Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGƯỜI LAO ĐỘNG SẼ ĐƯỢC NGHỈ 4 NGÀY DỊP LỄ QUỐC KHÁNH NĂM NAY!

         Theo thông báo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTBXB), cán bộ, công chức, viên chức và người lao động được nghỉ 4 ngày Lễ Quốc khánh năm 2024 từ thứ Bảy ngày 31/8 đến hết thứ Ba ngày 3/9/2024.
Theo thông báo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (Bộ LĐTBXH), đợt nghỉ này bao gồm 2 ngày nghỉ Lễ Quốc khánh, 2 ngày nghỉ hàng tuần.
Như vậy, công chức, viên chức của các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội sẽ được nghỉ tối đa là 4 ngày theo nội dung nêu trên.
Các cơ quan, đơn vị thực hiện lịch nghỉ Lễ Quốc khánh năm 2024 lưu ý thực hiện bố trí, sắp xếp các bộ phận làm việc hợp lý để giải quyết công việc liên tục, đảm bảo tốt công tác phục vụ tổ chức, nhân dân.
Các cơ quan, đơn vị không thực hiện lịch nghỉ cố định thứ Bảy và Chủ Nhật hàng tuần, sẽ căn cứ vào chương trình, kế hoạch cụ thể của đơn vị để bố trí lịch nghỉ cho phù hợp.
Người lao động không thuộc các cơ quan hành chính, sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội, đối với dịp nghỉ Lễ Quốc khánh, người sử dụng lao động chọn 1 trong 2 ngày: chủ nhật ngày 1/9 hoặc thứ ba ngày 3/9.
Người sử dụng lao động phải thông báo phương án nghỉ Lễ Quốc khánh năm 2024 cho người lao động trước khi thực hiện ít nhất 30 ngày.
Nếu ngày nghỉ hàng tuần trùng với ngày nghỉ lễ, Tết, người lao động được nghỉ bù ngày nghỉ hàng tuần vào ngày làm việc kế tiếp theo quy định tại khoản 3 Điều 111, Luật Lao động 2019.
Bộ LĐTBXH khuyến khích người sử dụng lao động áp dụng thời gian nghỉ tết Âm lịch cho người lao động như quy định đối với công chức, viên chức.
Trả lời về đề xuất của công đoàn tại Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam (nhiệm kỳ 2023 - 2028) về bổ sung thêm 2 ngày nghỉ Lễ Quốc khánh, đại diện Cục An toàn lao động cho biết: Về những ngày nghỉ lễ, Tết đã được quy định trong Luật Lao động 2019. Việc tăng thêm ngày nghỉ vào dịp nghỉ lễ 2/9 cần được Quốc hội thông qua. Cục đang tổng hợp ý kiến từ dư luận, thực tế triển khai để có tham mưu vào thời điểm thích hợp.
Trước đó, cuối năm 2023, vào dịp Đại hội XIII Công đoàn Việt Nam, Công đoàn Việt Nam kiến nghị cơ quan có thẩm quyền nghiên cứu bổ sung thêm 2 ngày nghỉ lễ dịp Quốc khánh so với hiện nay, tạo cơ hội cho công nhân, lao động được đưa con đến trường trong ngày khai giảng.
Theo đó, trong các kiến nghị của đoàn viên, công nhân lao động đề xuất nghiên cứu tăng ngày nghỉ lễ, Tết hàng năm vào thời điểm thích hợp, vì số ngày nghỉ này của Việt Nam hiện thấp hơn bình quân chung của các nước Đông Nam Á và thế giới từ 5 - 6 ngày.
Cụ thể, người lao động mong bổ sung 2 ngày nghỉ Lễ Quốc khánh, để kéo dài dịp nghỉ từ 2/9 đến hết ngày 5/9, tạo cơ hội cho công nhân, lao động được đưa con đến trường trong ngày khai giảng. Đây là nguyện vọng của số đông công nhân có con đang tuổi đến trường.

Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Lao động năm 2019, từ năm 2021, người lao động có tất cả 11 ngày nghỉ lễ, Tết được hưởng nguyên lương. Cụ thể là: Tết Dương lịch nghỉ 1 ngày (ngày 1/1); Tết Nguyên đán nghỉ 5 ngày; Giỗ tổ Hùng Vương nghỉ 1 ngày (ngày 10/3 Âm lịch); Chiến thắng 30/4 nghỉ 1 ngày; Quốc tế lao động 1/5 nghỉ 1 ngày; Quốc khánh 2/9 nghỉ 2 ngày (ngày 2/9 và 1 ngày liền kề trước hoặc sau).
Nếu những ngày nghỉ này trùng vào ngày nghỉ hàng tuần, người lao động được nghỉ bù vào ngày kế tiếp. Hàng năm, căn cứ vào điều kiện thực tế, Thủ tướng Chính phủ quyết định cụ thể ngày nghỉ theo quy định./.


Yêu nước ST.

Quan điểm của Đảng ta về Bảo vệ Tổ quốc hiện nay


Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ và từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta từ sau năm 1975 đến nay, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi mới mạnh mẽ trong quá trình đổi mới đất nước.

Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về quân sự, về chiến tranh đã phát triển một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình để xây dựng đất nước, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc

Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau

Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:

Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.

Xây dựng và phát triển chế  độ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, vững mạnh, đồng thời phải trực tiếp bảo vệ từng tế bào của chế độ một cách kiên quyết và thường xuyên. Xây dựng và bảo vệ xâm nhập lẫn nhau, diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, trong mỗi tổ chức, mỗi con người.

Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, một mặt nhấn mạnh tích cực xây dựng đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không coi nhẹ các biện pháp vũ trang bảo đảm có đủ sức mạnh cần thiết để răn đe, giữ vững hoà bình và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. điều đó đòi hỏi:

Phải chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước: tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực khoa học – công nghệ và tiềm lực quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ, giữ gìn hoà bình, không để xảy ra chiến tranh là thượng sách để giữ nước. Xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là tạo ra sức mạnh lớn nhất để bảo vệ đất nước, là quá trình bảo vệ tích cực nhất, chủ động nhất. Mỗi bước phát triển của quá trình xây dựng là tạo nên một sức mạnh mới để bảo vệ Tổ quốc

Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.

Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại trong công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ động đối phó có hiệu quả và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá từ bên trong và tấn công quân sự từ bên ngoài của các thế lực thù địch.


Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh

  


Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.

Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau:

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”

Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri – tinh thần, coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân.

Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân.

Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa lực lượng vũ trang ta với lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa – những mối quan hệ cơ bản quyết định quá trình hình thành, phát triển bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng  lực lượng vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc; giữ  vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.

Thực tiễn xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị – tinh thần to lớn của lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những lực lượng vũ trang xâm lược nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Những giá trị lý luận xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.


Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay


Hiện nay, đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới hướng đến thực hiện khát vọng của dân tộc là cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Để biến khát vọng đó thành hiện thực,  mỗi tổ chức và mỗi cá nhân có vai trò quan trọng trong tiến trình đó. Lực lượng vũ trang nhân dân với chức năng, nhiệm vụ của mình, xá định rõ và cần làm tốt ọt số vấn đề sau:

 Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới

Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.

Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới.

Chủ động, sáng tạo, đi đầu trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, cùng với hệ thống chính trị xây dựng “thế trận lòng dân”, góp phần tạo dựng sức mạnh từ cơ sở, trong mỗi tổ chức, mỗi con người cho nhiệm vụ xây dựng và BVTQ xã hội chủ nghĩa!

Chăm lo xây dựng tổ chức đảng, tổ chức quần chúng trong đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh SSCĐ và chiến đấu  đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới!


Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và vấn đề đặt ra đối với xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.

Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây:

Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị

Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang .

Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.

Sự tác động của những biến đổi về cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta hiện nay đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Trong quá trình vận động, biến đổi, các giai cấp và tầng  lớp xã hội có xu hướng xích lại gần nhau, liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Mặt khác với cơ cấu xã hội – giai cấp không thuần nhất, phát triển đa dạng, đan xen, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự không thuần nhất về chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác nhau thậm chí đối lập nhau sẽ tác động đến quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị.

Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu thuẫn giữa việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.


Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin


Cũng như giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân đội là những hiện tượng chính trị xã hội. Sự xuất hiện của chiến tranh và lực lượng vũ trang gắn chặt với  sự xuất hiện của giai cấp và nhà nước. C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã nghiên cứu lý luận về chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó với lý luận về giai cấp và nhà nước.

Lực lượng vũ trang là một hiện tượng lịch sử. Lực lượng vũ trang ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu và loài người bị phân chia thành các giai cấp. Đi đôi với việc phân chia xã hội thành giai cấp, sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản càng trở nên sâu sắc, lực lượng vũ trang được tăng cường và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn. Khi xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, thì cũng  đẻ ra thiết chế xã hội mới về chất là lực lượng vũ trang

Khi đã xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước, nảy sinh mâu thuẫn đối kháng thì chiến tranh cũng xuất hiện trong đời sống xã hội. đối với bọn bóc lột thì chiến tranh đã trở thành phương tiện và công cụ quan trọng để nô dịch các dân tộc khác, để củng cố địa vị thống trị của chúng ở trong nước. Ăng ghen đã viết: “ Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do nhà nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng ngự”

Như vậy, sự xuất hiện của hiện tượng  lực lượng vũ trang trong lịch sử gắn chặt với sự xuất hiện của chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước và chiến tranh. Lực lượng vũ trang là công cụ để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định.

C. Mác,  Ph. Ăng ghen và Lênin xem xét vấn đề chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ với chính trị. Phạm trù bạo lực, chiến tranh và lực lượng vũ trang bao giờ cũng gắn liền với phạm trù chính trị - giai cấp. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị bằng thủ đoạn bạo lực; lực lượng vũ trang là công cụ để tiến hành chiến tranh, để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định

Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của một giai cấp, là công cụ vũ trang chủ yếu của nhà nước để tiến hành chiến tranh nhằm thực hiện mục đích chính trị của giai cấp. lực lượng vũ trang hiện và tồn tại gắn liền với chính trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện chính trị. Mọi mặt hoạt động của lực lượng vũ trang đều bị quy định bởi chính trị và phụ thuộc vào chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với giai cấp, với chế độ xã hôi, với nhan dân, với dân tộc. Lực lượng vũ trang  bao giờ cũng gắn chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc. Không có và không thể có  lực lượng vũ trang “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, “quân đội phi chính trị” hoặc “đứng ngoài chính trị”.

Trong khi chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện của lực lượng vũ trang, để làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới thực sự trung thành và phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản, Mác, Ăng ghen và Lênin hết sức chăm lo xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, nhất là chăm lo củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, coi đó là vấn đề sống còn của lực lượng vũ trang cách mạng, là một trong những nguyên tắc hết sức cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới.   

Trong quá trình xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị; xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã thường  xuyên quan tâm xây dựng cả 3 phương diện chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự kiên định và thực hiện mục tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân; giáo dục hệ tư tưởng Mác – Lênin, thực hiện đường lối, nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng đội ngũ cán bộ, sĩ quan lực lượng vũ trang theo quan điểm, đường lối của giai cấp công nhân. Mặt khác, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm xây dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với nhân dân, coi đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng trong xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới khác về chất với các kiểu lực lượng vũ trang của giai cấp, nhà nước bóc lột trước đây. Đồng thời, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm đến tăng cường xây dựng các mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, nhất là mối quan hệ giữa cán bộ và chiến sĩ trên tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, trên cơ sở thống nhất về nghĩa vụ và quyền lợi; tăng cường củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị giữa lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần quốc tế vô sản.

V.I Lênin đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành công tác tưởng, công tác tổ chức trong lực lượng vũ trang, coi đó là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, trực tiếp nâng cao chất lượng chính trị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang. V.I Lênin đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điểm sai lầm và phản động của giai cấp tư sản coi lực lượng vũ trang “ là trung lập đứng ngoài chính trị”, từ đó đi tới phủ nhận nội dung giai cấp trong xây dựng lực lượng vũ trang.

Những thảm kịch ở Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90 vừa qua là bài học đau xót và lời cảnh tỉnh cho những ai xa rời những nguyên lý, nguyên tắc của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, nhất là vấn đề xây dựng  lực lượng vũ trang về chính trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang kiểu mới.


SỰ GÓP Ý

 

          Dựa và quần chúng nhân dân để xây dựng Đảng là một nguyên lý; là vấn đề thuộc quan điểm và là giải pháp cơ bản, thường xuyên rất quan trong của Đảng ta trong suốt hơn 94 năm qua và sẽ được tiếp tục thực hiện trong thời gian tới. Thực tiễn chỉ rõ, chính thực hiện tốt vấn đề trên mà Đảng ta được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là người lãnh đạo, người cầm lái con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua bao khó khăn, thách thức, có lúc hết sức ngặt ngèo để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Đại đa số nhân dân ta đều hiểu rõ điều đó, luôn biết ơn, quý trọng, gần gũi, gắn bó và “một lòng một dạ” đi theo Đảng; tuy nhiên, thời nào cũng vậy, có một số phần tử phản động, cơ hội, bất mãn trong nước cùng với các thế lực thù địch ngoài nước cố tình không nhận ra điều đó và tìm mọi cách xuyên tạc, nói xấu... để chống phá Đảng, Nhà nước ta.

Hiện nay, chúng thường dùng chiều trò “thư ngỏ”, “góp ý”, “kiến nghị” với Đảng, Nhà  về vấn đề nọ, vấn đề kia... Khi chúng ta bác bỏ những ý kiến sai trái, phản khoa học, phản động, thù địch thì chúng lu loa là không tiếp thu “quan điểm khác”, là thành kiến, trù dập những người có “quan điểm” khác... Vậy vấn đề nên được cắt nghĩa như thế nào cho khách quan?

Chẳng khó gì trong phân biệt rõ giữa “quan điểm khác” với “quan điểm thù địch”. Về vấn đề này, cụ thể là: Nếu “quan điểm khác”, tức là không giống quan điểm của Đảng (điều đó là bình thừng) mà không trái với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có lợi cho đất nước và nhân dân, có lợi cho việc giải quyết vấn đề “quốc kế dân sinh” trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc thì cần nghiên cứu tiếp thu. Nếu như “quan điểm khác” nhưng trái với mục tiêu, lý tưởng, trái với chủ trương, đường lối của Đảng, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc thì cần phải kiên quyết lên án và đấu tranh bác bỏ bằng những biện pháp cần thiết. Như vậy, và chỉ như vậy chúng ta mới dứt khoát được về nhận thức, lập trường và biện pháp cụ thể trong xử lý với những vấn đề trên. Tin tưởng rằng tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên và nhân ân ủng hộ và các thế lực thù địch, kẻ xấu khó có bề lợi dụng “dân chủ” để chống phá./.

 

Tấm gương tiêu biểu cho lớp thanh niên yêu nước

 

Đồng chí Trần Phú là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta, cả cuộc đời đồng chí đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.

Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, khi đất nước còn chìm đắm trong vòng nô lệ, hơn 4 tuổi mồ côi cha, 6 tuổi mồ côi mẹ, tuổi thơ Trần Phú đã tận mắt chứng kiến những nỗi thống khổ, bất công mà các tầng lớp nhân dân lao động phải chịu dưới ách áp bức, bóc lột của chính quyền thực dân, phong kiến. Trần Phú đã sớm có ý thức tự lập, vượt khó vươn lên trong học tập và đến với các tổ chức yêu nước, đến với phong trào cách mạng.

Truyền thống lịch sử, văn hóa, tinh thần cách mạng nơi đồng chí sinh ra (thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) và quê hương dòng tộc (xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) đã để lại cho Trần Phú những ấn tượng sâu sắc, góp phần bồi đắp cho người thanh niên lòng yêu quê hương, đất nước, căm ghét bọn cướp nước và bè lũ tay sai, hun đúc ý chí và tinh thần học hỏi, vươn lên tìm con đường cứu nước.Từ khi còn là học sinh, Trần Phú đã giúp đỡ bạn bè cùng chí hướng như Hà Huy Tập, Hà Huy Lương, Trần Văn Tăng, Trần Mộng Bạch, Ngô Đức Diễn,... và cùng nhau nuôi dưỡng tinh thần yêu nước. Họ lập ra nhóm “Thanh niên tu tiến hội” để cùng nhau đọc sách, trao đổi, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, được cổ vũ bởi tấm gương cựu học sinh Quốc học Huế Nguyễn Tất Thành (khi đó được biết đến với tên Nguyễn Ái Quốc) với những hoạt động cách mạng đầy tiếng vang ở nước ngoài.

Năm 1922, sau khi đỗ đầu kỳ thi thành chung ở Trường Quốc học Huế, Trần Phú được bổ nhiệm làm giáo viên Trường Cao Xuân Dục ở Vinh (Nghệ An). Tại Vinh, Trần Phú đã tham gia Hội Phục Việt (sau đổi tên thành Hội Nam Hưng, rồi Tân Việt Cách mạng Đảng), một tổ chức của những người trí thức yêu nước; tham gia phong trào làm đơn lấy chữ ký đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho Phan Bội Châu, tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh, mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ cho công nhân, nông dân và những người nghèo khổ.

Với tất cả nhiệt huyết của mình, Trần Phú đã truyền cho học sinh lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của quê hương và dân tộc. Trần Phú bước vào con đường cách mạng ở thời điểm các hoạt động cách mạng sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc tại Paris đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ tới trong nước. Tình hình trong nước vào những năm này cũng có những chuyển biến lớn, tác động đến thanh niên yêu nước. Ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng mạnh, thu hút nhiều thành viên tiên tiến của Hội Phục Việt, trong đó có Trần Phú, và Trần Phú đã quyết định bỏ nghề dạy học để dấn thân vào con đường cách mạng.

Cuối năm 1926, đồng chí Trần Phú được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) bắt liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Có thể nói, đây là bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của Trần Phú và tại đây, Trần Phú đã gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tham gia lớp huấn luyện cán bộ do Người trực tiếp giảng dạy. Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại khóa huấn luyện đã trang bị cho Trần Phú những kiến thức cơ bản về cách mạng vô sản, về lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin để từ một thanh niên có tư tưởng cách mạng yêu nước, Trần Phú đã chuyển sang lập trường cách mạng vô sản; tham gia vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được kết nạp vào Cộng sản Đoàn, một tổ chức nòng cốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Sáng 18-4-1931, đồng chí bị địch bắt ở Sài Gòn. Suốt 5 tháng bị giam cầm, hết bốt Pô lô đến bốt Catina, rồi Khám lớn Sài Gòn, trước những lời đe dọa và đòn tra tấn dã man, Trần Phú vẫn hiên ngang, không hề run sợ. Đối diện những bộ mặt mật thám khét tiếng với những thủ đoạn nhà nghề, Trần Phú đã nêu cao tấm gương sáng ngời về lòng trung thành tuyệt đối với Đảng và cách mạng, về tinh thần bất khuất, chiến đấu kiên cường trước kẻ thù và thẳng thắn thừa nhận mình là Tổng Bí thư của Đảng, nhưng vẫn không để kẻ thù moi được bất cứ điều gì bí mật của Đảng.

Đồng chí tuyên bố dứt khoát: “Các người đừng hỏi gì vô ích. Ta không thể đem công việc của Đảng ta nói cho các người nghe”(1). Phải là một người có bản lĩnh phi thường, một tinh thần sáng suốt, một tình cảm và ý chí cách mạng cao cả mới có thể trả lời như thế. Đó là sự khẳng định mình và tổ chức của mình; trung thành tuyệt đối với Đảng, kiên định với lý tưởng cộng sản. Chính bản lĩnh ấy của đồng chí Trần Phú đã làm cho kẻ thù vị nể, khiếp sợ. Với những người bạn chiến đấu, Trần Phú luôn căn dặn: Anh em hãy ráng mà giữ vững tinh thần chiến đấu.Ngày 6-9-1931, do suy kiệt vì sức khỏe, Tổng Bí thư Trần Phú đã trút hơi thở cuối cùng tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn). Trước lúc hy sinh, Trần Phú vẫn nhắn gửi đồng chí, đồng bào, với lời nói bất hủ: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Sự hy sinh anh dũng của đồng chí Trần Phú được Quốc tế Cộng sản coi là một tổn thất chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đầu những năm 30 của thế kỷ 20: “Sự nghiệp cách mạng, niềm tin và những phẩm chất cao đẹp của Tổng Bí thư Trần Phú trong nhà tù đế quốc sẽ mãi mãi là tấm gương bất diệt cho những người cộng sản trên toàn thế giới, đặc biệt là những người cộng sản Đông Dương”(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: Là một người rất thông minh, hăng hái và cần cù, đồng chí Trần Phú làm được nhiều việc cho Đảng.

Hơn 6 năm hoạt động yêu nước và cách mạng, đảm nhiệm cương vị Tổng Bí thư của Đảng ở thời điểm cách mạng sôi sục, bị kẻ thù khủng bố điên cuồng, hy sinh khi tuổi đời mới 27, cuộc đời của đồng chí Trần Phú tuy ngắn ngủi nhưng rực rỡ như ánh sao băng trên bầu trời. Đối với những người cộng sản và yêu nước Việt Nam, tấm gương hy sinh vì sự nghiệp của Đảng và dân tộc của đồng chí Trần Phú đã cổ vũ tinh thần chiến đấu không chỉ đối với các chiến sĩ cách mạng cùng thời mà cho mọi thế hệ người Việt Nam yêu nước. Tổng Bí thư Trần Phú là cán bộ của Đảng đã thể hiện đạo đức cách mạng trong sáng, trung thành với Đảng, với cách mạng, với dân tộc, lạc quan tin tưởng vào tương lai và sự tất thắng của cách mạng. Biểu hiện cao đẹp nhất, sâu sắc nhất ở đồng chí Trần Phú là tài năng và nghị lực; là sự vận dụng, kết hợp giữa tri thức cách mạng và nhiệt tình cách mạng. Đó là tấm gương tiêu biểu cho lớp thanh niên yêu nước, tấm gương của một trong những chiến sĩ cộng sản lớp tiền bối của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đồng chí đã để lại cho các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ một tấm gương mẫu mực của người cộng sản kiên trung, hiến dâng trọn cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Phẩm chất cộng sản kiên trung và khí tiết lẫm liệt của đồng chí Trần Phú trước kẻ thù đã cổ vũ các thế hệ người Việt Nam trong cuộc chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đấu tranh giành lại độc lập, tự do, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

Thượng tá, Thạc sĩ PHẠM THANH TUẤN

Trưởng ban Biên tập xuất bản, Phòng Khoa học quân sự, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng

Đợt tiến công thứ 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 1-5-1954 đến 7-5-1954.

 

Đợt tiến công thứ 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 1-5-1954 đến 7-5-1954.

Nhiệm vụ của đợt này là đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía Đông, trọng tâm là phải chiếm được đồi A1, tiêu diệt một số cứ điểm ở phía Tây, tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch, phát triển sâu hơn nữa trận địa tiến công và bao vây, phát huy tất cả mọi hỏa lực bắn phá khu vực trung tâm của địch, uy hiếp vùng trời còn lại của chúng, chuẩn bị chuyển sang tổng công kích. 

Về phía địch: Ngày 1-5-1954, máy bay địch bắt đầu sử dụng một loại bom mới của Mỹ (Hail Leaflet) chứa hàng nghìn mũi tên rất nhỏ và sắc bén, nhằm gây sát thương đám đông. Loại bom này không gây nguy hiểm cho những người ở trong công sự hoặc dưới chiến hào và khó sử dụng trong những trận đánh khi quân ta và quân địch gần như trộn lẫn vào nhau. Langlais và Bigeard đã điều chỉnh, củng cố lại tổ chức phòng ngự ở khu trung tâm.Những đơn vị khá nhất và những chỉ huy được tin cậy nhất còn lại của tập đoàn cứ điểm được tăng cường cho trung tâm đề kháng Elian. Tại đây, chúng bố trí Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn dù thuộc địa số 1, Tiểu đoàn dù xung kích 6, Tiểu đoàn dù ngụy số 5, Tiểu đoàn 1 Bán lữ đoàn lê dương 13 cùng với hai đại đội độc lập, đơn vị công binh và một số lính Algeria, lính Thái. Tuy nhiên, những đơn vị này đều bị tổn thất nhiều, đội hình chắp vá. 

Về phía ta: 17 giờ ngày 1-5-1954, bất thần tất cả các cỡ pháo của ta nhả đạn vào nhiều khu vực của tập đoàn cứ điểm. Lần này cụm pháo địch ở Hồng Cúm bị kiềm chế, tê liệt. Một kho đạn với 3.000 viên đạn dự trữ của địch bị nổ tung. Kho lương thực, thực phẩm bốc cháy. Đợt pháo kích kéo dài gần một giờ. Dứt tiếng pháo, các đơn vị đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí.Tại phía Đông, Trung đoàn 98 tiến công cứ điểm C1 lần thứ hai. Địch vẫn đặt sở chỉ huy trên C2 và linh cảm trận đánh C1 sắp nổ ra. Ngày 1-5, địch quyết định đưa Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn dù tiêm kích số 2 lên thay thế cho Đại đội Clédic đã bị tiêu hao, đồng thời ra lệnh cho Đại đội 1 sẵn sàng tham gia phản kích. 

Đại đội 811 của ta đã có 20 ngày đêm phòng ngự tại C1, được lệnh rời khỏi trận địa 200m cho hỏa pháo chuẩn bị. Đại đội trưởng Lê Văn Dỵ thấy công sự đã được củng cố vững chắc, đủ sức chịu đựng đạn pháo và tin vào sự chính xác của pháo binh ta nên quyết định chỉ cho bộ phận dự bị lui về phía sau, toàn đơn vị vẫn bám trận địa để không lỡ thời cơ xung phong. 

Những cao điểm ta chiếm được ở khu Đông phát huy tác dụng. Sơn pháo đặt trên đồi D1 nhắm từng hỏa điểm trên C1 bắn rất chính xác. Dứt tiếng pháo, đồng chí Dỵ lập tức ra lệnh mở những hàng rào ngăn cách giữa ta và địch, đưa bộ đội xông lên phía Cột Cờ. Thủ pháo và lựu đạn của ta trùm lên trận địa địch, tiểu liên nổ dồn dập. Chiến sĩ Thắng cầm cờ lao lên cách mục tiêu 10m thì trúng đạn hy sinh. Chiến sĩ Ân lấy chiếc chăn phủ lên người đồng đội, nhặt lá cờ thấm máu, lỗ chỗ vết đạn, tiếp tục tiến lên mỏm đất cao nhất trên đỉnh đồi. Cả tiểu đội mũi nhọn bám sau anh. Chỉ sau 5 phút, ta đã chiếm được Cột Cờ. Đại đội dù tiêm kích số 3 mới thay thế choáng váng trước đòn tiến công chớp nhoáng và quyết liệt. Quân dù bắn xối xả vào khu vực Cột Cờ. Đại đội 1480 của ta từ phía dưới tiến lên đã kịp thời có mặt, cùng với Đại đội 811 hình thành hai mũi tiến công chia cắt quân địch để tiêu diệt. 

Những trận đánh giáp lá cà diễn ra. Viên trung úy Leguère chỉ huy Đại đội 3 cố chống cự, chờ lực lượng tiếp viện. Địch quyết định đưa Đại đội 1 lên tăng viện. Nhưng đã quá muộn. Trung úy Périou chỉ huy đại đội chết ngay khi mới đặt chân lên đồi. Lát sau, đến lượt trung úy Leguère chỉ huy Đại đội 3 bị trọng thương. Quân địch ở C1 mất dần sức chiến đấu. Có tên phủ bạt lên người nằm giả chết, chờ tiếng súng yên sẽ đầu hàng. Nửa đêm, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Dây thép gai và mìn lấy từ trận địa của địch lập tức được rải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại vật dày đặc, đề phòng quân địch phản kích. 

Sau hơn 30 ngày đêm liên tục chiến đấu, trận đánh tại C1 lúc này đã kết thúc. C2 nằm gọn dưới nòng pháo không giật của ta. Trời sáng, không thấy quân phản kích của địch. Chỉ có những khẩu trọng liên bốn nòng đặt tại Sở chỉ huy của De Castries lồng lộn tuôn đạn về phía trận địa ta trên đỉnh đồi như muốn ngăn chặn một đợt xung phong.

Ở phía Đông sông Nậm Rốm, Tiểu đoàn 166 và Tiểu đoàn 154 thuộc Trung đoàn 209 tiến công các cứ điểm 505 và 505A. Một đại đội của Tiểu đoàn lê dương dù 6 và những đơn vị lính Algeria, lính Thái tại đây, do viên Tiểu đoàn trưởng Chenel chỉ huy, chống cự khá quyết liệt. Ta và địch giành giật nhau từng ụ súng, từng chiến hào. 2 giờ ngày 2-5, Trung đoàn 209 tiêu diệt hoàn toàn hai cứ điểm này, chấm dứt sự tồn tại của trung tâm đề kháng Dominique.Trên cánh đồng phía Tây, trận đánh tiêu diệt cứ điểm 811A của Trung đoàn 88 diễn ra rất nhanh chóng. Chiến thuật đánh lấn tiếp tục được phát huy. Với những đường hào đã đào xuyên qua hàng rào cứ điểm, bộ đội ta bất thần tổ chức xung phong. Toàn bộ Đại đội Âu Phi vừa tới thay quân để tăng cường phòng thủ cứ điểm này, bị diệt gọn trong vòng chưa đầy 80 phút. 

Như vậy, ngay trong đêm đầu của đợt tiến công thứ 3, địch đã mất thêm 4 cứ điểm: C1, 505, 505A ở phía Đông và 311A ở phía Tây. Tại Hồng Cúm, trận vây ép đánh lấn khu C của Trung đoàn 57 đã tiêu hao nhiều binh lực địch, nên sáng 2-5, địch phải rút chạy khỏi đây.

Những đường hào thọc sâu của bộ đội ta trên cánh đồng phía Tây, đều nhắm thẳng về phía Sở chỉ huy De Castries. Tập đoàn cứ điểm đã bị dồn lại trong cái "ô vuông" cuối cùng.

THÀNH VINH (lược trích)

1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010.

2. Đại tướng Hoàng Văn Thái: Tổng tập, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.

3. Chiến dịch Điện Biên Phủ - Sự kiện và con số/Nguyễn Văn Thiết-Lê Xuân Thành, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2014.

4. Điện Biên Phủ - nhìn từ hai phía, Nxb Thanh Niên, 2004.

5. Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử/Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai thể hiện, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2018.

BỘ ĐỘI CỤ HỒ, CƠ ĐỒ TƯƠI ĐẸP, CHẤT THÉP KIÊN TRUNG

Vào dịp Đảng, Nhà nước, Quân đội và nhân dân ta chào mừng kỷ niệm 49 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30-4 và 70 năm chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 - 7/5/2024), các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị càng điên cuồng chống phá Đảng, Nhà nước, Quân đội ta. Cũng như trước đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đã, đang và tiếp tục sử dụng “trăm mưu, ngàn kế” kể cả những biện pháp hèn hèn nhất, “phi nhân tính” nhất để chống phá Quân đội ta, đòi hạ bệ “thần tượng” Hồ Chí Minh, bôi đen hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ”. Đây là một trong những chiêu trò hèn mọn, dọn đường cho việc thực hiện “cách mạng màu” và “diễn biến hòa bình” ở Việt Nam; xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng và tính ưu việt của chế độ XHCN ở nước ta. Vì sao các thế lực thù địch lại tăng cường các hoạt động chống Đảng, Nhà nước, Quân đội và Nhân dân ta vào dịp chiến thắng 30-4 và chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7-5 hằng năm?
Bởi vì, chiến thắng của quân và dân ta là nỗi đau và sự ô nhục của kẻ thù, làm cho chúng càng thêm run sợ phẩm chất, uy tín, vị thế của “Bộ đội Cụ Hồ”. Hơn ai hết, các thế lực thù địch hiểu rõ sức mạnh bách chiến, bách thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam; giá trị, ý nghĩa và sự lan tỏa của danh xưng “Bộ đội Cụ Hồ”. Hơn thế, “Bộ đội Cụ Hồ” là tên gọi bình dị, gần gũi, thân thương nhưng vô cùng cao quý, được nhân dân ta khen tặng cán bộ, chiến sĩ, phản ánh đầy đủ, sâu sắc và tập trung nhất những phẩm chất tốt đẹp của Quân đội ta. Danh xưng ấy đã trở thành sức mạnh và biểu tượng sáng ngời về chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; được hình thành, phát triển trong suốt quá trình xây dựng, chiến đấu và trưởng thành của Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng.
Cán bộ, chiến sĩ Quân đội và nhân dân luôn trân trọng, giữ gìn danh hiệu cao quý “Bộ đội Cụ Hồ” như giữ gìn điều thiêng liêng nhất với danh dự, trách nhiệm, tình yêu và lương tâm của mình - sự tôn kính đối với Bác Hồ kính yêu. Nhờ đó, đã làm nên những chiến công hiển hách, những chiến thắng vẻ vang. Chính những điều đó làm cho các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị sôi lên “như đỉa phải vôi”, không thể chấp nhận sự thật ấy; cho nên đã cố tình tìm mọi biện pháp chống phá Quân đội ta.
Rõ ràng là, xuyên tạc hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” là âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm độc của các thế lực thù địch nhằm chống phá Đảng, Nhà nước và Quân đội ta trước đây cũng như hiện nay. Lúc này, đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, bôi đen hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” có ý nghĩa hết sức quan trọng, là nhiệm vụ cấp bách trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng; giữ gìn và phát huy bản chất, truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng; góp phần gìn giữ anh hiệu cao quý, thiêng liêng, một báu vật vô cùng quý giá mà Nhân dân dành riêng khen tặng Quân đội ta - Đây là những giá trị “có một không hai” vì trên thế giới không quân đội nào có được niềm vinh dự, tự hào như Quân đội ta.
Phủ nhận tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh - một cấu phần đặc biệt quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta, các thế lực thù địch đang thực hiện chiêu trò: Hạ bệ “thần tượng” Hồ Chí Minh, bôi đen hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, làm cho hình tượng về Người mất đi tính chất thiêng liêng, sự trân trọng, giá trị kiểu mẫu. Từ đó, làm mất đi tình cảm, niềm tin; sự ngưỡng mộ và lòng biết ơn, kính trọng của nhân dân ta đối với Bác Hồ. Qua đó, làm mất vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với Quân đội ta.
Đó là cái đích cuối cùng các thế lực thù địch hướng đến để thực hiện “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội, gạt bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng ra khỏi Quân đội; biến Quân đội ta thành những người lính nhà nghề, “đánh thuê”, không còn những nhiệm vụ từ mệnh lệnh trái tim; phai nhạt mục tiêu, lý tưởng chiến đấu. Đây là âm mưu, thủ đoạn vô cùng thâm độc, cán bộ, chiến sĩ Quân đội ta cần nhận diện đầy đủ, sâu sắc sự phản động ấy để có biện pháp đấu tranh phù hợp, hiệu quả.
Chúng ta cần ý thức sâu sắc rằng, phẩm chất, hình ảnh, hình tượng “Bộ đội Cụ Hồ” có vị trí đặc biệt quan trọng trong lòng nhân dân và Quân đội nhân dân Việt Nam. Bác Hồ là niềm tin, biểu tượng của lẽ phải, của chân lý, dẫn dắt dân tộc Việt Nam đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng cuộc sống hòa bình, độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc. Bác Hồ là người sáng lập Đảng ta và Quân đội ta, người Cha thân yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân. Tư tưởng của Người là một bộ phận đặc biệt quan trọng trong nền tảng tư tưởng của Đảng ta. Trong tâm thức và trái tim của mỗi người Việt Nam yêu nước và bạn bè quốc tế yêu chuộng hòa bình, Bác Hồ là người Việt Nam đẹp nhất, là Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người chiến sĩ cộng sản; còn văn hóa “Bộ đội Cụ Hồ”, còn mãi phẩm chất nhân cách người quân nhân cách mạng vì nước, vì dân.
Xuyên tạc phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” là âm mưu, thủ đoạn không mới nhưng tính chất lại rất nguy hiểm. Đây là sự “biến dạng” của âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” chống phá Việt Nam, một chiêu trò thực hiện “phi chính trị hóa”, “dân sự hóa” quân đội được che đậy kín đáo và hết sức tinh vi. Vì vậy, nâng cao cảnh giác cách mạng, kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” vừa là yêu cầu, nhiệm vụ cấp bách hiện nay, vừa là tiếng gọi từ trái tim, mệnh lệnh của cuộc sống.
Để làm thất bại âm mưu, thủ đoạn xuyên tạc, hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh; xuyên tạc, bôi đen phẩm chất, hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ”, thực hiện “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch, chúng ta cần thực hiện tốt những nội dung sau đây: 1) Thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ XI; 2) Tiếp tục giữ gìn, vun đắp, xây dựng và lan tỏa hình ảnh, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” trong thời kỳ mới; 3) Tiếp tục học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện tốt Cuộc vận động phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh “Bộ đội Cụ Hồ” thời kỳ mới”; 4). Tuyệt đối không cho phép, không chấp nhận bất kỳ một cá nhân, tổ chức và thế lực nào cố tình vu khống, bôi nhọ giá trị phẩm chất, nhân cách “Bộ đội Cụ Hồ”; 5). Thường xuyên nêu cao cảnh giác, phát huy vai trò mọi tổ chức, cá nhân trong đấu tranh, ngăn chặn những hành vi bôi nhọ, vu khống làm tổn hại đến giá trị thiêng liêng, phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” cao quý.
Khẳng định “Bộ đội Cụ Hồ”, một cơ đồ tươi đẹp, một chất thép kiên trung đã, đang và mãi mãi là một giá trị tốt đẹp của văn hóa quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, chúng ta cần gìn giữ và lan tỏa những giá trị cao quý ấy./.

DƯƠNG PHƯƠNG DUY  

CẢNH GIÁC THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC CÔNG CUỘC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG

 Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội của thế lực thù địch xuất hiện nhiều luận điệu xuyên tạc, chống phá liên quan đến bộ máy chính trị của Việt Nam. Cụ thể, chúng đưa ra một số luận điệu như “khủng hoảng nhân sự cấp cao”, “Hai Chủ tịch nước rớt chức trong một năm là tín hiệu đáng lo ngại cho nhà đầu tư nước ngoài”, “việc ông Thưởng rớt đài đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ bất ổn tại Việt Nam”,…

Luận điệu xuyên tạc liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng của các thế lực thù địch
Luận điệu xuyên tạc liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng của các thế lực thù địch
Đất nước chúng ta vừa trải qua một sự thay đổi lớn về bộ máy chính trị mà ở đó, việc xử lý cán bộ vi phạm cho thấy sự quyết tâm làm trong sạch bộ máy lãnh đạo của Đảng hơn bao giờ hết. Có thể thấy, cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng là “không có vùng cấm, không có ngoại lệ”. Công tác đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là một trong những nội dung cốt lõi của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã và đang được đẩy mạnh, giúp cho đất nước ta không ngừng ổn định, phát triển, tạo thế và lực cho Việt Nam trên trường quốc tế.
Thực tiễn cho thấy, Đảng ta tập trung lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết, chặt chẽ, thường xuyên, liên tục và quyết liệt, không ngừng, không nghỉ với quan điểm không có vùng cấm, sai phạm đến đâu thì xử lý đến đó, không có ngoại lệ, không có đặc quyền và được tiến hành sâu rộng từ Trung ương đến địa phương. Quyết tâm đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực được thể hiện rất rõ trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng: “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí với quyết tâm chính trị cao hơn, hành động mạnh mẽ hơn và hiệu quả hơn”.
Ngày 30/6/2022, tại Hà Nội, trong bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực đã chỉ rõ: Trong giai đoạn 2012-2022, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.740 tổ chức đảng, hơn 167.700 cán bộ, đảng viên, trong đó có 7.390 đảng viên bị kỷ luật do tham nhũng; đã kỷ luật 170 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý, trong đó có 4 Ủy viên Bộ Chính trị, nguyên Ủy viên Bộ Chính trị; 29 Ủy viên Trung ương, nguyên Ủy viên Trung ương,... Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng.
Bên cạnh việc đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong bối cảnh kinh tế và địa chính trị toàn cầu còn nhiều bất ổn, nước ta vẫn được nhiều nhà đầu tư nước ngoài lựa chọn là điểm đến hấp dẫn, thu hút lượng lớn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) nhờ sự ổn định về chính trị và chính sách cởi mở, hội nhập sâu rộng của Đảng, Nhà nước ta. Cục Đầu tư nước ngoài nhận định, sự đồng hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, sự phối hợp chặt chẽ với các Bộ, ngành, địa phương trong việc chủ động tiếp cận, nắm bắt, tháo gỡ những điểm nghẽn, rào cản pháp lý đang cản trở hoạt động đầu tư kinh doanh của doanh nghiệp thời gian vừa qua đã giúp doanh nghiệp ổn định và cải thiện sản xuất kinh doanh.
Bất chấp những thành tựu đạt được trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng của đất nước ta, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị vẫn không ngừng rêu rao cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, tiêu cực là cuộc đấu đá, thanh trừng nội bộ, xử lý hàng loạt cán bộ làm mất ổn định chính trị, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư, kinh doanh, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Có thể thấy, mục đích của các thế lực thù địch nhằm tạo “hoài nghi” về tính đúng đắn của các chủ trương, chính sách cũng như phủ nhận quyết tâm, kết quả phòng chống tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn xã hội, làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Chúng tích cực lợi dụng công nghệ truyền thông, mạng xã hội và sự thiếu thông tin, hiểu biết của một bộ phận người dân để đăng tải các tin bài, video clip với nội dung xuyên tạc, bôi nhọ nạn tham nhũng của Việt Nam đang xảy ra ở khắp mọi nơi.
Từ thực tế trên, cán bộ, Đảng viên và người dân cần nâng cao nhận thức về quan điểm, chủ trương của Đảng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, cảnh giác trước những luận điệu xuyên tạc cũng như âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, phản động. Công tác đấu tranh, phản bác các luận điệu suy diễn, xuyên tạc liên quan đến việc phòng chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam cần được tiến hành thường xuyên, liên tục với hệ thống các giải pháp đồng bộ, hiệu quả, thiết thực (đa dạng, linh hoạt về nội dung, hình thức, phương pháp đấu tranh, đồng thời, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ về hệ thống pháp luật liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng) để đạt được hiệu quả cao nhất./.
Tác giả: Thu Trang

NĂM THÁNG SẼ QUA ĐI, CHIẾN THẮNG 30/4 MÃI MÃI ĐI VÀO LỊCH SỬ DÂN TỘC, LÃNG QUÊN LỊCH SỬ LÀ CÓ TỘI VỚI TIỀN NHÂN.

 Cách đây 49 năm (1975 - 2024), khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, trưa ngày 30/4/1975, quân và dân ta làm chủ thành phố Sài Gòn - Gia Định, bắt giữ và buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đánh dấu sự chấm hết của chế độ thực dân mới, mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng bị sụp đổ hoàn toàn. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại sâu sắc.

Sau khi Hiệp định Paris “Về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam” được ký kết (27/01/1973), nhận thấy tương quan so sánh lực lượng đã hoàn toàn nghiêng về phía ta, ngày 7/01/1975, Bộ Chính trị họp “Bàn về tình hình và nhiệm vụ cuộc chống Mỹ, cứu nước” hạ quyết tâm lịch sử: Giải phóng miền Nam. Bộ Chính trị nhận thấy quân Mỹ khó có khả năng quay lại tham chiến tại miền Nam và nhất trí thông qua phương án giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976, đồng thời chọn chiến trường Tây Nguyên làm hướng tiến công chủ yếu và xác định: “Chúng ta phải cố gắng cao nhất để thắng gọn trong năm 1975. Điều đó là một khả năng hiện thực”[1].
Để kiểm chứng nhận định trên, Bộ Chính trị quyết định mở Chiến dịch Đường số 14 - Phước Long, diễn ra từ ngày 13/12/1974 đến ngày 6/01/1975. Qua đòn trinh sát chiến lược này, Bộ Chính trị đã họp bổ sung quyết tâm giải phóng miền Nam ngay trong năm 1975. Đặc biệt, sau những thắng lợi liên tiếp của các đòn tiến công chiến lược, ngày 31/3/1975, Bộ Chính trị nhận định: “Cách mạng nước ta đang phát triển với nhịp độ một ngày bằng hai mươi năm”. Do vậy, Bộ Chính trị quyết định: Chúng ta phải nắm vững thời cơ chiến lược, quyết tâm thực hiện tổng tiến công và nổi dậy, kết thúc thắng lợi chiến tranh giải phóng trong thời gian ngắn nhất. Tốt hơn cả là bắt đầu và kết thúc trong tháng 4 năm nay, không để chậm”[2].
Thực hiện quyết tâm của Bộ Chính trị, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân đã đoàn kết một lòng, nỗ lực cao độ, tạo thành sức mạnh “triều dâng thác đổ” như thế chẻ tre, tiến hành thắng lợi Chiến dịch Hồ Chí Minh - trận quyết chiến chiến lược quyết định cuối cùng với quân thù. Chỉ trong một thời gian ngắn, với tinh thần “một ngày bằng hai mươi năm”, cùng lực lượng áp đảo, với một khối lượng lớn vật chất hậu cần đã có mặt ở khu vực tập kết, sẵn sàng tổng tiến công vào nội đô Sài Gòn. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã diễn ra và kết thúc thắng lợi vào ngày cuối cùng của tháng Tư (30/4/1975), theo đúng nhận định của Bộ Chính trị. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng hoàn toàn miền Nam, non sông thu về một mối.
Chiến thắng 30/4/1975 của dân tộc ta vô cùng vẻ vang oanh liệt, là thắng lợi của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, thắng lợi của đường lối và phương pháp cách mạng của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) - Đường lối giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - Đường lối chiến tranh nhân dân: Toàn dân, toàn diện, tự lực, tự cường; vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Đảng Lao động Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề ra đường lối, phương pháp cách mạng và đường lối chiến tranh nhân dân độc lập, tự chủ, đúng đắn, sáng tạo và đã lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện linh hoạt, sáng tạo bảo đảm thành công đường lối đó; giải quyết đúng đắn các mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp; giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế; động viên toàn dân, toàn quân đoàn kết tham gia kháng chiến và kiến quốc, tạo nên sức mạnh tổng hợp của dân tộc và thời đại, đưa sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn. Hơn nữa, chiến thắng 30/4/1975 còn là thắng lợi của nền văn hoá Việt Nam được xây đắp từ tinh hoa văn hoá của 54 dân tộc anh em trên đất nước ta, đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, vươn lên tự khẳng định sức sống trường tồn. Đó là nền văn hoá bắt nguồn từ lòng yêu thiên nhiên, yêu con người, yêu đất nước, yêu độc lập, tự do, hòa bình; từ lòng nhân ái, trọng chính nghĩa, ghét gian tà, thấm đượm chủ nghĩa nhân văn cao cả và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam; cởi mở tiếp thu những tinh hoa của nhiều nền văn hoá thế giới. Nền văn hoá ấy ngày càng được bồi đắp và không ngừng phát huy lên tầm cao mới - Nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Đó là cội nguồn sức mạnh vĩ đại của ý chí và trí tuệ Việt Nam, của bản lĩnh, lòng quả cảm và cốt cách Việt Nam, tạo nên sức sống mãnh liệt của nền văn hiến Việt Nam.
Đồng thời, chiến thắng 30/4/1975 thể hiện sự hội tụ sức mạnh của toàn dân tộc, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân. Đó là sức mạnh của chiến tranh nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam quang vinh và Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, với sự hy sinh to lớn của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với tinh thần: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”; “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người” và khí phách: “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”; là thắng lợi của khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc, tự do và thống nhất non sông của dân tộc Việt Nam.
Đại tướng Văn Tiến Dũng - Nguyên Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam thời chống Mỹ, cứu nước đã khẳng định với các nhà báo và học giả phương Tây rằng: “Một lần nữa tôi muốn nói rõ rằng nguồn gốc mọi thắng lợi của chúng tôi là sức mạnh của cả một dân tộc vùng lên làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình trong thời đại ngày nay”[3].
Hiện nay, trên một số phương tiện thông tin đại chúng, website và mạng xã hội xuất hiện những luận điệu xuyên tạc lịch sử, phủ nhận tầm vóc, ý nghĩa của Chiến thắng 30/4/1975; xuyên tạc bản chất, tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta; hạ thấp tầm vóc của chiến thắng, cho rằng chiến thắng 30/4/1975 không thể gọi là một chiến thắng vẻ vang, mà chỉ là một kết quả tất nhiên khi Mỹ thay đổi chính sách đối ngoại, rút quân, cắt viện trợ, bỏ rơi chính quyền và quân đội Sài Gòn... Tuy nhiên, thực tiễn lịch sử đã bác bỏ những luận điệu sai trái đó, vì cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là cuộc chiến đấu chính nghĩa nhằm đánh đuổi đế quốc Mỹ xâm lược, bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà. Thắng lợi vĩ đại 30/4/1975 là kết quả của cả một quá trình đấu tranh anh dũng, kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam. Do đó, chiến thắng 30/4/1975 thuộc về dân tộc Việt Nam, Đảng quang vinh, Bác Hồ vĩ đại; thắng lợi của sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, các lực lượng tiến bộ và yêu chuộng hòa bình trên thế giới, đúng như Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (tháng 12/1976) đã khẳng định: “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tình thời đại sâu sắc”[4].
Trong giai đoạn cách mạng mới, dù tình hình quốc tế, khu vực luôn có những diễn biến phức tạp, khó lường; sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế vẫn còn nhiều thách thức, khó khăn phải vượt qua nhưng tầm vóc, ý nghĩa và giá trị của chiến thắng 30/4/1975 - Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước mãi trường tồn. Đó vừa là niềm tự hào, là động lực và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay./.
VOV
………………………………..
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.10.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 36, Nxb CTQG, Hà Nội, 2004, tr.95 - 96.
[3] Phạm Văn Đồng, Lê Đức Thọ, Văn Tiến Dũng, Nguyễn Cơ Thạch: Vì sao Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1986, tr..48.
[4] Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV (12/1976). Dẫn theo Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, Tập 37 (1976), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.471.

49 năm thống nhất đất nước: Khát vọng hòa bình trong trái tim người trẻ

 

Cách đây 49 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm với tốc độ “một ngày bằng 20 năm". Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh dấu sự trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và chỉ huy tác chiến hiệp đồng

Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân 1975 của quân và dân ta đã tạo ra bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc; đập tan bộ máy ngụy quyền Việt Nam cộng hòa, non sông thu về một mối; là chiến thắng vĩ đại, hiển hách trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.

Sôi nổi phong trào "Ba sẵn sàng"

Đại thắng mùa Xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Từ đây, đất nước ta bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Con đường đi tới thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là 21 năm gian khổ và ác liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta; là sự đánh đổi máu xương của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với biết bao sự hy sinh của những người con anh dũng trên dải đất hình chữ S. Khát vọng hòa bình, độc lập, tự do luôn được nuôi dưỡng cháy bỏng trong trái tim những người con ưu tú của đất nước, dù là cách đây gần 50 năm hay tới tận mai sau.

Trong mọi thời kỳ của đất nước, thanh niên luôn là lực lượng xung kích, rường cột. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước đã có hơn 5 triệu lượt đoàn viên, thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang; trên 133.000 đoàn viên, thanh niên, trong đó hơn 69.000 nữ tham gia thanh niên xung phong.

 Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là hiện thân của những phong trào cách mạng mang tính toàn dân tộc do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Quá trình đi đến ngày toàn thắng đã ghi dấu ấn nhiều phong trào cách mạng của thế hệ trẻ, trong đó “Ba sẵn sàng” là cuộc vận động có sức lôi cuốn mạnh mẽ, rộng khắp, khởi đầu từ tuổi trẻ Thủ đô Hà Nội, sau đó trở thành phong trào thi đua chung của thanh niên cả nước.

Phong trào “Ba sẵn sàng” có ý nghĩa hết sức to lớn và để lại nhiều kinh nghiệm quý báu về công tác thanh vận của Đảng nhằm phát huy hơn nữa ý chí, tinh thần cống hiến, sức sáng tạo hiện nay.

Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12-1965) của Đảng đề ra nhiệm vụ: Cả nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, dù trong bất kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.

Theo tinh thần đó, từ năm 1966, phong trào “Ba sẵn sàng” tiếp tục mở rộng những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược mới của Đảng, đó là: “Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập các lực lượng vũ trang; sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học tập trong bất kỳ tình huống nào; sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần đến."

Một đặc trưng của phong trào “Ba sẵn sàng” là tinh thần sẵn sàng gia nhập quân đội, đi thanh niên xung phong, sẵn sàng tham gia chiến đấu, chiến đấu dũng cảm. Những lá đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ viết bằng máu và nhiều cuốn nhật ký của những thanh niên, chiến sỹ trẻ đã nói lên ý chí quyết tâm “Ba sẵn sàng” của thanh niên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.

Trong thanh niên học sinh, sinh viên trí thức, hàng nghìn giáo viên, sinh viên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khi đó đã hưởng ứng phong trào “Ba sẵn sàng," xếp bút nghiên lên đường ra trận. Họ đã góp phần làm nên truyền thống anh hùng của thanh niên miền Bắc, của tuổi trẻ các trường đại học, trong đó nhiều người đã anh dũng hy sinh trên chiến trường miền Nam...

Lan tỏa tinh thần xung kích, tình nguyện

Sinh ra trong hòa bình, ý niệm và khát vọng hòa bình trong thế hệ thanh niên hôm nay được thắp lên và lớn dần trong lòng những người trẻ theo từng năm tháng, với bước chân qua từng tấc đất quê hương ngấm xương máu cha anh nơi họ đi qua, trong mỗi bài ca cách mạng mà họ hát, nơi mỗi một di tích lịch sử họ được ghé thăm...

Đối với người trẻ, khát vọng hòa bình chính là mong muốn cháy bỏng được cống hiến, góp sức giữ gìn và dựng xây Tổ quốc, để đất nước hùng cường, có cơ đồ, vị thế lớn, ngăn tất cả những nguy cơ của chiến tranh.

Tiếp nối tinh thần của phong trào “Ba sẵn sàng," Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã phát động trong thanh niên cả nước nhiều chương trình hành động tiêu biểu, như “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác;” “Nghĩa tình biên giới hải đảo,” “Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo quê hương,” “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi,” “Góp đá xây Trường Sa;” các phong trào: “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới,” “Thanh niên tham gia xây dựng văn minh đô thị," “Sinh viên 5 tốt”, “3 trách nhiệm," “Sáng tạo trẻ”...

Đặc biệt là các phong trào “Xung kích, tình nguyện phát triển kinh tế  -xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp” đã được triển khai rộng rãi với hàng chục triệu lượt thanh niên tham gia. Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè, trải qua hơn 20 năm triển khai, đến nay đã trở thành phong trào rộng lớn trong thanh niên mang lại nhiều kết quả to lớn.

Nhiều đội thanh niên, sinh viên tình nguyện đã không ngại khó khăn, gian khổ để đến với đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng để có các hoạt động thiết thực giúp đỡ người dân, như dạy học, làm lại nhà cửa, khám chữa bệnh. Nhiều trí thức trẻ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã về những nơi khó khăn, gian khổ, cầm tay, chỉ việc, giúp người dân phát triển kinh tế, thoát nghèo, làm giàu cho quê hương, đất nước.

Năm 2024 kỷ niệm 49 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, song cũng đánh dấu tròn 20 năm tháng Ba được Đảng, Nhà nước đồng ý lựa chọn là Tháng Thanh niên. Chặng đường đó đã ghi dấu ấn của lớp lớp thế hệ thanh niên Việt Nam trong quá trình đóng góp xây dựng đất nước, với tinh thần xung kích, tình nguyện, sáng tạo vì lợi ích của cộng đồng, xã hội, cũng như sự quan tâm, hỗ trợ đối với công tác phát triển thanh niên.

Tháng Thanh niên đã trở thành một hoạt động thường niên vô cùng ý nghĩa gắn liền với công tác thanh niên trong các cấp bộ đoàn, đoàn viên, thanh niên cả nước; ghi dấu ấn bằng hàng loạt công trình, phần việc thiết thực hướng đến cộng đồng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, vừa rèn luyện, vừa trải nghiệm nhiều bài học bổ ích, trở thành những kỷ niệm rạng rỡ của tuổi trẻ qua các việc làm đẹp.

Trong suốt chặng đường 20 năm Tháng Thanh niên, đã có hơn 100 triệu lượt đoàn viên, thanh niên tham gia các hoạt động trong Tháng Thanh niên. Thanh niên cả nước đã chung tay thực hiện hơn 668.000 công trình, phần việc thanh niên trên mọi miền Tổ quốc với tổng giá trị ước tính lên tới 4.500 tỷ đồng; hàng triệu suất quà được trao đến tay người dân trên khắp cả nước.

Là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ, đồng thời tích cực hợp tác cùng các quốc gia khác giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn định của khu vực và thế giới.

Sau gần 10 năm triển khai lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc, Việt Nam đã cử khoảng 800 lượt cán bộ, nhân viên đi thực hiện nhiệm vụ tại các phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc ở cả hình thức cá nhân và đơn vị.

Lực lượng này chủ yếu là các sĩ quan, quân nhân trẻ, được tuyển chọn từ các đơn vị trong toàn quân; trải qua các kỳ kiểm tra, sát hạch nghiêm ngặt, đáp ứng được yêu cầu cao của Liên hiệp quốc, có đủ phẩm chất, năng lực làm việc trong môi trường quốc tế.

Các quân nhân trẻ của Việt Nam được triển khai luôn phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trên cương vị, chức trách được giao, được Liên hiệp quốc và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, góp phần lan tỏa hình ảnh đẹp về Bộ đội Cụ Hồ, về Quân đội Nhân dân Việt Nam và đất nước, con người Việt Nam tươi đẹp, yêu chuộng hòa bình và luôn sẵn sàng đóng góp cho các sứ mệnh nhân đạo, vì nền hòa bình của thế giới.