Thứ Năm, 11 tháng 4, 2024

Thực chất mối quan hệ giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin

 

Có thể khẳng định, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin có mối quan hệ biện chứng, được thể hiện trên 3 phương diện chính sau đây:

Thứ nhất, chủ nghĩa Mác - Lênin là cội nguồn lý luận cơ bản hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.

Trong quá trình tìm đường cứu nước, bằng sự nhạy cảm chính trị và khảo sát kỹ lưỡng thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - chân lý lớn của thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin cung cấp cho Người nhân sinh quan cách mạng, thế giới quan, phương pháp luận khoa học và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó, Người tổng kết kiến thức, tổng kết lịch sử và kinh nghiệm thực tiễn để hình thành nên “một phương lược cứu quốc đầy đủ nhất”.

Tuyên bố đi theo “chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trở thành một nhà tư tưởng mác-xít sáng tạo. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin lấy giai cấp công nhân làm vũ khí “vật chất”, giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “vũ khí tinh thần”, thì Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “vũ khí không gì thay thế được”(3) cho nhận thức và hành động của mình. Nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin, Người sẽ không thể vượt khỏi những hạn chế của những sĩ phu Việt Nam yêu nước thời trước; tư tưởng của Người không thể mang đầy đủ đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn; con đường cứu nước mà Người vạch ra không thể trở thành con đường “bách chiến, bách thắng” như trên thực tế đã diễn ra. Có thể nói, dù tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới sự tác động của nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, cả tiền đề lịch sử và tiền đề tư tưởng, hội tụ truyền thống văn hóa dân tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, nhưng quan trọng nhất, quyết định nhất vẫn là chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam.  

Tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng thấu hiểu đặc tính “mở” của hệ thống lý luận ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không tiếp thu theo lối giáo điều, sách vở, không bị trói buộc trong cái “vỏ” ngôn từ mà nắm lấy “cái thần”, cái “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép duy vật biện chứng. Nắm vững nguyên tắc thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người nhận thức rõ sự khác biệt giữa xã hội Việt Nam và xã hội phương Tây nên đã khẳng định: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”. Sau này, Người nói rõ hơn: “Học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương, chính sách của Đảng... Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xôviết”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh ít khi nói đến các khái niệm, phạm trù hay quy luật của triết học Mác - Lênin, nhưng Người vận dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam một cách rất linh hoạt và từ chính thực tiễn đó, Người rút ra nhiều kết luận mang tầm chân lý nhưng lại rất dễ hiểu để bổ sung, làm giàu cho chủ nghĩa Mác - Lênin. Với tư duy sáng tạo, Người đã phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt vấn đề căn cốt của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng dân tộc cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành dòng chảy tiếp nối chủ nghĩa Mác - Lênin trong một thời đại mới và không gian mới. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Người đã làm cho học thuyết Mác - Lênin được “Việt Nam hóa”, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. Người cũng giúp dân tộc ta thoát khỏi tâm lý thụ động để phát huy truyền thống tự lực, tự cường và nhờ đó, cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi vĩ đại. Người đã để lại bài học lớn: Chủ nghĩa Mác - Lênin là “kim chỉ nam” cho hành động cách mạng nhưng không phải là khuôn mẫu, là “linh đan kê sẵn”; nếu biến lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thành “kinh thánh” và công thức sáo mòn thì tức là đã gạt bỏ nó ra khỏi thực tiễn không ngừng biến đổi. Vì thế, người trung thành nhất phải là người sáng tạo nhất.

Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Trước khi thành lập Đảng, khi viết tác phẩm “Đường Cách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu tác phẩm bằng câu nói của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”; “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Trong Cương lĩnh thành lập Đảng (tháng 2-1930), dù không trực tiếp tuyên bố Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, nhưng Người đã đề ra chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” và khẳng định, điều kiện tiên quyết để gia nhập Đảng là phải “tin theo chủ nghĩa cộng sản”. Theo đó, Đảng đi theo lý tưởng cộng sản, đi theo con đường mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra. Đến Hội nghị Trung ương lần 1 (tháng 10-1930), Luận cương chính trị của Đảng tuyên bố: “Đảng là đội tiền phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”.

Tại Đại hội VII của Đảng (năm 1991), trong bối cảnh chế độ xã hội chủ nghĩa sụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên Xô, Đảng ta vẫn khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. Đảng lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”. Sự bổ sung “tư tưởng Hồ Chí Minh” vào nền tảng tư tưởng của Đảng tại Đại hội VII hoàn toàn phù hợp với thực tế đã diễn ra từ năm 1930 và với tình cảm của cán bộ, đảng viên, nhân dân dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nền tảng tư tưởng của Đảng được tạo thành bởi chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là “thể thống nhất liền khối”, luôn hiện hữu và quyện chặt trong nhau, không thể tách rời./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét