Từ các nghiên cứu về lịch sử nhân loại cho thấy; ở mỗi thời đại, tham nhũng được
hiểu, đề cập và định danh với những tên gọi khác nhau, phạm vi rộng hẹp cũng
khác nhau,... nhưng điểm chung của vấn nạn này là gây ra những hậu quả nghiêm
trọng, cản trở hoặc đối lập với tiến bộ xã hội. Với cách tiếp cận đó, có thể
hiểu tham nhũng là một hiện
tượng xã hội, xuất hiện cùng với sự xuất hiện tư hữu và quá trình hình thành,
phát triển của giai cấp, nhà nước; nó được biểu hiện qua hành vi của con người,
tác động tiêu cực đến xã hội và sẽ mất đi khi xã hội không còn sở hữu tư nhân. Bản
chất của hiện tượng này nằm ngay trong lòng xã hội, do cá nhân hay bộ phận nắm giữ
những trọng trách trong xã hội thực hiện với mục đích vụ lợi riêng, làm cản
trở, kìm hãm quá trình vận động, phát triển của xã hội. Vì vậy, đây là cuộc
chiến lâu dài, đầy gian nan, phức tạp đối với tất cả các quốc gia dân tộc,
trong đó có Việt Nam chúng ta.
Nghiên cứu lý luận và những bằng chứng khoa học cho thấy; thủa “bình minh”, loài
người muốn tồn tại phải đoàn kết, sống theo “bầy đàn”, cùng nhau sáng tạo ra
công cụ lao động, chinh phục, cải tạo tự nhiên và cùng nhau sản xuất, sử dụng
tư liệu sinh hoạt,… nên mọi của cải vật chất đều là của chung, chưa có hành vi
chiếm hữu và lúc đó chưa có tham nhũng. Khi sản xuất phát triển đến một trình
độ nhất định, năng suất lao động được nâng lên, tư liệu sinh hoạt chung được
sản xuất ra vượt quá nhu cầu duy trì sự sống của cộng đồng, dẫn đến hiện tượng
dư thừa; khi đó, bắt đầu xuất hiện những cá nhân, bộ phận người bị “tha hóa”,
tìm mọi cách độc chiếm lượng tư liệu sinh hoạt dư thừa đó làm của riêng - hành
vi tham nhũng xuất hiện. Sự “tha hóa” ngày càng tăng, nhu cầu chiếm hữu ngày
càng lớn, dẫn đến chiếm đoạt về lao động và tư liệu sản xuất, rồi tổ chức lực
lượng chuyên trách để bảo vệ, mở rộng nội dung, phạm vi, lãnh thổ chiếm hữu,...
Như vậy, tham nhũng xuất hiện từ cuối xã hội nguyên thủy; khởi đầu là hành vi
chiếm đoạt tư liệu sinh hoạt dư thừa trong cộng đồng; sau đó, nội dung, phạm vi
chiếm hữu ngày càng mở rộng. Ban đầu là một, hay một bộ phận người trong cộng
đồng, rồi đến giai cấp bóc lột (trong xã hội có đối kháng giai cấp). Hiện nay,
nhân loại đang trong giai đoạn phát triển có sự đan xen giữa cái cũ và cái mới,
vẫn còn cơ sở tồn tại, nên vẫn còn tình trạng tham nhũng, Việt Nam cũng không
ngoại lệ.
Quá trình nghiên cứu xây dựng học
thuyết về con người; các nhà kinh điển Mác - Lênin khẳng định:
“con người khác với con cừu chỉ là ở chỗ trong con người, ý thức thay thế bản
năng, hoặc bản năng của con người là bản năng đã được ý thức”. Thực tế là, sự
tồn tại của con người luôn gắn liền với bản năng, nhu cầu tự nhiên: ăn, uống,
mặc, ở, đi lại,... và nó được “ý thức hóa”, đó là sự khác biệt căn bản nhất
giữa con người so với con vật. Quá trình hoạt động thực tiễn làm cho sự thống
nhất biện chứng giữa bản năng sinh vật và mặt xã hội trong con người ngày càng
hoàn thiện, nhu cầu về đời sống vật chất, tinh thần, tức nhu cầu về lợi ích
ngày càng cao, không có giới hạn, vì nó được “ý thức hóa”; ngược lại, những nhu
cầu đó cũng tác động mạnh mẽ trở lại, thúc đẩy hoạt động thực tiễn, làm cho ý
thức con người phát triển ngày càng hoàn thiện…
Tuy nhiên, số lượng cá
nhân, bộ phận người bị “tha hóa” nhỏ hơn nhiều so với thành phần lao động và
các tầng lớp khác trong cộng đồng, xã hội, nhưng hành vi tham nhũng luôn kìm
hãm, gây hậu quả nghiêm trọng đối với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vì, bản năng, sinh vật, nhu cầu tự nhiên của họ được “ý thức hóa” theo
hướng tiêu cực, luôn tìm mọi thủ
đoạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi, biến tài sản chung của xã hội, tập
thể hay của công dân thành tài sản riêng, làm thất thoát, lãng phí kìm hãm sự
phát triển; đảo lộn những giá trị văn hóa, chuẩn mực đạo đức,… và len lỏi vào mọi
lĩnh vực đời sống xã hội.
Bước vào công cuộc cải
tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới trên phạm vi cả nước, nhất là từ khi đổi mới
đến nay, tình trạng tham nhũng vẫn diễn ra với tính chất, mức độ khác nhau, ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển của đất nước. Để đấu tranh ngăn chặn, phòng,
chống hiện tượng này, Đảng, Nhà nước ta ban hành nhiều chủ trương, chính sách
phù hợp với từng giai đoạn. Mỗi kỳ Đại hội, Đảng ta đều ban hành những nghị quyết chuyên đề,
hoặc lồng ghép nội dung phòng, chống tham nhũng vào nhiều nghị quyết Trung
ương. Hệ thống luật, nghị định, hướng dẫn thực hiện do Nhà nước ban hành liên
quan đến lĩnh vực này ngày càng hoàn thiện. Hệ thống cơ quan chỉ đạo, cơ
quan chuyên trách được tổ chức từ Trung ương đến địa phương, bảo đảm tính đồng
bộ, thống nhất, chuyên sâu. Những năm gần đây, cuộc chiến này được toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân ta đẩy mạnh với quyết tâm chính trị cao và đã thu được
nhiều kết quả quan trọng được nhân dân đồng tình ủng hộ.
Như vậy, tham nhũng
xuất hiện từ cuối xã hội nguyên thủy; Tham nhũng luôn là một “căn bệnh” nguy
hiểm của xã hội, có ở tất cả các chế độ chính trị khác nhau, để có thể phòng
ngừa, đẩy lùi, chữa khỏi được nó phải tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp xóa bỏ
chế độ tư hữu, cùng đối kháng giai cấp; đồng thời, ngày càng hoàn thiện bản
chất “người” để lao động, cống hiến trở thành nhu cầu, mục đích cao nhất trong
hoạt động của mỗi người, đặc biệt là những cá nhân, bộ phận được giao cho nắm
giữ những trọng trách xã hội nhất định. Từ những vấn đề trên, chúng ta có thể
khẳng định rằng: tham nhũng không phải lỗi của độc Đảng hay đa Đảng như các tổ
chức phản động thường rêu rao, ám chỉ Đảng cộng sản Việt Nam; mà đằng sau đó là
âm mưu chống phá Đảng và Nhà nước ta mà thôi./.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét