trưởng thành. Trong đó, con gái của cụ Vỵ là Nguyễn Thị Thanh cũng hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ và được nghỉ hưu với quân hàm Đại tá. Cháu nội của cụ Vỵ
cũng có người đang phục vụ trong Quân đội. Thật tự hào và xin chia sẻ niềm vui
với gia đình cụ!
“VOI CHUI LỖ KIM” LÀM
MẤT NIỀM TIN NGHIÊM TRỌNG
“Con voi chui lọt lỗ kim” là câu
ta thán của không ít người dân, nhất là ở những cơ quan, đơn vị, địa phương có
cán bộ, công chức (hoặc người thân quen của cán bộ, công chức) ngang nhiên vi
phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước mà các cơ quan chức năng “không
biết”, không xử lý.
Suy cho cùng, những vụ việc kiểu
“con voi chui lọt lỗ kim” chính là nguyên nhân hàng đầu dẫn đến một bộ phận cán
bộ, đảng viên và nhân dân giảm sút niềm tin vào Đảng, Nhà nước; là nguy cơ xuất
hiện các biểu hiện "tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
1. Về các địa phương tiếp xúc,
trò chuyện với người dân, chúng ta được nghe khá nhiều chuyện về hiện tượng
“con voi chui lọt lỗ kim”, như: Khu homestay ngang nhiên xây trên đất nông nghiệp
là của em trai ông cán bộ tỉnh đấy!; ngôi nhà của lãnh đạo quận xây vượt 2 tầng
so với giấy phép, cao vọt hẳn lên so với những ngôi nhà xây đúng quy định,
nhưng có bị xử lý gì đâu?; ông phó chủ tịch xã học chưa hết cấp 3, dân làng xì
xào mà không hiểu sao ông ta vẫn có bằng đại học, vẫn thăng tiến; đất nhà mình ở
từ thời ông cha thì đề nghị mãi vẫn không được cấp sổ đỏ, trong khi đó đất nông
nghiệp gia đình cán bộ lấn chiếm thì có sổ đỏ hết rồi; quán bia đó bao năm chiếm
hết vỉa hè nhưng không bị dẹp vì có cán bộ “bảo kê”, những nhà khác vừa bày vài
cái ghế ra đã bị nhắc nhở, xử phạt...
Điều rất đáng lo ngại là khi kể
những chuyện như trên, người dân thường bày tỏ thái độ bất bình. Không chỉ bức
xúc với những cán bộ, người trực tiếp liên quan đến sự việc vi phạm “cả làng, cả
phố biết nhưng cơ quan chức năng “không biết”, không xử lý!” mà một số người
dân còn bày tỏ sự thiếu tin tưởng vào cấp ủy, chính quyền địa phương, kỷ cương
phép nước, thậm chí giảm niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Ví dụ mới đây, việc ông Nguyễn
Công Thắng, Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy Bắc Ninh sử dụng bằng thạc sĩ giả
khiến dư luận hết sức bất bình, bởi qua bao nhiêu cấp, bao nhiêu lượt kiểm tra
mà vẫn lọt “con voi”; nhiều người đặt câu hỏi: Liệu có sự bao che, tiếp tay cho
cán bộ này?...
Hay nhiều nhất là tình trạng xây
dựng không phép hoặc xây vượt giấy phép được cấp mà cán bộ và cơ quan chức năng
"làm ngơ". Chất vấn Bộ trưởng Bộ Xây dựng tại phiên họp cuối năm
2022, đại biểu Nguyễn Thị Thủy, Phó chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp của Quốc hội nêu
thực tế ở nhiều nơi, rằng: Người dân chỉ cần chở một xe cát để sửa chữa nhỏ
ngôi nhà trong ngõ sâu thì cán bộ cơ sở, thanh tra xây dựng biết ngay; thế
nhưng có những công trình xây dựng lớn, vi phạm "tày đình" ở ngay mặt
đường mà lực lượng chức năng lại "không phát hiện ra"! Điển hình là
trường hợp "đại gia điếu cày" Lê Thanh Thản ngang nhiên "xây
chui" cả tòa chung cư cao tầng ở phường Kiến Hưng (Hà Đông, Hà Nội) nhưng
chính quyền cơ sở "không biết", cho đến khi những người mua nhà tại
đây không làm được giấy chứng nhận quyền sử dụng thì mới phát hiện ra (!).
2. Có lẽ cán bộ, đảng viên nào
cũng biết lời nhắc nhở, răn dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Một tấm gương sống
còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền" và "Trước mặt
quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân
dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước".
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn yêu cầu đội ngũ cán bộ, đảng viên phải mẫu mực nêu gương,
trước hết là người đứng đầu. Đặc biệt, những năm qua, Đảng đã ban hành nhiều
nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định về việc cán bộ, đảng viên phải gương mẫu,
như: Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI, XII) và Kết luận của Hội nghị Trung ương
4, khóa XIII về xây dựng, chỉnh đốn Đảng; Quy định số 101-QÐ/TW ngày 7-6-2012 của
Ban Bí thư Trung ương Đảng về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất
là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW ngày 19-12-2016 của Bộ
Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường vai trò nêu gương của cán bộ,
đảng viên; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25-10-2018 của Ban Chấp hành Trung ương về
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị,
Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương; Quy định về những điều đảng
viên không được làm...
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
xác định: “Thực hiện nghiêm các quy định của Ðảng về trách nhiệm nêu gương, chức
vụ càng cao càng phải gương mẫu. Ðảng viên tự giác nêu gương để khẳng định vị
trí lãnh đạo, vai trò tiền phong, gương mẫu, tạo sự lan tỏa, thúc đẩy các phong
trào cách mạng. Nêu gương là trách nhiệm, bổn phận và là đạo lý của người đảng
viên của Ðảng trước nhân dân; trách nhiệm nêu gương đó phải được thể hiện từ
trong tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tự phê bình và phê bình đến trong
quan hệ với quần chúng, trách nhiệm trong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật,
đoàn kết nội bộ”.
Thực tế những năm qua, Đảng, Nhà
nước kiên quyết xử lý nhiều cán bộ, đảng viên có vi phạm, khuyết điểm với tinh
thần “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai”. Từ năm 2012
đến 2022, cả nước đã xử lý kỷ luật 2.740 tổ chức đảng và hơn 167.700 cán bộ, đảng
viên có sai phạm, trong đó hơn 190 cán bộ diện Trung ương quản lý. Chỉ tính từ
đầu nhiệm kỳ Đại hội XIII đến nay, đã khởi tố, điều tra 1.304 vụ/3.523 bị can về
các tội tham nhũng (tăng hơn 2 lần về số vụ án và hơn 3 lần về số bị can so với
nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng); thi hành kỷ luật 91 cán bộ diện Trung
ương quản lý, trong đó có 17 Ủy viên và nguyên Ủy viên Trung ương Đảng (tăng gần
2 lần so với nửa đầu nhiệm kỳ Đại hội XII)... Qua đó cho thấy Đảng, Nhà nước ta
không bao che, dung túng cho những cán bộ, đảng viên có vi phạm.
Thế nhưng, những sự việc kiểu
“con voi chui lọt lỗ kim” mà người dân vẫn thấy ở không ít cơ quan, đơn vị, địa
phương, nhất là ở cấp cơ sở vẫn là điều rất đáng báo động. Đáng lưu ý là thông
tin hiện nay được lan tỏa rất nhanh và rộng thông qua internet, mạng xã hội, có
tác động rất lớn tới tư tưởng, tình cảm, tâm lý của mọi người và dư luận xã hội.
Hơn nữa, thời đại văn minh, xã hội dân chủ thực sự rất bất bình, bức xúc trước
những sự việc cán bộ, đảng viên đặc quyền, đặc lợi, tham nhũng, tiêu cực, nhất
là những biểu hiện ngang nhiên coi thường kỷ cương phép nước. Nếu vẫn còn hiện
tượng “con voi chui lọt lỗ kim” thì niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
vào Đảng, Nhà nước sẽ bị suy giảm nghiêm trọng; không kiên quyết ngăn chặn hiệu
quả sẽ là mối nguy của Đảng, dẫn đến hậu quả khôn lường. Đây chính là một trong
những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
3. Cổ nhân đã đúc rút “Mất niềm
tin là mất tất cả” và “Đẩy thuyền cũng là dân, lật thuyền cũng là dân”. Thấu hiểu
sự vô cùng nguy hại của việc cán bộ, đảng viên “Nói một đằng, làm một nẻo” cũng
như để xảy ra các vụ việc tiêu cực kiểu "Con voi chui lọt lỗ kim", Tổng
Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhiều lần nhấn mạnh: Cán bộ mà không gương mẫu thì dân
sẽ không tin; cán bộ giữ cương vị càng cao càng phải tiền phong, gương mẫu... Tại
Hội nghị giữa nhiệm kỳ Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, Tổng Bí thư
Nguyễn Phú Trọng đã chỉ rõ: “Trọng tâm là phải phòng, chống sự suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên, coi đây là gốc của
mọi vấn đề”...
Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới mà Hội nghị Trung ương 8, khóa XIII vừa ban hành cũng
đã xác định: Nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và tính chiến đấu, sự nêu
gương của Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người
đứng đầu có đủ phẩm chất, đạo đức, năng lực, uy tín, có tầm nhìn chiến lược.
Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả...
Nâng cao hiệu quả công tác kiểm
tra, giám sát, kỷ luật đảng; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; xử lý
nghiêm những cán bộ có động cơ sai trái, tư tưởng cục bộ, bè phái, “lợi ích
nhóm”... Đồng thời, nghị quyết cũng nêu rõ phương châm phải dựa vào sức mạnh của
nhân dân, “dân là gốc”, là trung tâm, chủ thể; xây dựng “thế trận lòng
dân" vững chắc, "yên dân" là nhân tố quyết định thắng lợi sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; phải giữ vững, củng cố niềm tin của nhân
dân, tạo đồng thuận xã hội...
Thời gian qua, Đảng, Nhà nước ta
đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp luật xác định rất
rõ trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức (trong đó có trách
nhiệm nêu gương) cũng như trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, tổ chức
trong hệ thống chính trị và nhân dân trong công tác kiểm tra, giám sát với
phương châm kịp thời phát hiện, kiên quyết xử lý nghiêm khắc những vi phạm, làm
trong sạch đội ngũ, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà
nước...
Để những nghị quyết, chỉ thị, quy
định, phương châm này được thực thi hiệu quả, đòi hỏi chúng ta phải triển khai
thực hiện quyết liệt, đồng bộ nhiều biện pháp, nhưng thiết nghĩ việc quan trọng
nhất là cần triệt để vận dụng bài học lịch sử “dựa vào dân” theo đúng phương
châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” mà
Đảng ta đã xác định.
Trong đó, cần có những quy chế,
quy định cụ thể hơn để phát huy tối đa trách nhiệm và tai mắt của hàng triệu quần
chúng nhân dân, kịp thời phát hiện, tố giác những cán bộ, đảng viên có vi phạm,
khuyết điểm; đặc biệt là phải có hệ thống tiếp nhận thông tin tố giác thuận tiện,
nhanh chóng và cơ chế bảo vệ, khen thưởng xứng đáng cho người tố giác đúng.
Cùng với đó, kiên quyết thực hiện việc truy trách nhiệm đến cùng, xử lý thật
nghiêm những cán bộ và cơ quan chức năng để xảy ra vụ việc vi phạm theo kiểu
“con voi chui lọt lỗ kim” làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới niềm tin của nhân dân
vào kỷ cương phép nước; không để các thế lực thù địch, phản động có cớ lợi dụng
công kích, xuyên tạc, chống phá Đảng, Nhà nước ta.
LẠI TUYÊN TRUYỀN
"BẨN"!
Sau khi thủ đoạn tung những video
clip dàn dựng, cắt ghép, sưu tầm từ nhiều năm trước về cảnh “đi bộ đội bị lính
cũ bắt nạt hoặc phải làm việc cực nhọc” bị bạn đọc bóc mẽ, vạch trần, một số
trang mạng phản động, trong đó có việt tân tiếp tục dùng chiêu trò khác nhằm
kêu gọi thanh niên trốn tránh nhập ngũ để thực hiện âm mưu chống phá đất nước
ta.
Chúng tung tin rằng: thanh niên
nhập ngũ thực hiện nghĩa vụ quân sự là lãng phí mất 2 năm tuổi trẻ (!)
Nghe luận điệu tuyên truyền “bẩn”
này, thấy ngay sự nham hiểm nhưng lại rất ngô nghê của những kẻ có mưu đồ đen tối.
Bởi vì chúng cho rằng 2 năm nhập ngũ là lãng phí thời gian, nhưng tuyệt đại đa
số người dân việt nam đều hiểu rõ quân đội như trường học lớn, là môi trường rất
tốt để thanh niên học tập, rèn luyện, từ đó trưởng thành hơn.
Thực tế nhiều năm qua đã chứng
minh, tất cả thanh niên việt nam sau một thời gian nhập ngũ đều có sự tiến bộ
rõ rệt về nhiều mặt. Hầu như ai hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cũng có sức
khỏe, phẩm chất đạo đức, trình độ, năng lực, bản lĩnh, ý thức tổ chức kỷ luật,
tác phong... Chững chạc hơn, tốt hơn so với trước khi nhập ngũ.
Thực tế là đại đa số các cơ quan,
doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, kinh doanh đều ưu tiên tuyển chọn người đã được học
tập, rèn luyện qua môi trường quân đội, bởi họ thường có phẩm chất, năng lực,
uy tín cao hơn.
Thực tế trong các đợt tuyển quân
hằng năm thì luôn có hàng vạn thanh niên viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Họ vừa
tự giác thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng với tổ quốc, vừa muốn được học tập, rèn
luyện trong môi trường quân đội để trưởng thành, có đủ hành trang cần thiết lập
thân, lập nghiệp một cách tự tin, bền vững. Như huyện đồng văn, tỉnh hà giang
năm nay có 100% thanh niên nhập ngũ viết đơn tình nguyện nhập ngũ; trong tổng số
công dân thực hiện nghĩa vụ quân sự đầu năm 2024 của tỉnh hà giang có gần 70%
viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Có những gia đình cả hai, ba anh em ruột cùng
xung phong nhập ngũ một đợt (như nguyễn khắc tự hiền phúc, nguyễn khắc tự hiền
nhơn, nguyễn khắc tự hiền nhân ở phường tam thuận, quận thanh khê, tp đà nẵng).
Chắc chắn, chẳng có người hiểu biết
nào lại dại dột tin vào luận điệu tuyên truyền “bẩn”, rằng “thanh niên nhập ngũ
thực hiện nghĩa vụ quân sự là lãng phí mất 2 năm tuổi trẻ” (!). Nghe theo lời
xúi dại ấy, có khi tự đẩy mình vào ăn chơi sa ngã, vi phạm pháp luật, đánh mất
tương lai.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề học tập, rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò quan trọng và luôn mang tính thời sự. Trước tình trạng một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” như hiện nay thì tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên là nhiệm vụ vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn chú trọng công tác giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Người nhấn mạnh, để Đảng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng là đạo đức, là văn minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ nhấn mạnh đạo đức là cái gốc của con người trong mọi thời đại, mà còn đưa ra khái niệm đạo đức mới, với nội dung mới, phản ánh đạo đức ở tầm cao hơn, rộng hơn, sâu sắc hơn, đó là đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên. Người chỉ rõ, đạo đức cách mạng làm nên sức mạnh của Đảng và là một nhân tố quan trọng bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng, bảo đảm thắng lợi của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức bắt nguồn từ những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc Việt Nam được hình thành, phát triển trong suốt quá trình đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó còn là sự vận dụng và phát triển sáng tạo đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; sự tiếp thu và phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại mà Người đã tiếp cận được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao, thử thách, vì mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Đối với cách mạng Việt Nam, sự đòi hỏi về đạo đức còn cao hơn, bởi cách mạng Việt Nam phải tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt: Tiến hành ở một nước nông nghiệp lạc hậu và phải đương đầu với các thế lực thù địch, phản động nhất, xảo quyệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Cách mạng nhất định sẽ thành công, nhưng thành công nhanh hay chậm, mức độ thành công lớn hay nhỏ... tùy thuộc vào đạo đức cách mạng của những người làm cách mạng, trình độ giác ngộ cách mạng và ý chí chiến đấu của quần chúng nhân dân. Người nhấn mạnh: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang”. “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân”.
Đề cao vai trò của tư tưởng, tinh thần, đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Có người nói: Lúc này mà xem trọng tinh thần tư tưởng là không duy vật biện chứng. Các cô, các chú có biết vì sao mà cách mạng của ta thành công không? Vì tinh thần. Lúc bấy giờ thực dân, phong kiến có công an, quân đội, cảnh sát, chính quyền - tất cả, Đảng ta chỉ có hai bàn tay không. Vì sao ta thành công? - Vì ta đoàn kết! Lấy gì mà đoàn kết? Lấy tinh thần!”.
Với tinh thần ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng và trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Người không ngừng giáo dục những phẩm chất đạo đức cách mạng cho toàn thể cán bộ, đảng viên và nhân dân. Đạo đức cách mạng, một mặt, là một yêu cầu tất yếu của sự nghiệp cách mạng trước đây cũng như hiện nay; mặt khác, là điều kiện tiên quyết cho sự thành công của những người lãnh đạo. Trong lịch sử các nước phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, những vị vua nắm quyền trị nước cũng như những lãnh tụ dân tộc muốn lãnh đạo được nhân dân và được nhân dân tin theo, đều phải là những người gương mẫu về đạo đức.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dành cả cuộc đời mình phấn đấu cho sự nghiệp cách mạng của dân tộc, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. Bản thân Người nêu cao tinh thần tự tu dưỡng, rèn luyện, thực hành đạo đức cách mạng - những phẩm chất đạo đức cao đẹp, trong đó bao hàm nhiều giá trị mới, tích cực và tiến bộ. Người quan niệm đạo đức cách mạng là nền tảng tạo ra động cơ hành động đúng đắn, tạo ra ý chí, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ của người cách mạng. Từ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng. Có đạo đức cách mạng thì gặp khó khăn, gian khổ, thất bại không rụt rè, lùi bước, khi gặp thuận lợi, thành công vẫn giữ vững tinh thần chất phác, giản dị, khiêm tốn; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hóa. Người chỉ rõ: “Vì lợi ích chung của Đảng, của cách mạng, của giai cấp, của dân tộc và của loài người mà không ngần ngại hy sinh tất cả lợi ích riêng của cá nhân mình. Khi cần, thì sẵn sàng hy sinh cả tính mạng của mình cũng không tiếc. Đó là biểu hiện rất rõ rệt, rất cao quý của đạo đức cách mạng”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò, tác dụng cũng như những biểu hiện cao quý của đạo đức cách mạng và chứng thực điều đó qua tấm gương của những chiến sĩ cộng sản tiền bối đã làm nên truyền thống vẻ vang của Đảng, của cách mạng: “Trong Đảng ta, các đồng chí Trần Phú, Ngô Gia Tự, Lê Hồng Phong, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Văn Thụ, Nguyễn Thị Minh Khai và nhiều đồng chí khác đã vì dân, vì Đảng mà oanh liệt hy sinh, đã nêu gương chói lọi của đạo đức cách mạng chí công vô tư cho tất cả chúng ta học tập”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá cao cả hai mặt đức và tài ở mỗi con người. Trong mối quan hệ giữa đạo đức và tài năng, Người khẳng định đạo đức là gốc, quyết định sức mạnh tinh thần to lớn của con người, sức mạnh của đoàn kết dân tộc; nhờ đó mà đạo đức, nhất là đạo đức cách mạng, góp phần to lớn vào sự thành công của cách mạng nước ta. Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng giáo dục, rèn luyện đạo đức nói chung cũng như đạo đức cách mạng nói riêng cho mọi người, trước hết là cho đội ngũ cán bộ, đảng viên.
Tựu trung lại, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng gồm những điểm cơ bản sau đây:
Một là, phẩm chất trung với nước, hiếu với dân.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, đây là phẩm chất quan trọng nhất, bao trùm nhất và chi phối các phẩm chất khác. Từ quan niệm đạo đức cũ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” trong xã hội phong kiến phương Đông, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa vào đó một nội dung mới, cao rộng hơn là “trung với nước, hiếu với dân”. Người khẳng định: “Trung với nước, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng”. Chỉ dẫn đó của Người vừa là lời kêu gọi hành động, vừa là định hướng chính trị, đạo đức cho mỗi người Việt Nam, không chỉ trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, mà còn lâu dài mãi mãi về sau.
Hai là, tình yêu thương con người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về tình yêu thương con người rất toàn diện và độc đáo. Người xác định tình yêu thương con người là một phẩm chất cao đẹp nhất trong tình cảm đạo đức của loài người. Người luôn dành tình yêu thương rộng lớn cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Ở Chủ tịch Hồ Chí Minh, tình yêu thương đồng bào, đồng chí rất bao la, sâu rộng và toàn diện, không phân biệt vùng, miền, trẻ, già, trai, gái..., hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có chỗ trong tấm lòng nhân ái của Người. Tình yêu thương con người của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện ở tấm lòng bao dung cao cả của một người Cha, đặc biệt là đối với những người phạm phải sai lầm, khuyết điểm. Người căn dặn: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng. Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho cái phần thiện trong con người nảy nở để đẩy lùi phần ác”. Chính vì vậy, trong Di chúc thiêng liêng để lại cho muôn đời sau, Người căn dặn Đảng: “Phải có tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”; mỗi cán bộ, đảng viên luôn luôn chú ý đến tình yêu thương con người.
Ba là, các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư.
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Cần tức là lao động cần cù, siêng năng, sáng tạo, có kế hoạch, có năng suất cao, với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm. Kiệm tức là tiết kiệm sức lao động, thì giờ, tiền của của dân, của nước, của bản thân mình; phải tiết kiệm từ cái to đến cái nhỏ, vì nhiều cái nhỏ cộng lại thành cái to. Kiệm còn có nghĩa là không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi, không phô trương, hình thức, không liên hoan, chè chén lu bù. Liêm tức là luôn luôn tôn trọng, giữ gìn của công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc nào của Nhà nước, của nhân dân; phải trong sạch, không tham lam, không tham địa vị, không ham tiền tài, không tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình, nhờ đó mà quang minh, chính đại, không bao giờ hủ hóa. Chính nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn; đối với mình thì không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập, cầu tiến bộ, luôn tự kiểm điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình; đối với người thì không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc; đối với việc thì để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Chí công vô tư tức là “làm việc vì sự nghiệp chung, đặt lợi ích công lên trên hết, trước hết; không tư lợi, vụ lợi, không vì lợi ích riêng”. Khi làm bất cứ việc gì cũng đừng nghĩ đến mình trước, khi hưởng thụ thì mình phải đi sau, phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, mỗi người, nhất là những người có vị trí ảnh hưởng đối với xã hội, cộng đồng, phải luôn phấn đấu, tu dưỡng, rèn luyện và thực hành theo bốn đức tính: cần, kiệm, liêm, chính; thiếu một đức tính cũng không thể thành người. Bởi, “Trời có bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông/Đất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, Bắc/Người có bốn đức: Cần, Kiệm, Liêm, Chính/Thiếu một mùa, thì không thành trời/Thiếu một phương, thì không thành đất/Thiếu một đức, thì không thành người”.
Bốn là, tinh thần quốc tế trong sáng.
Đó là tinh thần đoàn kết quốc tế vô sản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên bằng một câu thơ “Quan sơn muôn dặm một nhà/Bốn phương vô sản đều là anh em!”, là tinh thần đoàn kết giữa những người cộng sản với các dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động trên thế giới mà Người đã dày công vun đắp bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của mình và bằng sự nghiệp cách mạng của cả dân tộc. Đó cũng là tinh thần đoàn kết, hợp tác và hữu nghị của nhân dân Việt Nam với tất cả nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới, vì mục tiêu hòa bình, công lý, tiến bộ xã hội và độc lập dân tộc.
Đánh giá cao vai trò của đạo đức cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đưa ra tiêu chí của một người cán bộ tốt, đó là người cán bộ phải vừa có tài, vừa có đức, trong đó, đức là gốc. Chính Người là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, là kết tinh tất cả những phẩm chất tốt đẹp nhất của người Việt Nam và những phẩm chất đạo đức cộng sản cao quý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Những quy tắc đạo đức mà Người nêu ra đã trở thành vũ khí tinh thần mạnh mẽ của cả dân tộc ta trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, vì hòa bình, hợp tác và hữu nghị với tất cả các dân tộc trên thế giới. Trong suốt 53 năm thực hiện Di chúc của Người, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng tiếp tục là ngọn đuốc soi đường, dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của đất nước ta, nhất là trong bối cảnh mới hiện nay.
Tiếp tục tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh mới
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: Để mỗi cán bộ, đảng viên luôn giữ gìn phẩm chất đạo đức tốt đẹp của mình, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng trong mọi điều kiện, môi trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, còn phải cần đến sự giúp đỡ, kiểm tra, giám sát của Đảng. Đặc biệt, trong điều kiện Đảng trở thành đảng cầm quyền, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng được Người coi là công việc càng phải tiến hành thường xuyên, liên tục hơn. Với nhãn quan đặc biệt nhạy bén về chính trị, Người đã nhìn nhận rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực: Một mặt, quyền lực có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nếu biết sử dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê gớm nếu người nắm quyền lực bị thoái hóa, biến chất, sa vào con đường tham muốn quyền lực, chạy theo quyền lực, tranh giành quyền lực; lợi dụng quyền lực để lạm quyền, lộng quyền, biến quyền lực của nhân dân thành đặc quyền, đặc lợi của cá nhân... Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng để ngăn chặn, đẩy lùi và liên tục tẩy trừ mọi tệ nạn do sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên gây ra, trong điều kiện Đảng cầm quyền, lãnh đạo toàn diện Nhà nước và xã hội. Nhận thức rõ sự tác động qua lại giữa vai trò lãnh đạo của Đảng và môi trường xã hội, cũng như những đổi thay có thể diễn ra trong nhân cách cùng ý thức và hành vi đạo đức của cán bộ, đảng viên, Chủ tịch Hồ Chí Minh đi đến một nhận định mang tính triết lý và thực tiễn sâu sắc, có giá trị to lớn trong việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Đây chính là lời cảnh tỉnh sâu sắc đối với các đảng cộng sản cầm quyền, đối với mỗi đảng viên cộng sản, nhất là những đảng viên cộng sản có chức, có quyền, giữ các vị trí then chốt trong bộ máy nhà nước.
Qua hơn 35 năm đổi mới, với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. Việc thực hành dân chủ trong Đảng và trong xã hội có bước chuyển biến tích cực, quyền làm chủ của nhân dân được phát huy. Đa số cán bộ, đảng viên tích cực trau dồi, rèn luyện phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn, tiên phong, gương mẫu, năng động, sáng tạo trong công tác, đóng vai trò nòng cốt trong công cuộc đổi mới. Tuy nhiên, trước những tác động của nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, trong đó có mặt trái, mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, sự phát triển của khoa học và công nghệ... một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.
Nhận định những biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, ngay từ Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1-1994), Đảng đã chỉ ra những biểu hiện của tình trạng này và coi đó là một trong bốn nguy cơ đối với cách mạng Việt Nam. Tại các kỳ Đại hội Đảng và nhiều hội nghị Trung ương tiếp theo, Đảng có những đánh giá thẳng thắn về các nguy cơ này; trong đó, nổi lên các biểu hiện đáng lo ngại là: Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, phai nhạt lý tưởng, niềm tin đối với Đảng, chế độ xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt nguy hiểm là sự “trỗi dậy” của chủ nghĩa cá nhân, lối sống vị kỷ, vụ lợi, chạy theo các giá trị vật chất, xem thường các giá trị tinh thần; chỉ lo vun vén cho cá nhân mà thờ ơ, lảng tránh trách nhiệm với Đảng, với Tổ quốc, với nhân dân. Tính trung thực (cả trong tư tưởng, chính trị và đạo đức) của không ít cán bộ, đảng viên bị suy giảm nghiêm trọng. Nói không đi đôi với làm. Kèn cựa địa vị, tranh chức tranh quyền, bằng mọi thủ đoạn để tìm kiếm các mối quan hệ, liên kết “lợi ích nhóm” bất chính “lợi mình hại người”, dùng tiền bạc do tham nhũng để mua chức, mua danh, bất chấp cả liêm sỉ, đạo lý. Nạn tham nhũng tồn tại kéo dài, ngày càng diễn biến phức tạp và tinh vi, gây nhức nhối về đạo đức trong Đảng, làm suy giảm nghiêm trọng niềm tin của nhân dân và xã hội đối với sự lãnh đạo của Đảng và chế độ.
Như vậy, thực trạng suy giảm đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gây hậu quả rất nặng nề, làm tổn thương đến uy tín, thanh danh của Đảng, mà nếu không được ngăn chặn và đẩy lùi triệt để thì sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự tồn vong của Đảng, của chế độ. Tâm trạng xã hội và ý nguyện của nhân dân lúc này là thiết tha mong muốn, đồng thời nghiêm khắc đòi hỏi Đảng phải trong sạch, vững mạnh bắt đầu từ đạo đức. Cán bộ, đảng viên phải chứng tỏ trên thực tế, bằng những việc làm, ứng xử và hành xử, là những người có đạo đức.
Nhìn nhận rõ thực trạng đó, tại Đại hội XII, Đảng đã nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức và đây là một trong những điểm mới, rất căn bản và trọng yếu trong việc mở rộng nội dung xây dựng Đảng: “Tập trung thực hiện mục tiêu: “Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức””. Lần đầu tiên, Đảng đưa nội dung xây dựng Đảng về đạo đức - một nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng - vào trong văn kiện. Đại hội XIII của Đảng bổ sung một thành tố nữa vào công tác xây dựng Đảng là cán bộ: “Trong những năm tới phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”(16).Đó vừa là định hướng thực tiễn, vừa là chỉ báo đánh giá kết quả xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay. Thực hiện tốt nội dung xây dựng Đảng về đạo đức sẽ góp phần ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ năng lực, phẩm chất và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, bảo đảm cho Đảng vững mạnh toàn diện về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ. Đây chính là khâu đột phá về lý luận và thực tiễn đối với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền đang thực thi trọng trách lịch sử mà dân tộc và nhân dân ủy thác: Lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới, vì Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Trong thời gian tới, để tăng cường giáo dục và rèn luyện đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, cần đặc biệt quan tâm đến một số nội dung sau:
Một là, mọi cán bộ, đảng viên phải tự giác học tập và tu dưỡng, rèn luyện đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đây phải được xác định là biện pháp quan trọng hàng đầu, là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài trong sự nghiệp cách mạng ở nước ta. Trước hết, việc học tập, tự học tập để nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng phải được thực hiện thường xuyên, liên tục. Các nội dung học tập phải được đưa vào sinh hoạt chi bộ và trở thành nền nếp. Thường xuyên trao đổi, thảo luận, tự phê bình và phê bình, đóng góp ý kiến xây dựng cho cán bộ lãnh đạo, quản lý của cơ quan, đơn vị, địa phương. Biểu dương những việc làm tốt, kịp thời phát hiện, uốn nắn những việc làm chưa tốt, nhất là trong việc vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách của Bác vào việc thực hiện chức trách, nhiệm vụ của từng cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải tự giác phấn đấu và tu dưỡng, rèn luyện theo những chuẩn mực đạo đức được xây dựng ở địa phương, cơ quan, đơn vị, trong từng tổ chức đảng.
Hai là, nâng cao chất lượng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng; theo đó, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI, XII, đặc biệt là quán triệt và thực hiện nghiêm túc Kết luận số 21-KL/TW, ngày 25-10-2021, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””. Đây được xác định là khâu mấu chốt để thực hiện việc nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, chống chủ nghĩa cá nhân, nói đi đôi với làm, khắc phục tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay.
Để thực hiện tốt nội dung này, cần giữ vững các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình, thực hiện nghiêm các nghị quyết, quy định của Đảng về thực hiện trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu.
Ba là, coi trọng xây dựng quy chế làm việc, xác định rõ quyền hạn, trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức; đồng thời, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mỗi cá nhân, tổ chức. Một mặt, để nêu cao tinh thần trách nhiệm của mỗi cán bộ, đảng viên, yêu cầu đặt ra trước hết là phải xác định rõ trách nhiệm, nhiệm vụ của mỗi người, mỗi tổ chức thì tổ chức, đơn vị đó mới hoạt động có hiệu quả. Thực tế cho thấy, phải có trách nhiệm, quyền hạn rõ ràng thì mỗi cá nhân mới có đóng góp cụ thể cho tổ chức, mới “nói đi đôi với làm”, tham gia cùng tập thể chống chủ nghĩa cá nhân. Mặt khác, để động viên, khuyến khích tinh thần trách nhiệm và hạn chế thói lười biếng, vô trách nhiệm, ỷ lại, tư lợi cá nhân của cán bộ, đảng viên, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của cán bộ, đảng viên. Cấp ủy các cấp cần thực hiện nghiêm công tác kiểm tra, giám sát về những nội dung này; thông qua kiểm tra, giám sát để quản lý chặt chẽ từng cán bộ, đảng viên ở nơi công tác, nơi cư trú và khi công tác xa cơ quan, đơn vị, nhất là những cán bộ có chức, có quyền, trong các lĩnh vực nhạy cảm, dễ xảy ra sai phạm, như quản lý kinh tế, công tác cán bộ... Đồng thời, phát hiện và xử lý kịp thời những cán bộ, đảng viên vi phạm tư cách, thoái hóa, biến chất về đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng.
Bốn là, không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật gắn với việc tăng cường hơn nữa tính nghiêm minh của kỷ luật đảng và pháp luật của Nhà nước. Quá trình đổi mới và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay đặt ra yêu cầu phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật để hạn chế những “lỗ hổng” dễ bị lợi dụng; đặc biệt, cần tăng cường kỷ cương, phép nước, tính nghiêm minh của pháp luật để củng cố niềm tin của nhân dân đối với các cơ quan nhà nước. Đồng thời, tăng cường phát huy dân chủ trong Đảng và thực hiện kỷ luật đảng thật sự nghiêm minh; xử lý kịp thời, công khai những cán bộ, đảng viên vi phạm, dù ở cương vị, chức trách nào; kiên quyết đấu tranh với những thói hư, tật xấu trong Đảng.
Năm là, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân trong giám sát cán bộ, công chức. Đây là giải pháp vừa cấp bách, vừa lâu dài của công tác xây dựng Đảng, cũng như trong việc phòng, chống chủ nghĩa cá nhân và ngăn chặn tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay. Bên cạnh đó, cần phát huy mặt tích cực của dư luận xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ góp phần giáo dục, răn đe đối với mọi cán bộ, đảng viên, đấu tranh phòng ngừa, ngăn chặn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống./.