Ngay từ khi thành lập, Đảng ta đã chỉ rõ :Nam nữ bình quyền” là một trong 10 nhiệm vụ cốt yếu của ách mạng Việt Nam, dược ghi nhận trong cương lình chính trị của đảng năm 1930. Cương lĩnh chính trị của Đảng năm 1930 nêu rõ “giải phomngs phụ nữ phải gắn với giải phóng với dân tộc và giải phóng giai cấp. Hiến pháp 1946, Điều 9 “Đàn bà ngang quyền với dàn ông về mọi phương diện”. Nghị quyết 152- NQ/TW ngày 10/1/1967 về “Một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận”. Chỉ rõ “ Tư tưởng phong kiến đối với phụ nữ còn tồn tại khá sâu sắc trong một số cán bộ, dảng viên, kể cả cán bộ lãnh đạo. Thể hiện rõ nhất tư tưởng hẹp hòi “trọng nam, khinh nữ”, chưa tin vào khả năng quản lý kinh tế của phụ nữ, chưa thấy hết những khó khan trở ngại của phụ nữ…”. Chỉ thị 44-CT/TW ngày 7/6/1984 của Ban Bí thư về “Một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”. Chỉ rõ “nhiều cấp ủy đảng và lãnh đạo các ngành buông lỏng việc chỉ đạo thực hienj các nghị quyết của Đảng về công tác daog tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ…; còn tư tưởng phong kiến, coi thường phụ nữ, đối xử thiếu công bằng với chị em”. Nghị quyết 04-NQ/TW ngày 12/7/1993 của Bộ Chính trị về “đổi mới và tăng cường công tác vận động phụ nữ trong tình hình mới”, mục tiêu nhằm phát huy mạnh mẽ vai trò của phụ nữ trong công cuộc đổi mới đất nước, tạo điều kiện cho phong trào phụ nữ có những bước tiến mới và tang số lượng, chất lượng cán bộ nữ trong hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước, ác doàn thể và các tổ chức kinh tế xã hội. Chỉ thị 37-CT/TW ngày 16/5/1994 của Ban Bí thứ trung ương Đảng về “một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”. Chỉ rõ “Nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước, tham gia quản lý kính tế xã hội là yêu cầu quan trọng để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là diều kiện để phát huy tài năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp hòi trong dánh giá, đề bạt cán bộ nữ.” Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/4/2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ đẩy mạnh CNH- HĐH đất nước (là nghị quyết ban hanhfsau 10 năm thực hiện chỉ thị 37). Mục tiêu: “Phán đấu dến năm 2020, phụ nữ được nâng cao trình độ về mọi mặt, có trình độ học vấn chuyên môn, nghiệp vụ dáp ứng yêu cầu CNH-HĐH và hội nhập quốc tế; có việc làm, dược cải thiện rõ rệt về đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần; tham gia ngày càng nhiều hơn công việc xã hội, bình đẳng trên mọi lĩnh vực; dóng góp ngày càng lớn hơn cho xã hội và gia dình. Phấn dấu dề nước ta là một trong các quốc gia có thành tự bình đẳng giới tiến bộ nhất của khu vực”. Thông báo số 196-TB ngày 16/3/2015 về kết luận của Ban Bí thư về Đề án “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bình đẳng giaosi và sự tiến bộ của phụ nữ trong tình hình mới” tiếp tục thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước Việt nam về công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Dề án thống qua việc triển khai một số giải pháp bảo đảm thực hienj bình đẳng giới, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ và giảm khoảng cách giới trong một số lĩnh vực, nhành vùng, dịa phương có bất bình dẳng giới hoặc có nguy cơ bất bình đẳnggiới cao. Văn kiện đại hội XII của Đảng: “Tiếp tục đổi mới, hoàn thienj chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình, chế độ thai sản, nghỉ dưỡng, khám, chữa bệnh, bình đẳng giới. Thực hiện tốt chiến lược dân só, gia đình, chương trình hành động trẻ em…, dầu tư nang cao chất lượng dân số, chỉ số phát triển con người, bảo đảm tổng tỷ suất sinh thay thế, giảm dần sự mất cân bằng tỷ lệ giới tính khi sinh…”. Hội nghị TW6 khóa XII, dã thong qua nghị quyết 20NQ-TW về tang cườn công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân trong tình hình mới. Và Nghị quyết số 21- NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới, trong dó có những quan điểm chỉ đạo và mục tiêu cụ thể đẻ đạt dược cacsmucj tiêu liên quan đến bình đẳng giới.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét