Có thể khẳng định, giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ
nghĩa Mác - Lênin có mối quan hệ biện chứng, được thể hiện trên 3 phương diện
chính sau đây:
Thứ nhất, chủ nghĩa Mác -
Lênin là cội nguồn lý luận cơ bản hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, bằng sự nhạy
cảm chính trị và khảo sát kỹ lưỡng thực tiễn, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã
đến với chủ nghĩa Mác - Lênin - chân lý lớn của thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin
cung cấp cho Người nhân sinh quan cách mạng, thế giới quan, phương pháp luận
khoa học và các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa
duy vật lịch sử. Trên cơ sở đó, Người tổng kết kiến thức, tổng kết lịch sử và
kinh nghiệm thực tiễn để hình thành nên “một phương lược cứu quốc đầy đủ nhất”.
Tuyên bố đi theo “chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin”, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã trở thành một nhà tư tưởng mác-xít sáng
tạo. Nếu chủ nghĩa Mác - Lênin lấy giai cấp công nhân làm vũ khí “vật chất”,
giai cấp công nhân lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “vũ khí tinh thần”, thì Nguyễn
Ái Quốc - Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm “vũ khí không gì thay thế
được”(3) cho nhận thức và hành động của mình.
Nếu không có chủ nghĩa Mác - Lênin, Người sẽ không thể vượt khỏi những hạn chế
của những sĩ phu Việt Nam yêu nước thời trước; tư tưởng của Người không thể
mang đầy đủ đặc tính khoa học, cách mạng, nhân văn; con đường cứu nước mà Người
vạch ra không thể trở thành con đường “bách chiến, bách thắng” như trên thực tế
đã diễn ra. Có thể nói, dù tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới sự tác
động của nhiều nhân tố, bao gồm cả nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan, cả
tiền đề lịch sử và tiền đề tư tưởng, hội tụ truyền thống văn hóa dân tộc và
tinh hoa văn hóa nhân loại, nhưng quan trọng nhất, quyết định nhất vẫn là chủ
nghĩa Mác - Lênin.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kế
thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào hoàn cảnh cụ
thể của Việt Nam.
Tin và đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin nhưng
thấu hiểu đặc tính “mở” của hệ thống lý luận ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh không
tiếp thu theo lối giáo điều, sách vở, không bị trói buộc trong cái “vỏ” ngôn từ
mà nắm lấy “cái thần”, cái “linh hồn sống” của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép
duy vật biện chứng. Nắm vững nguyên tắc thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin,
Người nhận thức rõ sự khác biệt giữa xã hội Việt Nam và xã hội phương Tây nên
đã khẳng định: “Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định
của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải
là toàn thể nhân loại”. Sau này, Người nói rõ hơn: “Học chủ nghĩa Mác - Lênin
không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất
chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nói đến chủ nghĩa Mác -
Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương, chính sách của Đảng... Chủ nghĩa Mác -
Lênin không phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xôviết”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh ít khi nói đến các
khái niệm, phạm trù hay quy luật của triết học Mác - Lênin, nhưng Người vận
dụng những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng
Việt Nam một cách rất linh hoạt và từ chính thực tiễn đó, Người rút ra nhiều
kết luận mang tầm chân lý nhưng lại rất dễ hiểu để bổ sung, làm giàu cho chủ
nghĩa Mác - Lênin. Với tư duy sáng tạo, Người đã phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin
trên một loạt vấn đề căn cốt của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng giải phóng
dân tộc cho đến cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bằng cách đó, tư tưởng Hồ Chí Minh
trở thành dòng chảy tiếp nối chủ nghĩa Mác - Lênin trong một thời đại mới và
không gian mới. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo của Người đã làm cho học
thuyết Mác - Lênin được “Việt Nam hóa”, phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt
Nam. Người cũng giúp dân tộc ta thoát khỏi tâm lý thụ động để phát huy truyền
thống tự lực, tự cường và nhờ đó, cách mạng Việt Nam giành được những thắng lợi
vĩ đại. Người đã để lại bài học lớn: Chủ nghĩa Mác - Lênin là “kim chỉ nam” cho
hành động cách mạng nhưng không phải là khuôn mẫu, là “linh đan kê sẵn”; nếu
biến lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin thành “kinh thánh” và công thức sáo mòn
thì tức là đã gạt bỏ nó ra khỏi thực tiễn không ngừng biến đổi. Vì thế, người
trung thành nhất phải là người sáng tạo nhất.
Thứ ba, chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là
hai bộ phận cấu thành nền tảng tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trước khi thành lập Đảng, khi viết tác
phẩm “Đường Cách mệnh”, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã mở đầu tác phẩm bằng câu nói
của V.I. Lênin: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào
cách mạng”; “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiền phong”. Trong Cương lĩnh thành lập
Đảng (tháng 2-1930), dù không trực tiếp tuyên bố Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin
làm nền tảng tư tưởng, nhưng Người đã đề ra chủ trương “làm tư sản dân quyền
cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” và khẳng định, điều kiện tiên quyết để gia nhập Đảng là phải “tin
theo chủ nghĩa cộng sản”. Theo đó, Đảng đi theo lý tưởng cộng sản, đi theo con
đường mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã vạch ra. Đến Hội nghị Trung ương lần 1 (tháng
10-1930), Luận cương chính trị của Đảng tuyên bố: “Đảng là đội tiền phong của
vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét