Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024
TÌM HIỂU GIÚP BẠN: NGƯỜI LAO ĐỘNG SẼ ĐƯỢC NGHỈ 4 NGÀY DỊP LỄ QUỐC KHÁNH NĂM NAY!
Quan điểm của Đảng ta về Bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Quán triệt đường lối cách mạng của Đảng qua các thời kỳ và từ thực tiễn của cuộc đấu tranh cách mạng ở nước ta từ sau năm 1975 đến nay, tư duy về bảo vệ Tổ quốc của chúng ta đã có sự phát triển từng bước và đổi mới mạnh mẽ trong quá trình đổi mới đất nước.
Tư duy về bảo vệ Tổ quốc từ chủ yếu là tư duy về quân sự, về chiến tranh đã phát triển một cách toàn diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, ngoại giao, quân sự; về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, xây dựng quân đội nhân dân để chủ động ứng phó với mọi tình huống, ngăn ngừa chiến tranh, tạo môi trường hoà bình để xây dựng đất nước, đồng thời chuẩn bị sẵn sàng tiến hành thắng lợi chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc
Phải kết hợp chặt chẽ quốc phòng – an ninh với đối ngoại; quốc phòng, an ninh, đối ngoại với xây dựng kinh tế, xây dựng đất nước theo đường lối đổi mới của Đảng. Trong khi đặt nhiệm vụ trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, luôn coi trọng nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, coi đó là hai nhiệm vụ gắn bó chặt chẽ, quan hệ khăng khít với nhau
Yêu cầu của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay được thể hiện trên một số nội dung chủ yếu sau đây:
Bảo vệ độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc gắn chặt với bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ Tổ quốc ngày nay là bảo vệ vững chắc Tổ quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh kinh tế, an ninh tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trì trật tự, kỷ cương, an toàn xã hội; giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị động, bất ngờ.
Xây dựng và phát triển chế độ kinh tế xã hội chủ nghĩa một cách toàn diện, vững mạnh, đồng thời phải trực tiếp bảo vệ từng tế bào của chế độ một cách kiên quyết và thường xuyên. Xây dựng và bảo vệ xâm nhập lẫn nhau, diễn ra một cách phổ biến, thường xuyên ở mọi lúc mọi nơi, trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoạt động, trong mỗi tổ chức, mỗi con người.
Tư duy mới về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn hiện nay, một mặt nhấn mạnh tích cực xây dựng đất nước về mọi mặt theo đúng định hướng xã hội chủ nghĩa; mặt khác không coi nhẹ các biện pháp vũ trang bảo đảm có đủ sức mạnh cần thiết để răn đe, giữ vững hoà bình và sẵn sàng đánh bại chiến tranh xâm lược. điều đó đòi hỏi:
Phải chăm lo xây dựng tiềm lực mọi mặt của đất nước: tiềm lực kinh tế, tiềm lực chính trị – tinh thần, tiềm lực khoa học – công nghệ và tiềm lực quân sự tạo nên sức mạnh tổng hợp của nền quốc phòng toàn dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, bảo vệ, giữ gìn hoà bình, không để xảy ra chiến tranh là thượng sách để giữ nước. Xây dựng đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội là tạo ra sức mạnh lớn nhất để bảo vệ đất nước, là quá trình bảo vệ tích cực nhất, chủ động nhất. Mỗi bước phát triển của quá trình xây dựng là tạo nên một sức mạnh mới để bảo vệ Tổ quốc
Tăng cường xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Gắn chặt nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại trong công cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, chủ động đối phó có hiệu quả và sẵn sàng đập tan mọi âm mưu và hành động chống phá từ bên trong và tấn công quân sự từ bên ngoài của các thế lực thù địch.
Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Vận dụng sáng tạo những nguyên lý xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của chủ nghĩa Mác – Lênin, kế thừa những kinh nghiệm quý báu về xây dựng lực lượng vũ trang trong quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc, Đảng ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, xây dựng và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc, làm cho lực lượng vũ trang ta luôn là lực lượng chính trị trung thành và tin cậy của Đảng, của Nhà nước và của nhân dân.
Bằng hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam về chính trị, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta di sản quý báu, thể hiện ở một số nội dung sau:
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đặt lên hàng đầu vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở cho mọi mặt khác, coi việc xây dựng nhân tố chính trị tinh thần là một trong những yêu tố quyết định đến tiến trình và kết cục của chiến tranh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “ Nhiệm vụ quân sự phải phục tùng nhiệm vụ chính trị” và “Quân sự mà không có chính trị như cây không có gốc, vô dụng lại có hại”
Tư tưởng coi trọng nhân tố chính tri – tinh thần, coi trọng nguyên tắc xây dựng về chính trị thể hiện tập trung ở vấn đề cốt lõi là củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang, bảo đảm cho lực lượng vũ trang ta luôn luôn là lực lượng chính trị trung thành tin cậy của Đảng, của Nhà nước, của nhân dân.
Xây dựng bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang ở một nước mà thành phần tham gia lực lượng vũ trang là con em của các tầng lớp nhân dân lao động, chủ yếu là nông dân, là đóng góp lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về lý luận xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới của giai cấp công nhân. Đồng thời chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận về sự thống nhất gắn bó giữa bản chất giai cấp công nhân với tính nhân dân và tính dân tộc của lực lượng vũ trang nhân dân.
Hồ Chí Minh đã giải quyết đúng đắn các mối quan hệ cơ bản như quan hệ giữa lực lượng vũ trang với Đảng, với Nhà nước, với nhân dân, quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, quan hệ giữa lực lượng vũ trang ta với lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa – những mối quan hệ cơ bản quyết định quá trình hình thành, phát triển bản chất cách mạng và truyền thống tốt đẹp của quân đội ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị gắn liền với những quan điểm xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trải qua thực tiễn hơn sáu thập kỷ qua những tư tưởng đó ngày càng được bổ sung, hoàn thiện và trở thành những vấn đề có tính nguyên tắc trong xây dựng lực lượng vũ trang. Đó là nguyên tắc coi trọng xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị, lấy xây dựng vững mạnh về chính trị là “gốc”, là cơ sở cho xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện; không ngừng củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân, tinh nhân dân, tính dân tộc; giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng; kiên định mục tiêu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; xác lập và không ngừng nâng cao hiệu lực công tác đảng, công tác chính trị; xây dựng tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch, vững mạnh và xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng.
Thực tiễn xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta đã tạo dựng được sức mạnh chính trị – tinh thần to lớn của lực lượng vũ trang để chiến đấu và chiến thắng những lực lượng vũ trang xâm lược nhà nghề có số lượng đông, có vũ khí, trang bị, kỹ thuật hiện đại. Lực lượng vũ trang ta đã lập nên những chiến công vẻ vang, góp phần xuất sắc vào sự nghiệp đấu tranh giành quyền độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc, vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Những giá trị lý luận xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo trong giai đoạn hiện nay – giai đoạn lực lượng vũ trang phải tập trung sức tạo ra bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng, xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở.
Vai trò của lực lượng vũ trang nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Hiện nay, đất nước đang tiến hành công cuộc đổi mới hướng đến thực hiện khát vọng của dân tộc là cuộc sống phồn vinh, hạnh phúc. Để biến khát vọng đó thành hiện thực, mỗi tổ chức và mỗi cá nhân có vai trò quan trọng trong tiến trình đó. Lực lượng vũ trang nhân dân với chức năng, nhiệm vụ của mình, xá định rõ và cần làm tốt ọt số vấn đề sau:
Cùng toàn Đảng, toàn dân tích cực đấu tranh phong chống “Diễn biến hoà bình” , bạo loạn lật đổ; là lực lượng nòng cốt xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân, ngăn chặn và làm thất bại các cuộc chiến tranh xâm lược ở các quy mô và cường độ khác nhau, làm tròn chức năng đội quân chiến đấu cả vũ trang và phi vũ trang trong giai đoạn mới
Luôn luôn là lực lượng chính trị đặc biệt tin cậy, góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là trên lĩnh vực chính trị, giữa vững ổn định chính trị của đất nước, tạo môi trường chính trị thuận lợi để phát triển kinh tế, mở rộng quan hệ đối ngoại, làm tròn chức năng đôi quân công tác trong giai đoạn mới.
Tích cực tham gia, xây dựng kinh tế, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Lực lượng vũ trang không chỉ là lực lượng bảo vệ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, mà còn là lực lượng quan trọng góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, làm tròn chức năng lực lượng vũ trang lao động sản xuất trong giai đoạn mới.
Chủ động, sáng tạo, đi đầu trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, cùng với hệ thống chính trị xây dựng “thế trận lòng dân”, góp phần tạo dựng sức mạnh từ cơ sở, trong mỗi tổ chức, mỗi con người cho nhiệm vụ xây dựng và BVTQ xã hội chủ nghĩa!
Chăm lo xây dựng tổ chức đảng, tổ chức quần chúng trong đơn vị, góp phần nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh SSCĐ và chiến đấu đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới!
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá và vấn đề đặt ra đối với xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Cuộc đấu tranh để giải quyết vấn đề “ ai thắng ai” giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản, nhằm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của đời sống xã hội những nhân tố kinh tế, chính trị xã hội, giai cấp, tư tưởng đang biến đổi và tác động đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị trên các mặt chủ yếu sau đây:
Sự tác động của nền kinh tế nhiều thành phần, cơ chế thị trường đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị
Sự phát triển của kinh tế, sự ổn định chính trị của đất nước đã tác động tích cực đến nhận thức chính trị, tư tưởng, tình cảm, tâm lý của cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang: lòng tin vào Đảng, vào chế độ được củng cố, ý thức, trách nhiệm chính trị đối với sự nghiệp xây dựng lực lượng vũ trang, củng cố quốc phòng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc được nâng cao, làm tăng thêm sức mạnh chính trị – tinh thần của lực lượng vũ trang .
Tuy nhiên, bên cạnh sự tác động tích cực, thì mặt trái của nền kinh tế nhiều thành phần và cơ chế thị trường đã làm xuất hiện những tiêu cực mới, tác động không nhỏ đến lực lượng vũ trang như: ý thức giác ngộ chính trị; nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; sự thoái hoá biến chất, chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Vì vậy, việc giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa, kiên định mục tiêu, lý tưởng, con đường chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn là vấn đề cốt tử trong xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Sự tác động của những biến đổi về cơ cấu xã hội – giai cấp ở nước ta hiện nay đến xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị. Trong quá trình vận động, biến đổi, các giai cấp và tầng lớp xã hội có xu hướng xích lại gần nhau, liên kết, hợp tác với nhau, trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Mặt khác với cơ cấu xã hội – giai cấp không thuần nhất, phát triển đa dạng, đan xen, vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau dẫn tới sự không thuần nhất về chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng, sự xuất hiện các khuynh hướng chính trị – tư tưởng khác nhau thậm chí đối lập nhau sẽ tác động đến quá trình xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay phải giải quyết mâu thuẫn giữa việc tiếp tục xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực lượng vũ trang với thành phần tham gia lực lượng vũ trang từ các giai cấp, tầng lớp khác nhau của nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ.
Xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị theo quan điểm Chủ nghĩa Mác – Lênin
Cũng như giai cấp và nhà nước, chiến tranh và quân
đội là những hiện tượng chính trị xã hội. Sự xuất hiện của chiến tranh và lực
lượng vũ trang gắn chặt với sự xuất hiện
của giai cấp và nhà nước. C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã nghiên cứu lý
luận về chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó
với lý luận về giai cấp và nhà nước.
Lực lượng vũ trang là một hiện tượng lịch sử. Lực lượng vũ trang ra đời
trong giai đoạn phát triển nhất định của xã hội loài người, khi xuất hiện chế
độ tư hữu và loài người bị phân chia thành các giai cấp. Đi đôi với việc phân
chia xã hội thành giai cấp, sự bất bình đẳng về sở hữu tài sản càng trở nên sâu
sắc, lực lượng vũ trang được tăng cường và có cơ cấu tổ chức chặt chẽ hơn. Khi
xuất hiện bộ máy cưỡng bức đặc biệt là nhà nước, thì cũng đẻ ra thiết chế xã hội mới về chất là lực
lượng vũ trang
Khi đã xuất hiện chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước, nảy sinh mâu
thuẫn đối kháng thì chiến tranh cũng xuất hiện trong đời sống xã hội. đối với
bọn bóc lột thì chiến tranh đã trở thành phương tiện và công cụ quan trọng để
nô dịch các dân tộc khác, để củng cố địa vị thống trị của chúng ở trong nước.
Ăng ghen đã viết: “ Quân đội là một tập đoàn người vũ trang có tổ chức, do nhà
nước xây dựng nên và dùng vào cuộc chiến tranh tấn công hoặc chiến tranh phòng
ngự”
Như vậy, sự xuất hiện của hiện tượng
lực lượng vũ trang trong lịch sử gắn chặt với sự xuất hiện của chế độ tư
hữu, giai cấp, nhà nước và chiến tranh. Lực lượng vũ trang là công cụ để thực
hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định.
C. Mác, Ph. Ăng ghen và Lênin
xem xét vấn đề chiến tranh và lực lượng vũ trang trong mối quan hệ chặt chẽ với
chính trị. Phạm trù bạo lực, chiến tranh và lực lượng vũ trang bao giờ cũng gắn
liền với phạm trù chính trị - giai cấp. Chiến tranh là sự kế tục của chính trị
bằng thủ đoạn bạo lực; lực lượng vũ trang là công cụ để tiến hành chiến tranh,
để thực hiện mục đích chính trị của một giai cấp, một nhà nước nhất định
Lực lượng vũ trang là lực lượng đặc biệt của một giai cấp, là công cụ
vũ trang chủ yếu của nhà nước để tiến hành chiến tranh nhằm thực hiện mục đích
chính trị của giai cấp. lực lượng vũ trang hiện và tồn tại gắn liền với chính
trị, bị chi phối bởi chính trị, là công cụ thực hiện chính trị. Mọi mặt hoạt
động của lực lượng vũ trang đều bị quy định bởi chính trị và phụ thuộc vào
chính trị. Chính trị quy định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, các mối quan hệ
giữa lực lượng vũ trang với giai cấp, với chế độ xã hôi, với nhan dân, với dân
tộc. Lực lượng vũ trang bao giờ cũng gắn
chặt với giai cấp, nhà nước đã sinh ra nó, mang bản chất giai cấp sâu sắc.
Không có và không thể có lực lượng vũ
trang “phi giai cấp” hoặc “siêu giai cấp”, “quân đội phi chính trị” hoặc “đứng
ngoài chính trị”.
Trong khi chăm lo xây dựng sức mạnh toàn diện của
lực lượng vũ trang, để làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới thực sự trung thành
và phục vụ lợi ích của giai cấp vô sản, Mác, Ăng ghen và Lênin hết sức chăm lo
xây dựng lực lượng vũ trang về chính
trị, nhất là chăm lo củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân cho lực
lượng vũ trang, coi đó là vấn đề sống còn của lực lượng vũ trang cách mạng, là
một trong những nguyên tắc hết sức cơ bản trong xây dựng lực lượng vũ trang
kiểu mới.
Trong quá trình xây dựng lực
lượng vũ trang về chính trị; xây dựng, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân cho lực lượng vũ trang, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin đã
thường xuyên quan tâm xây dựng cả 3
phương diện chính trị, tư tưởng và tổ chức. Đó là sự kiên định và thực hiện mục
tiêu, lý tưởng chiến đấu của giai cấp công nhân; giáo dục hệ tư tưởng Mác –
Lênin, thực hiện đường lối, nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân; xây dựng
đội ngũ cán bộ, sĩ quan lực lượng vũ trang theo quan điểm, đường lối của giai
cấp công nhân. Mặt khác, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm xây
dựng, củng cố và phát triển mối quan hệ giữa lực lượng vũ trang với nhân dân,
coi đây là một trong những nguyên tắc hết sức quan trọng trong xây dựng lực
lượng vũ trang cách mạng, làm cho lực lượng vũ trang kiểu mới khác về chất với
các kiểu lực lượng vũ trang của giai cấp, nhà nước bóc lột trước đây. Đồng
thời, C. Mác, Ph. Ăng ghen và V.I Lênin rất quan tâm đến tăng cường xây dựng các
mối quan hệ trong nội bộ lực lượng vũ trang, nhất là mối quan hệ giữa cán bộ và
chiến sĩ trên tinh thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật, trên cơ sở thống nhất về
nghĩa vụ và quyền lợi; tăng cường củng cố và phát triển mối quan hệ hữu nghị
giữa lực lượng vũ trang các nước xã hội chủ nghĩa trên tinh thần quốc tế vô
sản.
V.I Lênin đặc biệt quan tâm đến việc giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản, tiến hành công tác tưởng, công tác tổ chức trong lực lượng
vũ trang, coi đó là một nguyên tắc xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, trực
tiếp nâng cao chất lượng chính trị, góp phần nâng cao sức mạnh chiến đấu của
lực lượng vũ trang. V.I Lênin đã kiên quyết đấu tranh bác bỏ luận điểm sai lầm
và phản động của giai cấp tư sản coi lực lượng vũ trang “ là trung lập đứng
ngoài chính trị”, từ đó đi tới phủ nhận nội dung giai cấp trong xây dựng lực
lượng vũ trang.
Những thảm kịch ở Liên Xô và Đông Âu đầu những năm 90 vừa qua là bài
học đau xót và lời cảnh tỉnh cho những ai xa rời những nguyên lý, nguyên tắc
của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng lực lượng vũ trang kiểu mới, nhất là vấn
đề xây dựng lực lượng vũ trang về chính
trị, củng cố và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của lực lượng vũ trang
kiểu mới.
SỰ GÓP Ý
Dựa và quần chúng nhân dân để xây dựng
Đảng là một nguyên lý; là vấn đề thuộc quan điểm và là giải pháp cơ bản, thường
xuyên rất quan trong của Đảng ta trong suốt hơn 94 năm qua và sẽ được tiếp tục
thực hiện trong thời gian tới. Thực tiễn chỉ rõ, chính thực hiện tốt vấn đề trên
mà Đảng ta được xây dựng vững mạnh về mọi mặt, xứng đáng là người lãnh đạo,
người cầm lái con thuyền cách mạng Việt nam vượt qua bao khó khăn, thách thức,
có lúc hết sức ngặt ngèo để đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Đại đa số nhân dân ta đều hiểu rõ điều đó, luôn biết ơn, quý
trọng, gần gũi, gắn bó và “một lòng một dạ” đi theo Đảng; tuy nhiên, thời nào
cũng vậy, có một số phần tử phản động, cơ hội, bất mãn trong nước cùng với các
thế lực thù địch ngoài nước cố tình không nhận ra điều đó và tìm mọi cách xuyên
tạc, nói xấu... để chống phá Đảng, Nhà nước ta.
Hiện nay, chúng thường dùng chiều trò “thư ngỏ”, “góp ý”, “kiến
nghị” với Đảng, Nhà về vấn đề nọ, vấn đề
kia... Khi chúng ta bác bỏ những ý kiến sai trái, phản khoa học, phản động, thù
địch thì chúng lu loa là không tiếp thu “quan điểm khác”, là thành kiến, trù
dập những người có “quan điểm” khác... Vậy vấn đề nên được cắt nghĩa như thế
nào cho khách quan?
Chẳng
khó gì trong phân biệt rõ giữa “quan điểm khác” với “quan điểm thù địch”. Về
vấn đề này, cụ thể là: Nếu “quan điểm khác”, tức là không giống quan điểm của
Đảng (điều đó là bình thừng) mà không trái với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, có
lợi cho đất nước và nhân dân, có lợi cho việc giải quyết vấn đề “quốc kế dân
sinh” trong quá trình phát triển của quốc gia dân tộc thì cần nghiên cứu tiếp
thu. Nếu như “quan điểm khác” nhưng trái với mục tiêu, lý tưởng, trái với chủ
trương, đường lối của Đảng, đi ngược lại lợi ích của quốc gia, dân tộc thì cần
phải kiên quyết lên án và đấu tranh bác bỏ bằng những biện pháp cần thiết. Như
vậy, và chỉ như vậy chúng ta mới dứt khoát được về nhận thức, lập trường và
biện pháp cụ thể trong xử lý với những vấn đề trên. Tin tưởng rằng tuyệt đại đa
số cán bộ, đảng viên và nhân ân ủng hộ và các thế lực thù địch, kẻ xấu khó có
bề lợi dụng “dân chủ” để chống phá./.
Tấm gương tiêu biểu cho lớp thanh niên yêu nước
Đồng chí Trần Phú là Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng ta, cả cuộc đời đồng chí đã cống hiến cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc.
Sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, khi đất nước còn chìm đắm trong vòng nô lệ, hơn 4 tuổi mồ côi cha, 6 tuổi mồ côi mẹ, tuổi thơ Trần Phú đã tận mắt chứng kiến những nỗi thống khổ, bất công mà các tầng lớp nhân dân lao động phải chịu dưới ách áp bức, bóc lột của chính quyền thực dân, phong kiến. Trần Phú đã sớm có ý thức tự lập, vượt khó vươn lên trong học tập và đến với các tổ chức yêu nước, đến với phong trào cách mạng.
Truyền thống lịch sử, văn hóa, tinh thần cách mạng nơi đồng chí sinh ra (thôn An Thổ, xã An Dân, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên) và quê hương dòng tộc (xã Tùng Ảnh, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh) đã để lại cho Trần Phú những ấn tượng sâu sắc, góp phần bồi đắp cho người thanh niên lòng yêu quê hương, đất nước, căm ghét bọn cướp nước và bè lũ tay sai, hun đúc ý chí và tinh thần học hỏi, vươn lên tìm con đường cứu nước.Từ khi còn là học sinh, Trần Phú đã giúp đỡ bạn bè cùng chí hướng như Hà Huy Tập, Hà Huy Lương, Trần Văn Tăng, Trần Mộng Bạch, Ngô Đức Diễn,... và cùng nhau nuôi dưỡng tinh thần yêu nước. Họ lập ra nhóm “Thanh niên tu tiến hội” để cùng nhau đọc sách, trao đổi, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, được cổ vũ bởi tấm gương cựu học sinh Quốc học Huế Nguyễn Tất Thành (khi đó được biết đến với tên Nguyễn Ái Quốc) với những hoạt động cách mạng đầy tiếng vang ở nước ngoài.
Năm 1922, sau khi đỗ đầu kỳ thi thành chung ở Trường Quốc học Huế, Trần Phú được bổ nhiệm làm giáo viên Trường Cao Xuân Dục ở Vinh (Nghệ An). Tại Vinh, Trần Phú đã tham gia Hội Phục Việt (sau đổi tên thành Hội Nam Hưng, rồi Tân Việt Cách mạng Đảng), một tổ chức của những người trí thức yêu nước; tham gia phong trào làm đơn lấy chữ ký đòi thực dân Pháp trả lại tự do cho Phan Bội Châu, tổ chức lễ truy điệu Phan Chu Trinh, mở các lớp dạy chữ Quốc ngữ cho công nhân, nông dân và những người nghèo khổ.
Với tất cả nhiệt huyết của mình, Trần Phú đã truyền cho học sinh lòng yêu nước, niềm tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của quê hương và dân tộc. Trần Phú bước vào con đường cách mạng ở thời điểm các hoạt động cách mạng sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc tại Paris đã có những ảnh hưởng mạnh mẽ tới trong nước. Tình hình trong nước vào những năm này cũng có những chuyển biến lớn, tác động đến thanh niên yêu nước. Ảnh hưởng của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ngày càng mạnh, thu hút nhiều thành viên tiên tiến của Hội Phục Việt, trong đó có Trần Phú, và Trần Phú đã quyết định bỏ nghề dạy học để dấn thân vào con đường cách mạng.
Cuối năm 1926, đồng chí Trần Phú được cử sang Quảng Châu (Trung Quốc) bắt liên lạc với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Có thể nói, đây là bước ngoặt trong cuộc đời cách mạng của Trần Phú và tại đây, Trần Phú đã gặp lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tham gia lớp huấn luyện cán bộ do Người trực tiếp giảng dạy. Những bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại khóa huấn luyện đã trang bị cho Trần Phú những kiến thức cơ bản về cách mạng vô sản, về lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin để từ một thanh niên có tư tưởng cách mạng yêu nước, Trần Phú đã chuyển sang lập trường cách mạng vô sản; tham gia vào Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên và được kết nạp vào Cộng sản Đoàn, một tổ chức nòng cốt của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên, tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Sáng 18-4-1931, đồng chí bị địch bắt ở Sài Gòn. Suốt 5 tháng bị giam cầm, hết bốt Pô lô đến bốt Catina, rồi Khám lớn Sài Gòn, trước những lời đe dọa và đòn tra tấn dã man, Trần Phú vẫn hiên ngang, không hề run sợ. Đối diện những bộ mặt mật thám khét tiếng với những thủ đoạn nhà nghề, Trần Phú đã nêu cao tấm gương sáng ngời về lòng trung thành tuyệt đối với Đảng và cách mạng, về tinh thần bất khuất, chiến đấu kiên cường trước kẻ thù và thẳng thắn thừa nhận mình là Tổng Bí thư của Đảng, nhưng vẫn không để kẻ thù moi được bất cứ điều gì bí mật của Đảng.
Đồng chí tuyên bố dứt khoát: “Các người đừng hỏi gì vô ích. Ta không thể đem công việc của Đảng ta nói cho các người nghe”(1). Phải là một người có bản lĩnh phi thường, một tinh thần sáng suốt, một tình cảm và ý chí cách mạng cao cả mới có thể trả lời như thế. Đó là sự khẳng định mình và tổ chức của mình; trung thành tuyệt đối với Đảng, kiên định với lý tưởng cộng sản. Chính bản lĩnh ấy của đồng chí Trần Phú đã làm cho kẻ thù vị nể, khiếp sợ. Với những người bạn chiến đấu, Trần Phú luôn căn dặn: Anh em hãy ráng mà giữ vững tinh thần chiến đấu.Ngày 6-9-1931, do suy kiệt vì sức khỏe, Tổng Bí thư Trần Phú đã trút hơi thở cuối cùng tại Nhà thương Chợ Quán (Sài Gòn). Trước lúc hy sinh, Trần Phú vẫn nhắn gửi đồng chí, đồng bào, với lời nói bất hủ: “Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”. Sự hy sinh anh dũng của đồng chí Trần Phú được Quốc tế Cộng sản coi là một tổn thất chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đầu những năm 30 của thế kỷ 20: “Sự nghiệp cách mạng, niềm tin và những phẩm chất cao đẹp của Tổng Bí thư Trần Phú trong nhà tù đế quốc sẽ mãi mãi là tấm gương bất diệt cho những người cộng sản trên toàn thế giới, đặc biệt là những người cộng sản Đông Dương”(2). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đánh giá: Là một người rất thông minh, hăng hái và cần cù, đồng chí Trần Phú làm được nhiều việc cho Đảng.
Hơn 6 năm hoạt động yêu nước và cách mạng, đảm nhiệm cương vị Tổng Bí thư của Đảng ở thời điểm cách mạng sôi sục, bị kẻ thù khủng bố điên cuồng, hy sinh khi tuổi đời mới 27, cuộc đời của đồng chí Trần Phú tuy ngắn ngủi nhưng rực rỡ như ánh sao băng trên bầu trời. Đối với những người cộng sản và yêu nước Việt Nam, tấm gương hy sinh vì sự nghiệp của Đảng và dân tộc của đồng chí Trần Phú đã cổ vũ tinh thần chiến đấu không chỉ đối với các chiến sĩ cách mạng cùng thời mà cho mọi thế hệ người Việt Nam yêu nước. Tổng Bí thư Trần Phú là cán bộ của Đảng đã thể hiện đạo đức cách mạng trong sáng, trung thành với Đảng, với cách mạng, với dân tộc, lạc quan tin tưởng vào tương lai và sự tất thắng của cách mạng. Biểu hiện cao đẹp nhất, sâu sắc nhất ở đồng chí Trần Phú là tài năng và nghị lực; là sự vận dụng, kết hợp giữa tri thức cách mạng và nhiệt tình cách mạng. Đó là tấm gương tiêu biểu cho lớp thanh niên yêu nước, tấm gương của một trong những chiến sĩ cộng sản lớp tiền bối của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đồng chí đã để lại cho các thế hệ người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ một tấm gương mẫu mực của người cộng sản kiên trung, hiến dâng trọn cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc. Phẩm chất cộng sản kiên trung và khí tiết lẫm liệt của đồng chí Trần Phú trước kẻ thù đã cổ vũ các thế hệ người Việt Nam trong cuộc chiến đấu cho độc lập, tự do của Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đấu tranh giành lại độc lập, tự do, đánh bại thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước, đưa cả nước tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa theo mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Thượng tá, Thạc sĩ PHẠM THANH TUẤN
Trưởng ban Biên tập xuất bản, Phòng Khoa học quân sự, Học viện Chính trị - Bộ Quốc phòng
Đợt tiến công thứ 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 1-5-1954 đến 7-5-1954.
Đợt tiến công thứ 3 của Chiến dịch Điện Biên Phủ bắt đầu từ ngày 1-5-1954 đến 7-5-1954.
Nhiệm vụ của đợt này là đánh chiếm các điểm cao còn lại ở phía Đông, trọng tâm là phải chiếm được đồi A1, tiêu diệt một số cứ điểm ở phía Tây, tiêu diệt thêm một bộ phận sinh lực địch, phát triển sâu hơn nữa trận địa tiến công và bao vây, phát huy tất cả mọi hỏa lực bắn phá khu vực trung tâm của địch, uy hiếp vùng trời còn lại của chúng, chuẩn bị chuyển sang tổng công kích.
Về phía địch: Ngày 1-5-1954, máy bay địch bắt đầu sử dụng một loại bom mới của Mỹ (Hail Leaflet) chứa hàng nghìn mũi tên rất nhỏ và sắc bén, nhằm gây sát thương đám đông. Loại bom này không gây nguy hiểm cho những người ở trong công sự hoặc dưới chiến hào và khó sử dụng trong những trận đánh khi quân ta và quân địch gần như trộn lẫn vào nhau. Langlais và Bigeard đã điều chỉnh, củng cố lại tổ chức phòng ngự ở khu trung tâm.Những đơn vị khá nhất và những chỉ huy được tin cậy nhất còn lại của tập đoàn cứ điểm được tăng cường cho trung tâm đề kháng Elian. Tại đây, chúng bố trí Tiểu đoàn 2 thuộc Trung đoàn dù thuộc địa số 1, Tiểu đoàn dù xung kích 6, Tiểu đoàn dù ngụy số 5, Tiểu đoàn 1 Bán lữ đoàn lê dương 13 cùng với hai đại đội độc lập, đơn vị công binh và một số lính Algeria, lính Thái. Tuy nhiên, những đơn vị này đều bị tổn thất nhiều, đội hình chắp vá.
Về phía ta: 17 giờ ngày 1-5-1954, bất thần tất cả các cỡ pháo của ta nhả đạn vào nhiều khu vực của tập đoàn cứ điểm. Lần này cụm pháo địch ở Hồng Cúm bị kiềm chế, tê liệt. Một kho đạn với 3.000 viên đạn dự trữ của địch bị nổ tung. Kho lương thực, thực phẩm bốc cháy. Đợt pháo kích kéo dài gần một giờ. Dứt tiếng pháo, các đơn vị đồng loạt tiến đánh nhiều vị trí.Tại phía Đông, Trung đoàn 98 tiến công cứ điểm C1 lần thứ hai. Địch vẫn đặt sở chỉ huy trên C2 và linh cảm trận đánh C1 sắp nổ ra. Ngày 1-5, địch quyết định đưa Đại đội 3 thuộc Tiểu đoàn dù tiêm kích số 2 lên thay thế cho Đại đội Clédic đã bị tiêu hao, đồng thời ra lệnh cho Đại đội 1 sẵn sàng tham gia phản kích.
Đại đội 811 của ta đã có 20 ngày đêm phòng ngự tại C1, được lệnh rời khỏi trận địa 200m cho hỏa pháo chuẩn bị. Đại đội trưởng Lê Văn Dỵ thấy công sự đã được củng cố vững chắc, đủ sức chịu đựng đạn pháo và tin vào sự chính xác của pháo binh ta nên quyết định chỉ cho bộ phận dự bị lui về phía sau, toàn đơn vị vẫn bám trận địa để không lỡ thời cơ xung phong.
Những cao điểm ta chiếm được ở khu Đông phát huy tác dụng. Sơn pháo đặt trên đồi D1 nhắm từng hỏa điểm trên C1 bắn rất chính xác. Dứt tiếng pháo, đồng chí Dỵ lập tức ra lệnh mở những hàng rào ngăn cách giữa ta và địch, đưa bộ đội xông lên phía Cột Cờ. Thủ pháo và lựu đạn của ta trùm lên trận địa địch, tiểu liên nổ dồn dập. Chiến sĩ Thắng cầm cờ lao lên cách mục tiêu 10m thì trúng đạn hy sinh. Chiến sĩ Ân lấy chiếc chăn phủ lên người đồng đội, nhặt lá cờ thấm máu, lỗ chỗ vết đạn, tiếp tục tiến lên mỏm đất cao nhất trên đỉnh đồi. Cả tiểu đội mũi nhọn bám sau anh. Chỉ sau 5 phút, ta đã chiếm được Cột Cờ. Đại đội dù tiêm kích số 3 mới thay thế choáng váng trước đòn tiến công chớp nhoáng và quyết liệt. Quân dù bắn xối xả vào khu vực Cột Cờ. Đại đội 1480 của ta từ phía dưới tiến lên đã kịp thời có mặt, cùng với Đại đội 811 hình thành hai mũi tiến công chia cắt quân địch để tiêu diệt.
Những trận đánh giáp lá cà diễn ra. Viên trung úy Leguère chỉ huy Đại đội 3 cố chống cự, chờ lực lượng tiếp viện. Địch quyết định đưa Đại đội 1 lên tăng viện. Nhưng đã quá muộn. Trung úy Périou chỉ huy đại đội chết ngay khi mới đặt chân lên đồi. Lát sau, đến lượt trung úy Leguère chỉ huy Đại đội 3 bị trọng thương. Quân địch ở C1 mất dần sức chiến đấu. Có tên phủ bạt lên người nằm giả chết, chờ tiếng súng yên sẽ đầu hàng. Nửa đêm, toàn bộ quân địch bị tiêu diệt. Dây thép gai và mìn lấy từ trận địa của địch lập tức được rải ra sườn đồi thành một bãi chướng ngại vật dày đặc, đề phòng quân địch phản kích.
Sau hơn 30 ngày đêm liên tục chiến đấu, trận đánh tại C1 lúc này đã kết thúc. C2 nằm gọn dưới nòng pháo không giật của ta. Trời sáng, không thấy quân phản kích của địch. Chỉ có những khẩu trọng liên bốn nòng đặt tại Sở chỉ huy của De Castries lồng lộn tuôn đạn về phía trận địa ta trên đỉnh đồi như muốn ngăn chặn một đợt xung phong.
Ở phía Đông sông Nậm Rốm, Tiểu đoàn 166 và Tiểu đoàn 154 thuộc Trung đoàn 209 tiến công các cứ điểm 505 và 505A. Một đại đội của Tiểu đoàn lê dương dù 6 và những đơn vị lính Algeria, lính Thái tại đây, do viên Tiểu đoàn trưởng Chenel chỉ huy, chống cự khá quyết liệt. Ta và địch giành giật nhau từng ụ súng, từng chiến hào. 2 giờ ngày 2-5, Trung đoàn 209 tiêu diệt hoàn toàn hai cứ điểm này, chấm dứt sự tồn tại của trung tâm đề kháng Dominique.Trên cánh đồng phía Tây, trận đánh tiêu diệt cứ điểm 811A của Trung đoàn 88 diễn ra rất nhanh chóng. Chiến thuật đánh lấn tiếp tục được phát huy. Với những đường hào đã đào xuyên qua hàng rào cứ điểm, bộ đội ta bất thần tổ chức xung phong. Toàn bộ Đại đội Âu Phi vừa tới thay quân để tăng cường phòng thủ cứ điểm này, bị diệt gọn trong vòng chưa đầy 80 phút.
Như vậy, ngay trong đêm đầu của đợt tiến công thứ 3, địch đã mất thêm 4 cứ điểm: C1, 505, 505A ở phía Đông và 311A ở phía Tây. Tại Hồng Cúm, trận vây ép đánh lấn khu C của Trung đoàn 57 đã tiêu hao nhiều binh lực địch, nên sáng 2-5, địch phải rút chạy khỏi đây.
Những đường hào thọc sâu của bộ đội ta trên cánh đồng phía Tây, đều nhắm thẳng về phía Sở chỉ huy De Castries. Tập đoàn cứ điểm đã bị dồn lại trong cái "ô vuông" cuối cùng.
THÀNH VINH (lược trích)
1. Đại tướng Võ Nguyên Giáp: Tổng tập Hồi ký, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010.
2. Đại tướng Hoàng Văn Thái: Tổng tập, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007.
3. Chiến dịch Điện Biên Phủ - Sự kiện và con số/Nguyễn Văn Thiết-Lê Xuân Thành, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2014.
4. Điện Biên Phủ - nhìn từ hai phía, Nxb Thanh Niên, 2004.
5. Điện Biên Phủ - Điểm hẹn lịch sử/Hồi ức của Đại tướng Võ Nguyên Giáp do nhà văn Hữu Mai thể hiện, Nxb Thông tin và Truyền thông, 2018.
BỘ ĐỘI CỤ HỒ, CƠ ĐỒ TƯƠI ĐẸP, CHẤT THÉP KIÊN TRUNG
DƯƠNG PHƯƠNG DUY
CẢNH GIÁC THỦ ĐOẠN XUYÊN TẠC CÔNG CUỘC PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG CỦA ĐẢNG
Thời gian gần đây, trên các trang mạng xã hội của thế lực thù địch xuất hiện nhiều luận điệu xuyên tạc, chống phá liên quan đến bộ máy chính trị của Việt Nam. Cụ thể, chúng đưa ra một số luận điệu như “khủng hoảng nhân sự cấp cao”, “Hai Chủ tịch nước rớt chức trong một năm là tín hiệu đáng lo ngại cho nhà đầu tư nước ngoài”, “việc ông Thưởng rớt đài đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ bất ổn tại Việt Nam”,…
NĂM THÁNG SẼ QUA ĐI, CHIẾN THẮNG 30/4 MÃI MÃI ĐI VÀO LỊCH SỬ DÂN TỘC, LÃNG QUÊN LỊCH SỬ LÀ CÓ TỘI VỚI TIỀN NHÂN.
Cách đây 49 năm (1975 - 2024), khi thời cơ tổng công kích vào thành lũy cuối cùng của chính quyền Sài Gòn đã điểm, Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch quyết chiến chiến lược mang tên Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại. Sau gần 4 ngày tổng tiến công và nổi dậy, trưa ngày 30/4/1975, quân và dân ta làm chủ thành phố Sài Gòn - Gia Định, bắt giữ và buộc Tổng thống chính quyền Sài Gòn phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, đánh dấu sự chấm hết của chế độ thực dân mới, mà đế quốc Mỹ đã dày công xây dựng bị sụp đổ hoàn toàn. Đây là sự kiện trọng đại trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc ta nửa cuối thế kỷ XX, có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc thời đại sâu sắc.
49 năm thống nhất đất nước: Khát vọng hòa bình trong trái tim người trẻ
Cách đây 49 năm, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975 diễn ra trong 55 ngày đêm với tốc độ “một ngày bằng 20 năm". Cuộc Tổng tiến công và nổi dậy với đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, đánh dấu sự trưởng thành của Quân đội Nhân dân Việt Nam cả về tổ chức lực lượng và chỉ huy tác chiến hiệp đồng
Thắng lợi oanh liệt mùa Xuân 1975 của quân và dân ta đã tạo ra
bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc; đập tan bộ máy ngụy quyền Việt Nam
cộng hòa, non sông thu về một mối; là chiến thắng vĩ đại, hiển hách trong lịch
sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Sôi nổi phong trào "Ba sẵn sàng"
Đại thắng mùa Xuân 1975 đã chứng minh trí tuệ và tài thao lược của
Đảng ta trong lãnh đạo và chỉ đạo chiến tranh cách mạng, cũng như chứng minh
tinh thần quật khởi của người dân Việt Nam trong đấu tranh chống ngoại xâm. Từ
đây, đất nước ta bước vào kỷ nguyên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Con đường đi tới thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước là 21 năm gian khổ và ác liệt nhất trong lịch sử chống ngoại xâm
của dân tộc ta; là sự đánh đổi máu xương của đồng bào, chiến sĩ cả nước, với
biết bao sự hy sinh của những người con anh dũng trên dải đất hình chữ S. Khát
vọng hòa bình, độc lập, tự do luôn được nuôi dưỡng cháy bỏng trong trái tim những
người con ưu tú của đất nước, dù là cách đây gần 50 năm hay tới tận mai sau.
Trong mọi thời kỳ của đất nước, thanh niên luôn là lực lượng xung
kích, rường cột. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cả nước đã có hơn 5
triệu lượt đoàn viên, thanh niên gia nhập lực lượng vũ trang; trên 133.000 đoàn
viên, thanh niên, trong đó hơn 69.000 nữ tham gia thanh niên xung phong.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam là
hiện thân của những phong trào cách mạng mang tính toàn dân tộc do Đảng khởi xướng
và lãnh đạo. Quá trình đi đến ngày toàn thắng đã ghi dấu ấn nhiều phong trào
cách mạng của thế hệ trẻ, trong đó “Ba sẵn sàng” là cuộc vận động có sức lôi
cuốn mạnh mẽ, rộng khắp, khởi đầu từ tuổi trẻ Thủ đô Hà Nội, sau đó trở thành
phong trào thi đua chung của thanh niên cả nước.
Phong trào “Ba sẵn sàng” có ý nghĩa hết sức to lớn và để lại nhiều
kinh nghiệm quý báu về công tác thanh vận của Đảng nhằm phát huy hơn nữa ý chí,
tinh thần cống hiến, sức sáng tạo hiện nay.
Hội nghị Trung ương 12 (tháng 12-1965) của Đảng đề ra nhiệm vụ: Cả
nước kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ, dù trong bất
kỳ tình huống nào để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam.
Theo tinh thần đó, từ năm 1966, phong trào “Ba sẵn sàng” tiếp tục
mở rộng những nội dung mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chiến lược mới của Đảng,
đó là: “Sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu dũng cảm, sẵn sàng gia nhập các lực lượng
vũ trang; sẵn sàng khắc phục mọi khó khăn, đẩy mạnh sản xuất, công tác và học
tập trong bất kỳ tình huống nào; sẵn sàng đi bất cứ nơi nào, làm bất cứ việc gì
mà Tổ quốc cần đến."
Một đặc trưng của phong trào “Ba sẵn sàng” là tinh thần sẵn sàng
gia nhập quân đội, đi thanh niên xung phong, sẵn sàng tham gia chiến đấu, chiến
đấu dũng cảm. Những lá đơn tình nguyện lên đường nhập ngũ viết bằng máu và
nhiều cuốn nhật ký của những thanh niên, chiến sỹ trẻ đã nói lên ý chí quyết
tâm “Ba sẵn sàng” của thanh niên miền Bắc xã hội chủ nghĩa.
Trong thanh niên học sinh, sinh viên trí thức, hàng nghìn giáo
viên, sinh viên của Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội khi đó đã hưởng ứng phong
trào “Ba sẵn sàng," xếp bút nghiên lên đường ra trận. Họ đã góp phần làm
nên truyền thống anh hùng của thanh niên miền Bắc, của tuổi trẻ các trường đại
học, trong đó nhiều người đã anh dũng hy sinh trên chiến trường miền Nam...
Lan tỏa tinh thần xung kích, tình nguyện
Sinh ra trong hòa bình, ý niệm và khát vọng hòa bình trong thế hệ
thanh niên hôm nay được thắp lên và lớn dần trong lòng những người trẻ theo
từng năm tháng, với bước chân qua từng tấc đất quê hương ngấm xương máu cha anh
nơi họ đi qua, trong mỗi bài ca cách mạng mà họ hát, nơi mỗi một di tích lịch
sử họ được ghé thăm...
Đối với người trẻ, khát vọng hòa bình chính là mong muốn cháy bỏng
được cống hiến, góp sức giữ gìn và dựng xây Tổ quốc, để đất nước hùng cường, có
cơ đồ, vị thế lớn, ngăn tất cả những nguy cơ của chiến tranh.
Tiếp nối tinh thần của phong trào “Ba sẵn sàng," Trung ương
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh đã phát động trong thanh niên cả nước
nhiều chương trình hành động tiêu biểu, như “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm
theo lời Bác;” “Nghĩa tình biên giới hải đảo,” “Hành trình tuổi trẻ vì biển đảo
quê hương,” “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi,” “Góp đá xây Trường Sa;” các
phong trào: “Tuổi trẻ chung tay xây dựng nông thôn mới,” “Thanh niên tham gia
xây dựng văn minh đô thị," “Sinh viên 5 tốt”, “3 trách nhiệm," “Sáng
tạo trẻ”...
Đặc biệt là các phong trào “Xung kích, tình nguyện phát triển kinh
tế -xã hội và bảo vệ Tổ quốc” và “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập
nghiệp” đã được triển khai rộng rãi với hàng chục triệu lượt thanh niên tham
gia. Chiến dịch Thanh niên tình nguyện hè, trải qua hơn 20 năm triển khai, đến
nay đã trở thành phong trào rộng lớn trong thanh niên mang lại nhiều kết quả to
lớn.
Nhiều đội thanh niên, sinh viên tình nguyện đã không ngại khó
khăn, gian khổ để đến với đồng bào vùng cao, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ
cách mạng để có các hoạt động thiết thực giúp đỡ người dân, như dạy học, làm
lại nhà cửa, khám chữa bệnh. Nhiều trí thức trẻ trong các lĩnh vực kinh tế - xã
hội đã về những nơi khó khăn, gian khổ, cầm tay, chỉ việc, giúp người dân phát
triển kinh tế, thoát nghèo, làm giàu cho quê hương, đất nước.
Năm 2024 kỷ niệm 49 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất
đất nước, song cũng đánh dấu tròn 20 năm tháng Ba được Đảng, Nhà nước đồng ý
lựa chọn là Tháng Thanh niên. Chặng đường đó đã ghi dấu ấn của lớp lớp thế hệ
thanh niên Việt Nam trong quá trình đóng góp xây dựng đất nước, với tinh thần
xung kích, tình nguyện, sáng tạo vì lợi ích của cộng đồng, xã hội, cũng như sự
quan tâm, hỗ trợ đối với công tác phát triển thanh niên.
Tháng Thanh niên đã trở thành một hoạt động thường niên vô cùng ý
nghĩa gắn liền với công tác thanh niên trong các cấp bộ đoàn, đoàn viên, thanh
niên cả nước; ghi dấu ấn bằng hàng loạt công trình, phần việc thiết thực hướng
đến cộng đồng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, vừa rèn luyện, vừa trải nghiệm
nhiều bài học bổ ích, trở thành những kỷ niệm rạng rỡ của tuổi trẻ qua các việc
làm đẹp.
Trong suốt chặng đường 20 năm Tháng Thanh niên, đã có hơn 100
triệu lượt đoàn viên, thanh niên tham gia các hoạt động trong Tháng Thanh niên.
Thanh niên cả nước đã chung tay thực hiện hơn 668.000 công trình, phần việc
thanh niên trên mọi miền Tổ quốc với tổng giá trị ước tính lên tới 4.500 tỷ đồng;
hàng triệu suất quà được trao đến tay người dân trên khắp cả nước.
Là quốc gia có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam thực
hiện nghiêm chỉnh các nghĩa vụ, đồng thời tích cực hợp tác cùng các quốc gia
khác giải quyết các vấn đề an ninh đang nổi lên, góp phần bảo vệ hòa bình, ổn
định của khu vực và thế giới.
Sau gần 10 năm triển khai lực lượng tham gia hoạt động gìn giữ hòa
bình Liên hiệp quốc, Việt Nam đã cử khoảng 800 lượt cán bộ, nhân viên đi thực
hiện nhiệm vụ tại các phái bộ gìn giữ hòa bình Liên hiệp quốc ở cả hình thức cá
nhân và đơn vị.
Lực lượng này chủ yếu là các sĩ quan, quân nhân trẻ, được tuyển
chọn từ các đơn vị trong toàn quân; trải qua các kỳ kiểm tra, sát hạch nghiêm
ngặt, đáp ứng được yêu cầu cao của Liên hiệp quốc, có đủ phẩm chất, năng lực
làm việc trong môi trường quốc tế.
Các quân nhân trẻ của Việt Nam được triển khai luôn phát huy tốt
vai trò, trách nhiệm trên cương vị, chức trách được giao, được Liên hiệp quốc
và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, góp phần lan tỏa hình ảnh đẹp về Bộ
đội Cụ Hồ, về Quân đội Nhân dân Việt Nam và đất nước, con người Việt Nam tươi
đẹp, yêu chuộng hòa bình và luôn sẵn sàng đóng góp cho các sứ mệnh nhân đạo, vì
nền hòa bình của thế giới.