Ngày 12-2 vừa qua, Hiệp định Thương mại tự do giữa Liên minh châu Âu (EU) và Việt Nam (EVFTA) và Hiệp định Bảo hộ đầu tư Việt Nam-EU (EVIPA) đã được Nghị viện châu Âu phê chuẩn.
Trước khi hai hiệp định trên được phê chuẩn, rất nhiều kẻ muốn "chọc gậy bánh xe", phá hoại, trì hoãn. Rồi ngay cả khi hiệp định được thông qua, bên cạnh sự vui mừng, háo hức, đánh giá cao từ doanh nghiệp và người dân Việt Nam, EU, cũng như dư luận quốc tế nói chung thì vẫn có những kẻ hậm hực, cố tình xuyên tạc, cho rằng việc ký hiệp định này, cũng như gia nhập WTO, Việt Nam mất nhiều hơn được; rằng tình trạng nhân quyền và lao động của Việt Nam rất tồi tệ. Rõ ràng việc Nghị viện châu Âu phê chuẩn EVFTA cho thấy, những phát ngôn đổi trắng thay đen, bôi nhọ sự thật trắng trợn về Việt Nam không thể làm thay đổi được hình ảnh, vị thế, giá trị của Việt Nam và cách nhìn nhận thiện cảm, đúng đắn của quốc tế về Việt Nam.
Trước khi EVFTA, EVIPA được Nghị viện châu Âu phê chuẩn, không ít kẻ đã cố công phá hoại quá trình phê chuẩn hai hiệp định này. Chỉ vài ngày trước khi hiệp định được bỏ phiếu thông qua, một số tổ chức phi chính phủ đã cố tình gây sức ép đòi các nghị sĩ châu Âu hoãn phê chuẩn hai hiệp định này, lấy lý do là tình trạng nhân quyền và quyền lao động tại Việt Nam vẫn còn “đáng lo ngại”. Một số nghị sĩ thiếu khách quan tại Nghị viện châu Âu vin cớ đối tượng Phạm Chí Dũng bị bắt vì vi phạm pháp luật, để cho rằng đó là tù chính trị và Việt Nam đã vi phạm nhân quyền khi bắt y. Một số đối tượng chống đối, phản động lợi dụng vụ việc xâm phạm đất quốc phòng, chống người thi hành công vụ tại xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, TP Hà Nội, cố tình đánh tráo bản chất của vụ việc, vu cáo rằng chính quyền cướp đất nông nghiệp của dân, công an bắt người trái pháp luật, vi phạm nhân quyền, từ đó cũng kêu gọi Nghị viện châu Âu không phê chuẩn EVFTA...
Bộ trưởng Bộ Công Thương Trần Tuấn Anh (bìa phải) và bà Cecilia Malmström Cao ủy về thương mại của EU tại lễ ký kết Hiệp định thương mại đầu tư (EVFTA). Ảnh: tuoitre.vn |
Tuy nhiên, có thể thấy những sự bôi nhọ, làm sai lệch thực tế tình hình tại Việt Nam, gây sức ép để trì hoãn việc phê chuẩn EVFTA của các đối tượng nêu trên không thể che mờ được những thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế-xã hội, những nỗ lực để bảo đảm dân chủ, nhân quyền, chăm lo cho người lao động mà Việt Nam đạt được trong suốt những năm qua. Ngay sau khi EVFTA được Nghị viện châu Âu phê chuẩn, Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) đã hoan nghênh kết quả này. Giám đốc ILO Việt Nam Chang Hee Lee cho rằng: “Các yêu cầu về lao động và môi trường của EVFTA sẽ giúp mang lại lợi ích cho tất cả các bên, giúp Việt Nam phát triển bền vững bằng cách tránh “cuộc chạy đua xuống đáy” và bảo đảm rằng tăng trưởng hiện tại sẽ không làm mất đi các cơ hội của thế hệ tương lai”.
ILO đã rà soát các điều khoản của hiệp định và thấy rằng, Chương 13 về Thương mại và phát triển bền vững yêu cầu Việt Nam và EU tiếp tục, duy trì các nỗ lực liên tục hướng tới phê chuẩn các công ước cơ bản của ILO. Việt Nam hiện đã phê chuẩn 6/8 công ước cơ bản của ILO. Công ước số 98 về Quyền tổ chức và thương lượng tập thể là công ước mới nhất được phê chuẩn, đã được Quốc hội Việt Nam bỏ phiếu thông qua vào tháng 6-2019. Việt Nam hiện đang tiến hành các thủ tục để phê chuẩn Công ước số 105 về Xóa bỏ lao động cưỡng bức-dự kiến trong năm 2020; và đã có lộ trình để phê chuẩn Công ước số 87 về Tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức-dự kiến năm 2023.
Trong tuyên bố của mình, ILO cho rằng, việc ký kết các hiệp định EVFTA và CPTPP (Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương) là cơ hội tạo điều kiện cho Việt Nam hiện đại hóa hệ thống pháp luật lao động và quan hệ lao động. Việc thông qua Bộ luật Lao động (sửa đổi) vào tháng 11-2019 đã đưa khung pháp lý của đất nước tiệm cận hơn với các công ước cơ bản của ILO, tạo ra môi trường pháp lý cần thiết cho quan hệ lao động và quan hệ việc làm hiện đại của Việt Nam.
Kể từ khi gia nhập Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (viết tắt là ICCPR) ngày 24-9-1982, Việt Nam ngày càng đạt được nhiều thành tựu to lớn trong việc bảo vệ và phát huy quyền vì con người. Các báo cáo quốc gia năm 2017, 2018 về thực thi Công ước ICCPR và Báo cáo trả lời danh sách các vấn đề quan tâm của Ủy ban Nhân quyền LHQ, cho thấy Việt Nam đã có những bước phát triển nổi bật và nhanh chóng trên tất cả lĩnh vực của đời sống, đặc biệt trong việc bảo vệ, thúc đẩy các quyền dân sự, chính trị. Những năm gần đây, Việt Nam đạt được nhiều tiến bộ trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người, nhất là trên các lĩnh vực xây dựng Nhà nước pháp quyền, kiện toàn hệ thống pháp luật về quyền con người, xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát triển kinh tế-xã hội (KT-XH), nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư pháp, phát huy vai trò của các tổ chức chính trị-xã hội, báo chí và hội nhập quốc tế. Tất cả các nỗ lực cải cách của Việt Nam diễn ra trong hòa bình, với sự ủng hộ của người dân, qua đó, góp phần nâng cao sự hưởng thụ của người dân về các quyền dân sự và chính trị phù hợp với Hiến pháp, pháp luật và điều kiện KT-XH của Việt Nam; bảo đảm các yêu cầu đối ngoại, đối nội, bảo đảm an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
Việc tăng trưởng kinh tế được duy trì liên tục từ 6-7%/năm đã giúp tạo thêm hàng triệu việc làm cho người dân, duy trì tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp; tỷ lệ nghèo đa chiều giảm mạnh từ 9,9% năm 2015 xuống 5,23% năm 2018. Đời sống vật chất và tinh thần của hơn 96 triệu người dân Việt Nam, trong đó có người dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số đã thay đổi nhanh chóng, ấm no và hạnh phúc hơn. Việt Nam đã và đang tham gia tích cực và có những sáng kiến được ghi nhận tại các cơ chế liên quan đến quyền con người của LHQ, đón nhiều chuyên gia theo cơ chế các thủ tục đặc biệt của Hội đồng Nhân quyền LHQ; gia nhập thêm hai công ước nhân quyền cơ bản là Công ước chống tra tấn (CAT) và Công ước về quyền của người khuyết tật (CRPD).
Năm 2019, Việt Nam lần thứ 3 đăng cai tổ chức thành công Đại lễ Phật đản LHQ Vesak, là bằng chứng sinh động khẳng định chính sách tự do tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam. Với việc trúng cử Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an LHQ nhiệm kỳ 2020-2021, Việt Nam đang góp phần tích cực cho hòa bình và an ninh quốc tế, trong đó có việc thúc đẩy nhân quyền.
Về ý nghĩa của EVFTA đối với Việt Nam và EU, giới quan sát cho rằng, đây là thỏa thuận chất lượng, toàn diện và hiện đại nhất mà châu Âu từng ký với một nước đang phát triển.
Hiện nay, trong bối cảnh căng thẳng thương mại quốc tế có chiều hướng gia tăng, cộng hưởng với sự trở lại của chủ nghĩa bảo hộ, đe dọa sự phát triển ổn định của kinh tế thế giới và các khu vực, việc Nghị viện châu Âu phê chuẩn Hiệp định EVFTA hứa hẹn sẽ mang lại nhiều lợi ích cho cả Việt Nam và EU, đặc biệt là ở hai phương diện chính yếu như sau:
Thứ nhất, trên phương diện chính trị, an ninh quốc gia và chiến lược đối ngoại, trong bối cảnh quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp và bản thân nội bộ EU gặp nhiều khó khăn như sự nổi lên của chủ nghĩa dân túy và bảo hộ mậu dịch, Hiệp định EVFTA thể hiện quyết tâm mạnh mẽ của cả hai bên trong việc thúc đẩy quan hệ song phương, góp phần đưa quan hệ giữa Việt Nam và EU phát triển sâu rộng và thực chất hơn, có lợi cho cả đôi bên.
Với việc Việt Nam sẽ đảm nhiệm vai trò Chủ tịch ASEAN năm 2020, Hiệp định EVFTA sẽ làm gia tăng vai trò, vị thế của Việt Nam trong quan hệ EU-ASEAN cũng như tạo hình mẫu cho một hiệp định thương mại tự do (FTA) giữa ASEAN với EU trong tương lai.
Việt Nam là nước đang phát triển đầu tiên ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương có FTA với EU. Điều này khẳng định vai trò và vị thế địa-chính trị quan trọng của Việt Nam trong khu vực, thực sự nâng cao vị thế của nước ta trong khu vực cũng như trên trường quốc tế. Đặc biệt, trong bối cảnh tình hình chính trị-an ninh thế giới và khu vực đang thay đổi nhanh chóng, diễn biến phức tạp, khó lường, Hiệp định EVFTA vừa giúp Việt Nam có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó, vừa giúp củng cố vị thế để thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa đi đôi với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, trên phương diện phát triển kinh tế, Hiệp định EVFTA được coi là đòn bẩy cho tăng trưởng. EU sau sự kiện Brexit rất cần những cú hích mới về thị trường. Với việc ký kết EVFTA, EU sẽ có cơ hội tiến sâu hơn vào thị trường Việt Nam, từ đó làm cửa ngõ để tiến sâu vào thị trường ASEAN. Khi Hiệp định EVFTA và Hiệp định EVIPA chính thức có hiệu lực, thương mại hai chiều và đầu tư Việt Nam-EU được dự báo sẽ tăng trưởng ở mức cao hơn, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của cả hai bên, giải quyết việc làm cho người lao động. Hiệp định thương mại tự do với EU giúp Việt Nam có điều kiện nâng cao nội lực để ứng phó tốt hơn với các diễn biến bất lợi trong khu vực và trên trường quốc tế, đặc biệt là khi căng thẳng thương mại Mỹ-Trung Quốc vẫn chưa chấm dứt và tác động bất lợi của dịch Covid-19 đối với kinh tế. Hiện nay, Việt Nam đang xuất khẩu mỗi năm sang EU hơn 40 tỷ USD, trong đó xuất siêu gần 30 tỷ USD. Do vậy, hiệp định này sẽ tạo điều kiện để thúc đẩy xuất khẩu, đa dạng hóa thị trường và thu được giá trị gia tăng cao hơn thông qua việc thiết lập các chuỗi cung ứng mới.
Hiệp định EVFTA giúp Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường EU với thuế suất ưu đãi hơn các đối thủ cạnh tranh. Kết hợp với các cam kết cao về mở cửa đầu tư và cải thiện môi trường kinh doanh, EVFTA chắc chắn sẽ là cú hích lớn cho đầu tư, cả đầu tư nước ngoài lẫn đầu tư trong nước, từ đó tạo ra năng lực sản xuất mới, giúp GDP tăng trưởng bền vững hơn trong dài hạn.
Như thế, có thể thấy việc ký kết EVFTA là một nhu cầu thiết thực của cả EU và Việt Nam, do đó mọi nỗ lực hủy hoại hay trì hoãn hiệp định là vô lý và rõ ràng đã thất bại. Sau cuộc bỏ phiếu ngày 12-2, Chủ tịch Ủy ban Thương mại quốc tế của Nghị viện châu Âu Bernd Lange tuyên bố: “Lịch sử chứng minh cô lập không thay đổi một quốc gia. Đây là lý do vì sao Nghị viện châu Âu bỏ phiếu tán thành thỏa thuận thương mại với Việt Nam”.
Cách đây hơn 13 năm, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của WTO, đã không chỉ tác động tích cực đến sự phát triển KT-XH của đất nước mà còn mở cánh cửa để Việt Nam tham gia sân chơi toàn cầu rộng lớn. Đến nay, Việt Nam đã ký kết và đang đàm phán 17 hiệp định FTA song phương và đa phương; trong đó, 12 FTA đã có hiệu lực và đang thực thi. Nhờ đó, Việt Nam trở thành nền kinh tế có độ mở lớn nhất thế giới. Việc mở cửa nền kinh tế trở thành động lực quan trọng để duy trì tốc độ tăng trưởng cao hằng năm của nền kinh tế Việt Nam. Đó là thực tế, là những giá trị không thể phủ nhận.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét