Chủ Tịch Hồ Chí Minh – Người anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới – là biểu tượng của truyền thống kiên cường bất khuất trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Cả cuộc đời Người luôn luôn kiên định: ”Tôi chỉ có một ham
muốn ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được
hoàn toàn tự do đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc ai cũng được học hành”.
Hồ Chí Minh chưa bao giờ lấy sự nghiệp văn chương làm cứu
cánh, cũng như Người chưa bao giờ chủ định làm một nhà sử học. Nhưng qua những
bài báo, qua lời phát biểu, qua những di sản tinh thần đó để lại cho chúng ta
thấy được Chủ tịch Hồ Chí Minh là người quan tâm đặc biệt đến việc giáo dục lịch
sử cho thế hệ sau.
Trước tiên, cần phải thấy được Hồ Chí Minh có đầy đủ tố chất
của một nhà nghiên cứu sử học. Sinh ra trong một gia đình Nho học có truyền thống
khoa bảng, được thừa hưởng một di sản văn học lịch sử phong phú của dân tộc, từng
đi khắp năm châu, thêm vào đó là tác phong luôn đi sâu, đi sát với thực tế đời
sống, là người từng trực tiếp chứng kiến biết bao những sự kiện đổi thay lớn
lao của nhân loại, của đất nước, cho nên các tác phẩm của Nguyễn Ái Quốc – Hồ
Chí Minh có sức thuyết phục và làm lay động lòng người và phản ánh được nhiều vấn
đề lớn lao của thời đại. Không chỉ đi nhiều, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh còn
là người ham học, ham hiểu biết, thông thạo nhiều ngoại ngữ Anh, Pháp, Hoa,… và
uyên thâm Hán học, thông kim, bác cổ, hiểu biết sâu sắc về văn hoá phương Đông
và phương Tây, lại được trang bị phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác-
Lê nin
Nói như nhà sử học nổi tiếng đời Đường (Trung Quốc) Lưu Tử
Huyền (tức Lưu Tri Cơ) thì một người viết sử phải có ba sở trường: Tài, Học, Thức.
Như thế thì Nguyễn Ái Quốc có đầy đủ các sở trường đó để trở thành một nhà sử học
hiện đại. Ngay từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã lấy các đề tài
lịch sử như ”Kịch con rồng tre”, “Lời than vãn của bà Trưng Trắc”… để tuyên
truyền thức tỉnh đồng bào. Hoặc cũng có khi người trực tiếp viết các bài báo về
lịch sử.
Không chỉ nghiên cứu những vấn đề mới mẻ ở phương Tây, Nguyễn
Ái Quốc còn tìm hiểu cả những vấn đề xa xưa như Nho giáo và Khổng Tử từ những
năm tuổi đời còn rất trẻ. Vào những năm 20 của thế kỷ XX, Trung Quốc dấy lên
phong trào phê phán Khổng giáo, chính phủ Trung Hoa dân quốc ban hành xoá bỏ những
nghi lễ tưởng niệm Khổng Tử. Bằng cách nhìn khoa học, Nguyễn Ái Quốc đã phân
tích những mặt tích cực đồng thời chỉ ra những hạn chế của Khổng Tử do thời đại
mang lại. Người nhận xét: “…Nhưng cách đây 20 thế kỷ, chưa có chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc chưa bị áp bức như chúng ta ngày nay, cho
nên bộ óc Khổng Tử không bao giờ khuấy động vì các hoc thuyết cách mạng. Đạo đức
của ông là hoàn hảo nhưng nó không thể dung hợp được với các trào lưu tư tưởng
hiện đại, giống như một cái nắp tròn, làm thế nào để có thể đậy kín được cái hộp
vuông?”. Và Người đã thẳng thắn chỉ ra: “với việc xoá bỏ những nghi lễ tưởng niệm
Khổng Tử, chính phủ Trung Quốc đã làm mất đi một thể chế cũ và trái tim với
tinh thần dân chủ. Còn những người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình về mặt
tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử và về mặt cách mạng thì cần đọc
các tác phẩm của Lê nin .
Trở về đất nước sau hơn 30 năm xa cách, Người bí mật hoạt động
ở Pác Pó (Cao Bằng). Tại đây, Người đã dịch ”Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô”.
”Sáng ra bờ suối tối vào hang.
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Đặc biệt, trong thời gian vào khoảng cuối năm 1941; tại Cao
Bằng, Hồ Chí Minh đã viết tập ”Lịch sử nước ta”. Đây là tập diễn ca lịch sử viết
ra làm tài liệu học tập cho cán bộ trong các lớp huấn luyện ở chiến khu Việt Bắc
và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân nhằm giáo dục, phát huy lòng yêu nước,
yêu truyền thống lịch sử vẻ vang của dân tộc, góp phần chuẩn bị cho cách mạng
tháng Tám năm 1945. Tập “lịch sử nước ta” được diễn đạt bằng thể thơ lục bát dễ
thuộc, dễ nhớ, gồm 198 cầu Tác phẩm này được in nhiều lần vào các năm 1942,
1947, 1949… Quyển sách trình bày lịch sử nước ta từ thời Hồng Bàng, trải qua
các triều đại như Đinh, Lê, Lý, Trần, Nguyễn và cho đến tận phong trào Việt
Minh lúc đó. Từ trong lịch sử dân tộc, Hồ Chí Minh đã tìm được phương thức ”dựa
vào dân để có sức mạnh”. Người khẳng định anh hùng làm nên sự nghiệp cao cả vì
biết dựa vào dân, Người đánh giá cao vai trò của cá nhân và khẳng định vai trò
quyết định của nhân dân.
Bằng cách viết ngắn gọn, súc tích, Người đã nêu lên những tấm
gương sáng cho mọi tầng lớp học tập, noi theo như ”Người già như ông Lý Thường
Kiệt quá 70 tuổi mà vẫn đánh Đông dẹp Bắc, thiếu niên như Trần Quốc Toản, mới
15 tuổi đã giúp ông Trần Hưng Đạo đánh phá giặc Nguyên. Phụ nữ như Bà Trưng, Bà
Triệu ra tay khôi phục giang san…” và Người nhận xét: “lịch sử ta dạy cho ta
bài học: Lúc nào dân ta đoàn kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do.
Trái lại lúc nào dân ta không đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn”.
Không chỉ là người biên soạn lịch sử, luôn quan tâm đến việc
giáo dục lịch sử cho thế hệ sau, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người rất trân trọng
các nhà sử học. Những người có may mắn được gần gũi Bác kể lại: Những năm kháng
chiến chống Mỹ cứu nước còn đang gay go, quyết liệt, ,bên cạnh đầu giường Bác nằm
luôn đặt quyển sách ”Cuộc kháng chiến chống xâm lược Mông Nguyên thế kỷ XIII” của
soạn giả Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm và trước khi đi xa, Người còn gửi lời hỏi
thăm đến các tác giả của cuốn sách.
Mặc dù không phải là một nhà sử học chuyên nghiệp nhưng
thông qua các tác phẩm để lại và hoạt động cách mạng cứu nước, cứu dân, Nguyễn
Ái Quốc – Hồ Chí Minh đã dùng lịch sử để tuyên truyền cách mạng, khơi dậy truyền
thống bất khuất cứu nước, cứu nòi đã có hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Bác
căn dặn phải biết ơn tổ tiên, cội nguồn và giữ vững non sông đất nước. Mỗi người
dân Việt Nam đều thuộc lòng câu nói nổi tiếng giản dị mà sâu sắc của Người:
”Các vua Hùng đã có công dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” .
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét