Đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của
mình là vấn đề mang tính quy luật của một đảng chính trị. Như mọi cuộc chiến
khác, muốn giành thắng lợi, người tranh đấu phải hiểu rõ âm mưu và thủ đoạn của
đối phương. Thực tế cho thấy, để đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác
- Lênin, các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị đã sử dụng
các thủ đoạn chủ yếu sau đây:
Trước hết, chúng mưu toan phủ
nhận sự tồn tại của “tư tưởng Hồ Chí Minh”, xuyên tạc rằng Chủ tịch Hồ Chí
Minh chỉ là nhà hoạt động thực tiễn chứ không phải là nhà tư tưởng. Mặc dù giá
trị, tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí Minh đã được kiểm định bằng thắng lợi của cách
mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên toàn thế giới, được thừa
nhận bởi các học giả ở trong nước và nước ngoài, nhưng các thế lực thù địch,
phản động, phần tử cơ hội chính trị vẫn rêu rao xuyên tạc rằng, “tư tưởng Hồ
Chí Minh chỉ là sự tô vẽ của Đảng Cộng sản Việt Nam”. Để chứng minh cho điều
đó, họ đưa ra các luận chứng mang tính chủ quan, khiên cưỡng, như: Xét về nội
dung, Hồ Chí Minh là người đọc nhiều, nhớ nhiều, giỏi tổng thuật chủ kiến của
người khác và không dẫn nguồn nên người ta cứ tưởng Hồ Chí Minh là người đưa ra
các quan điểm đó, nhưng thực chất thì không phải (?!). Xét về hình thức, Hồ Chí
Minh chỉ có những bức thư ngắn, những bài viết, bài nói ngắn chứ không có các
tác phẩm đồ sộ như các nhà tư tưởng khác (?!). Họ còn rêu rao rằng, trong bối
cảnh ngọn cờ Mác - Lênin mất “thiêng” khi chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ liên
tiếp ở các nước Đông Âu, tại Đại hội VII (năm 1991), Đảng Cộng sản Việt Nam vội
vã “nhào nặn” ra cái gọi là “tư tưởng Hồ Chí Minh” để “gia cố” cho nền tảng tư
tưởng đang “lung lay” của mình. Do đó, tư tưởng Hồ Chí Minh hoàn toàn là sản
phẩm chủ quan, duy ý chí của Đảng Cộng sản Việt Nam với mong muốn giữ lại quyền
lãnh đạo của mình (?!).
Những luận điệu xuyên tạc này của các thế
lực thù địch hoàn toàn đối lập với sự thật lịch sử. Trên thực tế, nhờ có tư
tưởng Hồ Chí Minh - sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam, cách
mạng Việt Nam đã giành được những thắng lợi vĩ đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh không
chỉ làm biến đổi số phận của dân tộc Việt Nam mà còn góp phần làm sụp đổ chủ
nghĩa thực dân trên quy mô toàn thế giới, thúc đẩy “bánh xe lịch sử theo hướng
tiến bộ” . Cùng với Đảng Cộng sản Việt Nam, nhiều
nhà khoa học và chính khách lớn của thời đại cũng khẳng định giá trị và tầm vóc
thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh. Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Mỹ - Gớt Hôn viết:
“Đồng chí Hồ Chí Minh là một lãnh tụ và một nhà tư tưởng mácxít-lêninnít
vĩ đại của thế giới. Đồng chí Hồ Chí Minh là con người cần thiết xuất hiện đúng
lúc, đúng yêu cầu lịch sử với những tư tưởng và ý kiến đúng.
Chính vì vậy, đồng chí đã làm ra lịch sử”. Giáo sư Nhật Bản Sing-gô Si-ba-ta đã
viết một công trình có tên là “Hồ Chí Minh - nhà tư tưởng”. Việc những kẻ chống
phá “quay lưng” lại với những bằng chứng hiển nhiên về sự tồn tại và giá trị to
lớn, bền vững của tư tưởng Hồ Chí Minh cho thấy, họ không xuất phát từ lập luận
khoa học, mà từ động cơ chính trị đen tối. Đây là sự cố tình phủ nhận, “đổi
trắng thay đen” nhằm phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Với đặc tính “tiền hậu bất nhất” của những
kẻ chuyên “nói càn”, các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội chính
trị còn có một giọng điệu hoàn toàn khác là về hình thức bề ngoài “giả
bộ” làm ra vẻ ca tụng, đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh để phủ nhận giá trị của chủ
nghĩa Mác - Lênin. Để “hạ bệ” chủ nghĩa Mác - Lê-nin, họ đưa ra nhiều lý
do khác nhau. Đầu tiên, họ vin vào“yếu tố thời đại”, biện bạch rằng
chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với bối cảnh của thế kỷ XIX, cùng lắm là đầu
thế kỷ XX, chỉ thích hợp với văn minh công nghiệp, trong khi bây giờ nhân loại
đã ở thế kỷ XXI; trong thời đại kinh tế tri thức và toàn cầu hóa, sứ mệnh của
giai cấp công nhân đã khác đi, vai trò của trí thức “lên ngôi” nên chủ nghĩa
Mác - Lênin trở nên lỗi thời và bị lịch sử vượt qua. Đây là cách lập luận rất
“hàm hồ”, bởi cho dù thời đại mà chúng ta đang sống rất khác với thời đại mà C.
Mác, Ph. Ăng-ghen, V.I. Lênin sống, nhưng những biến đổi của nó vẫn không vượt
ra ngoài những quy luật chung nhất mà chủ nghĩa Mác - Lênin khám phá ra. Với đặc
tính “mở”, chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn là lý luận và phương pháp luận khoa học
cho sự nhận thức xã hội, nhận thức thời đại mà chưa có một chủ nghĩa nào có thể
thay thế.
“Yếu tố địa lý” cũng là một lý do mà các thế lực thù
địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị thù địch vin vào để phủ nhận một cách
vô căn cứ chủ nghĩa Mác - Lênin. Theo họ, chủ nghĩa Mác - Lê-nin không phải là
sản phẩm của các nước phương Đông cũng như Việt Nam, mà là học thuyết “ngoại
lai”, “nhập ngoại” từ phương Tây nên không phù hợp với điều kiện xã hội của
Việt Nam - một xã hội phương Đông với nền kinh tế tiền tư bản chủ nghĩa. Họ còn
“lu loa”: Khi chủ nghĩa Mác - Lênin đã “chết” trên chính quê hương của C. Mác,
của V.I. Lê-nin, rộng hơn là ở cả châu lục mà nó sinh ra, nhưng những người
cộng sản Việt Nam vẫn cứ theo đuổi nó, “hà hơi tiếp sức” cho nó thì đó là tư
duy bảo thủ(?!). Có thể thấy, những kẻ đưa ra luận điệu này đã cố tình không
hiểu sức mạnh của sự trừu tượng hóa, khái quát hóa và tầm nhìn thời đại trong
lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Mặc dù chủ nghĩa Mác - Lênin có nguồn gốc lý
luận trực tiếp từ phương Tây, nhưng khi được bổ sung bằng “dân tộc học phương
Đông”, thì “chủ nghĩa Mác sẽ còn đúng ở đó” (tức là ở phương Đông), như
lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc từng khẳng định và nỗ lực thực hiện.
Thủ đoạn được các thế lực thù địch, phản
động và phần tử cơ hội chính trị sử dụng nhiều nhất để phản bác chủ nghĩa Mác -
Lê-nin là sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước
Đông Âu. Theo họ, sự sụp đổ này chứng tỏ chủ nghĩa Mác - Lê-nin sai
lầm từ bản chất, chứ không phải là do nó được nhận thức sai, vận dụng sai và vì
thế, khẩu hiệu “chủ nghĩa Mác - Lê-nin bách chiến, bách thắng” đã hoàn toàn mất
giá trị. Họ cố tình không hiểu rằng, tính bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin so
với các học thuyết khác là ở chỗ, nó dựa trên một thế giới quan khoa học là
phép biện chứng duy vật, và sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước
Đông Âu và Liên Xô là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực có
nhiều khuyết tật và chậm được sửa chữa, chứ không phải là sự sụp đổ của một học
thuyết khoa học.
Một thủ đoạn khác được các thế lực thù
địch, phản động và phần tử cơ hội chính trị đưa ra để mưu toan phủ định chủ nghĩa
Mác - Lênin chính là sự khác biệt giữa chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ cho rằng, chủ nghĩa Mác chủ trương
đấu tranh giai cấp còn Chủ tịch Hồ Chí Minh lại chủ trương đại đoàn kết toàn
dân tộc và là “người theo chủ nghĩa dân tộc chứ không phải theo chủ nghĩa cộng
sản...”(!) Sau khi đưa ra nhiều “cơn cớ” đầy tính ngụy biện, họ đi đến kết luận
hàm hồ rằng: Lúc này, chỉ cần nói đến tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ, chỉ có tư
tưởng Hồ Chí Minh là “đáng giá” và vì thế, cần loại bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin ra
khỏi nền tảng tư tưởng của Đảng.
Việc các thế lực thù địch, phản động và
phần tử cơ hội chính trị giả vờ “đề cao” tư tưởng Hồ Chí Minh, đem tư tưởng Hồ
Chí Minh đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin là hoàn toàn trái với quan điểm, tư
tưởng và tình cảm của bản thân Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay từ năm 1927, Người đã
khẳng định: Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lê-nin. Người từng nói:
“Tất cả mọi người đều có quyền nghiên cứu một chủ nghĩa. Riêng tôi, tôi đã
nghiên cứu chủ nghĩa Các Mác”. Câu nói đó đã nói lên sự lựa chọn tiên quyết và
sự kiên trì của Người đối với chủ nghĩa Mác và sau này là toàn bộ chủ nghĩa Mác
- Lênin. Người còn nhấn mạnh: “Chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không
những là cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi tới
thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”. Khi viết Di
chúc, Người gọi việc từ giã cõi đời của mình là “đi gặp các cụ Các Mác, cụ
Lênin”, bởi giữa các bậc vĩ nhân ấy là sự đồng điệu về khát vọng giải phóng con
người và “tình hữu ái vô sản” thiêng liêng. Thậm chí, trong lần trả lời phỏng
vấn cuối cùng vào ngày 15-7-1969, Người khẳng định: “Chúng tôi giành được thắng
lợi đó là do nhiều nhân tố, nhưng cần phải nhấn mạnh rằng... trước hết là nhờ
cái vũ khí không gì thay thế được là chủ nghĩa Mác - Lênin”. Như vậy, từ lúc
rơi những giọt nước mắt hạnh phúc khi đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lê-nin cho đến tháng ngày
cuối cùng của cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đều gắn bó với chủ nghĩa Mác -
Lê-nin bằng tình yêu và lòng biết ơn vô hạn.
Phải khẳng định rằng, việc “đề cao” tư
tưởng Hồ Chí Minh và hạ thấp chủ nghĩa Mác - Lê-nin, đối lập tư tưởng Hồ Chí
Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin thực chất là một âm mưu đen tối, thủ
đoạn tinh vi của các thế lực thù địch, phản động và phần tử cơ hội
chính trị. Sự nguy hiểm của nó là ở chỗ, dễ làm cho người ta ngộ nhận, tin
theo, bởi nó “đánh vào” tình yêu lãnh tụ và tinh thần tự tôn dân tộc. Thực
chất, đây không phải là sự ca ngợi hay đề cao tư tưởng Hồ Chí Minh, mà chỉ là
thủ pháp “nâng lên để hạ xuống”, tìm cách cô lập, tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh
khỏi ngọn nguồn lý luận chủ yếu của nó để qua đó, làm suy yếu và tiến tới phủ
định luôn cả tư tưởng Hồ Chí Minh. Thâm độc hơn, thông qua phủ nhận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những kẻ chống phá còn muốn phủ nhận toàn bộ
cương lĩnh, đường lối của Đảng được hoạch định trên nền tảng tư tưởng đó để đi
đến mục tiêu cuối cùng là xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, xóa bỏ
chế độ hiện hành và định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét