Chống
phá Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực
thù địch. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, tiến hành tác động, phá hoại nội bộ
Đảng, làm giảm uy tín, nhằm đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và xã hội. Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm phương nghìn kế”, các thế lực
thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của toàn
dân ta đối với Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành
tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận,
thực tiễn và lịch sử.
Mục
đích và thủ đoạn của các thế lực thù địch là gì khi chúng tung ra luận điệu
“Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo
đất nước”?
Về
chính trị, chúng cho rằng “Ở Việt Nam, công nghiệp
chưa phát triển, số lượng, chất lượng công nhân giai cấp công nhân bị hạn chế.
Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, nó có
rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ
nghĩa phong kiến”. Vì thế, “giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản không thể lãnh
đạo, xây dựng được CNXH đích thực ở Việt Nam”(!). “Đảng không nên giữ vai trò
lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối”. Chúng xuyên tạc
Đảng ta đã sai lầm về chính trị khi “vội vàng xóa bỏ” đảng Dân chủ và đảng Xã
hội, “tạo điều kiện cho Đảng Cộng sản độc đoán, chuyên quyền, bóp nghẹt tự do,
dân chủ”. Chúng kêu gào: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là
then chốt của chế độ dân chủ. Đảng cho mình cái quyền đứng trên dân tộc, cái đó
không ai chịu chấp nhận”; đòi “xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng”.
Về
tư tưởng, chúng cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác -
Lênin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”, vì rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin là
ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây, nên không còn phù hợp với Việt Nam”; rằng
“Học thuyết Mác là sản phẩm của thế kỷ XIX, do vậy, đem đặt nó trong bối cảnh
thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học” (!); “chủ nghĩa
Mác đã đóng góp khá nhiều cho lịch sử, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử rồi, nó
không còn phù hợp với thời đại ngày nay”; v.v.
Đối
với tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà “dân tộc chủ nghĩa
chứ không phải là nhà mác-xít”; “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền
tảng” vì không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh, là để “an dân” chứ thực chất không theo Hồ Chí Minh (!?).
Về
phương diện tổ chức, chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt
Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng cho rằng, nguyên tắc tập
trung dân chủ đã lỗi thời, nó chỉ thích hợp với hoạt động của Đảng khi chưa
giành được chính quyền, còn hoạt động bí mật hoặc lãnh đạo trong chiến tranh;
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên
quyền trong Đảng và trong xã hội, không có nhân đạo. Chúng còn cho rằng, trong
Đảng có nhiều phe phái: phe cải cách và phe bảo thủ; trong Đảng còn có các nhóm
lợi ích, v.v.
Về
đạo đức, chúng bịa đặt, bôi nhọ, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước,
đánh vào sinh hoạt, đạo đức, lối sống các đồng chí lãnh đạo; tung ra nhiều
chuyện giật gân trong sinh hoạt của lãnh đạo. Chúng cho rằng, Đảng và đảng viên
ngày càng suy thoái, biến chất; tham nhũng, tham ô, lãng phí là căn bệnh trầm
kha không thể chữa trị được. Từ đó chúng suy diễn thành “Đảng tham nhũng”, “Nhà
nước tham nhũng”...
Thực
chất, những “lập luận” trên là thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Vậy hãy giả định rằng, nếu
Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo
đất nước thì lực lượng nào sẽ có đủ khả năng để thay thế vai trò đó? Các thế
lực thù địch thừa hiểu về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản
Việt Nam là như thế nào, và ở Việt Nam hiện nay không một tổ chức nào có thể
thay thế và làm tốt vai trò lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên,
việc nói là cứ nói, “đòi” là cứ đòi, dù biết là “nói lấy được”, mà đòi thì
không được! Vì thế, trong các luận điệu chúng tung ra, rất ít thấy xuất hiện
một lực lượng cụ thể, một gương mặt “sáng giá” khả dĩ có thể thay thế vai trò
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đâu
đó họ có nói đến “lực lượng chính trị mới”. Nhưng cái gọi là “lực lượng chính
trị mới” mà các thế lực thù địch tung hô có thể thay thế Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo đất nước và xã hội, thực chất chỉ là lực lượng được các nước tư bản và
các thế lực phản động quốc tế nuôi dưỡng, ủng hộ, cung cấp tài chính, hậu thuẫn
về chính trị, quân sự, ngoại giao. Đó là một tổ chức ô hợp gồm nhiều đại diện
của nhiều lực lượng có thù hận với cách mạng Việt Nam, có tội ác với nhân dân,
những kẻ muốn lợi dụng dân tộc ta làm lá bài chính trị để phục vụ cho lợi ích
ích kỷ của chúng.
Với
lực lượng chính trị như vậy thì chắc chắn con đường mà họ hay “lực lượng chính
trị mới” lựa chọn cho đất nước ta sẽ là con đường TBCN. Khi nắm được quyền lãnh
đạo, họ sẽ từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, xóa bỏ thành tựu mà nhân dân
ta đã hy sinh bao xương máu mới giành được, sớm đưa đất nước đi vào quỹ đạo của
CNTB. Với một mục tiêu chính trị và một nhân thân như vậy, chúng biết rằng,
Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc và nhân dân Việt Nam sẽ không bao giờ trao cho
chúng quyền lãnh đạo đất nước. Cho nên, các chiêu bài được tung ra cũng chỉ
nhằm gây chú ý, tạo dư luận, gây chia rẽ trong nội bộ nhân dân ta, trong xã hội
ta, đồng thời để tranh thủ sự ủng hộ của các nước tư bản và các thế lực phản
động quốc tế hòng gây sức ép, đặt điều kiện với chúng ta… để từng bước vô hiệu
hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về
thực chất, cái gọi là “lực lượng chính trị mới” không phải là lực lượng vì dân
vì nước, mà chủ yếu là vì quyền lợi giai cấp, vì mục tiêu chính trị phản
động. Do đó, một khi lực lượng này lãnh đạo đất nước thì hệ quả tất yếu
sẽ là: lái đất nước đi theo con đường TBCN. Theo đó, thì cái lợi trước hết
không phải cho nhân dân lao động, cho dân tộc ta mà cho giai cấp bóc lột, cho
các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Còn nhân dân ta phải đổ bao xương máu mới
giành được độc lập, mới thoát khỏi kiếp nô lệ, là người làm chủ đất nước, làm
chủ vận mệnh của mình, thì sẽ phải quay lại địa vị cũ, đất nước lại rơi vào
vòng lệ thuộc của các nước tư bản, đế quốc.
Thực
tế lịch sử đã chứng minh, sau khi lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu
vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám, trong các cuộc kháng chiến giành lại độc lập,
thống nhất cho non sông đất nước, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo đất nước trong thời
kỳ mới - thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên CNXH. Đất nước chuyển sang giai
đoạn mới, vừa có hòa bình vừa có chiến tranh; vừa phải đối phó với kiểu chiến
tranh phá hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế, vừa
chống lại sự bao vây, cấm vận và cô lập tứ phía. Khó khăn chồng chất khó khăn.
Kinh nghiệm lãnh đạo đất nước xây dựng CNXH được tích lũy trong những năm lãnh
đạo miền Bắc xây dựng CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh trước đây
tuy rất quý báu, nhưng chừng đó là chưa đủ cho việc lãnh đạo, tổ chức xây dựng
và quản lý phát triển đất nước trong điều kiện mới với quy mô và tầm vóc mới.
Mọi việc dường như phải làm lại từ đầu, để xây dựng xã hội XHCN ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, vừa mới giành được độc lập và vừa bước ra khỏi các
cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài 30 năm. Chưa hết, CNXH hiện thực ở Liên
Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ đã giáng một đòn mạnh vào hệ thống
XHCN làm nó tan rã. Đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm
trọng chưa từng có và đang đứng trước nguy cơ của sự sụp đổ. Trong hoàn cảnh
lịch sử ngặt nghèo ấy, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng được phát
huy và thể hiện trong điều kiện thực tiễn mới. “Đổi mới hay là chết” đó không
chỉ là khẩu hiệu mà còn là mệnh lệnh của những con tim và khối óc có đủ sự
nhiệt huyết và sự tỉnh táo để đưa đất nước thoát khỏi sự hiểm nguy.
Nhưng
thật trớ trêu thay, trong những lúc đất nước khó khăn và lâm nguy như vậy, đã
không có một lực lượng nào, một tổ chức nào đồng lòng cùng chung tay gánh vác
trách nhiệm trước non sông, đất nước, dân tộc và nhân dân. Trái lại, chỉ thấy
nhưng tiếng kêu la, oán thán, những điều chỉ trích, gây chia rẽ phân tâm, làm
ngã lòng người từ phía các thế lực thù địch và cơ hội... Thực tiễn lịch sử lại
cho thấy một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xứng đáng và
tin cậy của dân tộc và nhân dân Việt Nam; lịch sử và nhân dân Việt Nam lại một
lần nữa tin tưởng trao cho Đảng sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, dẫn dắt giống nòi Lạc
hồng tiến bước cùng thời đại. Đó là sự thật hiển nhiên không phải bàn cãi.
Bởi vậy, chúng ta
phải kiên định con đường mà Đảng và Bác đã chọn thường xuyên, liên tục đấu
tranh phê phán với các quan điểm trên.
Trước hết về cơ sở lý luận
Khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan. Đảng
Cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được các nhà kinh
điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đề cập. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng
sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng
nhất, tiên tiến nhất, giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn CNTB. Nhưng
muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân phải có
“đội tiên phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong” để lãnh đạo.
Đội tiên phong chính là Đảng Cộng sản - bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công
nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh, chính đảng của giai cấp công nhân ra
đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực
lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Ph.Ăngghen
cho rằng, Đảng Cộng sản ra đời là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng
XHCN giành thắng lợi và thực hiện được mục tiêu cuối cùng của nó là thủ tiêu
giai cấp.
Kế
thừa tư tưởng trên của Mác - Ăngghen, Lênin khẳng định: Về nguyên tắc, Đảng
Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa.
Bởi Đảng Cộng sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là tổ chức chặt chẽ
nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ có Đảng Cộng sản mới có
đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo xã hội mới.
Lênin cũng chỉ rõ: Đảng Cộng sản…. cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà
nước mà là lãnh đạo cả xã hội. Và trong điều kiện cầm quyền đó, Đảng phải là trí
tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại.
Giải
đáp vấn đề “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Hồ Chí Minh chỉ rõ: trước hết
phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh
mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy. Đảng Cộng
sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong
trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Có thể khẳng định dứt khoát đây
là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ
chức và đường lối của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Nó
chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng.
Bên cạnh đó, Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là chính danh, hợp hiến và hợp
pháp. Trên thế giới, việc quy định về đảng chính trị trong Hiến pháp mang tính
phổ biến. Chẳng hạn: Hiến pháp của Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc
có 1 điều; Hiến pháp của Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina, Ba Lan có 2 điều; Hiến pháp
Udơbêkixtan có 3 điều,… quy định về đảng chính trị. Các bản Hiến pháp nước Cộng
hòa XHCN Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có 1 điều quy định: Đảng
Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội, là phù hợp với xu
hướng chung của thế giới hiện nay, không phải là cá biệt. Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng
định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội
Việt Nam. Điều lệ Đảng quy định: Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy.
Như
vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội được xây dựng trên cơ
sở pháp lý đồng bộ (hệ thống các văn bản pháp luật) và đồng thuận (điều lệ, quy
định) của các tổ chức có liên quan, không phải do Cương lĩnh, Điều lệ Đảng đơn
phương quy định. Đây là một yếu tố quan trọng bảo đảm tính chính danh đầy đủ
được quy định tại Hiến pháp và Điều lệ Đảng, điều lệ các tổ chức chính trị - xã
hội và tổ chức xã hội nghề nghiệp về mối quan hệ của Đảng với các tổ chức khác
ở Việt Nam.
Mặt khác, Đảng
cộng sản Việt Nam là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của
giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam ra
đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước. Trên thực tế, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam
độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc
lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.
Về cơ sở thực tiễn.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà
nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn
bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch cho rằng Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai
trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước. Bởi vì:
Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
được khẳng định trong thực tế tiến hành cách mạng và được nhân dân thừa nhận. Thực
tiễn Việt Nam đã từng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách
mạng Đồng minh Hội. Hai đảng này không đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc
và nhân dân, mà bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận.
Có
thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 -
1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946 - 1988), nhưng các đảng ấy cũng không được
đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Các đảng ấy, đều
tuân thủ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân giao phó,
ủy thác. Sau đó hai đảng này tuyên bố tự giải thể và chỉ còn lại Đảng Cộng sản
Việt Nam. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên,
là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam,
Đảng không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào. Trong
hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, Đảng ta là đảng cầm quyền chính là thông qua việc
nắm quyền, Đảng thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị,
lãnh đạo nhân dân, để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng và dân tộc đều đồng
thuận.
Bên cạnh đó, vai trò
lãnh đạo lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất
là vào những bước ngoặt của lịch sử. Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản
Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài,
gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi
vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của
thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta
tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống
xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn
nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên CNXH. Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt được những
thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với
những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống
nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa bao
giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.
Tuy
nhiên, trong lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm
nghiêm trọng. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới,
chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Nhưng, một số kẻ thù
địch, cơ hội chính trị lại không thấy hoặc cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế, họ
còn thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm của Đảng và quy kết Đảng không đủ
năng lực lãnh đạo trong điều kiện mới của đất nước. Rõ ràng đây là một sự xuyên
tạc, vu cáo Đảng ta, nhằm kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà
nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết
sức thâm độc và nguy hiểm.
Nhân
dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất
lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Quan hệ Đảng - dân là mối quan hệ
bản chất và máu thịt của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết
với nhân dân, phục vụ nhân dân, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và
xây dựng. Hơn 90 năm đi theo Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân
dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực
lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế,
nhân dân tin tưởng ủy thác trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực
tế cách mạng Việt Nam cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước là sự lựa
chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Vì thế, các tầng lớp nhân
dân mong muốn Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, không chia sẻ quyền lực với
các lực lượng khác khác trong vai trò cầm quyền của mình. Bởi đó là nguyên tắc
đã được được hiến định và là một kết quả tất yếu của lịch sử cách mạng Việt
Nam, không thể thay đổi.
Ở
Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt
Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước
và xã hội. Tuyệt đại đa số nhân dân mong muốn Đảng tự chỉnh đốn, khắc phục các
khuyết điểm, yếu kém để hoàn thành sứ mệnh của mình là lãnh đạo Nhà nước và xã
hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây
dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách
nhiệm là đội tiền phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách
mạng trong giai đoạn mới. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã đề ra bốn nhóm giải pháp giải
quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, trong đó nhóm giải
pháp thư tư nêu rõ việc phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân
trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.
Tóm
lại, quan điểm cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không
còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước” là quan điểm sai lầm, phản khoa học, phi
thực tế. Quan điểm này dựa trên những lập luận mang tính chủ quan, võ đoán,
thiếu căn cứ khoa học, bất chấp đạo lý và lẽ phải thông thường, phiến diện và
phi lôgic. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt
được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm
sai trái, thù địch đó và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy
nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho
nhân dân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét