Thứ Ba, 16 tháng 4, 2024

Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề nhân quyền (Kỳ 1)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân quyền là tư tưởng nhân sinh quan đạo đức gắn với pháp quyền nhằm bảo đảm quyền “là người và làm người” của tất cả mọi người, trước hết là người lao động, gắn với quyền dân tộc - giai cấp, thông qua thực hành bảo đảm nhân quyền nhằm góp phần cải tạo thế giới theo định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN). 

Trên cơ sở nhân phẩm truyền thống “người ta là hoa của đất” và “trọng dân”, Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng, phát triển sáng tạo tư tưởng của V.L.Lê-nin (1870-1924) về quyền dân tộc tự quyết dưới CNXH; tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái của Cách mạng tư sản Pháp năm 1789; tư tưởng “Tam dân” (dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc) của Tôn Trung Sơn (1866-1925) và tư tưởng về quyền tự nhiên của mỗi cá nhân trong luật nhân quyền quốc tế thành quyền độc lập, tự do, hạnh phúc gắn CNXH của mỗi người và dân tộc Việt Nam trên cơ sở chủ nghĩa Mác-Lênin. Đây là tư tưởng - lí luận để Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam vận dụng, phát triển sáng tạo trong thời kỳ đổi mới.

Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân phẩm, nhân quyền

Về nhân phẩm. Hồ Chí Minh xem xét nhân phẩm từ bản tính nhân văn của chính con người. Người từng mượn câu “Nhân chi sơ, tính bản thiện” để giải thích vấn đề Thiện - Ác một cách giản dị: “Trên quả đất, có hàng muôn triệu người. Song số người ấy có thể chia thành hai hạng: Người thiện và người ác. Trong xã hội, tuy có trăm công, nghìn việc. Song những công việc ấy có thể chia làm 2 thứ: việc chính và việc tà. Làm việc chính, là người thiện. Làm việc tà là người ác”[1].

Đối với Hồ Chí Minh, “thiện, ác vốn chẳng phải là bản tính cố hữu. Phần nhiều do giáo dục mà nên” [2]; một người có nhân phẩm thì việc thiện dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì nhỏ mấy cũng tránh. Người cho rằng, vấn đề thiện ác, nhân phẩm ở con người truyền thống cơ bản thể hiện ở nhân nghĩa và đạo đức. Đạo đức và nhân quyền (hay quyền con người) là những cách thể hiện khác nhau của bản tính nhân bản con người mỗi khi con người hiện diện trong cộng đồng và trong xã hội dưới những góc độ và vai trò khác nhau.

Khi tiếp cận chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh coi đạo đức, nhân phẩm chính là yếu tố có sức ảnh hưởng lớn lao đến nhận thức, tình cảm của mọi người, chứ không phải chỉ yếu tố thiên tài tư tưởng. Thực vậy, trong bài “Lênin và các dân tộc phương Đông” (1924), Người viết: “Không phải chỉ thiên tài của Người mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy đã ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng về Người không gì ngăn cản nổi” [3].

Nhân phẩm gắn liền với các giá trị nhân văn tiến bộ và cả những giá trị nhân văn có tính “vượt trước” của dân tộc và nhân loại. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, những phẩm chất đó được Người nâng lên tầm cao mới, như: Từ “con người tư duy” duy lí của phương Tây và “cái tâm” hay tấm lòng của con người phương Đông được tích hợp thành “sống sao có tình có nghĩa”, “học gắn với hành”, “nói đi đôi với làm” sao cho hài hòa giữa tài và đức; từ lòng nhân ái yêu thương con người của nhân loại được nâng lên thành chủ nghĩa nhân đạo cộng sản, mang bản sắc Việt Nam; từ lòng yêu nước truyền thống được nâng lên thành chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong thời đại cách mạng XHCN; từ truyền thống đoàn kết, tình nghĩa của dân tộc được nâng lên thành truyền thống đoàn kết dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế… Qua đó, theo nhà báo Liên Xô Ôxip Manddenxtam (năm 1923): “từ Nguyễn Ái Quốc đã tỏa ra một thứ văn hóa, không phải văn hóa châu Âu, mà có lẽ là nền văn hóa tương lai”.

Về nhân quyền, trong lời mở đầu của Tuyên ngôn Nhân quyền Thế giới năm 1948 thừa nhận phẩm giá (nhân phẩm) và các quyền bình đẳng, không thể tách rời của mọi thành viên trong gia đình nhân loại. Nhân quyền là sự biểu hiện của nhân phẩm bằng pháp luật trong xã hội.

Hồ Chí Minh, thông qua Tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945, đã gắn quyền cá nhân với quyền độc lập - tự do - hạnh phúc của tất cả các dân tộc. Như vậy, Người đã mở rộng quyền con người gồm cả quyền dân tộc tự quyết. Một điểm cần nhấn mạnh là, phải đến năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) và Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) mới gắn quyền dân tộc tự quyết với quyền con người.

Sở dĩ như vậy vì Hồ Chí Minh thực sự coi trọng việc thực hành mối quan hệ biện chứng giữa quyền cá nhân và quyền của các cộng đồng (dân tộc - tộc người, tôn giáo, giới…) với quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc - quốc gia, phù hợp với điều 55, Hiến chương LHQ năm 1945 ghi nhận quyền của dân tộc - quốc gia chỉ thuộc về tất cả dân cư thường xuyên sinh sống trên lãnh thổ của dân tộc - quốc gia mới, bởi họ là chủ thể của pháp luật quốc tế.

Nhân quyền mang bản chất tổng hòa các quan hệ xã hội - pháp lí của nhân phẩm và được biểu hiện ở nhân cách văn hóa. Người coi nhân quyền chủ yếu là sản phẩm hiện thực giành được của con người trong cuộc đấu tranh với thế giới tự nhiên, xã hội và với bản thân, đặc biệt trong cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột, và gắn với trình độ phát triển kinh tế, văn hóa trong mỗi thời kỳ lịch sử của dân tộc và nhân loại.

Vì vậy, nhân quyền luôn mang bản sắc dân tộc và giai cấp và phụ thuộc vào mỗi chế độ chính trị - xã hội và mỗi nền văn hóa dân tộc. Nhân quyền không chỉ giới hạn ở khía cạnh thực thể tự nhiên - xã hội, mà mang bản chất “tổng hòa các quan hệ xã hội” [4] (C.Mác), trước hết là quan hệ pháp lí, của nhân phẩm, và được biểu hiện ở nhân cách văn hóa. Do đó phải làm thế nào cho văn hóa vào sâu trong tâm lí quốc dân... phải làm thế nào cho ai cũng có lí tưởng tự chủ, độc lập, tự do… ai cũng hiểu nhiệm vụ của mình và biết hưởng hạnh phúc của mình nên được hưởng [5].

Nhân quyền được ghi nhận ở cả quyền công dân và quyền con người thông qua pháp luật cùng các thể chế văn hóa tự quản trong xã hội. Kế thừa tư tưởng này của C.Mác, Hồ Chí Minh sử dụng cả hai thuật ngữ nhân quyền và dân quyền (quyền công dân) và luôn coi trọng mối quan hệ thống nhất giữa chúng nhằm thực hiện quyền độc lập, tự do, hạnh phúc của dân tộc - quốc gia trên cơ sở tôn trọng, bảo vệ, thực hiện quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi người Việt Nam.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét